Tải bản đầy đủ (.pdf) (10 trang)

Xu hướng phát triển giáo dục đại học trên thế giới – các khuyến nghị cho Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (460.86 KB, 10 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

PGS.TS. Hoàng Minh Sơn1
PGS.TS. Bùi Thị Thúy Hằng2
TS. Nguyễn Thị Hương Giang3
<b>Tóm tắt:</b> Xu hướng tồn cầu hóa, sự phát triển nhanh chóng của cơng nghệ thông
tin, tri thức và những thay đổi trong cơ cấu dân số, những thách thức của nền
kinh tế tri thức và bài tốn tồn cầu sẽ dẫn tới những biến đổi tất yếu trong giáo
dục nói chung và giáo dục đại học nói riêng. Bài báo này sẽ đi sâu phân tích 6 xu
hướng phát triển của giáo dục đại học trên thế giới liên quan đến: Quốc tế hóa;
Hợp tác nghiên cứu; Sự di chuyển trong sinh viên; Đảm bảo chất lượng; Tìm kiếm
việc làm cho sinh viên tốt nghiệp; Số hóa trong giáo dục đại học. Từ đó chúng
tơi sẽ đối chiếu chúng với thực trạng giáo dục đại học ở Việt Nam rồi đưa ra các
khuyến nghị đối với Chính phủ, tồn ngành giáo dục cũng như các cơ sở giáo
dục đại học của Việt Nam sẽ được đề xuất nhằm chuẩn bị và tiếp nhận tốt nhất
những xu hướng đó.


<b>Từ khóa:</b><i> Xu hướng phát triển, Giáo dục đại học, Việt Nam, Xu hướng quốc tế, </i>
<i>Các khuyến nghị.</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

Kỷ yếu Hội tHảo quốc tế


<b>CáC vấn đề mới trong khoa họC giáo dụC: tiếp Cận liên ngành và xuyên ngành</b>


48


<b>1. Các xu hướng phát triển của giáo dục đại học trên thế giới </b>


<i><b>1.1. Quốc tế hóa </b></i>


Bên cạnh nhiệm vụ phát triển nghiên cứu, giảng dạy và đổi mới, sự quốc tế hóa
trong giáo dục ngày càng được xem là phương tiện để phát triển tầm nhìn và ảnh
hưởng của cơ sở đào tạo và của quốc gia. Báo cáo của Hội đồng Anh về các chính


sách quốc gia liên quan đến sự tham gia quốc tế vào giáo dục đại học cho thấy, số
lượng các quốc gia cam kết vào sự quốc tế hóa trong giáo dục đại học gia tăng. Ví dụ,
23 trong số 26 quốc gia được nghiên cứu hiện đang có các chính sách hiệu quả nhằm
thúc đẩy các chương trình du học; trao đổi học tập của sinh viên. Các quốc gia được
đánh giá là cởi mở nhất trong các chính sách ủng hộ việc trao đổi và quốc tế hóa là
Australia, Đức, Anh, Malaysia và Trung Quốc ([5], trang 6).


Một số quốc gia khác, như Pháp cũng đang thúc đẩy xu hướng đó. Năm 2013,
các trường đại học tổng hợp, các trường đào tạo kỹ sư và các trung tâm nghiên cứu
(như CNRS) đã hợp nhau lại thành các cụm nghiên cứu với các chính sách nghiên
cứu, điều phối và đào tạo được quyết định ở phạm vi khu vực chứ không phải ở
phạm vi cơ sở đào tạo (được gọi là COMUE). Các quy định mới về cấp thị thực nhập
cảnh và u cầu đơn giản hóa thủ tục hành chính cho sinh viên quốc tế đã được thực
hiện, thêm vào đó, việc gia tăng số lượng các khóa học bằng tiếng Anh và các lớp
học tiếng Pháp cho sinh viên quốc tế không thuộc khối Pháp ngữ là một phần của
sự quốc tế hóa này.


<i>Giáo dục xuyên quốc gia (Transnational education, TNE)</i> là một phần của sự quốc
tế hóa trong giáo dục đại học.


