Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

Tài liệu Báo cáo " Đạo đức nghề nghiệp và hiệu quả của hoạt động tư pháp " doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (82.13 KB, 6 trang )



nghiên cứu - trao đổi

12
Tạp chí luật học số 2/2003





PGS.TS. Phạm Hồng Hải *
oạt động t pháp là dạng hoạt động
của Nhà nớc do các cơ quan t pháp
thực hiện. Nội dung của hoạt động t pháp
bao gồm các hoạt động khác nhau nhằm
giải quyết các loại tranh chấp, vi phạm pháp
luật và tội phạm. Dựa vào đặc điểm, lĩnh
vực của các loại tranh chấp, vi phạm pháp
luật có thể chia hoạt động t pháp thành
hoạt động hoà giải, hoạt động giải quyết vi
phạm hành chính, dân sự, kinh tế, lao động
và hoạt động giải quyết vụ án hình sự. Dựa
vào chủ thể thực hiện hoạt động t pháp có
thể chia hoạt động t pháp thành hoạt động
điều tra của cơ quan điều tra, hoạt động của
viện kiểm sát, hoạt động xét xử của toà án
và hoạt động của cơ quan thi hành án trong
việc thi hành các quyết định và bản án có
hiệu lực pháp luật của toà án. Hoạt động t
pháp là loại hoạt động mang tính quyền lực


của Nhà nớc có mục đích giải quyết đúng
đắn các tranh chấp, các vụ vi phạm pháp
luật và tội phạm, bảo vệ pháp chế, bảo vệ
quyền lợi của Nhà nớc, các tổ chức và
công dân, góp phần ổn định x hội, tạo điều
kiện thuận lợi cho việc thực hiện các nhiệm
vụ phát triển kinh tế - x hội, văn hoá, giáo
dục, đối nội, đối ngoại của Nhà nớc.
ở nớc ta những năm qua, hoạt động
của cảnh sát, viện kiểm sát, toà án đ đợc
d luận x hội đặc biệt quan tâm. Do vậy
mà chất lợng, hiệu quả của hoạt động t
pháp đang là mối quan tâm lớn trong x
hội, đặc biệt trong số những ngời, những
cơ quan là chủ thể của hoạt động t pháp và
những ngời làm công tác nghiên cứu khoa
học pháp lí. Nâng cao chất lợng, hiệu quả
của hoạt động t pháp đang là đòi hỏi cấp
bách hiện nay.
Khi đánh giá hiệu quả của hoạt động t
pháp cần xuất phát từ nguyên tắc khách
quan, toàn diện. Đánh giá và tìm ra các biện
pháp nâng cao hiệu quả của hoạt động t
pháp là những công việc không thể tách rời
nhau. Hoạt động t pháp là loại hoạt động
phức tạp, nó đồng thời do nhiều cơ quan,
nhiều ngời tiến hành. Chính vì tính phức
tạp nên hiệu quả hoạt động t pháp phụ
thuộc vào rất nhiều yếu tố khác nhau nh
pháp luật, cơ sở vật chất - kĩ thuật của cơ

quan t pháp, công tác tổ chức cán bộ và
đạo đức nghề nghiệp của cán bộ t pháp
Cho đến nay, đ có không ít công trình
nghiên cứu về hiệu quả của hoạt động t
pháp và đề ra các giải pháp nâng cao hiệu
quả của loại hoạt động này. Tuy nhiên, việc
đề cập đạo đức t pháp nh là một trong
những yếu tố quyết định chất lợng, hiệu
quả của hoạt động t pháp hầu nh cha
đợc quan tâm đúng mức.
Cũng nh các loại hoạt động khác, hoạt
động t pháp là hoạt động của những con
H

* Viện nghiên cứu nhà nớc và pháp luật


nghiên cứu - trao đổi
Tạp chí luật học số 2/2003 13

ngời cụ thể. Hoạt động này cho dù đợc
dựa trên nền tảng pháp lí vững chắc và cơ
chế phù hợp, đợc thực hiện bởi những cán
bộ t pháp có năng lực, trình độ nhng kém
về phẩm chất đạo đức thì hiệu quả của nó
cũng không thể cao. Khi bản thân con
ngời - chủ thể của hoạt động t pháp
không tự rèn luyện mình, không tu dỡng
đạo đức, không có tinh thần, thái độ làm
việc theo đúng các quy định của pháp luật,

