Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

Lịch sử Văn hoá Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.34 MB, 22 trang )

Việt Nam là một quốc gia trải qua hàng ngàn năm xây dựng, bảo vệ và phát triển đất nước. Qua
lịch sử của một dân tộc giàu truyền thống như vậy thì đi cùng với đó là một nền văn hoá đặc sắc
và đậm đà bản sắc của dân tộc.
(đưa video clip vào)

Dân Tộc

Việt Nam – ngôi nhà chung của nhiều dân tộc. Các dân tộc cùng với bề dày văn hóa truyền thống
của mình đã tạo nên 1 dân tộc VN phong phú, đa dạng và có bề dày văn hóa. Mỗi dân tộc đều là
anh em, cùng mở mang gây dựng non sông "Tam sơn, tứ hải, nhất phần điền", với rừng núi trùng
điệp, đồng bằng sải cánh cị bay và biển Đơng bốn mùa sóng vỗ; bờ cõi liền một dãi từ chỏm
Lũng Cú (Bắc) đến xóm Rạch Tàu (Nam), từ đỉnh Trường Sơn (Tây) đến quần đảo Trường Sa
(Đơng).
Cả nước hiện có 54 dân tộc anh em. Trong số 54 dân tộc, có những dân tộc vốn sinh ra và phát
triển trên mảnh đất Việt Nam ngay từ thửa ban đầu, có những dân tộc từ nơi khác lần lượt di cư
đến nước ta
Chèn Clip

Ngôn ngữ

Một trang Dictionarium Annamiticum Lusitanum et Latinum tức Từ
điển Việt-Bồ-La in năm 1651

Về mặt ngôn ngữ, các nhà dân tộc học đã chia các dân tộc ở
Việt Nam thành 8 nhóm ngơn ngữ của họ:




Nhóm Việt-Mường: gồm người Việt, người Mường, người
Chứt, người Thổ


Nhóm Tày-Thái: gồm người Tày, Thái, Nùng, Bố Y, Sán
Chay, Lào,...
Nhóm Dao-Hmơng: gồm người Hmơng, Dao, Pà Thẻn,...




Nhóm Tạng-Miến: gồm người Hà Nhì, Lơ Lơ, Si La, La Hủ,...



Nhóm Hán: gồm người Hoa, Sán Dìu, Ngái,...



Nhóm Mơn-Khmer: gồm người Khmer, Kháng, Hrê, Xơ Đăng, Ba Na, Khơ Mú, Cơ Ho, Mạ,
Xinh Mun,...



Nhóm Mã Lai-Đa đảo: gồm người Chăm, Gia Rai, Ê Đê, Ra Glai, Chu Ru,...



Nhóm hỗn hợp Nam Á: gồm la Chí, La Ha, Pu Chéo, Cơ Lao,...

Mặc dù tiếng nói của các dân tộc thuộc nhiều nhóm ngơn ngữ khác nhau, song do các dân tộc
sống rất xen kẽ với nhau nên một dân tộc thường biết tiếng các dân tộc có quan hệ hàng ngày, và
dù sống xen kẽ với nhau, giao lưu văn hóa với nhau, nhưng các dân tộc vẫn lưu giữ được bản sắc
văn hóa riêng của dân tộc mình. ở đây cái đa dạng của văn hóa các dân tộc được thống nhất trong

qui luật chung - qui luật phát triển đi lên của đất nước, như cái riêng thống nhất trong cái chung
của cặp phạm trù triết học

Tiếng Việt thuộc về ngôn ngữ Việt-Mường, hiện nay là ngôn ngữ chính thức của nước Việt Nam,
là tiếng mẹ đẻ của người Việt và đồng thời là ngơn ngữ hành chính chung của 54 dân tộc sống
trên đất nước Việt Nam, tiếng Việt được 86% người dân sử dụng. Mặc dù là ngơn ngữ chung của
người Việt nhưng nó có sự khác biệt về mặt ngữ âm và từ vựng ở các vùng miền dẫn tới phương
ngữ tiếng Việt được phân chia làm nhiều vùng phương ngữ khác nhau từ miền Bắc, miền Trung
và miền Nam

