Tải bản đầy đủ (.pdf) (137 trang)

Đại hội Đảng - Chủ tịch Hồ Chí Minh: Phần 1

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (8.03 MB, 137 trang )

DC.036055
I^H TRỊ QUÓI


Mã sô:

3K 5H 6
CTQG - 2010


^ ^ -

PGS, TS. LE VAN YEN

C hu t ic k
Hti CHl MINH
v a i DAI HOI
DANG

NHA XUAT BAN CHINH TRI QUOC GIA
HA NO I-2010

-

!




•"1?r


*■ » • ĩ — '

' ■ . ■<>'


Với tấ t cả tinh thần khiêm tốn của người
cách mangy chúng ta vẫn có quyền nói răng:
Đảng ta th ã t là vĩ đai!
HỒ CHÍ MINH



LỜI NHÀ XUẤT BẢN

Sự nghiệp cách m ạ n g củ a Đ ản g ta và n h â n d â n ta 80 n ăm
q u a g ắn liền vối tê n tuổi và sự ng hiệp của C h ủ tịch Hồ C hí M inh.
S u ô t cuộc đời hy sin h p h ấ n đ ấ u k h ô n g m ệ t mỏi vì độc lập tự do
của Tổ qc, vì h ạ n h p h ú c củ a n h â n dân, vì n h ữ n g m ục tiê u cao
cả củ a lồi ngưịi tiế n bộ, C h ủ tịch Hồ Chí M in h đã để lại cho
c h ú n g t a một di s ả n vô cù n g p h o n g phú, đó là tư tưở ng Hồ Chí
M inh. Đ ại hội lần th ứ VIL VIIL IX c ủ a Đ ả n g ta đ ều k h ẳ n g định,
cù ng với ch ủ ng h ĩa M ác - Lênin, tư tưởng Hồ C h í M inh là nền
tả n g tư tưởng, kim chỉ n a m cho h à n h động cách m ạ n g của Đ ản g

ta và

n h â n d ân

ta.


Là người sá n g lập, lã n h đạo và r è n lu y ệ n Đ ả n g ta, C h ủ tịch
Hồ C h í M in h d à n h to à n bộ tâ m lực vào việc xây d ự n g Đ ả n g ta,
một Đ ả n g Cộng sả n kiên cường, tr u n g th à n h vối c h ủ n ghĩa Mác L ê n in v à chủ n g h ĩa quôc t ế c ủ a giai cấp công n h â n , g ắn bó m á u
t h ị t với d ân , coi đó là n h â n t ố q u y ế t đ ịn h mọi t h ắ n g lợi củ a cách
m ạ n g V iệt N am .

Nhân kỷ niệm lần thứ 120 ngày sinh của Chủ tịch Hồ Chí
Minh (19-5-1890 - 19-5-2010), 65 năm thành lập nước Cộng hoà
xã hội chủ nghĩa Việt Nam (1945-2010) và thiết thực chuẩn bị
v à n k iệ n cho Đ ại hội Đ ả n g các cấp tiế n tỏi Đ ại hội đ ại biểu to à n
quôc lầ n th ứ XI c ủ a Đ ả n g ta , N h à x u ấ t b ả n C h ín h tr ị qc gia
tá i b ả n có sử a ch ữ a, bổ s u n g cuô n sá ch C h ủ t i c h H ồ C h í M i n h

với Đ a i hội Đ ả n g ta do P G S , TS. Lê V án Y ên b iê n soạn. Cuôn

7


tư liệu quý, t r ì n h bày n g á n gọn súc tích
những hoạt động của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong các Đại hội
Đảng mà Người tham dự. Cuôn sách sẽ là nguồn cung cấp tài
liệu nghiên cứu, học tập có giá trị cho độc giả nhất là cán bộ,
đảng viên.
Xin trân trọng giới thiệu cuôn sách cùng bạn đọc.
sách lậ p hỢp n h iề u

Tháng 2 năm 2 0 ĩ 0

NHÀ XUẤT BẢN CHÍNH TRỊ Qưốc GIA


8


Chương I
NGUYỄN ÁI QUỐC VỚI VIỆC SÁNG LẬP
ĐẢNG CÔNG SẢN VIÊT NAM
Trong lịch sử Đảng ta, có những Hội nghị Trung ương
Đảng mang.tính chất và ý nghĩa như một Đại hội của
Đảng. Hội nghị thành lập Đảng ngày 3-2-1930, do đồng
chí Nguyễn Ái Q"c chủ trì cách đây 80 năm là một hội
nghị có tầm quan trọng đặc biệt, có ý nghĩa như một Đại
hội Đảng.
IBỐI CẢNH LỊCH sử
TRƯÓC KHI ĐẢNG TA RA ĐỜI
Việt Nam là một trong những cái nơi của lồi người,
một trong những trung tâm kinh tế, văn hóa cổ đại vùng
Đơng Nam Á. Từ thời c á c vua Hùng dựng nước đến nay,
nước ta đã có hơn 4000 năm lịch sử. Trong q trình đâ'u
Iranh dựng nước và giữ nước, chinh phục thiên nhiên,
chông giặc ngoại xâm, dân tộc Việt Nam đã hình thành và
phát triển. Dân tộc Việt Nam là một dân tộc thông nhất
gồm nhiểu thành phần cư dân cùng chung sông trên một
lãnh thổ thông nhất đưỢ c x á c lập từ lâu trong lịch sử.
9