không phù hợp với nguyên tắc đợc x hội
thừa nhận thì hoạt động t pháp không thể
đạt đợc hiệu quả cao. Chính vì vậy, có thể
nói đạo đức t pháp và chất lợng, hiệu quả
của hoạt động t pháp có mối quan hệ
khăng khít với nhau. Đạo đức t pháp nh
tiền đề, điều kiện bảo đảm cho hiệu quả của
hoạt động t pháp.
Theo Từ điển tiếng Việt thì đạo đức là
những tiêu chuẩn, nguyên tắc đợc d luận
x hội thừa nhận, quy định hành vi, quan hệ
của con ngời đối với nhau và đối với x
hội.
(1)
Đạo đức luôn mang tính lịch sử và
tính giai cấp. ở mỗi thời kì phát triển của
x hội, đạo đức có những nội dung và giá trị
riêng. Mỗi giai cấp lại quan niệm về đạo
đức khác nhau. Nhà nớc ta là nhà nớc
dân chủ nhân dân, chúng ta lại đang thực
hiện những t tởng chỉ đạo của Đảng cộng
sản Việt Nam là xây dựng nhà nớc pháp
quyền x hội chủ nghĩa của nhân dân, do
nhân dân và vì nhân dân. Vì vậy, đạo đức
trong x hội ta hiện nay là sự quan niệm,
cách đối xử và ứng xử của những cá nhân
với nhau, với x hội, hớng tới lợi ích của
con ngời, của tập thể và của toàn x hội.
Đạo đức t pháp là bộ phận hợp thành của
đạo đức x hội. Nó không thể tách rời và

biệt lập với xu thế chung của thời đại; chịu
sự ảnh hởng của đạo đức x hội, chi phối
và tác động ngợc trở lại đối với đạo đức x
hội.
Hoạt động t pháp là hoạt động của Nhà
nớc, đợc thực hiện bởi cơ quan t pháp và
các nhân viên t pháp. Vì thế, đạo đức t
pháp chính là quan niệm, nhận thức, cách
ứng xử, đối xử của những ngời nói trên với
nhau, với những ngời tham gia trong hoạt
động t pháp và với toàn x hội. Việc giải
quyết các vụ tranh chấp, các vụ án cho dù là
hình sự hay kinh tế, dân sự, lao động, hành
chính luôn là công việc khó khăn, phức tạp
mà không cơ quan hay cá nhân nào có thể
tự mình thực hiện đợc. Sự phối kết hợp
trong quá trình hoạt động giữa các cơ quan
t pháp và cán bộ, nhân viên t pháp là việc
làm cần thiết. Pháp luật tố tụng bao gồm bộ
luật, pháp lệnh, thông t, thông t liên
ngành đ có những quy định về mối quan
hệ giữa các cơ quan t pháp và nhân viên t
pháp nhng thực tế những quy định của
pháp luật tố tụng đ và sẽ không bao giờ có
thể điều chỉnh hết các quan hệ x hội phát
sinh trong hoạt động t pháp. Vì thế, trong
rất nhiều trờng hợp, đạo đức t pháp sẽ có
tác dụng lấp vào chỗ trống của pháp luật tố
tụng, bảo đảm cho hoạt động t pháp đợc
tiến hành một cách bình thờng. Đạo đức và

pháp luật luôn có mối kết gắn với nhau. Các
quy phạm pháp luật phải căn cứ vào đạo
đức đồng thời pháp luật cũng là phơng tiện
củng cố những truyền thống đạo đức.


nghiên cứu - trao đổi
14 Tạp chí luật học số 2/2003

Khi thực hiện công việc cụ thể nào đó
thuộc lĩnh vực của hoạt động t pháp, nhân
viên t pháp có thể độc lập và cũng có thể
phải phối hợp với đồng nghiệp. Mối quan
hệ phối hợp giữa những nhân viên t pháp
trớc hết thể hiện trong quan hệ giữa những
ngời cùng cơ quan. Khi công việc điều tra
vụ án hình sự đợc giao cho nhiều điều tra
viên thì nó chỉ có thể đợc tiến hành nhanh
chóng và có chất lợng khi các điều tra viên
có tinh thần hợp tác với nhau, "dàn hàng
ngang" để tiến. Công việc của ngời này
phải thực sự là yếu tố bảo đảm chất lợng
hiệu quả công việc của ngời kia. Kiểm sát
viên làm công tác kiểm sát xét xử sẽ không
thể thực hiện đợc công việc của mình có
hiệu quả nếu kiểm sát viên làm công tác
kiểm sát điều tra lơ là, thiếu trách nhiệm
trong việc củng cố chứng cứ buộc tội và
hoàn tất hồ sơ trong thời hạn luật định. Các
điều tra viên trong các chuyên án không thể

