Tải bản đầy đủ (.doc) (4 trang)

Su gan bo dinh menh Huy CanXuan Dieu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (118.76 KB, 4 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

<b>Sự gắn bó "định mệnh" Huy Cận - Xuân </b>


<b>Diệu</b>



<b>Năm 1942, khi Huy Cận đỗ kỹ sư, làm việc ở Sở nghiên cứu tằm tang, Xuân Diệu</b>
<b>điện ra hỏi: "Diệu từ chức được chưa?", Huy Cận trả lời: "Từ chức ngay! Về Hà</b>
<b>Nội ngay". Từ đó, đơi bạn ở 61 phố Hàng Bông. Xuân Diệu và Huy Cận bây giờ đã</b>
<b>trở thành người thiên cổ nhưng thơ ca và tình bạn cảm động của hai ơng cịn ngân</b>
<b>vọng mai sau.</b>


Xuân Diệu (sinh năm 1916), Huy Cận (sinh năm 1919) tuy quê gốc cùng ở Hà Tĩnh
nhưng Xuân Diệu lại sinh ra và lớn lên ở Bình Định; mãi đến năm 1936, họ mới gặp nhau
lần đầu ở trường Khải Định (quốc học Huế). Hai người đọc thơ cho nhau nghe và cảm
nhau tức khắc, trở thành đơi bạn tri ân, gắn bó, chung sống bên nhau suốt gần nửa thế kỷ
cho đến năm 1985 khi Xn Diệu mất. Nghĩ lại mối tình ấy, chính Huy Cận nhiều khi
cũng thấy làm lạ:


<i>Hai đứa rồi ra nghĩ cũng kỳ</i>


<i>Thương nhau hơn ruột thịt dường ni</i>
<i>Mà đàn mỗi đứa riêng âm sắc</i>
<i>Cuộc sống muôn màu lặp lại chi!</i>


<i><b>(Nằm bệnh viện, gửi Diệu, 1974)</b></i>


Đấy là sau này, nhưng ngay khi còn thanh niên, năm 1942, Huy - Xuân đã thấy có một sự
gắn bó "định mệnh". Khi Xuân Diệu làm tham tá thương chánh ở Mỹ Tho, có gửi vải
may quần áo cho Huy Cận, lúc đó đang học cao đẳng nơng lâm sắp tốt nghiệp. Huy Cận
viết:


<i>Mở thư một sáng lạnh lùng</i>



<i>Hai chiều vải dệt tao phùng Huy - Xuân</i>
<i>Dọc ngang tơ chỉ sát gần</i>


<i>Đi về mấy dạo hai thân một hồn</i>


Vào lúc 7 giờ 40 phút ngày 18/12/1985, Xuân Diệu mất, đúng lúc ấy, Huy Cận đang ở
Dakar (Senegal) đột ngột bị xuất huyết nặng.


Thật ra, tình bạn của Xuân Diệu và Huy Cận bắt nguồn từ tình yêu quê hương đất nước,
yêu văn hóa dân tộc, rồi sau này là tình yêu cách mạng. Những tình yêu này, thật ra chỉ là
một.


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

Xuân Diệu và Huy Cận


Cuối năm 1937, Xuân Diệu ra Hà Nội học Trường Luật và viết báo Ngày nay. Năm 1938,
Huy Cận ra sống với Xuân Diệu ở chân đê Yên Phụ. Năm 1939, họ chuyển về một căn
gác nhỏ ở 40 phố Hàng Than. Xuân Diệu tiếp tục học luật và dạy văn ở Trường Thăng
Long. Huy Cận học cao đẳng nông lâm. Dưới gác là Lưu Trọng Lư. Sinh thời Huy Cận
có kể với tôi rằng, khi Huy Cận in bài Tràng Giang, Lưu Trọng Lư phục lắm, kéo đi
chiêu đãi phở Hàng Mành ngon có tiếng hồi bấy giờ. Ăn xong, Lưu Trọng Lư móc túi,
khơng thấy tiền đâu đứng ngơ ngác giữa quán, cuối cùng, thành ra Huy Cận lại phải chiêu
đãi.