Lịch sử dán tộc Việt X am là lịch sử mội dân tộc anh

hùng, có truyền thơng chơng ngoại xâm kiên cường, bất
^ihuất, mưu trí, sáng tạo. Dân tộc Việt Nam đã lừng đánh

thắng nhiều kẻ thù xâm lược lớn mạnh. ’’Lịch sử La đã có
nhiều cuộc kháng chiến vĩ đại chứng tỏ tinh thần yêu nước
của dân ta. Chúng ta có quyền tự hào vì những trang lịch
sử vẻ vang thòi đại Bà Trưng, Bà Triệu. Trần Hưng ĐạOj
Lê Lợi, Quang Trung, v.v."\
Lịng u nưốc nồng nàn, tình đồn kết. tương thân
tương ái, tính cần cù lao động, tinh thần độc lập, tự chủ,
tự cưịng, đức tính giản dị, thông minh, sáng tạo và lạc
quan,... là những truyền thông tốt đẹp của dân tộc Việt
Nam đưỢc hun đúc thành từ thòi dựng nước và phát triển
ngày càng cao trong q trình đấu tranh lâu dài chơng
ngoại xâm và chinh phục thiên nhiên. Đúng như Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã tổng kết: "Dân ta có một lịng nồng nàn
u nước. Đó là một truyền thơng q báu của ta. Từ xưa
đến nay, mỗi khi Tổ qc bị xâm lăng, thì tinh thần ấy lại
sơi nổij nó kết thành một làn sóng vơ cùng mạnh mẽ, to
lốn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn
chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước"^.
*
*

*

Vào C U Ô I thế kỷ XV, đầu thế kỷ XVI, trên thế giới, chủ
nghĩa tư bản nảy sinh ở một sô" nưốc Tây Âu, trong khi đó
1, 2. H ồ C h í M inh; Tồn tập, N xb . C h ín h trị quôc g ia , H à
N ội, 2 0 0 9 , t.6, tr. 171.
10



ở nhiều nước Irên thê giới, chế độ phong kiến đang khủng
hoảng, suy yếu và cịn cả những hình thái kinh tế - xã hội
trước phong kiến. Đến thế kỷ XIX, chủ nghĩa tư bản ỏ Tây
Âu và Bắc Mỹ phát triển rât nhanh. Chủ nghĩa thực dân,
con đẻ của chủ nghĩa tư bản, uy hiếp ngày càng mạnh các
nước kinh tế chậm phát triển. Châu Phi và châu Á trở
thành đôi tượng xâm lược chủ yếu của chủ nghĩa tư bản
phương Tây. Cuộc chạy đua tìm kiếm thị trưịng mới, xâm
chiếm thuộc địa, phân chia thế giới giữa các nước tư bản
lớn ngày càng gay gắt, quyết liệt. Khi chủ nghĩa tư bản
chuyển sang giai đoạn chủ nghĩa đế qc thì tất cả các
nước chậm phát triển đều thành thuộc địa hoặc nửa thuộc
địa của chủ nghĩa đế quốc. Hệ thông thuộc địa trở thành
một trong những cơ sở quan trọng nhâ^t cho sự tồn tại của
chủ nghĩa đế quôc.
Từ lâu, chủ nghĩa tư bản Anh và Pháp đã nhịm ngó
đâ"t nước ta. Sau khi bị bọn Anh hâ^t khỏi thị trưòng Ân
Độ (1763), Pháp xúc tiến âm mưu xâm lược Việt Nam.
Ban đầu, chúng núp dưới tổ chức những hội truyền giáo
để lần mò đến Việt Nam, dọn đưòng cho việc xâm chiêm
nước ta.
Từ thế kỷ XVI, chế độ phong kiến Việt Nam đã bước
vào giai đoạn khủng hoảng và đến thế kỷ XIX thì ở vào
thời kỳ khủng hoảng nghiêm trọng. Sự phân tranh giữa các
tập đoàn phong kiến diễn ra liên tục và kéo dài hàng trăm
nám. Các cuộc khởi nghĩa của nông dân và các tầng lớp
nhân dân liên tiếp nổ ra. Giữa thế kỷ XIX (tháng 5-1858),
đê quôc Pháp xâm chiếm nước ta, giữa lúc chế độ phong
kiến Việt Nam trên đà suy tàn, mâu thuẫn giữa giai cấp
11



