Tải bản đầy đủ (.doc) (51 trang)

Đạo đức nghề nghiệp nhà báo - Bùi Huy Lan

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (263.11 KB, 51 trang )

Đạo đức nghề nghiệp nhà
báo
Gv: Bùi Huy Lan

Chương I: ĐẠO ĐỨC VÀ XÃ HỘI
I.

KHÁI NIỆM

1. Xã hội
Xã hội theo nghĩa thông thường là cộng đồng người sinh sống và phát triển. Theo triết
học duy vật lịch sử và duy vật biện chứng thì xã hội là hình thái vận động cao nhất của thế
giới vật chất, lấy con người và sự tác động lẫn nhau giữa người với người làm nền tảng.
Quá trình phát triển của tự nhiên đã sinh ra sự sống và theo quy luật tiến hóa, trong
những điều kiện nhất định, con người đã xuất hiện từ động vật. Sự hình thành con người
gắn liền với sự hình thành các quan hệ giữa người với người. Quá trình chuyển biến từ
động vật thành người cũng là quá trình chuyển biến từ cộng đồng mang tính bầy đàn, hành
động theo bản năng thành một cộng đồng mới khác hẳn về chất, ta gọi là xã hội. Đây cũng
là quá trình chuyển biến từ vận động sinh học thành vận động xã hội.
Khác với giới tự nhiên vô thức, mù quáng, sống theo bản năng, xã hội loài người hoạt
động có ý thức, hành động có suy nghĩ và theo đuổi những mục đích nhất định. Như vậy xã
hội là bộ phận đặc thù của tự nhiên, là sản phẩm của sự tác động qua lại giữa những con
người.
Mác và Angghen đã chỉ rõ lao động và ngôn ngữ là hai sức kích thích sự chuyển biến
bộ não của loài vật thành bộ não con người, tâm lý động vật thành ý thức. Vì vậy mà con
người mới có ý thức và mục đích sống phù hợp với quy luật phát triển của tự nhiên và xã
hội để tái sản xuất chính mình và tự nhiên.
Trong xã hội, sản xuất là hoạt động đặc trưng của con người, bao gồm sản xuất vật
chất, sản xuất tinh thần và sản xuất ra bản thân con người. Ba q trình đó gắn bó chặt chẽ,
tác động qua lại lẫn nhau, trong đó sản xuất vật chất là cơ sở của sự tồn tại xã hội, từ đó
hình thành và phát triển ý thức xã hội.


Triết học duy vật lịch sử đã chỉ rõ rằng tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội, ý thức
xã hội là sự phản ánh tồn tại xã hội, phụ thuộc vào tồn tại xã hội. Mỗi khi tồn tại xã hội,

1


nhất là phương thức sản xuất biến đổi thì những hình thái ý thức xã hội như chính trị, tư
tưởng, triết học, pháp luật, đạo đức, văn hóa, nghệ thuật v.v…cũng sẽ biến đổi theo.
2. Đạo đức:
Theo văn hóa Phương Đông, các học thuyết của Nho giáo, Đạo giáo, Phật giáo đều lấy
đạo đức làm cơ sở trong đối nhân xử thế và tự rèn luyện mình, khuyên con người làm điều
thiện, tránh điều ác. Các học thuyết ấy đề ra những quy tắc, chuẩn mực để định hướng cách
đánh giá, ứng xử của con người trong quan hệ xã hội và tu thân, dưỡng tâm, rèn khí tiết.
Ở Phương Tây, khái niệm đạo đức bắt đầu từ chữ mos trong ngữ vựng Latinh, có
nghĩa là lề thói; hoặc chữ ethicos trong tiếng Hy Lạp có nghĩa là tập tục gắn với thói quen.
Cả hai từ này đều nói về tập quán, lề thói trong các quan hệ giao tiếp của con người và đều
chỉ đạo đức xã hội.
Khái niệm đạo đức theo tiếng Anh là moral, chỉ các quan hệ, hành vi, phẩm giá về sự
quan tâm của người này đối với người khác theo các chuẩn mực về cái tốt trong cộng đồng
xã hội.
Từ những quan niệm trên đây, có thể định nghĩa:
Đạo đức là tập hợp những nguyên tắc, quy tắc, chuẩn mực được dư luận xã hội
thừa nhận nhằm điều chỉnh và đánh giá cách ứng xử của con người trong quan hệ với
nhau, với tự nhiên và xã hội.
Với định nghĩa trên đây, đạo đức gồm các thành tố:
-

Một hình thái ý thức xã hội (phản ánh tồn tại xã hội).

- Một chế định xã hội (chuẩn mực, nguyên tắc ứng xử cho cá nhân và cộng

đồng).
- Có giá trị điều chỉnh các mối quan hệ xã hội (bên cạnh pháp luật và các quy
phạm xã hội khác).
-

Được dư luận xã hội thừa nhận.

Đạo đức là mối quan hệ xã hội có quy tắc, chuẩn mực, có giá trị, được thực hiện bằng
niềm tin cá nhân, truyền thống và chịu tác động của dư luận xã hội. Việc đánh giá đạo đức
không chỉ dựa vào hành vi ứng xử của mỗi người, mà quan trọng là phải xem xét động
cơ để thực hiện hành vi đó.
II.

NGUỒN GỐC, BẢN CHẤT VÀ CHỨC NĂNG CỦA ĐẠO ĐỨC

1. Nguồn gốc của đạo đức:
2


Trước khi học thuyết Mac ra đời, các nhà triết học và đạo đức học có nhiều cách tiếp
cận và giải thích khác nhau về nguồn gốc, bản chất của đạo đức. Những nhà duy tâm chủ
quan cho rằng đạo đức là những năng lực bẩm sinh của con người phù hợp với “mệnh lệnh
tuyệt đối” hướng tới cộng đồng, sống phù hợp với tự nhiên, tơn trọng mình và người khác.
Ngược lại các nhà triết học duy tâm khách quan và thần học lại cho rằng đạo đức của con
người là do các đấng siêu nhiên đem lại, hoặc là sự biểu hiện của ý niệm tuyệt đối. Các nhà
duy vật trước Mac thì giải thích nguồn gốc bản chất của đạo đức từ mối quan hệ giữa
người với người, nhưng lại cho rằng con người là một thực thể bất biến phi lịch sử, phi giai
cấp nên đạo đức cũng chỉ như là một thứ năng lực bẩm sinh không thay đổi. Những người
theo học thuyết Đác Uyn thì quan niệm đạo đức như là sự mở rộng những bản năng bầy
đàn của động vật; sự thực hiện chức năng thích nghi với mơi trường, là sự tiến hóa của giới

hữu sinh, mà đỉnh cao là con người.
Quan điểm của chủ nghĩa Mac cho rằng đạo đức sinh ra trước hết là từ nhu cầu phối
hợp hành động trong lao động sản xuất vật chất, trong quá trình con người tương tác với tự
nhiên và xã hội, trong phân phối sản phẩm làm ra. Cùng với sự phát triển của sản xuất, của
các quan hệ xã hội, ý thức và hành vi đạo đức cũng theo đó mà hình thành và phát triển.
Như vậy đạo đức có nguồn gốc từ lao động và các hoạt động sống của con người; là sản
phẩm của tình hình kinh tế - xã hội, tổng hợp các yếu tố khách quan trong hoạt động thực
tiễn và nhận thức của con người.
2. Bản chất của đạo đức:
Với tính cách là sự phản ánh tồn tại xã hội, đạo đức trước hết mang bản chất xã hội.
Bản chất xã hội của đạo đức thể hiện ở nội dung do hoạt động thực tiễn và tồn tại xã hội
quyết định, đồng thời phụ thuộc vào trình độ phát triển và hồn thiện của kinh tế - xã hội.
Mac và Angghen đã luận chứng bản chất xã hội của đạo đức bằng cách chỉ ra tính thời đại,
tính dân tộc và tính giai cấp của đạo đức.
Các nguyên tắc, chuẩn mực; các quan điểm đạo đức là sản phẩm của các chế độ kinh
tế. Vì vậy, tương ứng với mỗi chế độ kinh tế, mỗi phương thức sản xuất, mỗi hình thái kinh
tế - xã hội là một hình thái đạo đức nhất định. Đó là tính thời đại của đạo đức.
Tính dân tộc cũng là một trong những biểu hiện bản chất xã hội của đạo đức. Ngoài
những chuẩn mực đạo đức chung, mỗi dân tộc do điều kiện sinh sống, sự khác biệt về trình
độ phát triển của lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, cũng có các quan niệm, chuẩn
mực, cách ứng xử khác nhau tạo thành bản sắc dân tộc.
Trong xã hội có giai cấp và đối kháng giai cấp, đạo đức cũng phản ánh và khẳng định
lợi ích của mỗi giai cấp. Mỗi giai cấp đều sử dụng đạo đức như một cơng cụ để bảo vệ lợi
ích của mình. Tuy nhiên, hệ thống đạo đức chi phối tồn xã hội bao giờ cũng là hệ thống
đạo đức của giai cấp thống trị.

3


Theo quan điểm của chủ nghĩa Mac, đạo đức là một hình thái ý thức xã hội gắn với

các phương thức sản xuất xã hội. Khi phương thức sản xuất xã hội thay đổi thì đạo đức
cũng thay đổi theo. Tuy nhiên đạo đức có tính độc lập tương đối, vừa phản ánh tồn tại xã
hội, vừa tác động trở lại thúc đẩy nền kinh tế - xã hội phát triển và ảnh hưởng sâu rộng đến
các hình thái ý thức xã hội khác như chính trị, khoa học, nghệ thuật, pháp luật….
Điều cần chú ý là, tình thời đại của đạo đức ln có sự kế thừa đối với cơ sở sinh ra nó
và tuy đạo đức mang tính giai cấp nhưng khơng vì vậy mà phủ nhận tính nhân loại chung
của nó. Tính nhân loại của đạo đức tồn tại ở hình thức thấp là biểu hiện những quy tắc đơn
giản, thông thường, cần thiết để đảm bảo cuộc sống trật tự hàng ngày của con người. Biểu
hiện cao hơn là những giá trị đạo đức tiến bộ nhất trong từng giai đoạn phát triển của lịch
sử nhân loại.
3. Cấu trúc của đạo đức:
Đạo đức là một trong những hình thái ý thức xã hội độc lập, có cấu trúc riêng. Tùy
theo cách tiếp cận mà xem xét cấu trúc của đạo đức dưới những góc độ khác nhau:
3.1. Nếu xem xét từ góc độ mối quan hệ giữa ý thức và hoạt động thì cấu trúc của
đạo đức gồm ý thức đạo đức và thực tiễn đạo đức. Ý thức đạo đức bao gồm nhận thức, tình
cảm và lý trí tạo nên mục đích và động cơ của hành vi đạo đức. Thực tiễn đạo đức là toàn
bộ hoạt động của con người được điều chỉnh bởi ý thức đạo đức, là sự thể hiện ý thức
thành hành động phù hợp với các nguyên tắc, chuẩn mực đạo đức xã hội.
3.2. Nếu xem xét từ góc độ quan hệ thì đạo đức gồm một hệ thống quan hệ đặc thù
giữa người và người, giữa người với cộng đồng xã hội và tự nhiên, được đặc trưng bởi tính
tự giác, tự nguyện và tính động cơ. Mỗi người sinh ra đã bắt gặp hệ thống các quan hệ đạo
đức xã hội tồn tại bên ngoài ý muốn của mình và trong quá trình sống, tất yếu phải tham
gia vào hệ thống các quan hệ đạo đức đó.
3.3. Nếu xét theo góc độ quan hệ giữa cái chung và cái riêng thì đạo đức được cấu
thành từ đạo đức xã hội và đạo đức cá nhân. Đạo đức xã hội hình thành trên cơ sở cộng
đồng về lợi ích, trở thành một hệ thống giá trị chung được mọi thành viên tin tưởng và noi
theo. Đạo đức cá nhân là biểu hiện của đạo đức xã hội trong từng người cụ thể với các cấp
độ khác nhau, phụ thuộc vào việc người đó quán triệt đến mức nào những yêu cầu chuẩn
mực, giá trị đạo đức xã hội cả trong ý thức lẫn thực tiễn đạo đức. Đạo đức xã hội và đạo
đức cá nhân có mối quan hệ hữu cơ, tác động và chuyển hóa lẫn nhau.