Giáo dục xuyên quốc gia được hiểu là sự cung cấp giáo dục mà “người học ở
một quốc gia khác với quốc gia đặt cơ sở giáo dục” [2], có thể gọi là xuất khẩu giáo
dục.


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

chi nhánh đại học hiện diện ở bất kỳ quốc gia nào. Khoảng một phần tư các trường
đại học của Úc được đặt ngoài nước Úc. Các đối tác hàng đầu của Úc là Trung Quốc,
Singapore và Indonexia.


<i><b>1.2. Hợp tác nghiên cứu </b></i>



Theo Số liệu của Scopus và Thomson Reuters ([1], trang 22), tổng số bài báo
nghiên cứu tồn cầu chỉ tập trung vào một số ít các quốc gia: trong thời gian từ 1996
- 2010, chỉ có 5 quốc gia chiếm hơn một nửa tổng số (Hoa Kỳ, Trung Quốc, Anh, Nhật
và Đức) và 15 quốc gia chiếm hơn ba phần tư tổng số.


Hợp tác quốc tế về nghiên cứu có sự khác biệt đáng kể giữa các quốc gia, tỉ lệ
trung bình hiện nay khoảng 45% ở Anh, 30% ở Mỹ, 15% ở Trung Quốc, 45 - 50% ở
Đức và Hà Lan, và cao nhất 65% ở Thụy Sĩ. Năm 2010, các quốc gia hàng đầu về
xuất bản các bài báo nghiên cứu học thuật thông qua hợp tác quốc tế là Mỹ (143.000),
Anh (62.000), Đức (58.000), Trung Quốc (47.000), Pháp (44.000), Canada (35.000) và
Ý (30.000).


Có mối tương quan chặt chẽ giữa tỉ lệ hợp tác nghiên cứu quốc tế và trích dẫn
tài liệu. Mặc dù đó không phải là mối quan hệ nhân quả, nhưng mối liên hệ này là
tích cực và có ý nghĩa thống kê (năm 2010, 80% sự thay đổi trong chỉ số trích dẫn tài
liệu được lí giải bởi tỉ lệ hợp tác nghiên cứu quốc tế).


<i><b>1.3. Xu hướng di chuyển trong sinh viên</b></i>


Số lượng sinh viên lựa chọn học tập tại một trường đại học ở nước ngoài đã
tăng mạnh trong những thập kỷ gần đây, tăng gần gấp bốn lần từ 1,3 triệu vào năm
1990 lên 5 triệu vào năm 2014. Báo cáo về xu hướng năm 2015 nhấn mạnh, sự di
chuyển toàn cầu trong sinh viên đã thay đổi đáng kể từ hơn một thập kỷ qua, từ chỗ
sinh viên di chuyển theo một hướng duy nhất từ đông sang tây sang một trào lưu
di chuyển đa hướng và bao gồm cả việc gửi đi và đón tiếp ở các quốc gia phi truyền
thống. 6% sinh viên đại học thuộc khối các quốc gia OECD là quốc tế, tỉ lệ này có sự
khác biệt lớn giữa các quốc gia. Hơn một phần năm (21,1%) sinh viên ở Anh là sinh
viên quốc tế - nhiều hơn bất kỳ quốc gia lớn nào khác, tiếp đến là Úc với 20,7%, so
với 8% ở Đức và 5% ở Hoa Kỳ ([5], trang 14).



</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

Kỷ yếu Hội tHảo quốc tế


<b>CáC vấn đề mới trong khoa họC giáo dụC: tiếp Cận liên ngành và xuyên ngành</b>


50


<i><b>1.4. Tập trung vào đảm bảo chất lượng</b></i>


Trong thập kỷ qua, nhiều quốc gia đã nhấn mạnh việc mở rộng cơ hội tiếp
cận giáo dục đại học, tăng trưởng mạnh về số lượng các trường đại học và chương
trình đào tạo. Tỉ lệ nhập học đại học toàn cầu (tỉ lệ dân số trong độ tuổi sinh viên
tại trường đại học) tăng từ 14% lên 32% trong hai thập kỷ tính đến năm 2012 ([5],
trang 8).


