Tải bản đầy đủ (.doc) (3 trang)

Tri thức?

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (56.48 KB, 3 trang )

Trí thức ?
Trong mọi thời đại, tri thức ln là nền tảng tiến bộ xã hội, đội ngũ trí thức là lực lượng nòng cốt sáng tạo và truyền bá tri thức. Ngày nay, cùng
với sự phát triển nhanh chóng của cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại, đội ngũ trí thức trở thành nguồn lực đặc biệt quan trọng, tạo nên
sức mạnh của mỗi quốc gia trong chiến lược phát triển.
CN M-L quan niệm trí thức là một tầng lớp XH đặc biệt, gồm những người lao động trí óc phức tạp và sáng tạo có trình độ học vấn đủ để am
hiểu và hoạt động chuyên sâu trong lĩnh vực lao động của mình. Trí thức có phương thức lao động đặc thù chủ yếu là lao động trí tuệ cá nhân.
Do vậy họ phải thường xuyên thể hiện và nâng cao tư duy khoa học độc lập.
Khi nói về đội ngũ trí thức, Hồ Chủ tịch nói: Trí thức là tài sản, vốn liếng q báu của dân tộc, không sợ thừa mà chỉ sợ thiếu và cũng chỉ có
cách mạng mới trọng và sử dụng trí thức. Trí thức là hiểu biết. Trong thế giới chỉ có hai thứ hiểu biết: một là, hiểu biết sự đấu tranh sinh tồn
trong giới tự nhiên; hai là, hiểu biết tranh đấu dân tộc và tranh đấu xã hội. Ngồi hai cái đó, khơng có trí thức nào khác. Thơng qua những định
nghĩa đó, có thể thấy ở người trí thức có hai dấu hiệu cơ bản: Lao động trí óc có chun mơn cao và có học vấn nhất định. Tuỳ theo điều kiện cụ
thể mà xã hội, quốc gia xếp tiêu chí tầng lớp trí thức.
Tầng lớp trí thức được hình thành cùng với q trình phát triển của lực lượng sản xuất, của phân công lao động xã hội; thành phần xuất thân
của họ từ nhiều giai tầng khác nhau trong xã hội, do thiếu sự thuần nhất nên họ khó thống nhất và khơng có hệ t ư tưởng độc lập; họ lại khơng có
quan hệ trực tiếp đối với tư liệu sản xuất… cho nên họ không phải là một giai cấp xã hội, mà chỉ là một lực lượng xã hội, mặc dù lịch sử nhân
loại ghi nhận rằng TT hình thành nên hệ tư tuởng nhưng không phải cho họ mà cho giai cấp họ đang phục vụ. Trí thức khơng phải là một giai
cấp nhưng trí thức có quan điểm giai cấp, tức là khi phục vụ cho giai cấp nào thì họ sẽ phản ánh, bảo vệ lợi ích của giai cấp đó một cách trung
thành, kịp thời, chính xác.
Trong q trình phát triển của xã hội lồi người, trí thức ln đóng vai trị quan trọng. Trước đây, các nhà kinh điển của Chủ nghĩa MácLênin rất chú ý tới tầng lớp trí thức, coi trí thức là lực lượng xã hội có vai trị đặc biệt quan trọng trong sự nghiệp cách mạng của giai cấp cơng
nhân. Xã hội ngày càng phát triển thì tầng lớp trí thức càng có vai trị to lớn, nhất là trong lĩnh vực khoa học-kỹ thuật và văn hóa tư tưởng. Là
những người có hiểu biết và trình độ văn hóa cao hơn các tầng lớp xã hội khác, trí thức rất nhạy bén trong việc tiếp nhận các trào lưu tư tưởng
và các quan điểm chính trị mới. Họ thường đóng vai trị lực lượng “châm ngịi”, “ngịi nổ” của nhiều biến cố chính trị và các phong trào xã hội.
Tại các nước thuộc địa và phụ thuộc nơi giai cấp cơng nhân kém phát triển, trình độ dân trí thấp trí thức thường là người phát ngơn các nguyện
vọng dân chủ và vào thời kỳ đầu của phong trào dân tộc họ thường trở thành người đại diện những lợi ích cơ bản của nhân dân. Do ưu thế về
nhận thức và hiểu biết, trí thức dân tộc có tinh thần yêu nước là lớp người đầu tiên tiếp thu và truyền bá các tư tưởng của Chủ nghĩa Mác-Lênin
vào trong nước, trực tiếp hình thành các tổ chức Cộng sản. Lênin nhấn mạnh: sẽ là sai lầm nếu qn rằng, tầng lớp trí thức này có khả n ăng đại
diện đầy đủ hơn những lợi ích cơ bản của toàn bộ giai cấp tư sản, cũng như nơng dân. Và trí thức cũng sẽ trở thành một lực lượng to lớn trong
cuộc đấu tranh chống chế độ quân chủ, khi được gần gũi với nhân dân. Lênin đánh giá rất cao khả năng sức mạnh và tính độc lập của trí thức
trong xã hội. Do nét đặc trưng của lao động trí thức, họ có vai trị rất to lớn trong việc nghiên cứu, phát hiện khám phá và sáng tạo ra cái mới
thúc đẩy phát triển tiến bộ xã hội, phục vụ cho con người tho hướng Chân- Thiện - Mỹ.



