Tải bản đầy đủ (.pdf) (15 trang)

PHƯƠNG THỨC TRUYỀN TẢI THÔNG TIN TRONG NHÂN HỌC ĐIỆN ẢNH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (225.94 KB, 15 trang )

PHƯƠNG THỨC TRUYỀN TẢI THÔNG TIN
TRONG NHÂN HỌC ĐIỆN ẢNH

HẠO ĐIỆP TUẤN

Ngày nay, điện ảnh và sách báo chuyên ngành đều có các thức truyền
tải thơng tin giống nhau, điều đó đã được khẳng định và trở thành một
phương pháp tư duy và quan sát nhân học có hiệu quả. Quá trình viết bài và
sản xuất phim nhân học đều được coi là quá trình nhận thức, miêu thuật
(miêu tả) văn hố và trao đổi thơng tin. Tuy nhiên, cách biểu đạt bằng hình
ảnh và biểu đạt bằng sách vở trong nghiên cứu nhân học là hai phương
thức truyền tải thơng tin hồn tồn khác nhau và giữa chúng có sự khác
biệt trong cách thức truyền tải thông tin.

Nếu chúng ta không chú ý nghiên cứu sự khác biệt này, mà chỉ đem bài viết
nhân học phối hợp với hình ảnh tương ứng trong phim và hoàn toàn dựa vào lời
giải thích với người xem để tường thuật lại sự kiện; thêm vào đó là sự nhận xét,
đánh giá hàng loạt các khái niệm, đồ giải đơn giản bài viết và sao chép lại “ hình
ảnh nhân học", hay coi nhẹ các nguyên lý dân tộc học, bỏ qua nguyên tắc học
thuật, qui phạm của “ nhân học hình ảnh” thì đây khơng phải là những phương
pháp cần có trong nghiên cứu nhân học hình ảnh ngày nay. Nghiên cứu sự khác
biệt giữa hai phương thức truyền tải thông tin bằng hình ảnh và sách báo chun
ngành, nói một cách tổng quát, phương thức truyền tải thông tin trong nhân học


hình ảnh là sự biểu đạt “hình ảnh hố để giải quyết và thực hiện chính xác nghiên
cứu nhân học hình ảnh trong qui phạm học thuật, chứ khơng phải là cách biểu đạt
“văn hoá học” của khái niệm, phương pháp luận. Phương pháp truyền tải thông tin
trong phim nhân học đã trở thành một vấn đề cực kỳ quan trọng trong việc giải
quyết vấn đề phương pháp và lý luận của sự phát triển nhân học hình ảnh ngày nay,
nhất là đối với sự phát triển nhân học hình ảnh ở Trung Quốc. Bài viết này bàn về


việc thông qua sự so sánh đơn giản giữa phim ảnh nhân học với “sách nghiên cứu
nhân học” để thảo luận về sự diễn tả ngơn ngữ nghe nhìn của phim ảnh nhân học
và phương thức truyền tải thông tin riêng biệt của nhân học hình ảnh.
Phương pháp biểu đạt hình ảnh không giống với phương pháp biểu đạt trên bài
viết trong nghiên cứu nhân học, đó là hai phương thức lý giải sự nhận thức khái
niệm khác nhau. Nhân học hình ảnh có những phương pháp, qui trình và giá trị
riêng biệt trong lĩnh vực nghiên cứu nhân học. Nhân học hình ảnh khác với in ấn
biểu tượng và các phương tiện thơng tin khác, tính năng tường thuật và ghi hình
của điện ảnh đối với nghiên cứu nhân học là sự ghi chép, nghe nhìn các thơng tin
quan sát được tại hiện trường, chứ không phải là phương thức biểu đạt và truyền
tải thông tin bằng sự dẫn dắt các khái niệm. Tuy nhiên, cũng khơng thể nói rằng
nhân học hình ảnh cần phải gạt bỏ một cách triệt để các miêu tả khái niệm dân tộc
học. Trong bài viết này khơng những cần phải nhấn mạnh tính đa dạng và khác
biệt của nhân học hình ảnh đối với cách thức giải thích các khái niệm, mà cịn nói
đến tính chất đặc thù của điện ảnh trong nghiên cứu nhân học và những giá trị của
nó.