Sự đại chúng hóa nhanh chóng này đã tạo ra một động thái ở nhiều nước nhằm
nâng cao chất lượng giáo dục đại học. Ở Nam Á và châu Mỹ La tinh nói riêng, rất ít
trường đại học xuất hiện trong các bảng xếp hạng quốc tế, thiếu giảng viên có trình
độ, phương pháp giảng dạy và kiểm soát chất lượng thường lạc hậu. Mục tiêu cung
cấp giảng dạy và nghiên cứu chất lượng cao thông qua một hệ thống giáo dục đại
học được quốc tế công nhận để đào tạo ra những sinh viên tốt nghiệp được trang bị
các kỹ năng theo yêu cầu của các nhà tuyển dụng địa phương và khu vực là trọng
tâm của tất cả các cải cách giáo dục quốc gia. Nhưng cách thức mà các quốc gia nhắm
đến để đạt được mục tiêu đó rất khác nhau.


Chúng ta sẽ tìm hiểu 2 ví dụ cụ thể về các chương trình cải tổ giáo dục đại học
gần đây của Ecuador và Ấn Độ ([5], trang 8). Trong khi Ecuador tập trung vào việc
đo lường và đánh giá kết quả học tập của sinh viên thì Bộ Giáo dục Ấn Độ lại lựa
chọn nâng cấp cơ sở hạ tầng giáo dục đại học. Thực thi chính thức vào năm 2010, 71
trường đại học của Ecuador phục vụ 600 000 sinh viên trong nước được đánh giá
và xếp hạng, trong số đó 14 cơ sở bị yêu cầu đóng cửa, 26 trường khác cần được cải


thiện nhiều. Các cuộc cải tổ bao gồm một bài kiểm tra năng lực tuyển sinh đối với
các trường đại học công lập - lần đầu tiên ở Ecuador - và yêu cầu đối với giảng viên
là phải có ít nhất trình độ thạc sĩ và ưu tiên trình độ tiến sĩ. Để cải thiện chất lượng
giảng dạy, học bổng chính phủ được cấp cho nghiên cứu sau đại học ở nước ngoài
với 3000 học bổng được trao vào năm 2012. Kể từ khi bắt đầu cải cách giáo dục, xếp
hạng giáo dục đại học của Ecuador trong bảng Chỉ số năng lực cạnh tranh toàn cầu
trên Diễn đàn Kinh tế thế giới đã cải thiện đáng kể, từ 93-108 năm 2012 đến 73 năm
2016 - 2017.


</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

lượng với ngân sách 1,5 tỷ USD được công bố vào tháng 2 năm 2016 để tăng cường
hệ thống kiểm định, nhân đôi số lượng giảng viên và sẽ chuyển hệ thống kiểm định
của Ấn Độ sang hình thức đánh giá được quốc tế cơng nhận.


<i><b>1.5. Áp lực tìm kiếm việc làm cho sinh viên tốt nghiệp</b></i>


Áp lực của sinh viên lên các trường đại học nhằm giúp họ có việc làm tốt khơng
cịn là điều mới mẻ, nó cũng đang trở thành ưu tiên lớn đối với các chính phủ. Chính
phủ ở nhiều nước trong những năm gần đây đã gây áp lực lên các trường đại học
phải có ảnh hưởng và đáp ứng nhu cầu xã hội. Điều này ban đầu tập trung vào
nghiên cứu ứng dụng và mở rộng quyền học đại học, nhưng gần đây, việc cải thiện
cơ hội có cơng ăn việc làm cũng được bổ sung.