4. Chức năng của đạo đức:
4.1.

Chức năng nhận thức:

Với tư cách là một hình thái ý thức xã hội, đạo đức có chức năng nhận thức thông qua
sự phản ánh tồn tại xã hội.
4


Mục đích của nhận thức đạo đức khơng phải là phát hiện quy luật, hướng tới chân lý
mà là đánh giá giá trị thiện – ác của các hiện tượng, sự kiện xã hội, hành vi, tư tưởng, tình
cảm con người…. Tất cả những gì góp phần vào việc thúc đẩy tiến bộ xã hội và giải phóng
con người đều là tiêu chí khách quan của nhận thức đạo đức như là những giá trị đích thực
về cái thiện; ngược lại, đó là điều ác. Nhận thức đạo đức và kết quả của nó là cơ sở để điều
chỉnh hành vi của con người.
Sự nhận thức đạo đức có đặc điểm:
-

Hành động đạo đức tiếp liền sau nhận thức đạo đức.

- Nhận thức đạo đức là quá trình vừa hướng ngoại, vừa hướng nội (tự nhận thức).
Nhận thức hướng ngoại lấy chuẩn mực, giá trị, đời sống đạo đức của xã hội làm đối tượng.
Nhờ đó mà chủ thể nhận thúc chuyển hóa được chuẩn mực đạo đức của xã hội thành ý thức
đạo đức của cá nhân. Nhận thức hướng nội lấy bản thân mình làm đối tượng nhận thức.
Đây là quá trình tự giác, tự thẩm định, đối chiếu những nhận thức, hành vi đạo đức của
mình với những chuẩn mực chung của cộng đồng. Từ đó mà chủ thể hình thành, phát triển
ý thức và hành vi đạo đức.
Nhận thức đạo đức có hai trình độ là trình độ thơng thường và trình độ lý luận:
- Nhận thức ở trình độ thơng thường là những giá trị riêng lẻ, đáp ứng nhu cầu

đạo đức đủ để chủ thể xử lý kịp thời các mối quan hệ thông thường trong cuộc sống.
- Nhận thức ở trình độ lý luận là những nhận thức có tính ngun tắc được chỉ
đạo bởi những giá trị đạo đức phổ quát, đáp ứng những đòi hỏi của sự phát triển và tiến bộ
xã hội.
Nhận thức đạo đức đem lại tri thức, ý thức đạo đức để chủ thể tạo dựng và hiện thức
hóa đạo đức cá nhân.
4.2. Chức năng điều chỉnh hành vi:
Đạo đức là một trong những phương thức điều chỉnh hành vi làm cho con người và xã
hội tồn tại, phát triển; bảo đảm hài hịa giữa lợi ích cá nhân và lợi ích cộng đồng.
Đặc trưng của sự điều chỉnh đạo đức là ở tính tự giác và tự nguyện, trong đó chuẩn
mực đạo đức, lý tưởng đạo đức và tình cảm đạo đức có vai trị cực kỳ quan trọng. Hiệu quả
và phạm vi điều chỉnh đạo đức phụ thuộc vào cả nhân tố chủ quan và khách quan của các
quan hệ kinh tế - xã hội.
Chức năng điều chỉnh hành vi của đạo đức đòi hỏi từ tối thiểu đến tối đa hành vi của
con người, được thực hiện bằng lương tâm và dư luận xã hội.

5


Mục đích của chức năng điều chỉnh hành vi đạo đức là tạo nên sự hài hồ quan hệ lợi
ích cộng đồng và cá nhân. Đối tượng điều chỉnh trực tiếp là hành vi cá nhân, qua đó điều
chỉnh quan hệ cá nhân với cộng đồng.
4.3. Chức năng giáo dục:
Hệ thống đạo đức do con người tạo ra, nhưng sau khi ra đời, hệ thống đạo đức tồn tại
như là cái khách quan tác động, chi phối con người. Đó là chức năng giáo dục của đạo đức.
Trong xã hội có giai cấp ln tồn tại nhiều hệ thống đạo đức khác nhau tác động đến
các cá nhân, làm chuyển hóa nhận thức đạo đức và thực tiễn đạo đức của họ. Các hành vi
đạo đức được lặp đi lặp lại trong đời sống xã hội và cá nhân, làm cho cả đạo đức xã hội và
đạo đức cá nhân được củng cố, phát triển, trở thành thói quen, truyền thống, tập quán đạo
đức.

Hiệu quả giáo dục của đạo đức phụ thuộc vào điều kiện kinh tế - xã hội, cách thức tổ
chức, mức độ tự giác của chủ thể và đối tượng giáo dục.
Chức năng giáo dục của đạo đức bao gồm sự giáo dục lẫn nhau trong cộng đồng, giữa
các cá nhân và giữa cá nhân với cộng đồng; mặt khác là sự tự giáo dục ở mỗi cá nhân và
cộng đồng.
Tóm lại, với những chức năng cơ bản trên đây, đạo đức có vai trị rất lớn trong đời
sống con người và xã hội. Đạo đức đã trở thành mục tiêu đồng thời cũng là động lực để
phát triển xã hội. Các chức năng của đạo đức có sự thống nhất biện chứng, chức năng
này là tiền đề và điều kiện cho chức năng kia và ngược lại.
III.

SỰ PHÁT TRIỂN CỦA ĐẠO ĐỨC TRONG LỊCH SỬ

Đạo đức là sản phẩm của lịch sử xã hội, do cơ sở kinh tế - xã hội quyết định. Ngay từ
chế độ cộng sản nguyên thủy, ý thức đạo đức của con người mơng muội đã được hình
thành, từ đó được phát triển hoàn thiện dần trên cơ sở phát triển của hình thái kinh tế - xã
hội nối tiếp nhau từ thấp lên cao.
1. Xã hội cộng sản nguyên thủy khơng phân chia thành giai cấp, khơng có hiện tượng
người bóc lột người. Mọi người cùng nhau hái lượm, săn bắt…, để duy trì cuộc sống và
chưa sản xuất ra sản phẩm thừa. Kỷ luật và quy tắc lao động được duy trì bằng sức mạnh
của phong tục, tập quán, dư luận xã hội, bằng uy tín và sự tơn vinh đối với tộc trưởng, hay
phụ nữ. Trong điều kiện đó, các dấu hiệu đạo đức sơ khai đã xuất hiện, với những đặc điểm
mang tính cụ thể, cảm tính, trực quan và kinh nghiệm.
Các chế định đạo đức được lặp lại từ kinh nghiệm thực tiễn trong dạng trực quan và
thói quen, bắt chước. Các phong tục tập quán, lễ nghi, định kiến, dư luận xã hội hình thành
và tồn tại dai dẳng trong lao động sản xuất và đời sống.
6


Tính trung thực, thẳng thắn, kiên cường, dũng cảm là đức tính phổ biến của con

người.
Tính hợp tác, cơng bằng, thông cảm, tương trợ được coi trọng. Tất cả những gì có ích
cho cộng đồng, bộ lạc được coi là điều thiện, ngược lại cái gì có hại bị coi là điều ác.
2. Sự xuất hiện giai cấp trong chế độ nô lệ đã tạo nên sự khác biệt giữa quyền lợi và
nghĩa vụ cũng như vai trò và địa vị của từng cá nhân trong xã hội. Điều đó cũng dẫn tới sự
tan vỡ của ý thức đạo đức thống nhất trong nội bộ cộng đồng xã hội nguyên thủy, đánh dấu
một bước sa sút về đạo đức trong xã hội, bắt đầu xuất hiện những yếu tố kích thích nảy
sinh những điều xấu về đạo đức (trộm cắp, tham lam, bạo lực, gian trá….)
Chiếm hữu nô lệ là một quan hệ sản xuất mới (phù hợp với sức sản xuất tiến bộ hơn)
mà cơ sở là chủ nô chiếm hữu tư liệu sản xuất và chiếm hữu cả bản thân người lao động.
Từ đây xuất hiện một nền đạo đức mới mà đặc trưng là tính chất đối kháng giữa đạo đức
của chủ nô và nô lệ. Tầng lớp chủ nơ coi mình là người có đức hạnh, thượng lưu, q tộc;
cịn nơ lệ là những người khơng có phẩm hạnh, thấp hèn, hạ đẳng. Sự nơ dịch của số ít với
số đơng được đảm bảo bằng nhà nước, tình trạng bình đẳng nhường chỗ cho đẳng cấp.
Tính chất đó cũng quy định các nội dung khác nhau về đạo đức. Người nô lệ chỉ được xem
là “công cụ biết nói” và phục tùng tuyệt đối. Những đức tính cao cả của người nơ lệ như
lịng dũng cảm, chí khí, danh dự, bất khuất v.v… đã bị chủ nơ coi là sự thách thức, bất
kính, vơ đạo đức. Trong xã hội tạo thành hai hệ thống đạo đức tách biệt: Đạo đức của kẻ
chiếm hữu nô lệ và đạo đức của người bị nơ lệ. Đó là mâu thuẫn đầu tiên lớn nhất, tập
trung nhất trong văn hóa tinh thần của nhân loại.
3. Chế độ phong kiến dựa trên cơ sở chiếm hữu ruộng đất, là một giai đoạn mới, cao
hơn trong việc phát triển sản xuất. Người nơng dân có cơng cụ sản xuất riêng, dựa vào lao
động cá nhân và đem lại cho họ những điều kiện sinh sống cần thiết. Tuy nhiên cuộc sống
của họ vẫn phụ thuộc và gắn bó chặt chẽ với chế độ lao động nặng nhọc, tối tăm, ngu dốt,
đè nén với lối cưỡng bức siêu kinh tế của giai cấp phong kiến thống trị.
Ở đây tồn tại nhiều kiểu đạo đức, nhưng đạo đức của giai cấp phong kiến vẫn chiếm
địa vị thống trị. Cơ sở đạo đức phong kiến là quyền uy, tính đẳng cấp, gia trưởng, trọng
nam khinh nữ…. Ở phương Tây thường xuất phát từ những tín điều tơn giáo, cịn ở phương
Đơng thường xuất phát từ quan hệ giữa người với người, giữa người với tự nhiên, được
dựa trên cơ sở của học thuyết Nho giáo và ảnh hưởng của đạo đức Phật giáo, Đạo giáo.