I. Hình ảnh là ngun tố cơ bản để truyền tải thông tin trong nhân học điện
ảnh


Mỗi một nguồn thơng tin của điện ảnh – hình ảnh, hình ảnh đều là vật thể (đối
tượng) cụ thể, vật thể cụ thể phát triển hơn nữa trở thành vật trìu tượng. Khác với
văn viết: thơng tin nhân học trong điện ảnh chủ yếu dùng phương thức hình ảnh để
truyền đạt thơng tin. Vì thế, tính hình ảnh là nguyên tố cơ bản cấu thành nhân học
điện ảnh và là một trong những đặc trưng quan trọng trong nhân học điện ảnh. tính
hình ảnh khác biệt với cách biểu đạt của văn viết trong nghiên cứu nhân học.
Tính hình ảnh của thông tin được truyền tải trong nhân học điện ảnh chủ yếu
được thể hiện sau đây:
Thứ nhất, quá trình biểu đạt và nghiên cứu phim ảnh nhân học là q trình ghi

hình một đoạn phim nào đó về sự vận động, phát triển hành vi (sự kiện) của đối
tượng trong một không gian và thời gian nhất định. Nó vừa phản ánh trạng thái
vận động và phát triển của đối tượng, vừa ghi hình lại hình thái khơng gian và hình
thái bên ngồi của đối tượng được ghi hình trong một tiến trình khơng gian và thời
gian nhất định để tái hiện lại sự vật đặc trưng của văn hố nào đó bằng thơng tin
thị giác (nhìn thấy), mà nó khơng mang lại cảm giác ấm áp và cảm giác thời vụ
cho người xem. Mặc dù hình ảnh trong phim chỉ có tính chân thực đối so (đối
chiếu, so sánh) với hiện thực, nhưng nó lại khơng phải là hiện thực. Đó là một đặc
điểm giống với bài viết nghiên cứu nhân học.
Thứ hai, nhân học hình ảnh (thị giác) dùng thủ pháp vật chất đặc định (hình
ảnh) để quyết định hình thức tư duy, coi tư duy hình ảnh và việc cung cấp thơng
tin mang tính hình ảnh là chủ đạo. Tiền đề tư duy của nhân học điện ảnh là sự cảm
nhận cảnh tượng khách quan, mà máy quay phim khơng thể nào thực hiện được.
Nói cách khác, quá trình tư duy thị giác trong nhân học điện ảnh là q trình thơng
qua việc tái hiện một hình ảnh đã có (có sẵn) để hồn chỉnh quá trình tư duy. Tư
duy trong nhân học điện ảnh chỉ có thể tiến hành xung quanh hình ảnh đã có.


Nghiên cứu nhân học bằng sách vở (bài viết nghiên cứu) lại có thể căn cứ vào
lời văn để thuật lại và ý nghĩa biểu thị bản vẽ mẫu để liên tưởng và hình thành
những hình ảnh mới tương ứng với tâm thức của người nghiên cứu, thậm chí
khơng cần đích thân đi đến nơi đó. Căn cứ vào tài liệu hình vẽ (đồ hình), văn tự để
kể lại những tài liệu cho người khác khảo sát điền dã, tức là thông qua phương
pháp chắt lọc, lựa chọn, tập trung, tổng hợp, suy luận… đối với ký ức hình ảnh để
cấu trúc lại hình ảnh và giải thích khái niệm mới. Ví dụ. Milke căn cứ vào nghiên
cứu chế độ thân tộc của người Dịch lạc khôi (tạm dịch) đã luận, mơ tả và cấu trúc
lại 5 hình hình thái hơn nhân gia đình của lồi người trong q trình lịch sử phát
triển. Tư duy lơgíc như thế là dùng cách thức nghiên cứu cơ bản để có thể sáng tạo
một hình ảnh mới theo lý tính,
mà trái lại nhân học điện ảnh lại khơng thể thực hiện chuyển hố một cách

khác quan “hình ảnh” lý tính này, hơn nữa cũng không thể dùng máy quay phim
để sáng tạo một “hiện thực” có thể hiện thực hố sự vật. Thêm một ví dụ khác,
trong những sách nhân học, nhà nghiên cứu có thể dùng dân ca cổ hoặc tư liệu kể
lại, văn tự của một tộc người hiện đang tồn tại để tái tạo và mô tả “cách thức yêu
đương” trong xã hội ngun thủy mà ngày nay khơng cịn tồn tại (thậm chí cơ bản
khơng tơn tại) để tiến hành mơ tả và phân tích một cách lý tính vượt quá hình
tượng hiện thực . Sự “tái hiện” xa rời hiện thực là điều khó làm được trong các
biểu đạt của nhân học điện ảnh. Vì vậy, phương pháp tham dự dựa vào thời gian
xử lý điện ảnh và bài viết nghiên cứu là khác nhau nên phương thức này cũng đã
biểu đạt sự khác nhau về tiềm năng vĩnh hằng của con người đã trải qua trong lịch
sử. Điện ảnh thơng qua cảnh quay mang tính hữu hình để khắc hoạ hiện thực đang
phát sinh sự kiện; còn đối với các bài viết nghiên cứu lại có thể tách khỏi hiện thực
và đối tượng được ghi hình, thậm chí tại nhà hoặc tại bất cứ vùng đất “tự do” nào,
ở khắp mọi nơi, vượt qua không gian và thời gian mà vẫn có thể biểu đạt thơng tin,
mơ tả lý tính hố trạng thái dân tộc chí (bao gồm q khứ), vì thế vượt qua phạm
trù cơng tác điền dã thông thường biến tri thức thành ý thức.