Phong tục tập quán
Theo nghĩa Hán-Việt, Phong là nền nếp đã lan truyền rộng rãi và Tục là thói quen lâu đầu. Phong
tục ở Việt Nam có truyền thống lâu đời hàng ngàn năm nay, nó đã trở thành luật tục, sâu đậm và
gắn chặt trong người dân có sức mạnh hơn cả những đạo luật. Theo sự thăng trầm của lịch sử của
dân tộc, phong tục của người Việt Nam cũng không ngừng biến đổi theo trào lưu biến đổi văn
hoá xã hội. Tuy nhiên có những phong tục mất đi những cũng có nhưng phong tục khẳng định
được tính đúng đắn, cái hay, cái đẹp của nó qua việc những phong tục đó cịn hiện hữu trong
cuộc sống ngày nay của người Việt Nam
Giao Thiệp
Theo phong tục Việt Nam, "miếng trầu là đầu câu chuyện", miếng trầu tuy rẻ tiền nhưng chứa
đựng nhiều tình cảm ý nghĩa, giầu nghèo ai cũng
có thể có,
vùng nào cũng có


Tục ăn trầu

Tương truyền có từ thời Hùng Vương và gắn liền với
một chuyện cổ tích nổi tiếng "chuyện trầu cau". Món
trầu thể hiện nếp sinh hoạt mang đậm tính dân tộc độc


đáo của Việt Nam.


Hút thuốc lào

Sẽ là thiếu nếu nhắc đến trầu mà không nhắc đến thuốc lào. Ða số giới nữ ăn trầu và miếng trầu
là đầu câu chuyện cịn đàn ơng, thuốc lào gắn bó với họ lúc vui, buồn thậm trí suốt cả cuộc đời.

Đám cưới
Mỗi dân tộc có một nét văn hóa riêng, một phong tục cưới hỏi đặc trưng, đó là một nét đặc sắc,
một tục lệ đã được truyền lại từ bao thế hệ.


Tục cướp vợ của người H’mông

Tục bắt chông của người Tây
Nguyên


Tục cưới 2 lần của dân tộc Dao

Cưới vợ sau 3 năm ở rể của dân
tộc Thái


Kết hôn theo ông mai bà mối của người Chăm

Đây là đám cưới của người Kinh


Tết Nguyên Đán
Cùng ra đời từ xa xưa với tục ăn trầu là phong tục đón năm mới hay cịn gọi là Tết, Tết vừa là
một phong tục đồng thời cũng là một tín ngưỡng và cũng là một lễ hội của người Việt cùng một
số dân tộc khác


Cúng tất niên

Giao thừa và lễ trừ tịch

Chợ tết Nguyên Đán


Tết Nguyên Đán

Một số dân tộc khác đón năm mới trong thời gian khác và tên gọi đặc trưng của mình như Chol
Chnam Thmay (khoảng tháng 4) của người Khmer, Katê (khoảng tháng 10) của người Chăm
Bàlamôm,...Từ Tết Nguyên Đán đón năm mới, theo thời gian với những ảnh hưởng từ Trung
Quốc, người Việt Nam bổ sung thêm vào những phong tục Tết khác như Tết Nguyên tiêu, Tết
Đoan ngọ, Tết Trung thu, Tết Thanh minh[4]

Tết Chol ChNam Thmay của ngườii Khơme


Lễ tết cổ truyền người Chăm

Múa xòe trong ngày tết của người Thái

Tết người H’mông



Tết của người Dao

Lễ hội Việt Nam
Lễ hội ở Viet Nam đa dạng và phong phú. Theo thống kê của các nhà nghiên cứu văn hóa dân
gian, Việt Nam có gần 500 lễ hội cổ truyền lớn, nhỏ trải rộng khắp đất nước trong bốn mùa xuân,
hạ, thu, đông.
Mỗi lễ hội mang một nét tiêu biểu và giá trị riêng, nhưng bao giờ cũng hướng tới một một đối
tượng linh thiêng cần được suy tôn như những vị anh hùng chống ngoại xâm, những người có
cơng dạy dỗ truyền nghề, chống thiên tai, diệt trừ ác thú, giàu lòng cứu nhân độ thế...