Người ta có thể mong đợi các thị trường việc làm có tỉ lệ sinh viên tốt nghiệp
đại học thấp để nhanh chóng tiếp nhận sinh viên mới tốt nghiệp. Nhưng ở nhiều
nước đang phát triển, một sự thật ngược lại là: nhà tuyển dụng nghi ngờ về mức độ
sẵn sàng cho công việc của sinh viên tốt nghiệp, kết quả là mức thất nghiệp cao. Ví
dụ, ở Ấn Độ, một cuộc khảo sát của các nhà tuyển dụng cho thấy chỉ có 7% sinh viên
tốt nghiệp kỹ sư (một lĩnh vực có triển vọng việc làm cao) là sẵn sàng đối với công
việc. Các kỹ năng đặc biệt thiếu bao gồm kỹ năng tiếng Anh và khả năng áp dụng
các vấn đề lý luận vào thực tiễn. Một nghiên cứu quy mô của Hội đồng Anh về việc


làm của sinh viên tốt nghiệp đại học ở châu Phi cho thấy “các nhà tuyển dụng trong
khu vực phàn nàn về việc sinh viên thiếu kiến thức cơ bản, các kỹ năng kỹ thuật và
kỹ năng có thể chuyển giao’’ ([5], trang 10). Chất lượng giảng dạy không đồng đều
và kém là hậu quả của đội ngũ nhân viên kém chất lượng, quy mô lớp học lớn và
phương pháp giảng dạy lỗi thời.


</div>
<span class='text_page_counter'>(6)</span><div class='page_container' data-page=6>

Kỷ yếu Hội tHảo quốc tế


<b>CáC vấn đề mới trong khoa họC giáo dụC: tiếp Cận liên ngành và xuyên ngành</b>


52


<i><b>1.6. Số hóa trong giáo dục đại học</b></i>


Sự xuất hiện các khóa học mở trực tuyến đại chúng (MOOCs) vào năm 2012,
đã đem lại sự chú ý đến học tập điện tử trong giáo dục đại học. Số hóa trong học
tập và giảng dạy đại học luôn là vấn đề được quan tâm trong các chương trình nghị
sự chính sách ở cả cấp độ châu Âu, cấp độ quốc gia và các tổ chức giáo dục đại học.
Năm 2015, các bộ trưởng giáo dục đại học ở Khu vực châu Âu đã kêu gọi khuyến
khích và hỗ trợ các tổ chức giáo dục đại học khai thác triệt để lợi ích của cơng nghệ
số trong học tập và giảng dạy.Cho đến nay, các hành động cụ thể hơn của tiến trình
Bologna về việc học tập kỹ thuật số vẫn đang được phát triển.


Báo cáo triển khai tiến trình Bologna 2018 lần thứ nhất đã theo dõi sự phát triển
của học tập kỹ thuật số: Trong số 50 hệ thống giáo dục đại học được điều tra, 38 hệ
thống đã có chiến lược hoặc chính sách về việc sử dụng cơng nghệ số trong học tập
và giảng dạy. Dạy học kết hợp (Blended learning) cũng được xác nhận là phổ biến
nhất trên khắp khu vực giáo dục đại học châu Âu: Mặc dù dạy học trực tuyến toàn
phần mới được cung cấp ở 18 quốc gia, 39 quốc gia cho biết một số tổ chức giáo dục
đại học của họ cung cấp các chương trình dạy học kết hợp.



Kết quả thu được từ khảo sát về các xu hướng năm 2018 ([4], trang 59) cho thấy
sự hiện diện của học tập kỹ thuật số đã được củng cố tại các tổ chức giáo dục đại học
trong những năm gần đây. Các tổ chức này đã khẳng định mức độ chấp nhận cao đối
với việc học kỹ thuật số nói chung (93%), sử dụng nó một cách chiến lược (87%), tích
hợp vào các chiến lược của tổ chức (85%) và tăng cường sử dụng trong giảng dạy
thường xuyên (87%). 93% công nhận học tập kỹ thuật số được sử dụng để đổi mới
việc học và dạy. Tất cả các quốc gia, các tổ chức đều có xu hướng nhìn nhận đổi mới
trong học tập và giảng dạy liên quan chặt chẽ với học tập điện tử và số hóa. Trong số
các ví dụ về đổi mới học tập và giảng dạy, học tập điện tử và các biện pháp kỹ thuật
số khác (học tập kết hợp, học tập mã nguồn mở MOOCs, sử dụng các nền tảng học
tập điện tử, v.v.) được nhắc đến nhiều nhất.