Quan điểm đạo đức của giai cấp phong kiến và nông dân đã có sự biến đổi, thu ngắn
sự khác biệt và “hịa bình” hơn so với chủ nơ và nơ lệ.
4. Thay thế chế độ phong kiến, chế độ tư bản là bước tiến mới của lịch sử xã hội, vì nó
đập tan xiềng xích của chế độ nơng nơ, xóa bỏ tình trạng cát cứ của phong kiến, mở ra thị
trường phát triển sản xuất và khoa học kĩ thuật. Sự thay thế quan hệ sản xuất phong kiến
bằng quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa dẫn đến biến đổi cả hệ thống đạo đức xã hội. Quan
7


hệ hàng hóa tiền tệ thâm nhập vào tất cả các ngõ ngách của đời sống xã hội, phá tan những
sợi dây trói buộc con người. Ở đây, chủ nghĩa cá nhân là nguyên tắc cơ bản của đạo đức tư
sản. Cơ sở lý luận của chủ nghĩa cá nhân là sự thừa nhận sự tự trị và quyền tuyệt đối của cá
nhân trong xã hội. Đạo đức tư sản coi chủ nghĩa cá nhân là bản tính tự nhiên bất biến của
con người. Trong q trình tích lũy tư bản, bóc lột lao động làm thuê, chủ nghĩa cá nhân đã
chiến thắng quan hệ chật hẹp đẳng cấp phong kiến dưới khẩu hiệu cách mạng tư sản là “tự
do, bình đẳng, bác ái”. Trong thời kỳ thiết lập chủ nghĩa tư bản, con người được giải phóng
và phát triển.
Tuy nhiên, sự bình đẳng cũng chỉ là hình thức vì giai cấp tư sản không giải quyết được
nguồn gốc sinh ra bất bình đẳng chính là đặc quyền chiếm hữu tư liệu sản xuất và của cải
làm ra của một số ít người. Trong q trình phát triển xã hội, giai cấp tư sản đã làm cho
quan hệ giữa người với người bị chi phối bởi quan hệ tiền bạc; biến giá trị con người thành
giá trị đổi chác, mua bán. Lịng tham vơ đáy chiếm địa vị thống trị trong mọi hoạt động của
giai cấp tư sản. Công lý và nền tảng đạo đức trong xã hội không được đảm bảo; con người
trở nên ích kỷ, đạo lý trong xã hội ngày càng suy giảm.
Có thể nói, tất cả các lý thuyết đạo đức của giai cấp bóc lột mặc dù có chỗ khác nhau,
nhưng đều có đặc điểm chung là ca tụng chế độ tư hữu tư liệu sản xuất, coi hiện tượng
người bóc lột người là tự nhiên, bất khả xâm phạm.
5. Sau khi cách mạng vô sản thắng lợi, người lao động từng bước được giải phóng về
kinh tế, chính trị và xã hội. Lồi người bước vào thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa cộng sản,
xây dựng một xã hội khơng cịn giai cấp bóc lột. Mọi người sống trong hịa bình, tự do,

bình đẳng và hạnh phúc. Đạo đức của giai cấp vô sản trở thành đạo đức thống trị và là
mầm mống của đạo đức cộng sản chủ nghĩa tương lai.
Đạo đức cộng sản là giai đoạn cao trên con đường tiến lên của xã hội và sẽ tồn tại mãi
với loài người. Nó chứa đựng tất thảy những đặc điểm tốt đẹp của đạo đức trong các thời
đại trước và có bước phát triển mới về chất, theo những nguyên tắc:

6.

-

Đề cao chủ nghĩa tập thể; mình vì mọi người, mọi người vì mình.

-

Lao động tự giác và sáng tạo.

-

Chủ nghĩa yêu nước kết hợp với chủ nghĩa quốc tế trong sáng.

-

Chủ nghĩa nhân đạo triệt để nhất.

Sự phát triển đạo đức ở Việt Nam.

Trong tiến trình phát triển của lịch sử, đất nước và nhân dân ta đã trải qua nhiều giai
đoạn thăng trầm, chịu sự tác động mạnh của các luồng văn hóa, với những quan niệm, tư
tưởng, triết học, đạo đức khác nhau. Sự tiếp biến các nền văn hóa đã hình thành truyền
8



thống đạo đức chịu ảnh hưởng mạnh của Nho giáo, Đạo giáo, Phật giáo, Thiên chúa giáo
và sau này là Đạo đức cách mạng.
Nho giáo, với mẫu hình nhân cách của “kẻ sĩ”, người quân tử với lý tưởng “tu thân, tề
gia, trị quốc, bình thiên hạ” và phẩm chất “nhân, lễ, nghĩa, trí, tín.” Những tư tưởng đạo
đức được xã hội đề cao như: “trung quân ái quốc”, “hiếu thảo với cha mẹ”, “tam tịng, tứ
đức”.
Đạo giáo, khuyến khích con người sống “vơ vi”, khơng làm điều gì trái tự nhiên, trở
về với sự chất phác, mộc mạc của tự nhiên mà đặc trưng là những phẩm chất: Vô tư, khoan
dung, khiêm nhường và mềm dẻo.
Phật giáo, với mẫu hình người giác ngộ, đề cao các tín niệm “vơ thường”, “vơ ngã” và
đức tính “làm lành, tránh ác”, “từ bi, hỷ xả”, “cứu nhân độ thế”, mà đặc trưng là “khuyến
thiện, chống ác.”
Thiên chúa giáo, với triết lý dựa vào điều giáo huấn về tình yêu của Chúa, đặc trưng là
lòng nhân ái cao cả.
Từ khi Cách mạng Tháng tám thành công, dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt
Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh, những giá trị đạo đức cách mạng đã được bổ sung, phát
triển làm giàu thêm đạo đức truyền thống của dân tộc, hình thành nền đạo đức mới, vừa kế
thừa phát huy những giá trị truyền thống, vừa bổ sung những giá trị mới phù hợp với yêu
cầu của sự phát triển đất nước. Đặc trưng của đạo đức mới là đề cao lòng trung với nước,
hiếu với dân, yêu thương con người; cần, kiệm, liệm, chính, chí cơng vơ tư và có tinh thần
quốc tế trong sáng
IV.

MỐI QUAN HỆ GIỮA ĐẠO ĐỨC VÀ PHÁP LUẬT:

Pháp luật và đạo đức có mối liên hệ biện chứng với nhau và đều là những quy phạm
xã hội có chức năng điều chỉnh các quan hệ xã hội.
Giữa hai hình thái ý thức xã hội này có sự thống nhất. Bản thân pháp luật, một mặt

phản ánh những yêu cầu của sự phát triển kinh tế - xã hội, nhưng mặt khác nó vẫn kế thừa
các giá trị truyền thống. Còn đạo đức cũng kế thừa các giá trị truyền thống và phản ánh
những yêu cầu của sự phát triển kinh tế - xã hội, nhưng nó cũng phải đảm bảo phù hợp với
những yêu cầu của pháp luật và khuyến khích thực hiện tốt pháp luật.
Trong thực tế, thường có sự chuyển hóa, thống nhất hai loại quy phạm này để điều
chỉnh các quan hệ xã hội. Trong một chừng mực nào đó, cần thiết nhà nước phải thể chế
hóa những quy phạm, nguyên tắc, chuẩn mực đạo đức thành những quy phạm pháp luật.
Sự thống nhất giữa đạo đức và pháp luật không xóa nhịa ranh giới giữa chúng. Bởi vì
giữa hai hình thái ý thức xã hội này có những điểm khác biệt:
9


Đạo đức là hình thái ý thức xã hội thường được thể hiện bằng niềm tin, lý tưởng, các
nguyên tắc chung có ý nghĩa định hướng tinh thần để mỗi người tự điều chỉnh hành vi của
mình trong quan hệ với xã hội, dưới sự kiểm soát của lương tâm và dư luận xã hội. Trong
khi đó, pháp luật lại chú trọng đến việc quy định các hành vi một cách cụ thể, với những
tiêu chuẩn tối thiểu bắt buộc mọi người tuân theo và được đảm bảo thực hiện bằng nhà
nước.
Luật pháp chỉ có thể điều chỉnh trên một số lĩnh vực nhất định của đời sống xã hội và
sẽ mất đi khi khơng cịn nhà nước. Trong khi đó, đạo đức có vai trị điều chỉnh trong tất cả
các quan hệ xã hội và sẽ tồn tại mãi mãi với loài người. Mặt khác, luật pháp thường chỉ
tham gia điều chỉnh các quan hệ xã hội khi đã đến độ gây nên những ảnh hưởng xấu và cơ
bản chỉ áp dụng đối với những người đã đến tuổi cơng dân. Cịn đạo đức, do tính mềm dẻo
và linh động, nó tham gia điều chỉnh các hiện tượng lệch chuẩn xã hội ngay từ khi mới
xuất hiện, với mọi loại đối tượng. Cho nên có thể nói, pháp luật là đạo đức tối thiểu, còn
đạo đức là pháp luật tối đa.
V.