Lễ hội Cổ Loa và các trò chơi dân gian

Hội hoa Vị Khê (Làng Vị Khê, Nam Định)


Bên cạnh các lễ hội lớn của người Việt, các dân tộc khác cũng có những lễ hội lớn như lễ hội
Katê của người Chăm, lễ cúng Trăng của người Khmer, lễ hội xuống Đồng của người Tày, người
Nùng, Lễ hội hoa ban của người Thái, Hội đua voi của người Mnơng,..[6]

Lễ hội Gióng

Lễ hội đâm trâu của người Tây Nguyên


Ở các lễ hội của bà con dân tộc Tây Nguyên, lễ hội đâm trâu được coi như tiêu biểu nhất. Trong
lễ hội này, ngoài nghi lễ đâm trâu hiến tế hấp dẫn, ly kỳ cịn có trị múa khiên, ném lao, đấu gậy.

Lễ hội Đua voi của dân tộc M’nơng


Các trị vui chơi giải trí ở lễ hội cịn bao gồm những hoạt động văn hoá, xã hội khác như thi hát
Quan họ, thi thổi cơm, chọi gà, dệt vải, đấu vật, đánh đu

Hát quan họ


Chọi gà, thổi cơm
... Đặc biệt nhất là thi đánh đu, không chỉ xuất hiện trong dịp lễ hội lớn mà còn là một trò vui
chơi dân dã trong những ngày Tết ở khắp các làng xã.

Đánh đu
 Tôn giáo, tín ngưỡng:


Tín ngưỡng thờ bà Ponagar/Thiên Y A Na được cả người Chăm và người Việt thờ tại Nha Trang

Như mọi nơi trên thế giới, các dân tộc ta cũng tôn thờ rất nhiều thần linh. Người xưa cho rằng
bất cứ vật gì cũng có linh hồn, nên người ta thờ rất nhiều thần, nguyên thủy họ thờ thần Mặt
Trời, thần Mặt Trăng, thần Đất, thần Sông, thần Biển, thần Sấm, thần Mưa,...những vị thần gắn
với những ước mơ thiết thực của cuộc sống người dân nông nghiệp. Bên cạnh việc thờ cúng các
thần linh, với truyền thống uống nước nhớ nguồn từ thời xa xưa người dân Việt Nam coi việc thờ
cúng tổ tiên và cúng giỗ người đã mất là một tục lệ lâu đời của người Việt và một số dân tộc khác
(họ tin rằng linh hồn của tổ tiên cũng ở bên cạnh con cháu và phù hộ cho họ. Chính vì như vậy
nên gia đình nào cũng có bàn thờ tổ tiên và bàn thờ được đặt nơi trang trọng nhất trong nhà.
Ngoài các ngày giỗ, tết thì các ngày mùng một, ngày rằm họ thắp hương như một như một hình
thức thơng báo với tổ tiên ơng bà. Nói đến tục thờ cúng tổ tiên, người ta đều biết tới một ngày
giỗ tổ chung cho cho người Việt đó là ngày giỗ tổ Hùng Vương vào ngày 10 tháng 3 (âm lịch))

Mở rộng: (có thể nói thêm)
Ví dụ như ở nhiều vùng q thờ thần Nông là thần trông coi việc đồng áng, thần Lúa, thần Ngô

với hy vọng lúc nào ngô lúa cũng đầy đủ.
Không chỉ các vị thần gắn với đời sống vật chất, các dân tộc còn thờ các vị thần gắn với đời
sống tinh thần như: người Kinh thờ Thành Hoàng, các vị anh hùng dân tộc, các vị thần trong
đạo mẫu. Họ là các vị thần có cơng lớn với đất nước, với làng xã, dân chúng thờ phụng các vị
thần này để tỏ lòng biết ơn và cầu mong các vị phù hộ họ. Cũng như người Việt, người Hoa thờ
các vị thần Quan Công, Thần Tài. Người Chăm thờ các vị thần như Po Nagar, Po Rome,...
Chùa Watsamrongek, một ngôi chùa Phật giáo Tiểu thừa của người
Khmer ở Trà Vinh
Theo lịch sử trải qua hơn 1000 Bắc thuộc, đời sống tinh thần nói chung
của nước ta bị ảnh hưởng rất nhiều của văn hoá Trung Hoa. Với ba hệ tư
tưởng Tam giáo đã thâm nhập vào đời sống tinh thần cũng như vào tôn
giáo của người Việt Nam là Đạo giáo, Nho giáo và Phật giáo.
Nói thêm: Đạo giáo và Nho giáo có nguồn gốc từ Trung Quốc và thâm nhập vào Việt Nam từ những thế
kỷ đầu công nguyên qua tầng lớp thống trị người Trung Hoa