nông dân với giai câp phong kiến đã ỏ vào cực điểm. Đảy
là kẻ thù mới có tiềm lực kinh tế, có đội quân xâm lược
nhà nghề VỚI trang bị vũ khí và phương tiện chiến tranh
hiện dại.
Trước hành động xâm lược của đế quôc Pháp, giai cấp
phong kiến Việt Nam mà điển hình là triểu đình nhà
Nguyễn đã chọn con đưịng quỳ gơi đầu hàng. Ngay từ khi
đế qc Pháp đặt chân lên đất nước ta, triều đình phong
kiến nhà Nguyễn ký hiệp ước đầu hàng từng bước bọn
cưốp nước, và đến năm 1884 ký hiệp ước bán đứt nước ta
cho đế quôc Pháp. Chế độ phong kiến Việt Nam tới đây
bộc lộ rõ rệt sự bất lực và phản động. Trái lại, cũng ngay
từ khi Pháp đánh chiếm nước ta, các phong trào yêu nưốc
chông Pháp của nhân dân ta với truyền thống kiên cường,
bất khuất đã diễn ra liên tục kéo dài đến đầu thế kỷ XX.
Cuộc chiến đấu vô cùng anh dũng của nhân dân ta đã gây
cho bọn xâm lược rất nhiều khó khăn, thiệ.t hại. Phải mất
gần một phần ba thế kỷ, đế quốc Pháp mối đặt được ách
thông trị lên đất nưốc ta. Tuy nhiên, các cuộc kháng chiến
anh dũng đó đều khơng thành công. Nhận định phong
trào chống Pháp của nhân dân ta thịi kỳ này, Chủ tịch Hồ
Chí Minh ẩau này có viết: "Cuối thê kỷ XIX chủ nghĩa đê
quốc Pháp xâm lược Việt Nam. Bọn vua quan và phong
kiến đê tiện và hèn nhát đầu hàng và câu kết với bọn đê
quốc để tiếp tục nô dịch nhân dân Việt Nam nhiều hơn,
khiến nhân dân Việt Nam khổ cực không kể xiết. Nhưng
đại bác của bọn đế quốc không thể át tiếng nói yêu nước
của nhân dân Việt Nam... Phong trào cách mạng giải

phóng dân tộc ở Việt Nam khơng ngừng phát triển, kẻ
12


trưốc ngã. ngưòi sau đứng dậy. Xhưng tất cả những cuộc
khởi nghĩa yêu nước ây đã bị dìm trong máu. Xhững đám
mây đen lại bao phủ đất nước Việt Nam’'^
*

*

Cuối thế kỷ XIX, sau khi đã cơ bản kết thúc giai đoạn vũ
trang xâm lược, đế quốc Pháp bắt đầu tiến hành kế hoạch
"khai thác thuộc địa" nhằm bóc lột, vơ vét sức người, sức của
ở Việt Nam. Dưới chế độ thực dân Pháp, nước Việt Nam có
những thay đổi quan trọng.
Về kinh tế, để thu đưỢc lợi nhuận tôi đa ở Việt Nam,
đế quốc Pháp thi hành chính sách kinh tế thực dân rất
bảo thủ và phản động: duy trí phương thức sản xuất phong
kiến kết hỢp với việc thiết lập một cách hạn chế phương
thức sản xuất tư bản chủ nghĩa. Đê quô"c Pháp hầu như
không mở mang cơng nghiệp nặng, mà cịn kìm hãm
khơng cho phát triển những ngành công nghiệp nhẹ. Để
khai thác đưỢc nhiều tài nguyên, chúng buộc phải xây
dựng một sô' cơ sở vật chất, kỹ thuật mới trong các ngành
giao thông vận tải, xây dựng, mỏ, đồn điền, sản xuất
hàng tiêu dùng. Nhưng tất cả những ngành này không
đưỢc phép cạnh tranh, mà chỉ được phép bổ sung và phụ
thuộc vào nền công nghiệp của "chính quốc". Trong báo
cáo gửi Chính phủ Pháp, đề ngày 23-3-1897, Tồn quyền

Đơng Dương là Pơn Đume có viết: "Nếu việc xây dựng
cơng nghiệp cần đưỢc khuyến khích ở thuộc địa thì chỉ
trong giới hạn khơng hại đến cơng nghiệp chính quốc.
1. H ồ C h í M in h : Toàn tập, Sđd, t.9 , t r . 3 1 3 - 3 1 4 .
13


Cơng nghiệp chính qc cần đưỢc bổ vSung chứ khơng phái
là để phá sản bởi công nghiệp thuộc địa”.
Thực hiện chính sách trên, đế qc Pháp thực hành
thủ đoạn độc quyền kinh tế: độc quyền kinh doanh một ỔƠ^
ngành cơng nghiệp nặng, độc quyền phương tiện giao
thông vận tải, độc quyền khai thác mỏ, độc quyền chiếm
đất lập đồn điền, độc quyền xuất nhập khẩu, độc quyển
muôi, thuôc phiện, rưỢu cồn, độc quyền ngân hàng, độc
quyền bán buôn, V.V.. Mặt khác, thực dân Pháp đặc biệt
coi trọng thủ đoạn bóc lột phi kinh tế, đó là chế độ th
khóa vơ cùng nặng nề và hết sức vô lý: thuê thân, thuế
ruộng, th u ế chợ, th u ế đò, th u ế vỉa hè, th u ế môn bài, thuế
xe đạp, th u ế cư trú, th u ế nộp cho ngân sách Đông Dương,
cho ngân sách xứ, cho ngân sách tỉnh, th u ế phần trăm

nộp cho bọn quan lại, kỳ hào trong thôn xã cùng hàng
trăm thứ thuế khác. Càng ngày chính quyền thực dân
càng đẻ ra nhiều thứ thuế và với tỷ lệ thuế ngày càng
tăng. "Thuế má khơng những nặng oằn lưng, mà cịn ln
ln thay đổi"\