MỐI QUAN HỆ GIỮA ĐẠO ĐỨC VỚI PHÁT TRIỂN VĂN HĨA VÀ XÂY DỰNG CON
NGƯỜI:


Văn hóa theo nghĩa chung nhất là toàn bộ những giá trị do con người sáng tạo, lưu
giữ, tôn vinh và phát triển. Như vậy giữa văn hóa và con người có mối quan hệ thống nhất
biện chứng.
Con người với tư cách vừa là chủ thể vừa là mục tiêu của văn hóa khơng ngừng làm
tăng lên chất lượng và trình độ người trong phát triển. Để sáng tạo các giá trị văn hóa,
trước hết con người phải là chủ thể của đạo đức, nhân cách, phù hợp với những chuẩn mực
đạo đức và nhân cách của xã hội. Đó là giá trị hàng đầu, lớn nhất trong bảng giá trị văn
hóa.
Nghị quyết hội nghị trung ương Đảng lần thứ V, khóa VIII đã khẳng định văn hóa là
nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh
tế - xã hội. Trong đó, đạo đức lối sống của từng cá nhân và cả xã hội là yếu tố quan trọng,
cốt lõi làm nên diện mạo của văn hóa dân tộc.
Nền văn hóa mà chúng ta xây dựng là nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc.
Tính chất tiên tiến và đậm đà bản sắc dân tộc không chỉ biểu hiện ở hệ tư tưởng, khoa học,
kỹ thuật… mà còn bộc lộ đầy đủ, sâu sắc và thực tiễn ở đạo đức, lối sống. Con người, có
nhân cách sẽ biết cảm thụ và sáng tạo văn hóa để phát triển và hồn thiện chính mình, đồng
thời vượt qua những lệch chuẩn, biến dạng phản văn hóa. Nội dung cốt lõi của tiên tiến là
lòng yêu nước và tiến bộ; là lý tưởng độc lập và chủ nghĩa xã hội theo chủ nghĩa Mac –
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, nhằm mục tiêu tất cả vì con người, vì hạnh phúc và sự phát
triển phong phú, toàn diện của con người trong mối quan hệ hài hòa giữa cá nhân và cộng
đồng, giữa xã hội và tự nhiên. Bản sắc văn hóa dân tộc bao gồm những giá trị bền vững,
những tinh hoa của cộng đồng các dân tộc Việt Nam. Đó là lịng u nước nồng nàn, ý chí
10


tự cường dân tộc, tinh thần đồn kết; lịng nhân ái, khoan dung, trọng nghĩa tình, đạo lý,
đức tính cần cù, sáng tạo trong lao động; sự tinh tế trong ứng xử, tính giản dị trong lối
sống…. Đồng thời bản sắc dân tộc luôn gắn kết, mở rộng tiếp thu có chọn lọc những tinh
hoa văn hóa của nhân loại để không ngừng làm phong phú, nâng cao các giá trị văn hóa

dân tộc, phù hợp với thời đại.
Xây dựng được một mơi trường văn hóa lành mạnh, từ trong gia đình đến cộng đồng
dân cư và tồn xã hội, thấm đậm những giá trị đạo đức sẽ tạo nền tảng cho người Việt Nam
phấn đấu vươn lên, phát triển tồn diện để xây dựng thành cơng chủ nghĩa xã hội trên đất
nước ta.
VI.

MỘT SỐ PHẠM TRÙ CƠ BẢN CỦA ĐẠO ĐỨC:

Phạm trù đạo đức là những khái niệm phản ánh những đặc tính căn bản, những quan
hệ phổ biến trong đời sống hiện thực. Toàn bộ những chuẩn mực đạo đức được luận giải
một cách khái quát gọi là phạm trù đạo đức. Ngồi đặc tính chung như các phạm trù khoa
học xã hội khác, phạm trù đạo đức cịn có một số đặc điểm riêng như mang tính phổ biến
và khái quát cao, chứa đựng nội dung thông báo và nội dung đánh giá, đồng thời có tính
phân cực rõ ràng. Những giai đoạn lịch sử khác nhau, phạm trù đạo đức cũng mang những
nội dung khác nhau.
1. Lẽ sống: (ý nghĩa của cuộc sống)
Lẽ sống là phạm trù chỉ mặt ý thức của lối sống, có vai trò dẫn dắt, định hướng cho lối
sống ổn định, một trong những vấn đề trọng tâm của đời sống con người, theo ý nghĩa xã
hội và ý nghĩa cá nhân. Có thể xem lẽ sống là quan niệm sống, là ý nghĩa cuộc sống mà
con người tự nhận thức được và tự giác hành động vì một lý tưởng đạo đức cao cả, tiến bộ;
loại bỏ sự thấp hèn, vị kỷ, đê tiện, xấu xa, hướng con người tới chân, thiện, mỹ. Vì vậy lẽ
sống là nền tảng tinh thần nói chung và đạo đức của con người nói riêng. Nó chi phối và
liên quan mật thiết đến những định hướng cuộc sống hết sức cơ bản của con người, như lý
tưởng, niềm tin, thái độ, quan điểm sống v.v…. Lẽ sống là biểu hiện của sự tự ý thức cao
nhất của con người về cuộc sống của mình, là hội tụ của sự trưởng thành về nhân cách,
phát triển trí tuệ, tri thức và kinh nghiệm.
Người có lẽ sống tốt đẹp sẽ có khả năng vượt qua mọi khó khăn, thử thách để vươn
lên trong cuộc sống. Ngược lại, sự khủng hoảng về lẽ sống sẽ có thể làm cho con người đổ
vỡ niềm tin, chao đảo tinh thần, chệch hướng trong cuộc sống, rối loạn trong hành động,

dẫn tới những hậu quả khó lường.
Lẽ sống là phạm trù trung tâm của đạo đức, bao trùm, tác động và liên hệ đến các
phạm trù khác của đạo đức. Lẽ sống giúp con người sáng tạo ra những hạnh phúc, giúp con
người giữ gìn phẩm giá, danh dự, sống cao cả, gắn bó với cộng đồng, hồn thành tốt nghĩa
vụ đạo đức với gia đình và xã hội.

11


Lẽ sống đem lại cho con người sự lạc quan u đời, ln tích cực, tự giác, kiên trì
khắc phục khó khăn và khao khát vươn tới trong cuộc sống.
Lẽ sống cịn là một phạm trù mang tính phổ biến, là nhu cầu tự nhiên tất yếu của mỗi
người. Không có lẽ sống hoặc lẽ sống khơng đúng, con người sẽ trở thành kẻ ăn bám, đục
khoét, xâm phạm, phá hoại lợi ích của xã hội và của người khác.
Đạo đức học macxit coi lẽ sống là quá trình thống nhất giữa nghĩa vụ và hạnh phúc.
Nghĩa là, con người chỉ thật sự hạnh phúc khi tự giác làm tròn nghĩa vụ với người khác và
với xã hội. Tuyệt đối hóa một mặt nào đó giữa nghĩa vụ và hạnh phúc thì lẽ sống của con
người sẽ chỉ thiên lệch một chiều; chỉ biết nhận và hưởng thụ, không bao giờ nghĩ đến cho
và cống hiến; hoặc rơi vào trạng thái thụ động, chỉ biết vâng lời chấp nhận mà không độc
lập, đấu tranh, ước mơ, sáng tạo.
Lao động là cơ sở, cội nguồn của lẽ sống, là một trong những điều kiện, hành vi đầu
tiên sáng tạo ra con người và xã hội lồi người. Lao động khơng chỉ tạo ra các giá trị vật
chất bảo đảm cho sự tồn tại của con người mà còn làm nảy sinh nhu cầu, khát vọng, yếu tố
cơ bản làm nên lẽ sống. Đó là động lực để con người vươn lên và có hồi bão. Lao động
làm cho sản xuất và xã hội phát triển, đồng thời cũng làm nhu cầu và khát vọng của con
người ngày càng tăng lên, từ đó lẽ sống cũng khơng ngừng nâng cao và mở rộng.
Theo Mac, quá trình lao động là quá trình con người hồn thiện bản thân mình. Lao
động làm tăng tính tích cực cho xã hội và những đức tính quý báu của con người như lịng
nhân ái, tính vị tha, sự cao cả, tính tự giác, kỷ luật…. Đồng thời nó cũng loại bỏ những thói
xấu như tính lười biếng, tham lam, ích kỷ, ti tiện….

Trong cuộc sống, mỗi người cần phải có lẽ sống đúng đắn. Đó là biết sống vì xã hội,
ln phấn đấu cống hiến nhiều những thành quả lao động có giá trị góp phần vào quá trình
phát triển xã hội, đem lại tự do, ấm no, hạnh phúc cho mọi người. Đấu tranh cho hạnh phúc
cá nhân hay hạnh phúc của cả xã hội là ranh giới, tiêu chuẩn để phân biệt người có lẽ sống
cao cả với kẻ có lẽ sống tầm thường, ích kỷ, thấp hèn. Người có quan niệm đạo đức chân
chính bao giờ cũng hướng lẽ sống của mình phù hợp với yêu cầu phát triển và tiến bộ của
xã hội, biết kết hợp hài hịa giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội.
Như vậy, lẽ sống hay ý nghĩa cuộc sống của con người khơng hồn tồn phụ thuộc
chỉ vào thời gian sống mà quan trọng nhất chính là chất lượng cuộc sống, trong đó con
người được lao động tự giác, sáng tạo, tự do cống hiến cho xã hội và thụ hưởng từ xã
hội.
2. Hạnh phúc:
Hạnh phúc là ước mơ lớn nhất, là mối quan tâm sâu sắc của con người ngay từ khi con
người tách khỏi động vật và bắt đầu ý thức được về mình. Quan niệm về hạnh phúc có một
ý nghĩa hết sức quan trọng trong đời sống tinh thần nói chung và đạo đức nói riêng. Nó trở
12


thành một trong những nền tảng tinh thần giúp con người xây dựng lý tưởng, mục tiêu, thái
độ sống. Đồng thời, quan niệm về hạnh phúc còn giữ vai trò là hạt nhân, là thước đo và
định hướng để con người thiết lập các khái niệm thiện, ác, phẩm giá và hàng loạt các khái
niệm nhân bản khác. Hạnh phúc chân chính tạo ra những động lực thúc đẩy con người và
xã hội tiến tới sự hồn thiện, thơng qua việc phấn đấu thực hiện những lý tưởng cao quý.
Qua các thời đại lịch sử, có nhiều quan niệm khác nhau về hạnh phúc. Phần lớn các
quan niệm trước Mac đều cho rằng hạnh phúc là sự thỏa mãn các nhu cầu, là trạng thái khi
con người đạt được sự sung sướng, khơng cịn những đau khổ, dằn vặt và được yên tĩnh,
thanh thản trong tâm hồn. Các tôn giáo lại quan niệm hạnh phúc là cái khơng có ở trần
gian, mà nó chỉ có ở thế giới bên kia.
Những quan niệm trên đây đều có khuynh hướng coi hạnh phúc là sự thỏa mãn những
nhu cầu cá nhân, tuyệt đối hóa, tầm thường hóa các nhu cầu cá nhân hoặc mang nặng yếu