Có thể nói rằng, kết quả cuối cùng trong nghiên cứu nhân học bằng bài viết
nghiên cứu không cần dựa vào cảnh tượng hiện thực mà có thể tách rời một cách
độc lập, trái lại, nghiên cứu nhân học bằng hình ảnh lại phải dựa vào sự tồn tại
hiện thực từ đó mới phù hợp với những mơ tả “khi hiện tại đang diễn ra”. Nghĩa là
lấy hình thái khơng gian và thời gian đang chuyển động trong thực tại để ghi hình,
mơ tả hiện tượng bề mặt, thơng qua các thức hành vi của đối tượng cụ thể và việc
phát sinh sự kiện (hồi ức, hành vi, những điều đã diễn ra trong quá khứ) để xây
dựng nên những cảnh quay và hiện trường. Phương thức biểu đạt bằng văn viết
phải qui nạp không gian rộng lớn hơn, thông qua sự mơ tả tầng sâu và bằng chữ
viết, hình ảnh hố hiện thực để kiến tạo lại hình ảnh hiện thực và hiện trường.
Thứ ba, đặc trưng hình ảnh trong nhân học điện ảnh sẽ quyết định đặc tính
hiện trường trong cơng việc thực hiện ghi hình và sự phụ thuộc chặt chẽ giữa

người quay với hiện trường được quay. Thơng qua đó, người quay phim cần phải
dựa vào ngơn ngữ nghe nhìn cụ thể của đối tượng để truyền đạt các thông tin về
nghiên cứu nhân học. Hơn nữa, sự truyền tải ý nghĩa bên trong thông tin chỉ có thể
thực hiện được trong q trình ghi hình tại hiện trường.
Nhân học hình ảnh sẽ khơng bao giờ có thể tách rời khơng gian hiện thực. Chỉ
khi cách thức thực hiện hành vi của con người và cấu trúc xã hội được thể hiện
hoặc vận hành trong một khơng gian hiện thực thì nhân học hình ảnh mới có ý
nghĩa. Nguồn thơng tin trong nhân học hình ảnh khơng những khơng thể thay thế
mà cịn khơng thể dàn dựng, thậm chí có những cảnh ghi hình hoặc đối tượng
được ghi hình sau này khơng có cách nào có thể ghi hình bổ sung được (ví như
một số cảnh phim trong nghi thức tôn giáo). Nguyên tố cấu thành hình ảnh trong
phim bao gồm: nhân vật, cảnh quay, băng phim, mầu sắc, ánh sáng... và tất cả
nguyên tố vật lý tạo nên hình ảnh trong phim là sự tồn tại hiển hiện của đối tượng
được ghi hình và khách thể của nó khơng thể tách rời vật chất mang theo trong
hình ảnh của phim. Hình ảnh tồn tại được là dựa vào đối tượng và cùng được sáng


tạo nên với đối tượng. Hình ảnh khơng bao giờ tách khỏi sự tái hiện một thực thể
(đối tượng) cụ thể trong thế giới vật chất hiện tại. Nói cách khác, nhân học điện
ảnh không chỉ biểu hiện sự tồn tại chính xác và chân thực đối tượng được ghi hình
trong khơng gian hiện thực, mà cịn là sản phẩm trực tiếp có thể dùng song song
các biện pháp đồng bộ để chứng thực việc ghi hình chính xác hành vi của con
người. Điện ảnh chỉ có thể cung cấp những bản sao chép hoạt động hoặc hành vi
đơn thuần của con người, còn những cảnh tượng trong quá khứ thì khơng thể ghi
hình lại được. Do đó, nhân học điện ảnh chỉ dựa vào thực tại khiến cho khoa học
nhân học điện ảnh khó có thể dùng hình ảnh trực tiếp để mô tả lịch sử và tương lai.
Nghiên cứu nhân học trong các bài viết nghiên cứu có được các thông tin mới
thông qua nhiều phương pháp dẫn dụng của các tài liệu điều tra, hồi ức, phỏng vấn
của những người đi trước, khơng cần đối chiếu hồn tồn theo cách một đối một
giữa hình ảnh cụ thể thực tại với nguồn gốc mọi sự việc. Cách thức biểu đạt của

các bài viết nghiên cứu (bao gồm các tài liệu) về nguồn gốc thông tin và vật thể
nghiên cứu trung gian có thể tách rời ngun hình đối tượng được nghiên cứu và
tồn tại một cách độc lập trong hệ thống ký ức tư duy, khơng cần có mối quan hệ
tương ứng trực tiếp, chắt chẽ với đối tượng nghiên cứu, thậm chí, vẫn có thể "cây
nhà lá vườn" sau nhiều năm tách rời công tác điền dã tại hiện trường.
Chính vì sự vật cụ thể được điện ảnh can thiệp vào vượt xa với vật trìu tượng,
vì thế thường cho rằng khó có thể biểu đạt một cách chặt chẽ và bằng lý trí. Nhưng
dù là quay phim hay viết bài thì cả hai cơng việc này đều cần phải khắc phục hai
điểm mâu thuẫn dựa vào sự tồn tại và khơng tồn tại (hoặc có thể nói là "cự ly gần"
và "cự ly xa"). Do vậy, điện ảnh sử dụng ngơn ngữ "cự ly gần", cịn bài viết chính
văn phải sử dụng chữ viết để mơ tả hình ảnh hố trong hình ảnh hiện thực cụ thể
bằng một cảm giác "cự ly xa".
Thứ tư, đặc trưng hình ảnh của thị giác trong phim nhân học đã quyết định đặc
trưng tư duy và suy xét để biểu đạt ngữ nghĩa hình ảnh trong ngơn ngữ thị giác.