Chính sách kinh tế trên của Pháp đã tước mất hết khả
năng phát triển độc lập của nền kinh tế Việt Nam, làm

cho nó khơng có cơng nghiệp nặng, cơng nghiệp nhẹ thì
q quặt, nơng nghiệp độc canh. Rơt cuộc, nền kinh tê
Việt Nam ở trong tình trạng rất lạc hậu, phải hoàn toàn
phụ thuộc vào kinh tế Pháp. Nhân dân Việt Nam bị bần
cùng hóa, nơng dần, thợ thủ cơng phá sản, ngày càng
nghèo đói.
1. H ồ C h í M in h : Toàn tập, Sđd, t.2, tr.75.
14


về chính trị, để bảo đảm mục tiêu kinh tế, thực dân
Pháp thực hành chính sách chuyên chế về chính trị. Chúng
dùng lôi cai trị trực tiếp bằng bộ máy cơng chức chun
nghiệp người Pháp, thâu tóm mọi quyền hành. Đứng đầu
bộ máy cai trị ở Đông Dương là một tên tồn quyền người
Pháp, ở Nam Kỳ có Thơng đốc, Bắc Kỳ có Thống sứ, Trung
Kỳ có Khâm sứ. Mỗi tỉnh có một Cơng sứ. Triều đình nhà
Nguyễn chỉ đóng vai trị bù nhìn. Với bộ máy nhà nước
thuộc địa như vậy, chúng thẳng tay đàn áp, không cho dân
ta một chút tự do dân chủ nào. ở Việt Nam lúc đó dân số
khoảng 20 triệu mà bộ máy cơng chức ngưịi Pháp đã có
4.300. Tình trạng này được Nguyễn Ái Quốc nêu rõ trong
Bản án chế độ thực dân Pháp : "Tại sao ở Đơng Dương, cái
lồi ăn hại ngân sách ấy lại nhiều đến thế? Bởi vì thuộc địa
là một thiên đường ở trần gian; ở đó, trừ một vài trường hỢp
rất hiếm hoi, cịn thì tất cả những cặn bã trong các ngành
chính trị, tài chính, báo chí, v.v. mà chính quốc thải ra, đều
tìm được mơi trường rất thích hỢp để phát triển"*.
Cùng với chính sách đàn áp dã man phong trào cách
mạng của nhân dân ta, chúng cịn thi hành chính sách

chia để trị. Chúng chia nước ta ra làm ba kỳ với ba hình
thức cai trị khác nhau nhằm chia rẽ dân tộc. Chúng gây hằn
thù giữa dân tộc Kinh và dân tộc thiểu số, chia rẽ nhân
dân ba nước Việt Nam, Lào và Campuchia. Chúng còn
chia rẽ nhân dân các nưốc thuộc địa với nhân dân Pháp,
chia rẽ nhân dân các nước thuộc địa với nhau. Đồng chí
Nguyễn Ái Quốc đã viết: "Chủ nghĩa thực dân Pháp khơng
1. H ồ C h í M inh: Toàn tập, Sđd, t.2 , tr .5 5 .
15


hề ihay đổi cái châm ngôn "chia để trị" của nó. Chính vi
Lhế, mà nước An Nam. một nước có chung mộl dân tộc,
chung một dòng máu, chung một phong tục. chung một
lịch sử, chung một truyền thông, chung một tiếng nói. đã
bị chia năm xẻ bảy"\ Đối với nhân dân ba nước Đơng
Dương thì: "Sau khi đẩy họ chơng lại nhau, người ta lại
ghép một cách giả tạo các thành phần ấy
lập nên xứ
Đông Pháp (Đông Dương thuộc Pháp). Chúng bóp nghẹt
quyền tự do, dân chủ của nhân dân, đàn áp dã man mọi
hoạt động yêu nưốc. Các trào lưu tiến bộ trên thế giới
truyền vào Việt Nam đều bị chúng ngăn cấm.
Về văn hóa, xã hội, đế quốc Pháp thi hành chính sách
ngu dân, truyền bá văn hóa nô dịch, phản động, đồi trụy,
gây tâm lý vong bản, tự ty. Chúng phát triển tơn giáo, mê
tín dị đoan để mê hoặc nhân dân ta, khuyên khích đồi
phong, bại tục. Chúng tước hết mọi quyền sơng của con
ngưịi, lập nhà tù nhiều hơn trưồng học. Chúng tìm mọi cách
để ngăn chặn ảnh hưởng của nền vãn hóa dân chủ tiến bộ