tố siêu hình dẫn đến những lệch lạc, bế tắc trong quá trình đi tìm hạnh phúc.
Đạo đức học macxit quan niệm hạnh phúc gắn liền với quá trình lao động sản xuất và
hoạt động xã hội của con người. Lao động sản xuất và hoạt động xã hội mang lại cho con
người niềm vui, niềm tự hào sung sướng, nâng cao ý thức phẩm giá làm người, tin tưởng
vào xã hội, gắn bó mỗi cá nhân với cộng đồng trong tình thương yêu, quý trọng lẫn nhau.
Như vậy, hạnh phúc chỉ có thể tìm thấy trong lao động, học tập, trong đấu tranh và chỉ đến
với con người như một tặng thưởng kèm theo những giá trị vật chất và tinh thần mà họ đã
tạo ra vì xã hội, được xã hội đánh giá và thừa nhận. Do đó, hạnh phúc khơng phải là cái gì
đó có sẵn để con người nhận lấy một cách thụ động mà phải do chính bản thân họ tạo ra.
Chỉ những hoạt động nào có ích cho con người, làm lợi cho xã hội mới đem lại hạnh phúc.
Những hoạt động gây nên đau khổ cho con người sẽ bị xã hội lên án và ngăn chặn. Đó là lẽ
vì sao lười biếng, thói ỷ lại, trì trệ, ích kỷ, hưởng thụ một chiều trong thực tế là trái đạo đức
và là kẻ thù của hạnh phúc. Mặt khác hạnh phúc của mỗi người chỉ có thể đạt được khi nó
gắn với hạnh phúc của cộng đồng và xã hội. Đấu tranh chống lại cái ác, cái xấu, cái lạc
hậu, bảo thủ kìm hãm xã hội phát triển; đồng thời đấu tranh giải phóng con người, giải
phóng giai cấp, dân tộc, xây dựng một xã hội ngày càng tốt đẹp, văn minh chính là đem lại
hạnh phúc cho con người. Xã hội càng văn minh tốt đẹp càng tạo điều kiện cho con người
sống hạnh phúc và đạt được những giá trị cao đẹp.
Những hoạt động thỏa mãn nhu cầu đạo đức xã hội, làm cho con người đạt đến hạnh
phúc cao nhất, đích thực nhất; hướng con người phấn đấu vươn tới cái chân, thiện, mỹ.
Hạnh phúc còn là phạm trù có tính tương đối, tính lịch sử cụ thể, luôn vận động, biến
đổi theo sự vận động và biến đổi của tồn tại xã hội. Mỗi thời đại lịch sử, mỗi con người cụ
thể trong những hoàn cảnh, lứa tuổi khác nhau, có những quan niệm khác nhau về hạnh
phúc. Mặt khác hạnh phúc khơng loại trừ hồn tồn mọi nỗi khổ đau. Những nỗi khổ có
tính tích cực như sự trăn trở trong sáng tạo, đau khổ khi vượt qua lỗi lầm, hy sinh vì nghĩa
lớn; đau khổ vì nỗi đau của người khác; những gian truân, khổ ải trước khó khăn trong lao

13



động và cuộc sống v.v… một khi con người đã vượt qua thì niềm vui, hạnh phúc mà họ
nhận được sẽ càng lớn.
Hạnh phúc trọn vẹn là sự thỏa mãn những nhu cầu cả về vật chất lẫn tinh thần, đồng
thời phải không ngừng sáng tạo ra những giá trị đó. Nhưng nhu cầu vật chất thì có hạn, cịn
nhu cầu tinh thần thì khơng có giới hạn nên bao giờ cũng là tiêu chuẩn cao hơn, đòi hỏi con
người phải kiên trì phấn đấu mới có thể đạt được những đỉnh cao của khát vọng tinh thần.
3. Nghĩa vụ:
Nghĩa vụ chiếm một vị trí đặc biệt quan trọng trong đời sống đạo đức xã hội. Việc
thực hiện nghĩa vụ tốt hay xấu là thước đo đặc thù nói lên tình trạng tiến bộ hay thối hóa
của đời sống đạo đức trong xã hội.
Nghĩa vụ đạo đức là ý thức trách nhiệm, là tình cảm tự giác của con người đối với
người khác và đối với xã hội. Một hành vi được xem là nghĩa vụ đạo đức phải đặt trên cơ
sở tự nguyện, tự giác, cái thiện và tự do; là sự thống nhất giữa lý trí và tình cảm, ý thức và
hành vi của cá nhân với lý trí của tồn xã hội.
Nhà nghiên cứu đạo đức học nổi tiếng người Nga G. Bandzeladze đã viết: “Đạo đức
của con người là năng lực phục vụ một cách tự giác và tự do những người khác và xã
hội…. Nơi nào khơng có những hành động tự nguyện, tự giác của con người thì ở nơi ấy
khơng có nhân phẩm, khơng thể thực sự có đời sống xã hội” (G. Bandzeladze – đạo đức
học – NXB Giáo dục - Hà Nội – 1985 – t1, tr.102).
Sự trưởng thành về ý thức nghĩa vụ đạo đức phản ánh xu hướng tiến bộ của một xã
hội lành mạnh, hài hòa. Ý thức nghĩa vụ đạo đức khơng chỉ là sự địi hỏi, yêu cầu của xã
hội đối với cá nhân mà còn là nhu cầu của sự tiến bộ, hoàn thiện đối với bản thân mình. Vì
vậy, nghĩa vụ đạo đức khơng thể là sự ép buộc từ bên ngoài, mà gắn bó chặt chẽ với ý thức
của con người về lẽ sống, lý tưởng, hạnh phúc…. Những quan niệm đúng đắn giúp con
người nhận thức được sự thống nhất giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội, thống nhất giữa
hạnh phúc cá nhân và hạnh phúc xã hội. Đó là lý do làm cho ý thức nghĩa vụ đạo đức được
nuôi dưỡng, củng cố phát triển trong môi trường của một nền giáo dục gia đình đầm ấm, xã
hội lành mạnh mà ở đó tình thương u, đồn kết, sự quan tâm chăm sóc lẫn nhau với
những tình cảm chân thành được duy trì và phát triển. Trong những điều kiện đó, con
người được hưởng thụ một bầu khơng khí đạo đức trong sáng, cao quý và chan chứa tình

người, mà bản thân họ cũng trưởng thành về đạo đức, u lao động, có lý tưởng, hồi bão,
giàu cảm xúc, tin tưởng vào xã hội. Mất đi ý thức nghĩa vụ đạo đức cũng chính là đánh mất
ý thức về chính bản thân mình, mất đi ý nghĩa làm người của mình.
Trong quan hệ xã hội, bao trùm lên tất cả và thấm sâu vào mọi quan hệ xã hội là quan
hệ đạo đức, mà đặc trưng là nghĩa vụ của con người. Vì thế, ý thức nghĩa vụ đạo đức được
tất cả các thế hệ người trong xã hội vun đắp, gìn giữ, phát triển để trở thành niềm tin, tình
cảm thiêng liêng mà mỗi thế hệ người đều gìn giữ, kế thừa, bổ sung và hồn thiện. Ý thức
14


nghĩa vụ đạo đức mang tính chất một tình cảm thiêng liêng cao cả cấu thành nội dung cơ
bản của bổn phận, của đạo làm người. Chính ý thức nghĩa vụ đạo đức đã hun đúc lòng yêu
nước, trung thành với tổ quốc, hết lòng phục vụ nhân dân; yêu thương, kính trọng, hiếu
thảo với cha mẹ và lối sống thủy chung son sắt trong đạo vợ chồng, tình nghĩa anh em, bầu
bạn.
Ý thức nghĩa vụ đạo đức là quá trình phát triển khơng ngừng cùng với sự trưởng thành
của xã hội và con người. Vì thế, việc hình thành ý thức nghĩa vụ phải là một quá trình tu
dưỡng bền bỉ, rèn luyện không ngừng trong suốt cuộc đời của mỗi người.
4. Lương tâm:
Lương tâm là tình cảm hoặc ý thức trách nhiệm đạo đức của mỗi người về hành vi của
mình trong quan hệ xã hội; ý thức trách nhiệm đối với số phận của người khác và xã hội.
Lương tâm đồng thời là sự tự phán xét về các hoạt động, hành vi của mình. Vì vậy, lương
tâm khơng đơn thuần chỉ là tình cảm mà cịn chứa đựng cả yếu tố ý thức của con người.
Nguồn gốc của lương tâm gắn liền với hoạt động thực tiễn của con người qua quá
trình từ thấp lên cao. Nếu chỉ vì sợ hoặc xấu hổ trước người khác mà hành động thì chưa
phải là hành vi có lương tâm. Chỉ khi con người biết xấu hổ với chính mình thì tình cảm
lương tâm mới xuất hiện và khi đó con người hành động hồn tồn theo sự tự giác, tự do
của tình cảm, lý trí bản thân mà khơng phụ thuộc vào những tác động bên ngồi. Vì vậy,
lương tâm là biểu hiện tập trung nhất của ý thức đạo đức trong thực tiễn, nó là dấu hiệu và
thước đo sự trưởng thành của đời sống đạo đức cá nhân. Dưới hình thức tình cảm nội tâm,

lương tâm luôn tồn tại như một minh chứng cho sự hiện diện của đời sống đạo đức cá
nhân. Mỗi người, với tư cách là một chủ thể đạo đức trưởng thành bao giờ cũng là người
có lương tâm. Vì thế khái niệm “lương tâm”, “vô lương tâm” thường được dùng như sự
khẳng định hay phủ định tình trạng có đạo đức hay vơ đạo đức. Người có lương tâm sẽ có
đủ nghị lực vượt qua khó khăn để đạt tới những giá trị đích thực của cuộc sống; dù sống ở
đâu, trong bất kỳ hoàn cảnh nào vẫn giữ được nhân cách và rất giàu tình người.
Lương tâm khơng phải là một cảm xúc hời hợt, nhất thời hoặc một phản ứng tự nhiên
mang tính bản năng, mà đó là kết quả của một quá trình nhận thức sâu sắc đối với những
nhu cầu đạo đức xã hội. Sự hình thành cảm xúc lương tâm gắn liền nhận thức về lẽ sống, lý
tưởng, hạnh phúc của con người với ý thức nghĩa vụ đạo đức.
Nghĩa vụ đạo đức và lương tâm ln có mối liên hệ mật thiết với nhau. Nghĩa vụ đạo
đức là ý thức trách nhiệm trước xã hội và người khác, còn lương tâm là ý thức trách nhiệm
trước bản thân mình. Có thể xem ý thức nghĩa vụ đạo đức là nền tảng, là cơ sở hình thành
lương tâm con người.
Lương tâm được biểu hiện ở hai trạng thái khẳng định và phủ định. Trạng thái khẳng
định là sự thư thái, là cảm giác trong sạch của lương tâm. Nó giúp nâng cao tính tích cực
của con người, giúp con người tin tưởng vào bản thân, vào cuộc sống, thôi thúc con người
15


vươn tới cái thiện, cái tốt đẹp. Trạng thái phủ định là sự cắn rứt, sự không trong sạch của
lương tâm. Nó gây cho con người cảm giác đau khổ, làm suy giảm hoạt động tích cực của
con người. Nhưng mặt khác sự cắn rứt lương tâm cũng giúp con người thức tỉnh, hối cải;
giúp con người suy nghĩ lại và uốn nắn những hành vi sai trái của mình để trở về con người
đúng đắn, tiến bộ.
Người có đạo đức bao giờ cũng đặt cho mình một “tịa án lương tâm” để tự giám sát
mọi hành vi ứng xử của bản thân. Ân hận là sự trừng phạt của lương tâm; khi có lỗi lầm mà
lương tâm thức tỉnh thì sự ân hận giúp con người có thêm nghị lực để sửa chữa sai lầm,
khuyết điểm.
5. Thiện và ác:

Thiện là lợi ích của con người phù hợp với lợi ích và sự tiến bộ của xã hội. Thiện cũng
là những hoạt động phấn đấu hy sinh vì con người, làm cho con người ngày càng sung
sướng hơn, tư do, hạnh phúc, tiến bộ hơn. Nó là biểu hiện tập trung nhất, cụ thể và cao cả
nhất của đời sống đạo đức xã hội, gắn bó chặt chẽ với cái chân lý và cái tốt đẹp.
Đối lập với cái thiện là cái ác. Cái ác chống lại cái thiện, gây nên nỗi đau khổ cho con
người, cản trở sự phát triển và tiến bộ của xã hội.
Đạo đức học macxit quan niệm thiện và ác của con người là một sản phẩm lịch sử. Vì
thế, nội dung của nó khơng phải là một cái gì vĩnh viễn khơng thay đổi. Ngược lại, ở mỗi
thời đại, từ những quan hệ kinh tế, xã hội và giai cấp, con người lại hình thành nên những
quan niệm thiện – ác khác nhau, tương ứng với xã hội trong thời kỳ đó. Trong một xã hội
có giai cấp đối kháng thì những quan niệm về thiện – ác cũng khác nhau thậm chí cịn đối
lập nhau. Mặt khác, nhiều khi trong đời sống thực tiễn, cái ác còn được thể hiện ra như một
tất yếu phải vượt qua trên con đường con người đi tới cái thiện.
Sống thiện là nét đặc trưng trong đời sống đạo đức của con người và xã hội. Đề cao
việc thiện, phê phán và chống lại cái ác sẽ làm cho con người mang tính người hơn, làm
nảy nở những tình cảm như lịng vị tha, nhân ái, q trọng nhau; loại bỏ thói ích kỷ và
những hành vi vơ nhân đạo. Xã hội nào đề cao tính thiện thì những bất cơng xã hội cũng
giảm đi, con người được sống tự do, hạnh phúc hơn.
Sống thiện là phải ln suy nghĩ, hành động tích cực vì lợi ích và tiến bộ xã hội, đem
lại hạnh phúc và làm giảm đi những đau khổ cho người khác và cho xã hội. Vì vậy, để có
cái thiện thật sự thì phải giải phóng con người khỏi áp bức, bóc lột, bất công; xây dựng một
xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, tiến bộ, bình đẳng. Nếu lịng tốt, tình thương người
chỉ dừng lại ở ý thức tư tưởng thì chưa thể là thiện, điều quan trọng là nó phải được thể
hiện bằng hành động trong cuộc sống hiện thực.
Cái thiện còn là sự thống nhất giữa động cơ và kết quả, mục đích và phương tiện.
Thơng thường, một hành vi có động cơ tốt sẽ dẫn đến kết quả tốt, đó là thiện; động cơ xấu,
16


kết quả xấu, đó là ác; động cơ tốt, kết quả xấu, không coi là ác; động cơ xấu, kết quả tốt thì

vẫn coi là ác. Mối quan hệ giữa mục đích và phương tiện cũng vậy. Đã là mục đích thiện
thì khơng thể sử dụng những phương tiện ác, tàn bạo. Nhưng trong thực tế, để đi tới cái
thiện con người vẫn phải trải qua những hy sinh, mất mát, phải trả giá bằng xương máu của
hàng triệu người, vượt qua cái ác để giải phóng con người, hướng tới cái thiện cao cả, vĩ
đại và đáng trân trọng nhất.
************************

17


Chương II: ĐẠO ĐỨC NGHỀ NGHIỆP NHÀ BÁO
I.

KHÁI NIỆM VỀ ĐẠO ĐỨC NGHỀ NGHIỆP

Đạo đức nghề nghiệp là tập hợp những nguyên tắc, quy tắc, chuẩn mực nhằm điều
chỉnh và đánh giá cách ứng xử của con người trong lao động nghề nghiệp và quan hệ nghề
nghiệp với xã hội, được biểu hiện trong ba mối quan hệ: Với mình, với người (xã hội), với
công việc mà phẩm chất cao nhất là lòng yêu nghề và yêu người.
Những nguyên tắc và tiêu chuẩn đạo đức nghề nghiệp góp phần duy trì một trình độ
chun mơn cao nhằm hình thành nên chế độ làm việc của người lao động và tổ chức nghề
nghiệp. Mặt khác, đạo đức nghề nghiệp giúp người lao động nhận thức rõ được các phẩm
chất tốt của cá nhân đối với các chương trình và chính sách của tổ chức. Từ đó xác định
thái độ, hành động phù hợp giữa lợi ích của cá nhân với lợi ích của tổ chức và xã hội.
Ở nước ta từ khi Cách mạng Tháng tám thành công, ra đời Nhà nước của dân, do dân,
vì dân thì triết lý và những giá trị đạo đức nghề nghiệp cao nhất là phục vụ nhân dân.
Do tính chất và tác động xã hội của báo chí rất lớn; liên quan đến nhiều nghề, ảnh
hưởng đến nhiều người, nhiều lĩnh vực, lại luôn gắn với quyền lực, danh tiếng, chịu nhiều
áp lực nên đạo đức nghề nghiệp nhà báo cũng có những nét đặc thù và yêu cầu mang tính
xã hội cao.

II.

NHỮNG NGUYÊN TẮC NỀN MÓNG XÂY DỰNG QUY CHUẨN ĐẠO ĐỨC NGHỀ NGHIỆP
NHÀ BÁO VIỆT NAM

1. Nguyên tắc về phẩm chất chính trị:
Đây là nguyên tắc hàng đầu, vì làm báo là làm chính trị. Nhà báo trong chế độ ta là
những chiến sỹ xung kích trên mặt trận văn hóa tư tưởng, có vai trị định hướng tư tưởng
cho cơng chúng để tạo ra sự thống nhất và ổn định chính trị - xã hội, góp phần xây và bảo
vệ Tổ quốc. Vì vậy trước hết nhà báo phải nắm vững các quan điểm, đường lối, chính sách,
pháp luật của Đảng và Nhà nước; có lập trường vững vàng, trung thành với lý tưởng độc
lập và chủ nghĩa xã hội; đấu tranh để bảo vệ Đảng, bảo vệ Nhà nước và nhân dân.
2. Nguyên tắc về trình độ và năng lực chuyên môn:
Đây là nguyên tắc nhằm đảm bảo cho nhà báo hoàn thành tốt nhiệm vụ trong hoạt
động nghề nghiệp. Không ngừng phấn đấu học tập rèn luyện nâng cao trình độ hiểu biết,
tích lũy kinh nghiệm, phát huy năng lực sở trường và sáng tạo trong hoạt động nghề nghiệp
là tiêu chuẩn đạo đức của nhà báo.

3. Nguyên tắc về đạo đức cá nhân:
18


Đạo đức cá nhân là cơ sở để nhà báo xây dựng và phát huy đạo đức nghề nghiệp. Nhà
báo khơng thể có đạo đức nghề nghiệp nếu chưa có những phẩm chất tối thiểu của đạo đức
làm người. Đó là biết sống có ích (cho bản thân, gia đình và xã hội), có lịng thương người;
biết kiềm chế bản năng thú tính, biết chống lại cái xấu, cái ác và không ngừng tu dưỡng,
rèn luyện để bổ sung những phẩm chất cá nhân khác như lòng nhân ái, yêu nước, hiếu thảo,
trung thực, chân thành, chung thủy, cần, kiệm, liêm chính, chí cơng vơ tư v.v…. Những
phẩm chất đó chính là nền tảng để xây dựng và nâng cao đạo đức nghề nghiệp của mỗi nhà
báo.

4. Nguyên tắc về hiệu quả công việc:
Kết quả công tác là thước đo phẩm chất đạo đức của nhà báo. Đặc biệt phải quan tâm
đến hiệu quả xã hội của hoạt động nghề nghiệp và hiệu quả từ các tác phẩm báo chí do nhà
báo sáng tạo ra. Khơng thể nói nhà báo có đạo đức, khi nhà báo khơng hồn thành nhiệm
vụ hoặc viết nhiều, làm nhiều mà các tác phẩm do nhà báo sáng tạo ra khơng đem lại lợi
ích gì cho xã hội, thậm chí cỏn gây hậu quả xấu cho xã hội.
III.

TỪ QUY ƯỚC ĐẾN QUY ĐỊNH VỀ ĐẠO ĐỨC NGHỀ NGHIỆP CỦA NGƯỜI LÀM BÁO
VIỆT NAM

Dựa trên những nguyên tắc nền móng trên đây, ngay từ đại hội lần thứ VI (3/1995)
Hội Nhà báo Việt Nam đã thông qua 10 Quy ước Đạo đức nghề nghiệp báo chí Việt Na
1. Mục tiêu cao cả của báo chí Việt Nam là phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Nhà báo hoạt động trong bất kỳ lĩnh vực và hoàn cảnh
nào cũng hướng về mục tiêu cao cả đó.
2. Báo chí thực hiện quyền thông tin của nhân dân. Nhà báo phải khách quan, trung
thực, tôn trọng sự thật. Mọi thông tin đưa ra công luận phải phản ánh đúng bản
chất sự thật khách quan trong bối cảnh xã hội của nó, tuyệt đối khơng được xun
tạc hoặc cường điệu sự việc, sự kiện. Nhà báo có trách nhiệm cung cấp cho cơng
chúng hình ảnh chân thật, đúng bản chất về q trình của sự kiện và tình huống
được thơng tin, thơng qua đó hướng dẫn dư luận.
3. Báo chí là phương tiện thông tin thiết yếu với đời sống xã hội, là cơng cụ văn hóa.
Nhà báo tơn trọng và thực hiện tự do báo chí, chịu trách nhiệm trước xã hội; trước
nhân dân và tự do hành nghề trong khuôn khổ luật pháp. Nhà báo thực hiện đúng
tôn chỉ của cơ quan báo chí; khơng vì bất kỳ sức ép nào mà làm trái với mục tiêu
cao cả của báo chí Việt Nam, đi ngược lợi ích đất nước.
4. Cùng với quyền tự do thông tin, thực hiện quyền trả lời và cải chính trên báo chí là
một nguyên tắc cấu thành tự do dân chủ báo chí. Nhà báo có quyền kiên trì quan
điểm và thơng tin đúng đắn của mình, nhưng tơn trọng quyền trả lời và quyền cải