nhanh chóng kết thúc điều tra khi các trinh
sát không tích cực truy tìm tội phạm và các
chứng cứ về tội phạm. Trong công việc, các
nhân viên t pháp còn có mối quan hệ với
ngời lnh đạo, quản lí. Mối quan hệ này có
khi chỉ là mối quan hệ hành chính (mối
quan hệ giữa thẩm phán và chánh án) và
cũng có khi vừa là quan hệ hành chính vừa
là quan hệ tố tụng (thí dụ, mối quan hệ giữa
điều tra viên và thủ trởng, phó thủ trởng
cơ quan điều tra; mối quan hệ giữa kiểm sát
viên và viện trởng hoặc phó viện trởng
viện kiểm sát). Mối quan hệ tố tụng đ đợc
điều chỉnh bằng pháp luật tố tụng còn mối
quan hệ hành chính thì không phải tất cả
đều đợc điều chỉnh bằng các văn bản pháp
luật hành chính hoặc các quy định nội bộ cơ
quan trong khi chúng có ảnh hởng rất lớn
tới chất lợng, hiệu quả của công việc. Cơ
quan t pháp không giống nh các cơ quan
nhà nớc khác trong đó nhân viên làm việc
theo một kế hoạch định sẵn. Ngời đứng
đầu cơ quan điều tra, viện kiểm sát, toà án,
cơ quan thi hành án không thể giao cho
nhân viên dới quyền một tháng, một năm
phải thụ lí giải quyết bao nhiêu vụ án bởi số
lợng công việc của những ngời này phụ
thuộc vào số lợng các vụ tranh chấp, các
vụ án xảy ra ngoài x hội. Hơn nữa, một số
vụ việc chỉ có thể đợc hoàn thành khi giao

cho những ngời cụ thể nào đó. Vì vậy,
trong các cơ quan t pháp, khối lợng công
việc mà mỗi ngời phải thực hiện không
giống nhau. Nếu cán bộ t pháp không có
thái độ tuyệt đối tuân thủ sự phân công,
phân nhiệm của cán bộ lnh đạo, quản lí tất
yếu dẫn tới tình trạng vụ việc ách tắc,
không đợc giải quyết đúng hạn luật định.
Cũng là cơ quan nhà nớc nhng một số cơ
quan t pháp nh cơ quan điều tra, viện
kiểm sát không thể làm việc theo giờ hành
chính, theo những ngày lao động nh quy
định của Bộ luật lao động. Vì thế, khi nhân
viên t pháp ở các cơ quan này không nêu
cao tinh thần trách nhiệm nghề nghiệp thì
hoạt động t pháp không đợc thực hiện.
Chúng ta thử tởng tợng điều gì sẽ xảy ra
khi điều tra viên từ chối việc khám nhà, bắt
ngời vào ban đêm khi những việc làm nói
trên không thể trì hon; kiểm sát viên từ
chối có mặt để tiến hành khám nghiệm hiện


nghiên cứu - trao đổi
Tạp chí luật học số 2/2003 15

trờng, khai quật tử thi vào thời gian
ngoài giờ hành chính
Mối quan hệ và cách ứng xử giữa các
nhân viên t pháp không cùng cơ quan cũng

là yếu tố ảnh hởng tới chất lợng, hiệu quả
của hoạt động t pháp. Trong quá trình giải
quyết các tranh chấp, vụ án khác nhau, các
quan hệ giữa những ngời nói trên vừa
mang tính phối hợp vừa mang tính chế ớc.
Dù cha đạt tới mức tối u nhng pháp luật
tố tụng của nớc ta cũng đ có những quy
định để thể chế hoá các mối quan hệ giữa
các cơ quan t pháp và giữa các nhân viên
t pháp thuộc các cơ quan khác nhau. Tuy
nhiên, việc có thực hiện đợc hay không
các quy định của pháp luật tố tụng lại phụ
thuộc vào đạo đức nghề nghiệp của chính
các nhân viên t pháp. Xét từ khía cạnh
hiệu quả của công việc, mỗi cơ quan t
pháp, nhân viên t pháp có vị trí, vai trò
khác nhau. Không thể nói cơ quan t pháp
này, nhân viên t pháp này quan trọng hơn
cơ quan t pháp và nhân viên t pháp khác.
Nếu mỗi cơ quan t pháp, mỗi nhân viên t
pháp ý thức đợc trách nhiệm, nghĩa vụ của
mình, của cơ quan mình, của công việc do
mình đang thực hiện thì guồng máy t pháp
sẽ chuyển động nhịp nhàng và hoạt động t
pháp có khả năng đạt hiệu quả cao. Tuy
nhiên, thực tế hoạt động của các cơ quan t
pháp không phải lúc nào cũng diễn ra nh
x hội mong muốn. Có những điều tra viên,
do những nguyên nhân chủ quan đ không
thể hoàn tất đợc hồ sơ trong thời gian luật