Ngơn ngữ thị giác hình ảnh là ngơn ngữ thơng dụng trên thế giới. Nhưng loại
hình ngơn ngữ này, nhất là biểu tượng hình ảnh lại khơng có mã tín hiệu đặc định
bất biến (có trước và khơng thay đổi). Chẳng hạn cùng một động tác múa trong
nghi thức tôn giáo hoặc trong ngày lễ, khánh tiết thì ý nghĩ biểu đạt bên trong của
nó là khơng giống nhau. Mà các thông tin của ngôn ngữ thị giác được truyền cho
những người sử dụng thông qua hệ thống truyền thông. Do khơng giống nhau về
lý thyết, bối cảnh văn hố và các nhu cầu nghiên cứu khác nhau của các nhà
nghiên cứu nên sẽ có sự giải thích thơng tin khác nhau, thậm chí cịn tìm thấy một
số thơng tin mới trong nghiên cứu nhân học nằm sâu trong các hình ảnh khi các
nhà nghiên cứu suy nghĩ tìm tịi trên hình ảnh trong phim nhân học, mà bản thân
người quay phim cũng chưa phát hiện được. Từ đó sẽ có các kết luận khác nhau
trong cùng một hình ảnh của phim. Do vậy, hình ảnh phim đơn thuần sẽ có giới
hạn nhất định trong việc trao đổi kiến thức khác nhau, nói cách khác, đó cũng là
một đặc trưng của phim nhân học. Phim nhân học còn thể hiện rất rõ đặc trưng tư

duy và phân tích (đối với đặc trưng này tác giả sẽ có bài phân tích khác).
Thứ năm, do đặc tính vật lý của điện ảnh khiến cho các bộ phim nhân học khi
bắt đầu quay đã có thơng tin tiềm ẩn bên trong mà trong bài viết nghiên cứu nhân
học lại khơng có, khơng thể chuyển thành “tính tuyển chọn”.
Những thơng tin tiềm ẩn bên trong này của nhân học điện ảnh có hai đặc tính
song song cùng tồn tại: đó vừa là một kiều phương thức ghi chép, vừa là một loại
ngôn ngữ “biểu đạt”.
Thơng tin hình ảnh trong việc ghi lại một cách chân thực hiện tại, hoặc giai
đoạn sớm nhất của quá trình sản xuất phim khơng những đã được hình ảnh bị cảm
quang mà cịn có thể nói là những thước phim chưa được dàn dựng (biên tập) – tư
liệu thì đã bao gồm hoặc có rất nhiều thơng tin hàm ý bên trong khi bộ phim được
hồn thành. Do đó, những tư liệu của phim nhân học chưa qua dàn dựng có thể
chiếu cho các nhà nghiên cứu, những người xem có thể giải thích những hình ảnh


trong phim. Cịn trong q trình viết bài dân tộc học tương ứng với tư liệu phim là
“tư liệu” bằng hình thức chữ viết cố định trong các cuốn sổ ghi chép của nhà
nghiên cứu dân tộc học, trong giai đoạn này vẫn chưa hình một ý nghĩa bên trong
nào (trừ phi nằm trong đầunhà nghiên cứu dân tộc học). Ý nghĩa nội hàm thơng
qua việc chuyển hố từ ngữ thành “ hàm ý” riêng (đặc định) và thông tin riêng, mà
dùng cách thức của cụm từ ngữ, câu văn chuyên ngành trong kết quả nghiên cứu
cuối cùng (sách hoặc bài viết), kết cấu bài viết mới có thể hình thành được ý nghĩa
nội hàm để cung cấp cho người đọc những tư liệu dân tộc học đã được phát hiện
trong q trình nghiên cứu và những tư liệu đó phải được chỉnh lý, cấu trúc lại đạt
đến trình độ nhất định thì người đọc mới có thể hiểu được ý tưởng của bài viết .
Trái lại, phim nhân học sau khi đã được hoàn thành chỉ được tạo thành bằng cảnh
quay tư liệu thực địa trong quá trình đi khảo sát, điền dã. Đến khi biên tập hậu kỳ
cũng chỉ có thể căn cứ vào những cảnh quay tư liệu đã được ống kính ghi lại, cịn
trên bàn dựng thì cũng khơng thể cho thêm vào hoặc sản sinh thêm tư liệu mới.
Cũng chính vì lẽ đó, nhà quay phim nhân học có được tác phẩm dân tộc chí mới