Phật giáo có nguồn gốc từ Ấn Độ và có hai phái đã du nhập vào Việt Nam bằng hai ngả khác
nhau: phái Đại thừa vào Việt Nam qua Trung Quốc cùng với Đạo giáo và Nho giáo. Còn phái
Tiểu thừa qua các nước Đông Nam Á láng giềng vào Việt Nam thịnh hành ở cộng đồng người
Khmer ở Đồng bằng sơng Cửu Long
Tam giáo có những thời kỳ phát triển rất mạnh và cũng có lúc mờ nhạt tại Việt Nam, nhưng nhìn
chung ảnh hưởng của Tam giáo rất sâu rộng trong các tầng lớp dân chúng, nhất là Phật giáo.
Và đến lượt mình, các tầng lớp dân chúng tại Việt Nam đã tiếp thu các tôn giáo mới một cách có


chọn lọc và sáng tạo, hay nói cách khác các tơn giáo mới du nhập đã được bản địa hố để phù
hợp với phong tục tập quán và tín ngưỡng của người dân địa phương
Tiếp đến là Công giáo được du nhập vào Việt Nam từ thế kỉ XVI và phát triển mạnh vào cuối thế
kỉ XIX khi thực dân Pháp đã xâm lược hoàn toàn Việt Nam. (Hiện nay Việt Nam có khoảng 8%
dân số là tín đồ Cơng giáo, đứng hàng thứ 2 ở Đông Nam Á sau Philippines)
Ngồi ra nước ta cũng cịn rất nhiều tơn giáo khác như Tin lành, đạo Hồi, Cao đài, Hoà Hảo

(Cùng với Công giáo, một hệ phái khác của đạo Cơ đốc là Tin Lành cũng xâm nhập vào Việt
Nam từ đầu thế kỷ 20, đạo Tin Lành được phổ biến tới các dân tộc thiểu số vùng Tây Bắc, Tây
Nguyên,...ước tính hiện nay có khoảng hơn 1 triệu người theo đạo
Đạo Hồi là tôn giáo của một bộ phận người Chăm ở Việt Nam, được du nhập vào từ thế kỷ 15
tại vương quốc Chăm Pa ở miền Trung Việt Nam, sau đó theo chân một bộ phận người Chăm di
cư tới vùng An Giang, Tây Ninh vào thế kỷ 19
Ngồi các tơn giáo du nhập từ bên ngồi trên, tại miền Nam Việt Nam có các tơn giáo Hồ Hảo
và Cao Đài. Đây là hai tôn giáo bản địa Việt Nam, đạo Hoà Hảo được sáng lập từ năm 1939 và
đạo Cao Đài được sáng lập từ năm 1926. Hiện nay hai tôn giáo bản địa này phát triển mạnh
khắp Nam Bộ và ra cả một số tỉnh ở Nam Trung Bộ và Tây Nguyên)
 Văn học nghệ thuật:

Trang bìa minh hoạ sử thi Đẻ đất đẻ nước của người Mường

Cũng như nền văn học của các nước khác trên thế giới, văn học Việt Nam bao
gồm hai bộ phận đó là văn học dân gian và văn học viết. Văn học dân gian là
văn học truyền miệng của người dân và văn học viết gồm có văn học chữ Hán,
văn học chữ Nôm và văn học chữ Quốc ngữ.
Do đại đa số người dân trong thời phong kiến khơng có điều kiện biết chữ Hán, một hình thức
văn học dân gian truyền miệng đã ra đời và được truyền lại từ thế hệ này sang thế hệ khác tại
Việt Nam. Đó là những câu chuyện thần thoại như Thần Trụ Trời của người Việt, Đi san mặt Đất
của người Lô Lô,...những sử thi như Đam San của người E Đê, Đẻ đất đẻ nước của người
Mường,...những truyền thuyết như Sơn Tinh Thuỷ Tinh, Thánh Gióng của người Việt, những cổ
tích như Thạch Sanh của người Khmer....và các truyện ngụ ngôn, truyện cười, tục ngữ, ca
dao,....
Văn học dân gian thường ca ngợi tài năng và lòng dũng cảm của con người trước thiên nhiên
khắc nghiệt, trước kẻ thù độc ác, ca ngợi lòng nhân hậu, độ lượng giúp đỡ nhau, ca ngợi tình
yêu trai gái, tình chung thuỷ vợ chồng, yêu con người, yêu thiên nhiên, yêu làng xóm, quê hương.