Dù chế độ chính trị nào đi nữa thì đội ngũ trí thức cũng ln có vai trị quan trọng, là “đầu tàu” để thúc đẩy lịch sử vận động về phía trước.
Mác và Ăngghen cũng từng đánh giá rằng, CNTB tồn chưa đầy một thế kỷ, sản phẩm nó làm ra = sản phẩm các xã hội trước nó cộng lại. Thành
tựu đó có sự đóng góp to lớn của tầng lớp trí thức. Và Lênin cũng từng nhấn mạnh rằng: Nếu khơng có đội ngũ trí thức thì đừng hịng có CNTB
hiện đại .Vì vậy, CNXH lại cần có đội ngũ trí thức nhiều hơn. Trong cơng cuộc xây dựng CNXH, trí thức có vai trị đặc biệt quan trọng, sự gắn
bó giữa trí thức và CNXH là một yêu cầu khách quan. Bởi vì, CNXH mang lại cho trí thức bàu trời sáng tạo vơ tận, CNXH coi trọng trí thức vì
họ là những người lính xung kích trong việc tạo ra năng suất lao động xã hội cao hơn CNTB trên cơ sở một nền khoa học hiện đại và công nghệ
tiên tiến.
VN, xuyên suốt lịch sử dân tộc đến đường lối của Đảng đều có sự nhất quán trong nhận định về vị trí, vai trị của người trí thức đối với đất
nước cũng như sự nghiệp CM. Năm 1442, Văn bia ở Quốc Tử Giám đã ghi “hiền tài là nguyên khí quốc gia, ngun khí thịnh thì thế nước
mạnh…”. Đến thế kỷ 18, nhà bác học Lê Q Đơn nhận định: phi trí bất hưng tức là đất nước muốn hưng thịnh thì khơng thể thiếu lực lượng trí
thức.
Thành cơng của cách mạng Việt Nam có nhiều dấu ấn của đội ngũ trí thức. Sau khi giành thắng lợi cách mạng tháng Tám, dân ta có đến 95%
dân số mù chữ, vì thế Bác đã chỉ rõ: một dân tộc dốt là một dân tộc yếu, dốt là một thứ giặc, vì thế phải chống nạn thất học. Hồ Chủ tịch khẳng
định, dân trí thấp thì cơng cuộc kháng chiến, kiến quốc gặp nhiều khó khăn vì thế cần phải có nhân tài và phải tìm người tài đức. Bởi lẽ những
trí thức tham gia cách mạng, tham gia kháng chiến thì rất q cho Đảng, khơng có những người đó thì cách mạng khó khăn hơn rất nhiều. Bác
đã chủ trương: cơng nơng hóa trí thức, trí thức hóa cơng nơng.
Nhận thức và vận dụng sáng tạo những quan niệm của Hồ Chí Minh về trí thức, Đảng ta đã có nhiều nghị quyết chuyên đề bàn về trí thức,
khẳng định vị trí, vai trị của đội ngũ trí thức trong sự phát triển của cách mạng Việt Nam. Các nghị quyết của Đảng đã thúc đẩy đội ngũ trí thức
hăng hái học tập, cống hiến tài năng cho Tổ quốc. Sự hình thành và phát triển đội ngũ trí thức Việt Nam gắn bó chặt chẽ với sự lãnh đạo của
Đảng, được Đảng dìu dắt, đội ngũ trí thức đã trưởng thành trong thực tiễn đấu tranh cách mạng và lao động sản xuất. Trải qua những cuộc
kháng chiến gian khổ, đầy thử thách và giai đoạn khôi phục, phát triển kinh tế, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN, đội ngũ trí thức
đã góp phần khơng nhỏ vào những thành tựu của cách mạng.
Thực trạng trí thức Việt Nam
Thực tế trong nhứng năm qua, bằng LĐ trí óc của mình, đội ngũ TT nước ta đã tạo ra những gtrị tinh thần và vc có hàm lượng trí tuệ cao,
truyền bá những tri thức khoa học, tuyên truyền đường lối chính sách của Đảng, PL của NN, bảo tồn và ptriển các gtrị VH của dân tộc, góp
phần qtrọng vào việc bồi dưỡng, đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng u cầu sự nghiệp cơng nghiệp hố, hiện đại hoá đất nước. Từ chỗ 95% dân số
VN mù chữ năm 1945, đến nay ở VN có khoảng 2,6 triệu nguowif có trình độ ĐH và trên ĐH, trong khi đó từ năm 1075 đến năm 1919 chế độ
pkiếnđào tạo được 2.896 khoa bảng. Năm học 1943-1944 có 7 trường ĐH viứi 1.259 sviên, cho đến nước ta có 312 trường ĐH và CĐ. Điều đó
chứng tỏ, đội ngũ TT VN tăng lên về số lượng. Bên cạnh đó chất lượng cũng tăng lên trên một số phương diện: những thành tựu của CMVN là

sự nghiệp của QCND, trong đó TT đóng vai trị qtrọng trên all các lĩnh vực CT,KT,QS,NGiao,XH… nhiều đề tài cơng trình KH VN được các
hội dồng TG đánh giá cao. Trongcác kỳ thi quốc tế về trí tuệ, học sinh VN cũng giành được các thành tích lớn. Đại bộ phận đội ngũ trí thức
trưởng thành có hồi, tâm huyết, say sưa với sự nghiệp khoa học.
2