trên thế giới vào Việt Nam. Nói tóm lại, chính sách của
chúng "làm cho dân ngu để dễ trị, đó là chính sách mà các
nhà cầm quyền ở các thuộc địa của chúng ta ưa dùng nhất"^.
Chính sách thơng trị, áp bức, bóc lột của thực dân
Pháp đốì vối nhân dân ta đưỢc Chủ tịch Hồ Chí Minh tổng
kết ngắn gọn và đầy đủ trong Tuyên ngôn độc lập năm
1945; đồng thòi cũng là lòi luận tội đanh thép của Ngưịi
đơi với chúng:
1,2. Hồ C h í M inh: Toàn tập, Sđd, t.2, t r . l l 6 ,
3. Hồ C hí M inh: Tồn tập, Sđd, t.2, tr.99.
16


"Bọn thực dân Pháp lợi dụng lá cò tự do, bình đẳng,
bác ái, đên cướp đâ't nước ta, áp bức đồng bào ta. Hành
động của chúng trái hẳn vối nhân đạo và chính nghĩa.
v ể chính trị, chúng tuyệt đơi không cho nhân dân ta
một chút tự do dân chủ nào.
Chúng thi hành những luật pháp dã man. Chúng
ập ba chê độ khác nhau ở Trung, Nam, Bắc để ngán cản
việc thông n h ất nước nhà của ta, để ngăn cản dân tộc ta
đoàn kết.
Chúng lập ra nhà tù nhiều hơn trường học. Chúng
thẳng tay chém giết những người yêu nước thương nòi của
chúng ta. Chúng tắm các cuộc khởi nghĩa của ta trong
những bể máu.
Chúng ràng buộc dư luận, thi hành chính sách ngu dân.
Chúng dùng thuốc phiện, rưỢu cồn để làm cho nòi
giống ta suy nhược.
Về kinh tế, chúng bóc lột dân ta đến xương tủy, khiến

cho dân ta nghèo nàn, thiếu thôn, nước ta xơ xác, tiêu điều.
Chúng cướp không ruộng đất, hầm mỏ, nguyên liệu.
Chúng giữ độc quyền in giấy bạc, xuất cảng và nhập
cảng.
Chúng đặt hàng trăm thứ thuế vô lý, làm cho dân ta,
n hất là dân cày và dân buôn, trở nên bần cùng.
Chúng khơng cho các nhà tư sản ta ngóc đầu lên.
)L cách
cacn vô
vo cùng
cung tàn
L i i i i Ilĩhẫn'
iiiaii"'
Chúng bóc lột cơng nhân ta một


*

*

1. HỒ C h í M inh : Toàn tập, Sđd, t.4, tr. 1-2.
17


ách Lhông trị của thực dân P h á p , cùng với những
thay đổi về kinh tế, chính trị và văn hóa thì kết cấu giai
cấp và quan hệ xã hội ở Việt Nam củng thay đôi.
Giai cấp địa chủ phong kiến Việt Nam khơng cịn là
giai cấp thơng trị duv nhất như trước nữa, mà trở thành
công cụ của chủ nghĩa đế quôc. Phong kiến và đế quốc

câu kết vối nhau bóc lột và thơng trị nhân dân ta. Quyền
lợi kinh tế của bọn chúng gắn chặt với nhau. Dựa vào đế
quốc, địa chủ phong kiến táng cưòng bóc lột nơng dân.
Ruộng đâ"t ngày càng tập trung vào tay địa chủ. Hiện
tưỢng đó làm cho mâu thuẫn giữa giai cấp nông dân và
giai cấ^p địa chủ phong kiến gay gắt thêm. Tuy nhiên, do
chính sách độc quyền về kinh tế, chuyên chế vể chính trị,
giữa đế quốc và phong kiến vẫn có mâu thuẫn về quyền
lợi. Bị tư bản Pháp làm cho phá sản, một sô" địa chủ vừa
và nhỏ có những phản ứng.
Giai cấp nơng dân Việt Nam chiếm trên 90% sô" dân.
Họ sản xuât một bộ phận quan trọng của cải trong xã hội,
nhưng lại bị đế quốc, phong kiến áp bức, bóc lột nặng nề.
Chính sách chiếm đất, mua rẻ, bán đắt, sưu cao, thuế
nặng đè lên lưng họ. Nông dân bị phá sản ngày càng nhiều.
Một sô^ vẫn bị buộc chặt vào đồng ruộng, chịu sự bóc lột
bằng cách làm thuê cho địa chủ. Một
buộc phải ròi bỏ
quê hương vào làm việc trong các nhà máy, hầm mỏ, đồn
điền, trở thành công nhân. Một số^ phải đi làm phu ở các
thuộc địa khác của Pháp. Họ mang nặng mốì thù mất
nước và mất ruộng đâ"t. Do đó, họ kiên quyết chơng đế
qc, phong kiến và là lực lượng đông đảo nhất của dân
tộc. Nông dán tuy cách mạng, song không thể lãnh đạo
Dưới