Khơng những thế văn học dân gian Việt Nam cịn là vũ khí đấu tranh chống lại những thói hư tật
xấu của con người, chống lại những bất công thối nát trong xã hội. Bằng ngơn ngữ dân gian
giàu hình ảnh, bằng nghệ thuật nhạc điệu sinh động, văn học dân gian Việt Nam đã thấm sâu
vào lòng người một cách tự nhiên và rất dễ dàng truyền lại cho đời sau
Trong văn học viết, với chữ Hán và chữ Nôm được sử dụng trong một thời gian dài. Các tác
phẩm văn học cổ nhất còn lưu lại được sáng tác vào thế kỷ 11 và chủ yếu liên quan đến đạo Phật
khi đó đang thịnh hành tại Việt Nam. Đó là những bài thơ của các vị sư giải thích về cơ sở căn
bản của đạo Phật cũng như bình luận về các biến cố lịch sử hay các đề tài về ca ngợi vẻ đẹp
thiên nhiên, từ thế kỷ 13 nhiều cơng trình về lịch sử, địa lý và địa chí bằng chữ Hán đã xuất
hiện. Khi hệ thống chữ Nơm được hồn chỉnh vào thế kỷ 13, nhiều tác phẩm văn học viết bằng
chữ Nôm lần lượt xuất hiện, một trong những tác phẩm sớm nhất bằng chữ Nơm cịn để lại đến
hơm nay là các bài thơ của Nguyễn Trãi, các tác phẩm đồ sộ của ông bao gồm một tuyển tập
hàng trăm bài thơ Nôm có tên Quốc âm thi tập ở thế kỷ 15, và kế tiếp là Chinh phụ ngâm của
Đoàn Thị Điểm, các bài thơ của Hồ Xuân Hương và đặc biệt là tác phẩm Truyện Kiều của
Nguyễn Du.
Từ đầu thế kỷ 20, chữ quốc ngữ được phổ biến rộng rãi, với sự phát triển của công nghệ in ấn
cùng với những tiếp xúc với văn học phương Tây, văn học Việt Nam xuất hiện các thể loại văn
học mới, văn xuôi chiếm vị trí quan trọng trên văn đàn cùng với thơ ngự trị trước đó. Các thay
đổi trong đời sống văn học đã xuất hiện với sự ra đời của phong trào Thơ Mới vào những năm
1930, đây là một phong trào hiện đại nhằm giải phóng thơ Việt Nam ra khỏi những luật lệ gị bó
của thơ Trung Quốc cổ. Trong lĩnh vực văn xuôi, các hoạt động của nhóm Tự Lực Văn Đồn
chịu ảnh hưởng từ phương Tây đã tạo ra thể loại tiểu thuyết Việt Nam hiện đại
Nền văn học Việt Nam từ thời kỳ này xuất hiện nhiều trào lưu, có những tác phẩm chịu ảnh
hưởng của chủ nghĩa lãng mạn, có những tác phẩm theo chủ nghĩa hiện thực và cũng có những
tác phẩm gắn liền với chính trị đó là dịng tác phẩm cách mạng

Nghệ thuật

Đám cưới Chuột thuộc dịng tranh dân gian Đơng Hồ của
người Việt


Nền nghệ thuật Việt Nam có từ hàng nghìn năm nay, bắt đầu từ nghệ thuật truyền thống hay còn
gọi là nghệ thuật dân gian Việt Nam.
+ kiến trúc dân gian trải qua thời bắc thuộc nên kiến trúc Việt Nam chịu nhiều ảnh hưởng của
nền kiến trúc Trung Quốc và cuối thế kỉ XIX thì chịu nhiều ảnh hưởng của kiến trúc Pháp, xây
dựng theo kiểu kiến trúc phương Tây, trong đó đặc biệt là phố cổ ở Hà Nội với nét đặc trưng của