đều là những kết quả của công tác điền dã thực địa của chính mình. Phim nhân học
khơng thể tồn tại khi mà xa rời cảnh quay tại hiện trường (sắp xếp, biên tập mới lại
các tư liệu lại thuộc vấn đề khác, tạm thời chưa thảo luận). Ngược lại, những luận
cứ khoa học cuối cùng trong nghiên cứu nhân học bằng bài viết nghiên cứu là sự
ghi chép công việc khảo sát thực địa ban đầu, khơng có một câu văn nào tạo thành
được đoạn văn viết, do đó, nhà nghiên cứu nhân học không cần đến hiện trường
mà vẫn có thể viết ra những bài nghiên cứu mới này đến bài nghiên cứu mới khác,
thậm chí sau khi đã trải qua thời gian dài khảo sát điền dã.

II. Đặc trưng tinh tế, phong phú ngôn ngữ điện ảnh và đa dạng hóa đã quyết
định đến nhiều cách thức truyền tải thông tin nhân học


Thông tin của phim nhân học chủ yếu dựa vào ngơn ngữ nghe nhìn để truyền
tải thơng tin. Đây là một hệ thống giải mã biểu tượng bằng cách thức chuyển đổi
đối với khách thể hiện tại. Hình ảnh phim và vật dẫn âm thanh đã tạo nên thế giới
điện ảnh biểu tượng thần bí , đa sắc thái. Trong q trình trao đổi thơng tin nhân
học, để thực hiện mục đích truyền tải chính xác những thơng tin này, “thế giới”
này đã đặt ra hàng loạt các qui định chung khiến cho mọi người tiếp thu và lý giải
biểu tượng có liên quan bằng phương pháp kết hợp và trao đổi thơng tin, tức là qui
tắc mang tính ước định – mật mã. Mật mã của hình ảnh có rất nhiều loại, nhiều hệ,
nhiều tầng, số lượng nhiều, pham vi rộng, vượt xa hơn bất cứ sự truyền thông nào,
dẫn dắt nào.
Phim nhân học với mật mã mang tính đan xen, phức tạp, nhiều tầng lớp và đa
dạng mà có thể phân biệt với hình thức biểu đạt duy nhất trong các bài viết nghiên
cứu chỉ dựa vào in ấn, chữ viết để truyền tải thông tin trong nghiên cứu nhân học.
Mật mã truyền tải thông tin trong phim nhân học ít nhất cũng có 5 thành phần
khác nhau: sự chuyển động hình ảnh nhìn được, ngơn ngữ âm (bao gồm lời đối
thoại của nhân vật, lời thuyết minh….), phi ngôn ngữ âm (bao gồm âm hưởng,
hiệu quả âm thanh và “tiếng ồn”…), âm nhạc và chữ viết hoặc chính văn trong

sách (phụ đề) tạo thành ngơn ngữ điện ảnh trong nghiên cứu nhân học. Sự kết hợp
các thành phần tổng hợp này đã quyết định phương thức truyền tải thông tin riêng
trong một bộ phim nhân học. “Từ ngữ trong điện ảnh bao gồm lời thuyết minh, lời
bộc bạch của nhân vật không chỉ là một trong 5 thành phần kể trên, còn là một
phần của đối tượng khách quan truyền tải thơng tin mật mã. Vì vậy, thơng tin
chính văn và thơng tin hình ảnh của phim nhân học khơng chỉ dùng những hình
ảnh, câu chữ thuần tuý mà là sự tổng hợp của hai nguồn thông tin .
Ngơn ngữ tổng hợp gồm hình ảnh, âm thanh và phụ đề (chữ viết) cùng tạo nên
hệ thống thông tin của phim nhân học, giữa chúng có sự bổ xung cho nhau, chứng
minh cho nhau và hoàn thiện lẫn nhau. Phim nhân học đã cung cấp những ngôn