chính của cơng dân theo đúng luật pháp.
19


5. Nhà báo có nghĩa vụ bảo vệ nguồn tin và giữ bí mật do người khác cung cấp, phù
hợp với luật pháp.
6. Báo chí Việt Nam phát huy văn hóa dân tộc, đồng thời tơn trọng các nền văn hóa
khác và những giá trị tinh thần phổ biến của lồi người; phấn đấu vì đại đồn kết
dân tộc, vì hịa bình, hữu nghị, hiểu biết giữa các dân tộc và quốc gia trên thế giới.
7. Nhà báo góp phần phát triển lợi ích cơng đồng, tơn trọng quyền con người, không
lợi dụng thông tin để xúc phạm nhân phẩm và làm thiệt hại đến lợi ích của người
khác.
8. Nhà báo luôn luôn giữ phẩm chất trong sáng, không vụ lợi. tuyệt đối khơng vì lợi
ích cá nhân mà cố tình cơng bố hoặc bỏ qua khơng cơng bố một thơng tin. Nhà báo
khơng được dùng uy tín nghề nghiệp của mình để trục lợi.
9. Nhà báo tơn trọng chính kiến và quan điểm xã hội, nghề nghiệp của đồng nghiệp;
đoàn kết, hợp tác, giúp đỡ lẫn nhau trong hoạt động và đời sống; đấu tranh không
khoan nhượng chống mọi hành vi làm tổn hại đến đất nước, lợi ích nhân dân và
trái với đạo đức báo chí.
10.Nhà báo sống lành mạnh, văn minh, khát khao học hỏi, khiêm tốn cầu tiến bộ.
Nâng cao bản lĩnh, trình độ và kỹ năng nghề nghiệp của mình là ước vọng và sự
phấn đấu suốt đời của người làm báo.
Sau 10 năm thực hiện Quy ước Đạo đức nghề nghiệp Báo chí (1995 -2005), Đại hội
Hội Nhà Báo Việt Nam lần thứ VIII (8/2005) đã chuyển Quy ước thành “Quy định về Đạo
đức nghề nghiệp của Người làm báo Việt Nam.” Quy định này nhằm cụ thể hóa một nội
dung tiêu chuẩn hội viện trong Điều lệ Hội Nhà Báo Việt Nam – bộ luật cao nhất của tổ
chức Hội, được viết ngắn gọn thành 9 điều sau đây:
1. Tuyệt đối trung thành với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam
xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
2. Ln gắn bó với nhân dân, hết lòng phục vụ nhân dân.

3. Hành nghề trung thực, khách quan, tôn trọng sự thật.
4. Sống lành mạnh, trong sáng, không được lợi dụng nghề nghiệp để vụ lợi và
làm trái pháp luật.
5. Gương mẫu chấp hành pháp luật, làm trịn nghĩa vụ cơng dân, làm tốt trách
nhiệm xã hội.

20


6. Bảo vệ bí mật quốc gia, nguồn tin và giữ bí mật cho người cung cấp thơng
tin.
7. Tơn trọng, đoàn kết, hợp tác giúp đỡ đồng nghiệp trong hoạt động nghề
nghiệp.
8. Thường xuyên học tập, nâng cao trình độ chính trị, văn hóa, nghiệp vụ, khiêm
tốn cầu tiến bộ.
9. Giữ gìn và phát huy văn hóa dân tộc đồng thời tiếp thu có chọn lọc các nền
văn hóa khác.
Như vậy, từ “Quy ước” đến “Quy định Đạo đức nghề nghiệp của Người làm báo Việt
Nam” đã có những điểm mới.
Về hình thức, được viết ngắn gọn, súc tích hơn nhằm giúp các nhà báo dễ nhớ để thực
hiện.
Nội dung được nhấn mạnh vào sự gắn bó hết lịng hết sức phục vụ nhân dân, tính
trung thực, khơng vụ lợi trong đạo đức lối sống và hoạt động nghề nghiệp; đề cao trách
nhiệm xã hội, gương mẫu chấp hành pháp luật, làm trịn nghĩa vụ cơng dân… nhằm xây
dựng Hội Nhà báo các cấp trong sạch vững mạnh, không ngừng nâng cao chất lượng nhà
báo.
Tính pháp lý của Quy ước chỉ là sự “thỏa thuận với nhau”, còn Quy định là “những
điều khoản định ra để phải tuân theo, phải thực hiện” (từ điển Tiếng Việt). Nếu vi phạm
“Quy định” thì Hội có hình thức chế tài với những mức độ khác nhau, kể cả khai trừ ra
khỏi Hội.

IV.

LUẬT BÁO CHÍ VÀ QUY ĐỊNH ĐẠO ĐỨC NGHỀ NGHIỆP NHÀ BÁO:

Nhằm đảm bảo những yêu cầu tối thiểu mang tính bắt buộc nhà báo phải tuân theo,
một số nội dung đạo đức nghề nghiệp nhà báo đã được luật hóa thành các nghĩa vụ pháp lý
của báo chí và nhà báo trong Luật Báo chí hiện hành. Đó là những trách niệm của nhà báo
và cơ quan báo chí trong việc đảm bảo quyền tự do báo chí, tự do ngơn luận trên báo chí
của cơng dân (điều 2). Đó là nghĩa vụ của nhà báo và cơ quan báo chí trong việc thơng tin
trung thực, phù hợp với lợi ích của đất nước, của nhân dân; phản ánh ý kiến, nguyện vọng
chính đáng của nhân dân, góp phần thực hiện quyền tự do báo chí, quyền tự do ngơn luận
trên báo chí của cơng dân; bảo vệ đường lối, chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng và
Nhà nước; phát hiện, bảo vệ nhân tố tích cực, đấu tranh phịng chống các tư tưởng, hành vi
sai phạm; bảo vệ sự trong sáng của Tiếng Việt; thường xuyên học tập nâng cao trình độ
mọi mặt và khơng được lợi dụng danh nghĩa nhà báo để sách nhiễu nhân dân, vi phạm
pháp luật; phải cải chính xin lỗi trong trường hợp thơng tin sai sự thật, xuyên tạc, vu
khống, xúc phạm uy tín của tổ chức và cơng dân (điều 6 và điều 15).
21


Đặc biệt, Luật Báo chí cũng quy định những điều cấm nhà báo không được làm khi
hoạt động nghề nghiệp (điều 10):
- Khơng được kích động nhân dân chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam, phá hoại khối đồn kết tồn dân.
- Khơng được kích động bạo lực, tuyên truyền chiến tranh xâm lược, gây hận
thù giữa các dân tộc và nhân dân các nước, kích động dâm ô, đồi trụy, tội ác.
- Không được tiết lộ bí mật Nhà nước, bí mật quân sự, an ninh, kinh tế, đối
ngoại và những bí mật khác do pháp luật quy định.
- Không được đưa tin sai sự thật, xuyên tạc vu khống nhằm xúc phạm danh dự
của tổ chức, danh dự nhân phẩm của công dân.

Nghị định số 51 ngày 26/4/2002 của Chính phủ, hướng dẫn thi hành Luật Báo chí cịn
cụ thể thành 6 điều khơng được thơng tin trên báo chí. Trong đó nhấn mạnh đến các yêu
cầu, khi thông tin nhà báo không được miêu tả tỉ mỉ những hành động tội ác, dâm ô, chém
giết rùng rợn; không được đăng, phát tin, bài, tranh ảnh khỏa thân, kích dâm, thiếu thẩm
mỹ, trái với thuần phong mỹ tục Việt Nam; không được đăng, phát tin, bài, ảnh làm ảnh
hưởng xấu đến việc bảo vệ bí mật đời tư và quyền về hình ảnh của cá nhân; không được
đăng, phát tin, bài truyền bá hủ tục, mê tín dị đoan v.v…
Nhà báo có đạo đức trước hết phải đề cao ý thức tôn trọng pháp luật, thực hiện tốt
các quy định của Luật Báo chí và các văn bản dưới luật khác. Đồng thời phải tự giác thực
hiện tốt các Quy định Đạo đức nghề nghiệp của Người làm báo Việt Nam.
V.

NHỮNG TIÊU CHUẨN ĐẠO ĐỨC CƠ BẢN CỦA NHÀ BÁO NƯỚC TA:

Từ những quy định về đạo đức nghề nghiệp của Hội Nhà Báo Việt Nam và Luật Báo
chí hiện hành, có thể rút ra những tiêu chuẩn cơ bản về đạo đức nghề nghiệp của nhà báo
nước ta hiện nay như sau:
1. Trọng dân, vì dân – Tiêu chuẩn hàng đầu đạo đức nghề nghiệp nhà báo:
Trọng dân là nói về thái độ ứng xử của nhà báo khi hành nghề và sáng tạo phải ln
kính trọng nhân dân, tơn trọng lễ phép, gắn bó chặt chẽ với nhân dân, yêu thương tin tưởng
ở nhân dân; luôn lắng nghe và chịu sự giám sát của nhân dân. Vì dân là nói về mục đích
hoạt động nghề nghiệp của nhà báo, phải hết lòng hết sức tận tụy phục vụ nhân dân; mọi
hoạt động sáng tạo của nhà báo phải ln hướng tới lợi ích và sự tiến bộ của nhân dân.
Tư tưởng trọng dân, vì dân trước hết xuất phát từ bản chất của Nhà nước ta là Nhà
nước của dân, do dân, vì dân; nhân dân là chủ, cán bộ công chức là cơng bộc của dân. Vì
vậy giá trị đạo đức nghề nghiệp cao nhất của báo chí và nhà báo là phục vụ nhân dân.
22