kiến trúc phương Tây để lại một sắc thái đẹp và đặc sắc. Các cơng trình của Việt Nam quy mô
thường không lớn, nhưng thường là sự kết hợp hài hồ giữa cơng trình chính và cảnh quan xung
quanh, đặc biệt là sử dụng hồ, ao, sơng ngịi để điều tiết khí hậu và tạo cảnh quan.
+ Mỹ thuật Việt Nam phát triển rực rỡ vào các thời Lý, Trần, Lê qua các cơng trình tơn giáo và
cung điện các vương triều. Bên cạnh đó thì nền điêu khắc kiến trúc Việt Nam được bổ sung các
kỹ thuật tinh xảo trong các cơng trình tơn giáo tín ngưỡng của người Chăm và người Khmer
Nam Bộ.
+Hội họa xuất hiện muộn hơn với dòng tranh dân gian Việt Nam, gồm tranh lụa, tranh tết, tranh
Đông Hồ. Đề tài tranh dân gian thường giản dị và gần gũi với đời sống dân dã, mỗi bức tranh
đều có ý nghĩa tượng trưng và đều được cách điệu hố. Cùng với các mơn nghệ thuật hiện đại
khác, mỹ thuật hiện đại Việt Nam cũng có những bước tiến dài từ đầu thế kỷ 20 với ảnh hưởng
của nghệ thuật phương Tây thời Pháp thuộc, với các trường phái lãng mạn, hiện thực, ấn tượng,
trừu tượng, siêu thực,...mặc dù chịu nhiều ảnh hưởng của phương Tây nhưng khuynh hướng mỹ
thuật hiện đại của Việt Nam vẫn gắn liền với lịch sử đất nước.
+ Sân khấu dân gian Việt Nam gắn liền với đời sống nông nghiệp, múa rối nước là nghệ thuật
dân gian của của người nông dân làm ruộng nước ở vùng đồng bằng Bắc Bộ, thường được biểu
diễn trong dịp hội hè, những lúc nông nhàn, múa rối nước là một nghệ thuật tổng hoà giữa các
nghệ thuật điêu khắc, sơn mài, âm nhạc, hội hoạ và văn học. Cùng với múa rối nước là các mơn
nghệ thuật chèo, tuồng, cải lương góp phần làm phong phú nền sân khấu cổ truyền Việt Nam. Từ
đầu thế kỷ 20, cùng với những ảnh hưởng của sân khấu phương Tây, nghệ thuật sân khấu hiện
đại Việt Nam được bổ sung thêm các môn nghệ thuật kịch, hài kịch, xiếc, ảo thuật, múa, ballet,
opera,...

+Âm nhạc dân gian Việt Nam cũng có truyền thống lâu đời, bắt đầu với chầu văn, quan họ, ca
trù, hát ví, dân ca, vọng cổ, nhạc cung đình, hát lượn, hát Sli, hát Khan,… đặc biệt là Vào tháng
9 năm 2009, ba trong số hình thức âm nhạc dân gian Việt Nam là quan họ, ca trù, nhã nhạc
cung đình Huế và Khơng gian văn hóa Cồng Chiêng Tây Nguyên (bao gồm cả âm nhạc Cồng
Chiêng) được UNESCO vinh danh là di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại.
+Điện ảnh là môn nghệ thuật xuất hiện muộn nhất tại Việt Nam, trải qua nhiều giai đoạn. Ban
đầu là những thể loại phim do người Pháp thực hiện từ những năm 1920. Tới thập niên 1930,
cùng với sự ra đời của các môn âm nhạc, mỹ thuật hiện đại, điện ảnh cũng bắt đầu được người
Việt Nam thực hiện. Tiếp đó sau sự chia cắt đất nước, điện ảnh Việt Nam tại hai miền đều có
những hướng phát triển riêng cùng với những ảnh hưởng từ bên ngoài là hai nền điện ảnh miền
Bắc và điện ảnh miền Nam. Sau những năm 1975 nền điện ảnh Việt Nam do nhà nước thực hiện.
Tới giai đoạn Đổi Mới, từ những năm 1986 sự tham gia của tư nhân vào lĩnh vực điện ảnh đã tạo
ra dòng phim mỳ ăn liền, dòng phim này thịnh hành trong những năm đầu của thập niêm 1990 và
tự kết thúc vai trị của mình từ những năm 1995 nhường chỗ cho dòng phim đương đại Việt Nam
Hoặc có thể viết gọn lại là văn học nghệ thuật của Việt Nam là sự ảnh hưởng và kết hợp với nền
văn học nghệ thuật truyền thống với nền văn học nghệ thuật Trung Hoa và của nền văn học nghệ
thuật Pháp với sự phát triển và sáng tạo trên bàn tay và sự sáng tạo của con người Việt Nam.
Trong đó bao gồm nền văn học, sân khấu, điện ảnh, kiến trúc, hội hoạ, âm nhạc. Nền văn học