ngữ biểu đạt hữu hiệu để giúp các nhà nghiên cứu nhân học có nhiều góc nhìn,
nhiều tầng diện, nhiều vị trí khác nhau để có thể lý giải được các thông tin nhân
học. Song, những biểu tượng này thường lấy hình ảnh và âm thanh làm hạt nhân
trong phim. Việc chúng ta thừa nhận đặc trưng này của phim nhân học sẽ giúp
chúng ta hiểu được đặc trưng đa dạng của phương thức truyền tải thông tin và
ngôn ngữ biểu đạt trong phim nhân học. Đồng thời, sự biểu đạt bằng ngơn ngữ
nghe nhìn trong phim nhân học cũng cần có sự hỗ trợ hàng loạt các kỹ xảo nghệ
thuật điện ảnh thì mới có thể hồn thành. Ví dụ, dùng kỹ xảo làm mờ dần hình ảnh
của cảnh quay, nhân vật để thể hiện thời gian trôi qua; dùng tiếng động (âm
hưởng) duy trì sự liên tiếp của thời gian; để tuân thủ yêu cầu kể lại sự kiện thì cần
phải có sự thống nhất hữu cơ, chặt chẽ về " thời gian phát sinh sự kiện","thời gian
kể lại" và "cảm thụ thời gian"....
Hình ảnh trong phim đưa chúng ta trải qua hiện thực một cách toàn diện, bằng
việc xem kỹ hình ảnh, từ tổng thể đến chi tiết giúp chúng ta hiểu được đối tượng
được quay và q trình tiến hành. Cịn viết sách nghiên cứu nhân học thì lại phải
cấu trúc và cấu trúc lại diễn biến sự kiện từ chi tiết đến tổng thể để mọi người có
thể liên tưởng đến đối tượng, sự kiện. Phim nhân học cần phải tuân thủ chặt chẽ
trình tự thời gian khi mô tả lại sự kiện, yêu cầu ghi hình hồn chỉnh từng q trình,

mà khơng được ghi lại sự kiện trước ống kính một cách vụn nát rời rạc, cảnh quay
đơn lẻ mà thiếu đi sự liên hệ trước sau sẽ rất khó biểu đạt thơng tin một cách chính
xác. Khi mơ tả đối tượng, nhân học điện ảnh cần phải thực hiện khả năng biểu đạt
một cách liên tục từ vơ số các điểm ngắm, góc quay phim để khái quát cơ bản sự
kiện và truyền đạt thơng tin của sự kiện phát sinh. Vì vậy, một máy quay có khi
khó có thể biểu hiện đồng thời nhiều điểm ghi hình, đối tượng được ghi hình, và
các động tác (hành vi, cử chỉ) chỉ được mô tả thành những đoạn phim từng phần.
Có thể nói, sự sản sinh hình ảnh trong điện ảnh là kết quả của việc liên kết các
giai đoạn nhỏ được ghi trước ống kính quay phim. Phim ảnh chỉ có thể dẫn dắt


người xem bằng con đường đưa ra các hình ảnh liên tiếp (không nhất định dựa vào
thời gian), thuyết minh, kể lại theo một khoảng thời gian đã định nào đó. Khơng ít
các cảnh quay đơn lẻ, bị tác rời trong phim nhân học là khơng có ý nghĩa nghiên
cứu. Có loại hình (thể loại) phim nhân học thậm chí cần phải quay trở lại nguồn
gốc liên tục rất nhiều năm, nên khi một sự kiện nào đó phát triển đến một trình độ,
giai đoạn nhất định thì người xem mới hiểu chính xác ý nghĩa biểu đạt trong phim
nhân học vào thời điểm đó, năm đó . Do vậy, phim nhân học thiếu tính khái quát.
Tuy nhiên, biểu đạt chữ viết trong nghiên cứu nhân học lại có tính khái qt và
linh hoạt, thường thì một câu văn có thể diễn giải thông tin của một khái niệm, tự
do trong việc xử lý không gian và thời gian. Trong phim, một mặt yếu tố thời gian
cực kỳ quan trọng, mặt khác cũng không thể không lý giải các thông tin bằng quan
sát tuyến tính liên tiếp nhau. Như vậy, nếu có một khái niệm trong hình ảnh phim
khơng trong sáng, rõ ràng thì bị coi là khơng tương thích và bỏ qua, còn nghiên
cứu nhân học bằng bài viết nghiên cứu thì có cơ hội chuyển đề mục quan trọng
bằng cho thêm phần chú thích…
Tóm lại, chúng ta có thể nói rằng bài viết nghiên cứu khơng thể thay thế phim
ảnh và phim ảnh cũng không thể thay thế bài viết trong nghiên cứu nhân học. Điện
ảnh dùng cách thức của điện ảnh để cung cấp thông tin nhân học, chứ không phải
dùng cách thức của các bài viết nghiên cứu để cung cấp thông tin. Nhân học điện

ảnh có hình ảnh, ngơn ngữ và cách thức biểu đạt của riêng mình.

III. Sự khác biệt cách thức tiếp nhận thông tin nhân học của độc giả
Trong các phim dân tộc học mong muốn nói rõ sự khác biệt giữa xã hội này
với xã hội kia, một trong những kết quả của nó là tạo nên (hình thành) một ký sự
đặc thù về văn hố. Vì thế, nhân học điện ảnh ngày nay khơng chỉ là sự ghi hình
riêng lẻ một xã hội hoặc một cộng đồng (nhóm người), mà chúng tất yếu phải liên