18


đưỢc cách mạng. Trong điểu kiện nước ta, giai cấp nông

dân không đi theo giai câ^p tư sản và không chịu ảnh
hưởng của chủ nghĩa cải lương tư sản, mà đi theo giai cấp
công nhân làm cách mạng. Cùng với giai cấp công nhân,
giai cấp nông dân là lực lượng chủ yếu của cách mạng.
Giai cấp tiều tư sản Việt Nam gồm nhiều tầng lớp
khác nhau, từ những ngưòi thợ thủ cơng, tiểu chủ, tiểu
thương, đến những viên chức, trí thức, học sinh. Địa vị
kinh tê bấp bênh, luôn bị đe dọa phá sản, thâ^t nghiệp, lại
bị đế quốc và phong kiến khinh rẻ, nên họ có tinh thần
yêu nước và dân chủ. Những ngưịi tiểu tư sản trí thức,
học sinh thưòng giữ vai trò là người truyền bá những tư
tưởng tiến bộ trong quần chúng lao động và là ngòi pháo
của phong trào ở các thành thị. Họ nhạy cảm về chính trị,
nhưng dễ ngả nghiêng, dao động. ĐưỢc giai cấp công nhân
lãnh đạo, giai cấp tiểu tư sản sẽ hăng hái cách mạng và là
một lực lượng quan trọng của cách mạng.
Giai cấp tư sản Việt Nam ra địi trong q trình khai
thác thuộc địa của thực dân Pháp. Nhưng bị chúng kìm
hãm, cho nên đến thịi kỳ trong và sau Chiến tranh thế
giới thứ nhâ"t mới bắt đầu trở thành một giai cap rõ rệt. ở
Việt Nam, bọn tư bản Pháp nắm mọi quyền lợi kinh tế,
nên giai cấp tư sản Việt Nam không đủ điểu kiện phát
triển độc lập cả vê kinh tê và chính trị. Giai cấp tư sản
Việt Nam có hai bộ phận: tư sản mại bản và tư sản dãn

tộc. Tư sản mại bản là đồng minh của đế qc, quvển lợi
của nó gắn liển với quyển lợi của đế quốc. Tư sản dân tộc
có máu thuẫn với đế qc và phong kiến, nhưng lại có

quan hệ vối chúng. Thái độ chính trị của bộ phận tư sản

19


dán tộc có hai mặt; m ặ l tích cực và m ặ i liêu cực. Sau cuộc

bạo động ở Yên Bái (2-1930), giai cấp tư sản tìm đừcìng

thỏa hiệp

VỚI

Pháp và hơ hào giải phóng dân tộc theo lơi

cải lương chủ nghĩa. Y ế u tơ" tích cực của họ chỉ đưỢc p h á i

huy trong những điểu kiện lịch sử nhâ^t định. Họ có khả
năng tham gia phong trào cách mạng do chính đảng của
giai câp cơng nhân lãnh đạo.
Giai cấp công nhân Việt N a m ra địi gắn liền và là sản
phẩm trực tiếp của chính sách khai thác thuộc địa của
thực dân Pháp. Xuất hiện trưóc giai cấp tư sản, tuy sơ^
lượng cịn nhỏ (đến năm 1922, sô" lượng công nhân Việl
Nam là 22 vạn), nhưng do vị trí kinh tế, chính trị và lịch
sử của mình, giai cấp cơng nhân đại biểu cho sự tiến bộ
của xã hội. Họ là giai câp duy nhâ"t ở Việt Nam có khả
năng lãnh đạo đưỢc sự nghiệp cách mạng giải phóng dân

tộc đến thắng lợi.
Là cơng nhân ỏ một nước thuộc địa, nửa phong kiến, họ
chịu sự áp bức bóc lột nặng nề của đế quốc và phong kiến.

Họ khơng có một chút quyền tự do dân chủ nào. Giai cấp
công nhân Việt Nam không chịu ảnh hưởng của chủ nghĩa
cải lương, khơng có tầng lớp cơng nhân quý tộc, vừa ra đòi
đã tiêp thu ánh sáng của Cách mạng Tháng Mưòi và chủ

nghĩa Mác - Lênin. Họ rất kiên quyết cách mạng, lại có
quan hệ chặt chẽ vối nơng dân, có điều kiện thuận lợi liên
minh với giai câp nơng dân, bạn đồng minh của mình.
Những đặc điểm đó quy dịnh giai cấp cơng nhân Việt Nam
là đại biếu cho to't cả những người bị bóc lột và cho cả
d â n tộc V iệt N a m . v ề m ặt khách quan, họ là ngưòi xứng
đáng giương cao ngọn cò dân tộc dân chủ mà tiến lên.
20


Song, vể chủ quan, lúc đẳu giai cấp công nhân Việt Nam
chưa đưỢc giác ngộ sâu sắc, chưa đưỢc trang bị lý luận
cách mạng, chưa có tổ chức thơng nhất, nên chưa làm
được sứ mệnh đó.