</div>
<span class='text_page_counter'>(7)</span><div class='page_container' data-page=7>

mạnh mẽ đang diễn ra trên thế giới. Các trường đại học, với tư cách là trung tâm trí
tuệ của xã hội, đang “gồng mình” bước những bước dài để tránh sự tụt hậu so với sự
biến đổi của thế giới, đáp ứng những đòi hỏi ngày càng cao và ngày càng đa dạng từ
nhiều phía. Họ đang tái khẳng định ý nghĩa của mình đối với xã hội, trong bối cảnh
truyền thông xã hội dựa trên những tiến bộ của công nghệ thông tin đã làm biến đổi
sâu sắc cách thức làm việc và giao tiếp của tất cả mọi người.


<b>2. Các khuyến nghị cho giáo dục đại học Việt Nam</b>


Trên cơ sở phân tích xu hướng phát triển của giáo dục đại học trên thế giới,
chúng tôi sẽ đối chiếu với thực trạng giáo dục đại học ở Việt Nam từ đó đưa ra các
khuyến nghị đối với chính phủ, tồn ngành giáo dục và các trường đại học để chuẩn
bị và tiếp nhận những khuynh hướng đó.


- Theo số liệu thống kê của Bộ Giáo dục và Đào tạo, năm học 2017-2018, cả
nước có 235 trường đại học trong đó 175 trường cơng lập và 65 trường ngồi cơng
lập. Trong khi theo Quyết định 37 của Chính phủ về việc việc điều chỉnh Quy hoạch


mạng lưới các trường đại học, cao đẳng, giai đoạn 2006-2020, đến năm 2020, cả nước
có 460 trường đại học, cao đẳng, trong đó bao gồm 224 trường đại học và 236 trường
cao đẳng. Như vậy, đến năm 2020, nước ta không thành lập, nâng cấp trường đại
học nào nữa thì vẫn vượt mục tiêu Quyết định 37 đề ra. Vì vậy việc <i>tái cấu trúc, quy </i>
<i>hoạch lại mạng lưới các trường đại học trên cả nước</i> là việc cấp thiết của Chính phủ và
tồn ngành giáo dục. Để thực hiện việc quy hoạch mạng lưới các cơ sở GDĐH, cần
có các chuẩn, quy chuẩn đối với cơ sở GDĐH, các điều kiện đảm bảo chất lượng và
kết quả đầu ra, kiểm định chất lượng giáo dục. Đồng thời, xây dựng và ban hành các
văn bản hướng dẫn triển khai phân tầng, xếp hạng các trường đại học.


- Số lượng du học sinh Việt Nam gia tăng mạnh trong những năm gần
đây, đặc biệt là học sinh thuộc các trường Trung học Phổ thông tốp trên, trường
chuyên và năng khiếu ở các thành phố lớn như Hà Nội và Thành phố Hồ Chí
Minh. Theo thống kê của Cục Đào tạo nước ngoài (Bộ Giáo dục và Đào tạo), năm
2015, Việt Nam có khoảng 120.000 du học sinh, trong đó 90% là du học tự túc.
Để đáp ứng nhu cầu tiếp cận với nền giáo dục hiện đại của con em các gia đình có
điều kiện du học tự túc và để hạn chế dòng chảy chất xám, <i>giáo dục đại học trong nước </i>
<i>cần nâng cao chất lượng, phát triển đội ngũ giảng viên, đầu tư cơ sở vật chất, cập nhật các </i>
<i>chương trình đào tạo, giáo trình </i>để “giữ chân” người học trong nước, nắm bắt một
phần kinh phí mà người Việt đã chi trả cho các cơ sở giáo dục nước ngoài, đầu tư trở
lại giáo dục đại học Việt Nam.