Đầu năm 1940, "cơm áo không đùa với khách thơ", Xuân Diệu buộc phải vào Mỹ Tho
làm tham tá thương chánh. Những người quen biết Xuân Diệu và Huy Cận, thường kể lại
rằng, đó là cách hai người ni nhau ăn học. Năm 1942, khi Huy Cận đỗ kỹ sư, làm việc
ở Sở nghiên cứu tằm tang, Xuân Diệu điện ra hỏi: "Diệu từ chức được chưa?", Huy Cận
trả lời: "Từ chức ngay! Về Hà Nội ngay". Từ đó, đơi bạn ở 61 phố Hàng Bông. Những
tác phẩm của Xuân Diệu, Huy Cận thời đó thường có dịng "Huy Xn xuất bản" trên bìa
sách.



Năm 1941, Huy Cận tham gia Việt Minh. Năm 1942 đến lượt Xuân Diệu. Năm 1944,
Xuân Diệu về thăm quê nội ở Can Lộc rồi lên quê hương Huy Cận ở làng Ân Phú, huyện
Hương Sơn. Ông giúp mẹ Huy Cận một số tiền để trả nợ, nói: "Anh Huy Cận hoạt động
cách mạng rồi bà ạ. Nếu có điều gì chẳng may, con sẽ thay anh Cận cùng bà lo việc gia
đình".


Trong kháng chiến chống thực dân Pháp, cả hai cùng lên chiến khu và được kết nạp vào
Đảng. Sau hịa bình (1954), Xn Diệu và Huy Cận được bố trí ở một biệt thự số 24 Cột
Cờ, nay là Điện Biên Phủ. Xuân Diệu từng có câu:


<i>Nhà</i> <i>tơi</i> <i>24</i> <i>Cột</i> <i>Cờ</i>


<i>Ai</i> <i>u</i> <i>thì</i> <i>đến,</i> <i>hững</i> <i>hờ</i> <i>thì</i> <i>qua...</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

trị khác mà nhiều học giả đánh giá, một mình ơng là "cả một viện văn học".
Nhưng không chỉ cặm cụi trong "tháp ngà". Các nhà thơ của chúng ta đã hơn mười lần đi
thực tế ở khu bốn ác liệt, Xuân Diệu đã thực hiện gần một nghìn cuộc bình thơ cho chiến
sĩ, công nhân, nông dân và trường học, có sức động viên rất lớn.
Trong những ngày ấy, hai cảm xúc lớn của Xuân Diệu là yêu và căm "yêu với căm, hai
đợt sóng ào ào, vỗ bên lịng dội mãi tới trăng sao". Ngoài những bài thơ đanh thép tố cáo
tội ác giặc Mỹ, Xuân Diệu vẫn không ngừng làm thơ tình.
Ngồi những bài thơ thuần túy như Biển và các bài khác trong tập Cầm tay mà Xuân
Diệu từng tâm sự "viết cho bạn trẻ muôn đời vì tình yêu và vĩnh hằng", những bài thơ
tình trong chống đế quốc Mỹ của ơng cũng rất thấm lịng người. Ở Thanh Hóa, thấy
người vợ tiễn chồng ra mặt trận, ông viết ngay được bài Vợ chuẩn bị hành trang cho
chồng đi vào hỏa tuyến, trong đó có những câu:


<i>Em</i> <i>chồng</i> <i>lưới</i> <i>mũ</i> <i>cho</i> <i>anh</i>



<i>Áo</i> <i>anh</i> <i>em</i> <i>nhuộm</i> <i>màu</i> <i>xanh</i> <i>lá</i> <i>rừng</i>


<i>Chiếc</i> <i>ba-lô</i> <i>cũ</i> <i>đã</i> <i>dùng</i>


<i>Tay</i> <i>em</i> <i>khéo</i> <i>léo</i> <i>chữa</i> <i>từng</i> <i>đường</i> <i>kim</i>