*
*

*

Những thay đổi về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội
trên đây dẫn đến những thay đổi về tính chat và mâu
thuẫn cơ bản của xã hội Việt Nam, về đôi tượng và lực
lượng của cách mạng Việt Nam. Bị đế quôc Pháp xâm
lược, xã hội Việt Nam từ một xã hội phong kiến chuyển

thành một xã hội thuộc địa, nửa phong kiến. Hai mâu
thuẫn cđ bản trong xã hội Việt Nam là: mâu thuẫn giữa
d â n tộc Việt N a m với. bọn đ ế quốc P h á p xâm. lược; m âu
th u ẫ n g iữ a n h â n d â n Việt N a m

- chủ yếu là nông d â n - với

giai cấ p đ ị a ch ủ phong kiến. Đôi tưỢng cần phải đánh đổ
của cách mạng Việt Nam là đế quôc Pháp và giai cấp địa
chủ phong kiến. Lực lưỢng của cách mạng Việt Nam là
công nhăn, n ôn g d â n , tiếu tư sản, tư sản d ă n tộc.

Độc lập, tự do là yêu cầu căn bản của xã hội Việt Nam
dưới ách thông trị của đế quốc và phong kiến, là nguyện
vọng thiết tha của toàn thể nhân dân Việt Nam. Vì vậy,

các cuộc đấu tranh của quần chúng liên tiếp nổ ra. Các
cuộc đấu tran h ấy hoặc do các sĩ phu yêu nưốc, công nhân,
nông dân, Liểu tư sản và iư sản dân tộc tiến hành riêng rỗ,
hoặc do những giai cấp, thành phần xã hội đó phối hỢp với
nhau cùng tiến hành, ờ mỗi thời kỳ lịch sử nhâ^t định, các
cuộc đâ"ư tran h của quần chúng gắn liền với sự ]ănh đạo
21


của một lực lượng đại biểu cho một giai cấp nhất định. Các
cuộc vận động u nưóc chơng Pháp trước khi Đảng Cộng
sản Việt Xam ra đòi chưa giành được thắng lợi, vì chưa
vạch ra được con đưịng cứu nưốc đúng đắn, chưa đáp ứng
đưỢc yêu cầu độc lập, tự do, dân chủ của nhân dân ta.

Phong trào yêu nước chơng Pháp đại diện cho ý thức
hệ phong kiến cịn rơi rớt lại là phong trào cần Vương mà
tiêu biểu là cuộc kháng Pháp của cụ Phan Đình Phùng.
"Cụ Phan Đình Phùng là một học giả nổi tiếng và một vị
quan to. ở Trung Bộ, cụ là người chí sĩ yêu nước đầu tiên
đứng lên chông lại bọn đế quôc Pháp xâm lược. Cụ tổ chức
những phần tử trí thức và nông dân Trung Bộ, lãnh đạo
họ đấu tranh gian khổ chơng bọn xâm lược, trải qua chín,
mưịi năm "\ Thâ^t bại của phong trào Cần Vương đánh
dấu sự chấm dứt thịi kỳ đấu tranh chơng Pháp do các trí
thức phong kiến lãnh đạo.
Phong trào cứu nưốc theo con đường tư sản cũng
nhanh chóng bị phá sản. Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh là
những chí sĩ yêu nước lớn, nhưng con đưịng cứu nước của
các cụ cũng khơng cịn phù hỢp. "Cụ Phan Bội Châu sang
Nhật, sau sang Trung Quốc, ở nước ngoài, Cụ kêu gọi
nhân dân Việt Nam làm cách mạng... Cụ Phan Bội Châu
hy vọng Nhật giúp đỡ để đuổi Pháp. Điều đó rấ t nguy
hiểm, chẳng khác gì đưa hổ cửa trước, rước beo cửa sau"^.

"Cụ Phan Chu Trinh mở trương học, bí mật Lruyền bá chủ

1, 2. T rần D â n T iên: Những mẩu chuyện về đời hoạt động
của Hồ Chủ tịch, N xb . S ự th ậ t, H à N ội, 1975, tr. 11, 11 -14.
22


nghĩa yêu nưóc... Cụ chỉ yêu cầu người Pháp thực hiện cải
lương, chẳng khác gì xin giặc rủ lịng thương"'. "Cụ Hồng
Hoa Thám là một nơng dân ở Bắc Bộ. Trong mấy năm, Cụ

lãnh đạo một sơ"chiến sĩ du kích đấu tranh anh dũng... Cụ
Hồng Hoa Thám cịn thực tế hơn, vì trực tiếp đấu tranh
chơng Pháp. Nhưng theo lời người ta kể thì Cụ cịn nặng
cốt cách phong kiến"^.
Rõ ràng, vào những năm 20 của thế kỷ XX, cách mạng
Việt Nam ở vào tình trạng k h ủ n g h o ả n g vể đư ờ n g lối cứu
nước. Cụ thể là ch ư a có m ộ t đư ờn g lối cách m ạ n g đ ú n g
đ ắ n , đáp ứng đưỢc những yêu cầu của cách mạng Việt