</div>
<span class='text_page_counter'>(8)</span><div class='page_container' data-page=8>

Kỷ yếu Hội tHảo quốc tế


<b>CáC vấn đề mới trong khoa họC giáo dụC: tiếp Cận liên ngành và xuyên ngành</b>


54


được cấp phép hoạt động. Cần tiếp tục phát triển các chương trình đào tạo đại học
và sau đại học theo mô hình liên kết để một mặt cung cấp các chương trình đào tạo


và hình thức đào tạo đa dạng, phong phú đáp ứng nhu cầu học tập đại học trong
nước mặt khác tạo điều kiện cho các trường đại học, các giảng viên được tiếp cận với
những chương trình đào tạo tiên tiến của nước ngồi để học hỏi, cập nhật chương
trình đào tạo của trường mình và thúc đẩy hợp tác về đào tạo và nghiên cứu. Để đảm
bảo chất lượng, các chương trình đào tạo liên kết phải được Bộ Giáo dục & Đào tạo
thẩm định chặt chẽ hồ sơ mở ngành. Các trường đại học đối tác cũng phải đảm bảo
chất lượng chương trình đào tạo theo chuẩn quốc tế để giữ cam kết về giá trị của tấm
bằng mà nhà trường cấp cho sinh viên.


- Áp lực về NCKH gia tăng trong các trường đại học có thể đẩy các trường rơi
vào vịng xốy chạy theo thành tích và kích thích một mơi trường học thuật thiếu
chính trực, khơng tơn trọng đạo đức nghiên cứu khoa học. Để nâng cao chất lượng
NCKH trong các trường đại học, <i>cần tạo môi trường nghiên cứu thuận lợi, đảm bảo tự do </i>
<i>học thuật, tạo điều kiện về trang thiết bị nghiên cứu cùng với các yếu tố về chính sách liên </i>
<i>quan phù hợp</i>. Cùng với việc thúc đẩy môi trường nghiên cứu khoa học, cần có chính
sách phát triển một số lĩnh vực KH & CN được coi là thế mạnh ở một số trường đại
học mũi nhọn. Các trường đại học cần chủ động thành lập các nhóm nghiên cứu để
định hướng các đề tài nghiên cứu có thể thể tiếp cận những quỹ khoa học có uy tín,
kết nối các đề tài với các tổ chức nghiên cứu, cơ sở sản xuất và gắn với thực tế xã hội.
- Giáo dục trực tuyến đang là xu hướng của giáo dục thế giới, trong khu vực
và đang phát triển mạnh mẽ tại Việt Nam. Nhận thức được thực tế đó, chính phủ,
tồn ngành giáo dục và các cơ sở giáo dục đại học nên <i>xem xét dạy học trực tuyến như </i>
<i>một phương tiện học tập khả thi và phát triển một khuôn khổ để áp dụng cơng nghệ trong </i>
<i>giáo dục</i>. Khơng ít nhà quản lý vẫn chưa tin tưởng vào các chương trình đào tạo trực
tuyến tồn phần hay các chương trình hỗn hợp. Đây thực sự là một rào cản đối với
sự phát triển của một xu hướng dạy học hiện đại đang được thế giới công nhận. Các
nhà quản lý nên cởi mở để đóng vai trị kiểm sốt chất lượng thay vì trở thành người
gác cổng cho việc áp dụng các công nghệ trong hệ thống giáo dục đại học [3].


<b>3. Kết luận</b>



</div>
<span class='text_page_counter'>(9)</span><div class='page_container' data-page=9>

Là đất nước đang phát triển, hiện nay giáo dục đại học của Việt Nam gặp phải
rất nhiều khó khăn, sự cạnh tranh cũng như những đòi hỏi từ nhu cầu phát triển
kinh tế, xã hội đã đặt ra cho các cơ sở giáo dục đại học những thách thức phải vượt
qua. Điều này đặt ra cho hệ thống giáo dục và cơ sở giáo dục đại học cần lựa chọn
đúng các giải pháp đột phá để lãnh đạo dẫn dắt quá trình đổi mới giáo dục đại học
đạt hiệu quả, thực hiện được vai trò định hướng sự phát triển của kinh tế xã hội.