quan tới người xem, tất nhiên sẽ sử dụng quan sát mơ tả xã hội. Do đó, một mặt
cần phải làm cho các bộ phim nhân học đạt mức chân thực hơn, mặt khác, khi sản
xuất các bộ phim dân tộc học cần phải suy nghĩ đến các mặt của vấn đề, bao gồm
từ góc độ tiếp nhận thơng tin của người xem. Vì vậy, cách thức biểu đạt trên sách
vở và trên phim ảnh nhân học có một đặc trưng giống nhau trong mục đích nghiên
cứu khoa học. Chúng đều là hành vi xem đọc, kết quả cuối cùng của nó là biểu đạt
ý nghĩa nội hàm và thơng tin nhân học, người đọc (người xem) cấu trúc mới các
thơng tin trong nghiên cứu nhân học. Q trình lý giải nội dung phim nhân học
khơng giống q trình lý giải hội hoạ, âm nhạc và một lý thuyết nào đó hoặc một
bài kinh tế học nào, nhận thức nhân học điện ảnh và lý giải những khái niệm bằng
việc sản sinh con đường có nhiều tầng lớp.
Điện ảnh có một số điểm giống phương thức thông tin “kiểu bậc thang”. Nhân
học điện ảnh không thể không dùng ưu thế ngơn ngữ đặc biệt của mình – ngơn
ngữ hình ảnh làm ảnh hưởng tiêu chuẩn lý tính trong nghiên cứu nhân học. Có thể
nói, tất cả tầng diện thơng tin và nhận thức đều bao hàm cảm giác (chủ yếu do
“suy nghĩ”“chi phối”= “tự nhiên”) và khái niệm (chủ yếu do “tư duy”“chi phối”=
“văn hố ) và có mối liên hệ tương quan với nhau. Điện ảnh mong muốn sáng tạo
nên một con đường để lý giải vấn đề,
để mọi người thể nghiệm (thấu hiểu) ý nghĩa nội hàm của văn hoá bằng điện
ảnh. Dùng sự thể nghiệm này biến thành một sự kinh qua (trải nghiệm) bằng một
trình độ nào đó, điều nổi trội của phim nhân học là sức mạnh của cảm giác; còn

nghiên cứu nhân học bằng sách vở, nhất là các bài viết học thuật phải mang đặc
trưng lý tính. Nói cho đúng, khuynh hướng điện ảnh truyền đạt nhận thức bằng
cảm tính, cịn bài viết nghiên cứu lại tìm cách có được sự giải thích nào đó. Điện
ảnh truyền đạt cho người xem một quá trình hình thành hoặc biến đổi sự thực và
tác dụng cảm giác bên trong tự nhiên của con người. Khi coi hành vi đọc xem là
một khối phức hợp hiện tượng trải qua (kinh nghiệm) và là hàng loạt hành vi nhận


thức hình thành nên “ cách thức kết cấu hình tháp" (ví dụ phim đạt tính nối liền,
tạo dựng hình ảnh, hình thành khái niệm), lý thuyết điện ảnh coi việc giải thích
hành vi xem đọc là một kiểu phương pháp biện chứng dẫn đến tác dụng hư cấu
mang tính tượng trưng “cấu thành chủ đề”(ví dụ chủ đề nhìn chăm chú, chất vấn,
ghép và hình ảnh, trang bị).
Truyền tải thơng tin điện ảnh thì cần phải có sự tham dự của người xem, lột tả
nội dung cho người xem thì mới hồn thành việc truyền tải kiến thức nhân học.
Cho nên, người xem cũng là khởi nguồn của việc phát sinh ý nghĩa nội hàm, người
xem có tác dụng qua lại với phim ảnh và dùng phương pháp diễn giải và tư duy
kiến thức để giải thích nội dung phim nhân học. Cuối cùng người xem trao cho
phim ảnh ý nghĩa nội hàm. Cho nên xem đọc thành công là một lần "kinh nghiệm
về tham dự quan sát", giúp người xem có được phương pháp tiếp cận sâu hoặc tiếp
cận phương diện chủ quan chưa rõ ràng (vi như: tập tục, lề lối) và cấu trúc mới
chúng lại thành hình thức tháp cách thức. Đứng trên qua điểm nhân học, cấu trúc
cảm giác của người xem cần phải xem như một bộ phận cấu thành văn hố để
phân tích. Điều đó chứng tỏ rằng nghiên cứu nhân học điện ảnh ngoài việc cần
phải tiếp thu kiến thức mỹ học còn phải "tiếp thu kiên thức dân tộc học", dân tộc
học điện ảnh có tiềm năng to lớn trong việc lý giải đan xen văn hoá và phát triển
trở thành ý thức mới.
" Chứng cứ" chân thực trong qui trình viết bài nghiên cứu nhân học (tư liệu cấu trúc bài viết -bài viết) và qui trình làm phim (băng phim -biên tập -thành
phim) khác với các cuốn sách khác thì lại dựa hồn tồn vào trách nhiệm chỉnh lý,
giải thích các tư liệu gốc đã và chưa được diễn giải của các nhà nghiên cứu dân tộc