Chúng ta có thể tự hào về những đóng góp của đội ngũ trí thức thời gian qua và tiềm năng của họ trong tương lai.
Mặc dầu vậy, đội ngũ tri thức nước ta vẫn còn bộc lộ nhiều hạn chế và yếu kém đó là: Số lượng và chất lượng chưa đáp ứng được yêu
cầu của sự phát triển đất nước. Cơ cấu đội ngũ trí thức có những mặt bất hợp lý về ngành nghề, độ tuổi, giới tính… trí thức tinh hoa và hiền tài
cịn ít, chun gia đầu ngành còn thiếu nghiêm trọng, đội ngũ kế cận hẩng hụt; chưa có nhiều tập thể khoa học mạnh, có uy tính ở khu vực và
quốc tế; hoạt động nghiên cứu khoa học chưa xuất phát và gắn bó mật thiết với thực tiễn; trong các lĩnh vực khoa học chưa có những cơng
trình sáng tạo lớn. Trình độ trí thức ở nhiều cơ quan nghiên cứu, trường đại học tụt hậu so với yêu cầu phát triển đất nước. Một bộ phận trí
thức cịn thiếu tự tin e ngại, sợ quy kết về quan điểm, né tránh những vấn đề có liên quan đến chính trị. Một số giảm sút đạo đức nghề nghiệp,
thiếu ý thức trách nhiệm và lịng tự trọng, có bểu hiện chạy theo bằng cấp thiếu trung thực và tinh thần hợp tác; khơng thường xun học hỏi
tìm tịi trao dồi chun mơn nghiệp vụ, thiếu ý chí và hồi bảo. Nhiều trí thức trẻ có tâm trạng thiếu phấn khởi, chạy theo lợi ích trước mắt,
thiếu ý chí phấn đấu vươn lên.
Những tồn tại và yếu kém trên sẽ làm ảnh hưởng đến sự phát huy vai trị của đội ngũ trí thức trong sự nghiệp đổi mới ở nước ta hiện nay.
Do vậy, để xây dựng và phát huy hơn nữa vai trị của đội ngũ trí thức Đảng và Nhà nước ta cần có những biện pháp thích hợp để trí thức có thể
phát huy hết khả năng sáng tạo của mình góp phần đưa nước ta tiến nhanh, tiến vững chắc trong thế kỷ XXI.
Giải pháp:
Một là, Hoàn thiện môi trường và điều kiện thuận lợi cho hoạt động của trs thức. Như ban hành quy chế trong hoạt động khoa học và công
nghệ, giáo dục và đào tạo…tạo điều kiện để tri thức khẳng định mình; hồn thiện hệ thống văn bản pháp luật và tăng cường thực thi bảo hộ
quyền sở hửu trí tuệ; ban hành quy định về quyền hạn và điều kiện làm việc đẻ phát huy năng lực và trách nhiệm của họ; đầu tư xây dựng khu
đô thị khoa học; mở rọng hợp tác giao lưu quốc tế…
Hai là, thực hiện chính sách trọng dụng, đãi ngộ và tơn vinh trí thức. Đó là, rà sốt chính sách thu hút, đải ngộ, ưu đải về vật chết và tinh
thần cho đội ngũ trí thức;đổi mới công tác cán bộ trong khau tuyển dụng, bố trí; phân cấp quyền hạn và trách nhiệm cho đội ngũ trí thức.
Ba là, tạo bước chuyển biến căn bản trong đào tạo, bồi dưởng tri thức. cụ thể: tiến hành cải cách giáo dục, huy động các nguồn lực đầu tư
cho giáo dục, tăng cường hoạt động nghiên cứu kho học gắn với thực tiển, thực hiện công tác đào tạo ngồi nước; xây dựng chính sách đào tạo,
bồi dưỡng phù hợp đối với đội ngũ trí thức…
Bốn là, đề cao trách nhiệm của trí thức, củng cố và nâng cao chất lượng hoạt động các hội của đội ngũ trí thức.

Năm là, nâng cao chất lượng cơng tác lãnh đạo của đảng đối với đội ngũ trí thức. cụ thể, nâng cao nhận thức của cấp uỷ, chính quyền về
vai trị, vị trí của họ;làm tốt cơng tác tư tưởng để XH hiểu đúng vị trí của trí thức; quản lý và phát huy tài năng, sử dụng đội ngủ trí thức…
Tóm lại, ...........đội ngũ trí thức là một lực lượng có vị trí, vai trị rất quan trọng trong sự phát triển xã hội.
Liên hệ thực tiễn.

3



Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×