nghệ thuật Việt Nam cũng đạt được rất nhiều thành tựu to lớn như được UNESCO công nhận
quan họ, ca trù, nhã nhạc cung đình Huế, và khơng gian văn hoá Cồng chiêng Tây Nguyên. Nước
ta cũng vinh dự Nguyễn Du và Hồ Chí Minh được cơng nhận là danh nhân văn hoá thế giới. Nền
văn học nghệ thuật trong thời kì đổi mới và hiện nay đang đứng trước một thời kì chuyển mình
mạnh mẽ để đáp ứng được nhu cầu của thời đại nên phát triển lên một cách nhanh chóng nhưng
vẫn cố gắng giữ gìn những giá trị văn hố truyền thống khơng bị phai nhồ bởi sự phát triển của
xã hội để đáp ứng được đòi hỏi sự phát triển bền vững.
 Ẩm thực:
Nền ẩm thực Việt Nam rất đa dạng và phong phú bao gồm nền ẩm thực của các dân tộc, các
vùng miền kết hợp với nền ẩm thực du nhập từ các nước bạn bè. Các tỉnh thành cũng có

những món ăn được coi là đặc sản của vùng như Phở Hà Nội, Chả cá Lã Vọng, Bánh gai
Ninh Giang, Phở chua xứ Lạng, Bánh Cáy Thái Bình,vải thiều Thanh Hà, sắn dây Kinh Môn,
cá kho cổ truyền làng Vũ Đại Hà Nam, thịt trâu gác bếp Điện Biên, Tương bần Hưng Yên…
ở phía Bắc; nem chua Thanh Hố, kẹo cu-đơ ở Hà Tĩnh, Cháo Lươn xứ Nghệ, Tôm chua
Huế, Tré Quy Nhơn, Xí mà Hội An, Bánh Ít Lá Gai.mè xửng, tơm chua ở Huế,…ở Miền
Trung; sầu riêng, măng cụt, Bánh tét, Bánh tráng Mỹ Lồng, Bánh xèo Nam Bộ, Cốm dẹp của
người Khmer, Lẩu mắm Nam Bộ… ở Miền Nam
- Nhóm Việt - Mường có 4 dân tộc là: Việt (Kinh), Chức, Mường, Thổ.
- Nhóm Tày - Thái có 8 dân tộc là: Bố Y, Giáy, Lào, Lự, Nùng, Sán Chay, Tày, Thái.
- Nhóm Mơn - Khmer, có 21 dân tộc là: Ba Na, Brâu, Bru - Vân Kiều, Chơ-ro, Co, Cơ-ho, Cờ-tu, Giẻ-triêng, Hrê,
Kháng, Khmer, Khơ-mú, Mạ, Mảng, M'Nông, ơ-du, Rơ-măm, Tà-Ơi, Xinh-mun, Xơ-đăng, Xtiêng.
- Nhóm Mơng - Dao có 3 dân tộc là: Dao, Mơng, Pà Thẻn.
- Nhóm Kadai có 4 dân tộc là: Cờ lao, La-chí, La ha, Pu péo.
- Nhóm Nam đảo có 5 dân tộc là: Chăm, Chu-ru, Ê-đê, Gia-rai, Ra-giai.
- Nhóm Hán có 3 dân tộc là: Hoa, Ngái, Sán dìu.
- Nhóm Tạng có 6 dân tộc: Cống, Hà Nhì, La Hủ, Lơ Lơ, Phù Lá, Si La.

1.Trước kỳ đổi mới:
a. Quan điểm, chủ trương của Đảng về xây dựng nền văn hóa mới:
*Trong những năm 1943- 1954:
-Đầu năm 1943 Ban Thường vụ Trung ương Đảng họp tại Võng La (Hà Nội) đã
thông qua bản Đề cương văn hóa Việt Nam do đồng chí Trường Chinh dự thảo đề ra 3
nguyên tắc: dân tộc hóa, đại chúng hóa, và khoa học hóa.
=> Nền văn hóa có tính dân tộc về hình thức và dân chủ về nội dung.