<b>LỜI CẢM ƠN</b>


Báo cáo kết quả tham luận trong khuôn khổ của đề tài nghiên cứu <i>“Cơ sở khoa </i>
<i>học của quy hoạch mạng lưới các cơ sở giáo dục đại học Việt Nam”</i>, m<b>ã số </b>KHGD/16-20.
ĐT.021, thuộc Chương trình khoa học và công nghệ cấp quốc gia giai đoạn 2016 -
2020 “Nghiên cứu phát triển khoa học giáo dục đáp ứng yêu cầu đổi mới căn bản,
toàn diện nền giáo dục Việt Nam”. Tác giả xin chân thành cảm ơn Bộ Giáo dục và
Đào tạo, Bộ Khoa học và Công nghệ đã tài trợ cho nghiên cứu này.


<b>TÀI LIỆU THAM KHẢO</b>


1. British Council (2012), <i>The shape of things to come: higher education global trends </i>
<i>and emerging opportunities to 2020</i>.


2. Council of Europe (2002). “<i>Code of Good Practice in the Provision of Transnational </i>
<i>Education” Directorate General IV</i>. DGIV/EDU/HE (2002).


3. FICCI (2017), <i>Leapfrogging to Education 4.0: Student at the core</i>.


4. Michael Gaebel and Thérèse Zhang(2018), <i>Trends 2018 Learning and teaching in </i>
<i>the European Higher Education Area,</i> European University Asociation.



5. University of Oxford (2017), <i>International Trends in Higher Education 2016–17</i>.
6. France Shapes its Higher Education and Research system into 25 clusters, Ministry


of National Education (2016), p. 3 [ia.
enseignementsup-recherche.gouv.fr/file/COMUE/22/7/France-HigherEducation-Research-25_
clusters-2015_496227.pdf]


7. The Observatory on Borderless Higher Education (2012), ‘International branch
cam-puses: data and developments’ (www.obhe.ac.uk/documents/view_ details?id=894)
8. www.universityworldnews.com/article. php?story=20160303145339679
9.


</div>
<span class='text_page_counter'>(10)</span><div class='page_container' data-page=10>

Kỷ yếu Hội tHảo quốc tế


<b>CáC vấn đề mới trong khoa họC giáo dụC: tiếp Cận liên ngành và xuyên ngành</b>


56


10.
www.qsdigitalsolutions.com/blog/qs-graduate-employability-rankings2017-overview/


11. The European Higher Education Area in 2015: Bologna Process Implementation
Report (Luxembourg, Publications Office of the European Union) https://eacea.

ec.europa.eu/national-policies/eurydice/content/european-higher-education-area-2015-bologna-process-implementation-report_en


12. The European Higher Education Area in 2018: Bologna Process Implementation
Report (Luxembourg, Publications Office of the European Union) https://eacea.

ec.europa.eu/national-policies/eurydice/content/european-higher-education-area-2018-bologna-process-implementation-report_en



13. />


14.
/>


15.
/>


16. />


<b>INTERNATIONAL TRENDS IN HIGHER EDUCATION - RECOMMANDATIONS </b>
<b>FOR VIETNAM</b>


<b>Abstract:</b> Globalization trend, rapid development of information technology,
knowledge and changes in population structure, challenges of knowledge economy
and the stakes of globalisation will lead to inevitable modifications in education
in general and specifically in higher education. This paper will analyze deeply 6
trends of higher education in the world related to: Internationalisation; Research
collaboration; Student mobility; Quality assurance; Graduate employability;
Digitalisation in higher education. From these analysis, we will compare them
with the current status of higher education in Vietnam. Then, we will put forward
recommendations for the Government, the education sector as well as higher
education institutions in Vietnam to prepare and receive those trends well.


</div>

<!--links-->

×