Trọng dân, vì dân cịn xuất phát từ chức năng nhiệm vụ của báo chí là đảm bảo quyền được

thơng tin, một trong những quyền cơ bản của con người đã được Hiến pháp và Luật Báo
chí nước ta minh định. Nhân dân có quyền tiếp nhận thơng tin và cung cấp thơng tin cho
báo chí. Báo chí và nhà báo phải tôn trọng và đảm bảo các quyền cơ bản đó của người dân.
Trong xu hướng phát triển báo chí hiện nay, vai trị của nhân dân tham gia vào quá
trình làm báo ngày càng tăng. Nhân dân là nguồn sống, lực lượng quan trọng góp phần
quyết định nâng cao chất lượng sản phẩm báo chí, nên trọng dân, vì dân cịn là u cầu mới
nhằm đảm bảo cho báo chí phát triển và thực hiện tốt mục đích của mình.
Chủ tịch Hồ Chí Minh là người đã nêu tấm gương sáng về đạo đức “trọng dân, vì dân”
trong hoạt động nghề nghiệp báo chí. Đối với Bác Hồ , trọng dân, vì dân vừa là mục đích
vừa là điều kiện, vừa là tiêu chuẩn đạo đức trong hoạt động báo chí. Đó là sự kết hợp
nhuần nhuyễn giữa chủ nghĩa Mac – Lênin và tư tưởng yêu nước, thương dân, truyền thống
nhân đạo của người Việt Nam.
Trong nhiều bài viết của mình Bác ln nhắc các nhà báo trước khi viết phải trả lời rõ:
“Viết cho ai xem? Viết để làm gì?” (Hồ Chí Minh tồn tập, tập 9, trang 415), “Vì ai mà
viết? Mục đích viết để làm gì?” (Hồ Chí Minh tồn tập, tập 6, trang 443 - 444) v.v…. đĐặt
ra những câu hỏi đó chính là Bác đã đòi hỏi các nhà báo phải xác định rõ đối tượng tiếp
nhận thông tin trước khi sáng tạo một tác phẩm báo chí để lựa chọn mục đích và phương
pháp phù hợp. Theo Bác, “Đối tượng của tờ báo là đại đa số nhân dân” và mục đích của
việc viết báo khơng có gì khác ngồi lợi ích và sự tiến bộ của nhân dân. Vì vậy, Người luôn
dạy các nhà báo phải gần gũi nhân dân, lấy dân làm đối tượng, làm mục đích phục vụ. Viết
báo phải làm cho dân dễ hiểu, dễ nhớ; phải giúp dân tiến bộ và viết cái gì có lợi cho nước,
cho dân. Nhà báo phải đồng hành cùng nhân dân và dân tộc, sống trong lịng nhân dân, tơn
trọng, lắng nghe, học tập nhân dân, làm cho dân tin, dân yêu, đồng thời phải hiểu dân và tin
yêu dân. Nhân dân là hòn đá thử vàng đối với quá trình học tập, tu dưỡng và hoạt động của
mỗi nhà báo. Vì vậy, nhà báo phải lấy dân làm thước đo, kiểm tra đánh giá mình; phải coi
dân là người thầy, người bảo trợ giúp đỡ mình hoạt động.
Trọng dân, vì dân theo u cầu đổi mới, báo chí khơng chỉ phục vụ, đáp ứng yêu cầu
nguyện vọng chính đáng, bảo vệ quyền lợi hợp pháp của nhân dân mà còn phải thực sự trở
thành diễn đàn, tạo điều kiện cho nhân dân thực hiện quyền làm chủ đất nước, làm chủ vận
mệnh của mình. Với vai trị là cầu nối giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân, báo chí có trách

nhiệm tạo ra sự đồng thuận xã hội, phát huy mọi tiềm lực của nhân dân trong việc tham gia
quản lý, giám sát và phản biện xã hội để xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội trên đất
nước ta, làm cho “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.”
Thể hiện tư tưởng trọng dân, vì dân trong Quy định Đạo đức nghề nghiệp Nhà báo là:
Tuyệt đối trung thành với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ
nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam (điều 1); Ln gắn bó với nhân dân,
hết lịng phục vụ nhân dân (điều 2); Hành nghề trung thực, khách quan, tôn trọng sự thật
(điều 3); Không lợi dụng nghề nghiệp để vụ lợi và làm trái phát luật (điều 4); Làm tốt trách
23


nhiệm xã hội (điều 5); Giữ bí mật cho người cung cấp thơng tin (điều 6); Giữ gìn phát huy
văn hóa dân tộc (điều 9).
Nhà báo biết trọng dân, vì dân sẽ ln sống trong lịng nhân dân, bám sát thực tiễn
cuộc sống, gắn bó chặt chẽ với nhân dân nên nắm vững dân tình, hiểu rõ dân tâm, tơn tọng
dân quyền. Vì vậy họ ln được nhân dân tin tưởng, yêu mến, giúp đỡ, bảo bọc; luôn sáng
tạo được những tác phẩm báo chí có chất lượng, hiệu quả xã hội cao.
Khơng trọng dân, vì dân nhà báo sẽ quan liêu biến thành những nhà báo “salon”, chỉ
ngồi một chỗ mà khơng đi thực tế để tìm hiểu, quan sát, lắng nghe ý dân, tìm hiểu lịng
dân, sẽ chỉ tạo ra những tác phẩm thiếu khách quan trung thực, phiến diện. Những nhà báo
như vậy thường mắc bệnh tự cao, tự mãn, thiếu khiêm tốn, có thái độ hống hách xem
thường nhân dân. Họ ln coi mình ở thế đứng trên dân để chỉ bảo, răn dạy, ban ơn nên
thường thông tin một chiều áp đặt. Hoặc tự đặt mình đứng ngồi cuộc sống của dân để săm
soi, phê phán với thái độ lạnh lùng, vô cảm, thiếu khách quan, trung thực, thiếu tính nhân
văn.
2.

Tính trung thực – đặc trưng nhân cách đạo đức nghề nghiệp nhà báo.

Trung thực là ngay thẳng, thật thà, tôn trọng sự thật, lẽ phải và chân lý trong các quan

hệ xã hội. Đây là nguyên tắc đạo đức quan trọng trong hoạt động nghề nghiệp, là sức mạnh
của báo chí. Yêu cầu này trước hết xuất phát từ mục đích của hoạt động báo chí là vì dân,
từ tính chân thật của báo chí, đồng thời cũng nhằm bảo vệ danh dự và uy tín của nhà báo.
Trung thực là đức tính cần có của mọi người, mọi nghề nhưng nghề báo có tính đặc thù.
Sản phẩm của nghề báo là thơng tin, tạo nên hiệu ứng xã hội mạnh mẽ trên diện rộng. Sức
mạnh và uy tín của báo chí phụ thuộc vào tính khách quan, chân thật của những thơng tin
mà nhà báo đem đến hoặc phản ánh ý chí nguyện vọng của cơng chúng. Vì vậy, nhà báo
phải khách quan trung thực trong hoạt động nghề nghiệp, trong giao tiếp và lao động sáng
tạo mới được dân tin, dân nghe, dân làm theo.
Đảm bảo tính chân thật theo yêu cầu mới, địi hỏi nhà báo phải nhìn thẳng vào sự
thật, đánh giá đúng sự thật và phản ánh rõ sự thật. Nhìn thẳng vào sự thật, địi hỏi mỗi nhà
báo phải nhìn rõ cả mặt tốt và mặt chưa tốt, mặt xấu của xã hội để xác định thái độ đúng
đắn trong thông tin. Nhà báo phải tôn trọng, phát huy mặt tốt, mặt tích cực và kiên quyết
đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi cái ác, cái xấu để xây dựng xã hội lành mạnh, tiến bộ. Đánh
giá đúng sự thật là u cầu có tính quyết định của nhìn thẳng vào sự thật. Vì bản chất của
sự thật thường bị che lấp bởi những biểu hiện hình thức bên ngoài. Mặt khác, những yếu tố
chủ quan của nhà báo, như thế giới quan, trình độ năng lực, kinh nghiệm, tâm lỳ, lợi ích,
phương thức tiếp cận nguồn tin và thái độ khi thông tin cũng là những yếu tố ảnh hưởng
đến việc đánh giá đúng sự thật. Vì vậy, nhà báo phải khách quan, trung thực; có sự hiểu
biết, thái độ nghiêm túc, chân thành và công tâm. Phản ánh rõ sự thật là thực hiện sự công
khai sau khi đánh giá đúng sự thật. Việc này liên quan đến vai trò định hướng và chức năng
bảo vệ lợi ích xã hội của báo chí. Nhà báo phải cân nhắc, chọn lọc để mọi sự thật được

24


phản ánh phải phù hợp với đường lối, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước, lợi ích
của đất nước và của nhân dân.
Để thể hiện tính trung thực, nhà báo trước hết phải trung thực với chính mình, có thái
độ u, ghét rõ ràng, sự cơng tâm trong ứng xử, trong hoạt động nghề nghiệp và phản ánh

hiện thực; phải giữ phẩm chất trong sáng, không vụ lợi, thiên vị để bảo vệ lẽ phải và chân
lý. Đồng thời khi thông tin sai phải chân thành, thẳng thắn nhận khuyết điểm và kịp thời
cải chính, xin lỗi cơng chúng. Trong q trình hoạt động, lịng trung thực của nhà báo luôn
phải đối mặt với nhiều áp lực và sự cám dỗ, địi hỏi phải có dũng khí, bản lĩnh, sự chân
thành và nhân ái để vượt qua.
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh ln quan tâm đến tính trung thực, khách quan trong
hoạt động báo chí và căn dặn các nhà báo: “Không biết rõ, hiểu rõ, chớ nói, chớ viết. Khi
khơng có gì cần nói, khơng có gì cần viết, chớ nói, chớ viết càn; chưa điều tra, chưa nghiên
cứu, chưa biết rõ, chớ nói, chớ viết”. Bác yêu cầu các nhà báo: “Không nên chỉ viết cái tốt
mà giấu đi cái xấu. Nhưng phê bình phải đúng đắn. Nêu cái hay, cái tốt thì phải có chừng
mực, chớ phóng đại…. Phê bình phải phê bình một cách thật thà, chân thành, đúng đắn…”
để “phần thiện trong con người nảy nở, chứ khơng có nghĩa là vùi dập” (Hồ Chí Minh tồn
tập, tập 4, trang 444,526,530).
Tiếp nối tinh thần đó, nhân kỷ niệm 70 năm ngày Báo chí Cách mạng Việt Nam
(21/6/1995), Ban chấp hành Trung ương Đảng đã tặng các nhà báo bức trướng ghi dòng
chữ “Trung thực – Đồn kết – Trí tuệ - Đổi mới vì sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước”. Luật Báo chí quy định quyền và nghĩa vụ của báo chí và nhà báo: “Thơng
tin trung thực về tình hình trong và ngồi nước phù hợp với lợi ích của đất nước và
nhân dân.” Điều 3 trong Quy định Đạo đức nghề nghiệp của Người làm báo Việt Nam
cũng ghi rõ : “Hành nghề trung thực, khách quan, tơn trọng sự thật.”
Tóm lại, trung thực là đặc trưng nhân cách của nhà báo và cũng là phẩm chất hàng đầu
mà Đảng, Nhà nước, nhân dân đòi hỏi các cơ quan báo chí, các nhà báo phải tơn trọng và
thực hiện.

3. Trách nhiệm xã hội – Tiêu chuẩn đạo đức sống cịn của báo chí và nhà
báo:
Trách nhiệm xã hội thuộc phạm trù nghĩa vụ đạo đức. Nhà báo khi hoạt động nghề
nghiệp mang trên vai hai thứ trách nhiệm. Đó là trách nhiệm trước cơ quan báo chí, phải
hồn thành tốt mọi cơng việc được giao. Vượt lên trên trách nhiệm ấy là trách nhiệm với xã
hội. Hai trách nhiệm này có mối quan hệ thống nhất với nhau. Hoàn thành tốt trách nhiệm

với cơ quan báo chi là tiền đề để nhà báo hoàn thành tốt trách nhiệm xã hội và ngược lại.
25


×