học, nhân học. Đối với tất cả việc chỉnh lý, giải thích "chân thực" đều cần phải trải
qua xử lý bằng trí tuệ. Khi viết bài nghiên cứu thì từng câu trong bài viết đều là
kiến thức nhân học có trong đầu, cho nên có thể miêu tả một cách khuyếch trương
thậm chí kỳ lạ (nhiều bài viết dân tộc học như vậy). J.G.Frazer (1854-1941) nhà


nhân học Anh, trong tác phẩm "Cành vàng" đã cho người đọc một cảm giác kỳ lạ
dường như siêu hiện thực với nhiều đoạn văn miêu tả văn hoá trong tác phẩm của
mình, làm cho các tập tục gần hơn với tín ngưỡng ma thuật mà khơng phù hợp với
lý tính hiện đại. Nhưng đây là bài viết chứ khơng phải là phim ảnh nên không thể
đồng thời suy nghĩ một cách kỹ càng từng chi tiết nổi cộm nào đó. Trong sản xuất
phim ảnh, mặc dù trách nhiệm chỉnh lý, giải thích cuối cùng thuộc về đạo diễn
(những nhà nhân học hoặc không phải là nhà nhân học), nhưng trước tiên phải
cùng dựa vào công việc của nhà quay phim, thu âm hoặc người biên tập để chỉnh
lý "chân thực" thơng tin. Hơn nữa, có rất nhiều tư liệu gốc sau khi quay đã giải
thích rất nhiều (bao gồm lời giải thích của người tại nơi thực hiện ghi hình). Cũng
có thể nói, một phần thơng tin nhân học được cung cấp đã qua chủ ý của người
quay phim, cịn phần khác thi chưa được gia cơng bằng ý chí chủ quan của người
quay thì điều đó hồn tồn tin tưởng. Tóm lại, nhân học hình ảnh càng phải có tính
chân thực và khách quan. Do mối quan hệ giữa sự mơ tả bằng thị giác (hình ảnh
trong phim) với sự kiện hoặc vật thể được mô tả xác lập một tiêu chuẩn giống
nhau, bao gồm một quá trình diễn giải, khiến một số nhà nghiên cứu có sự nghi
ngờ về tính chân thực và khách quan của hình ảnh, về căn cứ mang tính lựa chọn
của đối tượng được quay. Thậm chí họ cịn cho rằng phim ảnh nhân học có thể hư
giả, dàn dựng lại hiện thực, tạo giả hình ảnh. Kỳ thực ngơn ngữ các bài viết nghiên
cứu thì cũng có thể dùng các ngơn từ hoang tưởng còn hơn điện ảnh. Như vậy, cho
dù viết bài nghiên cứu hay mơ tả bằng hình ảnh trong nghiên cứu nhân học cũng
không thể tránh khỏi việc tồn tại vấn đề đó.
Có thể nói, sự ghi chép bằng hình ảnh và ghi chép bằng sách vở là hai phương
thức quan sát thế giới khác nhau. Sự khác biệt giữa chúng giống như sự phân biệt

"mô tả tầng sâu" và "mơ tả tầng nổi". Mơ tả tầng nổi có thể nắm bắt hình thái,
hành vi nhưng khó có thể hiểu ý nghĩ bên trong. Hình thái bên ngồi khơng có ý
nghĩa nào trong văn hố, giống như một loại biểu đạt văn hoá "đến" và một loại
biểu đạt văn hố "đi", dùng hành vi để biểu đạt hình ảnh và động tác thì chúng đều


giống nhau, nhưng hành động xã hội lại khác nhau rất nhiều. Phim nhân học là quá
trình liên tục, hai loại "đến" và “đi” này không phải là đơn nhất, nó thơng qua một
qui trình mơ tả hồn chỉnh để liên hệ điều chỉnh sự liên tưởng và kinh nghiệm của
người xem.
Sự khác biệt giữa chữ viết và phim ảnh trong việc trao đổi kiến thức dân tộc
học kỳ thực chỉ là ở tính chất chứ khơng phải ở trình độ, bởi vì, hai "phương thức
biểu đạt" đều ứng dụng khả năng tư duy logic khác nhau. Cho nên theo sách lược
về phim nhân học hiện đại của phương Tây thì hai phương thức biều đạt này
khơng xung đột với nhau và cũng không dễ dàng bổ xung cho nhau, mà hai
phương thức thơng tin có mối liên hệ trên con đường biểu đạt thông tin khác nhau.
Trong sách viết cũng có hình ảnh được sáng tác, cịn có phần mơ tả rất lớn bằng
hình ảnh hố; trong phim ảnh bao hàm sự mơ phỏng q trình và phương pháp
điền dã trong nghiên cứu nhân học, nếu như được tổ chức nhân học hình ảnh quốc
tế cơng nhận "lí thuyết quan sát" là lí thuyết chính trong nhân học hình ảnh hiện
đại thì đây cũng chính là sản phẩm trực tiếp của việc mô phỏng trong nghiên cứu
nhân học.



×