=> Có thể coi đề cương văn hóa Việt Nam là bản tun ngơn, cương lĩnh của Đảng về
văn hóa trước cách mạng tháng 8

- 3/9/1945 chủ tịch Hồ Chí Minh trình bày 6 nhiệm vụ cấp bách, trong đó có 2

nhiệm vụ về văn hóa: “chống nạn mù chữ và giáo dục lại tinh thần nhân dân.”

-Đầu năm 1946 ban Trung Ương vận động Đời sống mới được thành lập.
-3/1947 Hồ Chí Minh viết tài liệu Đời sống mới giải thích những vấn đề thiết thực
trong chủ trương văn hóa.
Đường lối văn hóa kháng chiến dần được hình thành trong các chỉ thị của BCH TW Đảng
- Đường lối kháng chiến của Đảng có nội dung:






Xác đinh mối quan hệ giữa văn hóa và cách mạng giải phóng dân tộc.
Xây dựng nền văn hóa dân chủ mới có tính dân tộc, khoa học, đại chúng
Bài trừ nạn mù chữ, cải cách nền giáo dục.
Cổ động nhân dân thực hành đời sống mới.
Phát triển cái tốt, bài trừ cái xấu xa, hủ bại, ngăn ngừa văn hóa thực dân, phản
động.
 Tiếp thu có chọn lọc nền văn hóa thế giới.
 Hình thành đội ngũ trí thức mới.
*Trong những năm 1955- 1986


Đây là giai đoạn chúng ta tiến hành đồng thời 2 nhiệm vụ chiến lược (1954- 1975)
và cả nước quá độ lên CNXH (1976 -> nay).
 Đại hội Đảng lần III (9/1960) đã chủ trương tiến hành cuộc cách mạng tư tưởng
văn hóa và xây dựng, phát triển nền văn hóa mới, con người mới đồng thời với cách
mạng về quan hệ sản xuất và khoa học kĩ thuật.


 Đại hội Đảng lần IV (12/1976) và lần V (3/1982) tiếp tục đường lối phát triển
của đại hội III
+Xác định nền văn hóa mới có nội dung XHCN và tính dân tộc, có tính đảng và tính nhân
dân.
+Nhiệm vụ:
 Cải cách giáo dục trong cả nước.
 Phát triển khoa học, văn hóa - nghệ thuật.
 Giáo dục tinh thần làm chủ tập thể, chống tư tưởng tư sản và tàn dư tư tưởng
phong kiến, phê phán tư tưởng tiểu tư sản.
 Xóa bỏ ảnh hưởng của tư tưởng, văn hóa thực dân mới ở miền Nam.
b.Thành tựu, hạn chế và nguyên nhân:
a. Thành tựu
 Xóa bỏ dần những mặt lạc hậu, lỗi thời trong di sản văn hóa phong kiến, văn
hóa nô dịch của chủ nghĩa thực dân cũ và mới.
 Bước đầu xây dựng nền văn hóa dân chủ mới và tính chất dân tộc khoa học,
đại chúng.
 Hồn thành xóa nạn mù chữ, phát triển hệ thống giáo dục, thực hành rộng rãi
đời sống mới, bài trừ hủ tục, lạc hậu.
 Văn hóa cứu quốc đã động viên nhân dân tham gia tích cực vào cuộc kháng
chiến chống thực dân Pháp xâm lược.


Trong những năm 1955 – 1986:
 Miền Bắc XHCN đã phát triển giáo dục, văn hóa, phát huy vai trị tích cực
trong chiến đấu và sản xuất.
 Văn hóa - nghệ thuật phát triển đã cổ vũ quần chúng trong chiến đấu và sản
xuất, góp phần xây dựng cuộc sống mới, con người mới.
 Trình độ văn hóa được nâng cao, người với người sống có tình, có nghĩa, đồn
kết thương yêu nhau.
b. Hạn chế và nguyên nhân:

 Công tác tư tưởng và văn hóa thiếu sắc bén cùng với các phương thức phổ
biến lối sống văn hóa, đạo đức cịn nhiều bất cập, chưa sâu sắc và tồn diện.
 Chịu ảnh hưởng của tư tưởng “tả khuynh” khi nhìn nhận, đánh giá, xây
dựng và thực thi đường lối văn hóa.
 Do bị chiến ranh liên miên và cơ chế quản lí kế hoạch hóa tập trung, quan
liêu.



Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×