Đó cũng là lúc Huy Cận ngợi ca những người phụ nữ Việt Nam anh hùng:


<i>Tôi</i> <i>chào</i> <i>chị,</i> <i>chào</i> <i>em</i> <i>nghìn</i> <i>đuốc</i> <i>sáng</i>
<i>Một</i> <i>trời</i> <i>sao</i> <i>dân</i> <i>tộc</i> <i>cánh</i> <i>vàng</i> <i>bay...</i>


Sau giải phóng năm 1975, cả hai người vẫn "thi đua" viết, Xuân Diệu được một tập thì
Huy Cận cũng một tập. Cả hai hồn thơ lớn đang dang cánh thỏa sức bay trên bầu trời cao
rộng của thơ ca, trong cuộc sống tình bạn tưởng như bất diệt. Bỗng một ngày vào tháng
11/1985, Xuân Diệu ngồi bệt giữa phòng nói với Huy Cận: "Trong hai đứa mình, đứa nào
chết trước là sướng, đứa nào ở lại sau chắc khổ lắm".
Khơng ngờ đó là lời trăng trối cuối cùng. Một tháng sau, Xn Diệu mất. Tơi nhớ, đó là
lúc ở Hà Nội đang diễn ra hội nghị những người viết văn trẻ. Những nhà văn, những cây
bút trẻ trong cả nước đang háo hức chờ ơng đến nói chuyện thì vơ cùng đột ngột và


thương tiếc khi nghe tin ông mất!...


Người ta đã viết nhiều về Phong trào thơ mới, về riêng Xuân Diệu và Huy Cận. Người ta
cho rằng, các ông đã đem lại cho văn chương Việt Nam những sự mới mẻ từ ảnh hưởng
của phương Tây. Người ta nói Xn Diệu là "ơng hồng của thơ tình", Huy Cận là nhà


thơ "mang tâm thức vũ trụ".


Tất cả những điều ấy đúng nhưng không phải cốt lõi nhất. Có lẽ cốt lõi nhất, theo tơi, thơ
mới, thơ Xn - Huy có ngọn nguồn chính từ dân tộc và tinh thần chủ đạo trong dịng thơ


đó vẫn là tinh thần yêu nước, một đặc điểm nổi bật nhất, một truyền thống quý báu nhất


</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

Tôi đã đọc lại nhiều lần thơ của hai ông và càng ngày càng tin chắc ở điều đó. Thỏa chí
nhất của Xuân Diệu là viết về niềm tự hào, về sức sống của dân tộc. Khi cờ đỏ sao vàng
cách mạng treo cao, trong sự thăng hoa ấy, Xuân Diệu như càng được bay lên, hứng khởi


đến từng chân tơ, kẽ tóc:


<i>Việt</i> <i>Nam!</i> <i>Việt</i> <i>Nam!</i> <i>Cờ</i> <i>đỏ</i> <i>sao</i> <i>vàng!</i>
<i>Những</i> <i>ngực</i> <i>nén</i> <i>hít</i> <i>thở</i> <i>Ngày</i> <i>độc</i> <i>lập!</i>
<i>Nguồn</i> <i>lực</i> <i>mới</i> <i>bốn</i> <i>phương</i> <i>lên</i> <i>tới</i> <i>tấp!</i>
<i>Nếp</i> <i>cờ</i> <i>bay</i> <i>chen</i> <i>vỗ</i> <i>sóng</i> <i>bài</i> <i>ca...</i>


Được "trang hồng" cho Tổ quốc, đấy mn đời là sứ mạng, là vinh quang của mọi nhà
thơ, của mỗi con người. Xuân Diệu đã từng viết một cách sâu sắc: "Cách mạng đã mở ra
cho tôi những chân trời mà trước đây tôi không thể mơ ước được... Con dế mèn trong
đám cỏ gáy lên không phải để cho riêng mình. Nó gáy lên để tìm bạn. Sự cơng nhận của
đông đảo công chúng là nguồn sức mạnh, nguồn cảm hứng của tôi".


</div>

<!--links-->

×