Nĩot>-. Thực chất là cuộc kh ủ n g hoảng về vai trò lã n h đ ạ o của
m ộ t g ia i cấ p tiên tiến. Cách mạng Việt Nam ở trong "tình

hình đen tốì như khơng có đưịng ra".
IINGUYỄN ÁI QUỐC TRIIYỂN BÁ
CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN VỂ: VIỆT NAM
Phong trào yêu nước Việt Nam vào những năm đầu
th ế kỷ XX đứng trước ngã ba đường. Ngọn cờ cứu nước của
giai cấp phong kiến đã bị gãy nát. Ngọn cờ cứu nước của
giai cấp tư sản vừa giương lên đã bị đánh đổ. Đất nước
đang đòi hỏi bức thiết phải có một ngọn cị cứu nưâc mói
phù họp với nguyện vọng của đại đa sô' tầng lổp nhân dân
và phù hđp với xu th ế phát triển của thòi đại. Bằng thiên

1, 2. T rầ n D â n Tiên: Những mẩu chuyện về đời hoạt động
của Hồ Chủ tịch, Sđd, tr. 11-14.
23


tài trí tuệ và hoạt động Lhực tiễn của mình, đồng chí
Nguyễn Ái Quốc đã đáp ứng kịp thời nhu cầu bức thiết đó.

Nguyễn Ái Quốc, lúc bé tên là Nguyễn Sinh Cung,
khi đi học tên là Nguyễn Tất Thành, sinh ngày 19-51890, quê ở làng Sen, xã Kim Liên, huyện Nam Đàn, tỉnh
Nghệ An. Sinh trưởng trong một gia đình nhà nho u
nước, lớn lên giữa q hương có truyền thống cách mạng
lâu đòi, lại được chứng kiến những phong trào chống
Pháp của nhân dân ta đầu thê kỷ XX, người thanh niên
yêu nưốc Nguyễn Tất Thành "đã sớm hiểu biết và rất đau
xót trước cảnh thơng khổ của đồng bào. Lúc bấy giờ, anh
đã có chí đuổi thực dân Pháp, giải phóng đồng bào. Anh
đã tham gia cơng tác bí mật, nhận cơng việc liên lạc. Anh
khâm phục các cụ Phan Đình Phùng, Hồng Hoa Thám,
Phan Chu Trinh và Phan Bội Châu, nhưng khơng hồn
tồn tán thành cách làm của một người nào"'. Anh quyết
định ra đi tìm đường cứu nước.

Khác với các nhà yêu nước tiền bối và bằng mẫn cảm
thiên tài, anh đã đi về phương Tây, nơi có tư tưởng "tự do",
"bình đẳng", "bác ái". Anh ra đi là để "xem xét họ làm như
thê nào, rồi sẽ trở về giúp đồng bào"^ cứu nưốc. Hoặc như
sau này Người nói: "Nhân dân Việt Nam trong đó có cụ
thân sinh ra tơi lúc này thường tự hỏi: ai sẽ là người giúp
mình thốt khỏi ách thơng trị của Pháp. Người này thì
nghĩ là Nhật, người khác lại nghĩ là Anh, có người lại cho
1, 2. T rầ n D â n T iên: Những mẩu chuyện về đời hoạt động
của Hồ Chủ tịch, Sđd, tr. 12-13.
24


là Mỹ. Tơi thì thâV phai đi ra nước ngồi để xem cho rõ"’.
Quyết định của anh có mục đích rõ ràng và có định

hưống cụ thể.
Với ý định đó, sau khi ròi Huế vào Phan Thiết dạy học
một thòi gian, đầu năm 1911 anh vào Sài Gòn xin vào
trường bách nghệ. ít lâu sau, với cái tên Văn Ba, anh xin
làm phụ bếp trên tàu Latútxơ Tơrêvin (Latouche Tréville).
Tháng 6-1911, người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất
Thành ròi Tổ quô"c thân yêu ra đi. Hành trang của anh
mang theo khơng có gì ngồi tấm lịng u nước, đơi bàn
tay lao động và ý chí quyết tâm tìm ra con đường cứu dân,
cứu nước.

Từ năm 1911 đến năm 1917, Nguyễn Tất Thành đến
nhiều nưốc ở châu Á, châu Âu, châu Mỹ và châu Phi, đã
đến nhiều nước đế quốc và tiếp xúc với nhiều dân tộc
thuộc địa. Anh sống và lao động với nhân dân thuộc đủ các
màu da, làm nhiêu nghề để sống và học hỏi. Trên cơ sở đó,
anh rút ra một kết luận có tính chất nền tảng đầu tiên-, ở
đâu bọn đê quốc, thực dân cũng tàn bạo, độc ác; ở đâu
những người lao động cũng bị bóc lột, áp bức nặng nề và
''dù màu da có khác nhau, trên đời này chỉ có hai giống
người: giống người bóc lột và giống người bị hóc lột. Mà

1. A. Lui Stơrơng: Ba lần nói chuyện với Chủ tịch Hồ Chí
Minh, Báo N hân dân, ngày 19-5-1965 và Tạp chí Lịch sử Đảng,
số 3, 1983.

25



×