định nhng họ đ lách luật, đẩy khó khăn
cho viện kiểm sát bằng cách chuyển hồ sơ
sang viện kiểm sát với các tài liệu, chứng cứ
cha đầy đủ. Lẽ đơng nhiên, trong trờng
hợp này viện kiểm sát phải hoàn trả hồ sơ,
yêu cầu điều tra bổ sung và lúc này điều tra
viên lại có thời gian là hai tháng để điều tra
bổ sung. Cho rằng sau này hồ sơ có đợc
hoàn tất trong thời gian luật định nhng rõ
ràng tố tụng hình sự đ kéo dài thêm hai
tháng và nếu ngời bị tạm giam không có
căn cứ thì họ đ bị thêm hai tháng hạn chế
quyền tự do trong trại tạm giam. Để hoạt
động t pháp có hiệu quả, sự phối kết hợp
giữa các cơ quan và nhân viên t pháp trong
phạm vi quy định của pháp luật là rất cần
thiết. Quan niệm "việc tôi tôi làm, việc anh
anh làm" phủ nhận hoặc hạn chế sự phối
hợp giữa các cơ quan và nhân viên t pháp
sẽ làm phức tạp và kéo dài quá trình giải
quyết các tranh chấp, vụ án, không kịp thời
khắc phục hậu quả đ xảy ra, không kịp
thời khôi phục lại những quan hệ x hội đ
bị xâm hại, góp phần làm lành mạnh hoá
các quan hệ x hội, thúc đẩy quá trình thực
hiện các nhiệm vụ kinh tế, chính trị, x hội
của Nhà nớc.
Cũng nh quan hệ phối hợp, quan hệ
chế ớc giữa các cơ quan và nhân viên t
pháp do pháp luật tố tụng quy định. Việc

pháp luật quy định cơ quan, nhân viên t
pháp đợc quyền kiểm tra, giám sát, phủ
nhận quyết định của cơ quan, nhân viên t
pháp khác hoặc yêu cầu cơ quan và nhân
viên t pháp này thực hiện công việc nào đó
là để tạo ra trong hoạt động t pháp cơ chế
đối trọng, cơ chế kiểm tra, giám sát lẫn
nhau với mục đích hạn chế hoặc khắc phục


nghiên cứu - trao đổi
16 Tạp chí luật học số 2/2003

sai lầm có thể đ xảy ra hoặc sẽ xảy ra.
Thực hiện sự kiểm tra, giám sát và chịu sự
kiểm tra, giám sát trong hoạt động t pháp
là sự tuân thủ pháp luật chứ không phải xuất
phát từ ý chí chủ quan của ai. Trong thực tế,
có ngời có quyền nhng lại không thực
hiện vì có sự nể nang, ngợc lại có ngời có
nghĩa vụ chấp hành nhng cũng không thực
hiện vì thiếu trách nhiệm hoặc nghĩ rằng
mình có trình độ chuyên môn hơn ngời
nên không ai có quyền kiểm tra, giám sát và
chỉ đạo. Nhiều vụ án khi viện kiểm sát hay
toà án trả hồ sơ điều tra bổ sung, điều tra
viên không làm gì thêm hay toà án cấp trên
xử huỷ án yêu cầu toà cấp dới xử lại theo
hớng chỉ đạo nhng toà án cấp dới vẫn lại
xử nh cũ. Việc làm trên đây cũng sẽ kéo

dài quá trình giải quyết vụ án hoặc dẫn tới
các quyết định, bản án của toà án thiếu căn
cứ pháp luật, có khi bỏ lọt tội phạm, làm
oan ngời vô tội.
Trong quá trình giải quyết các tranh
chấp và các vụ án khác nhau, nhân viên t
pháp còn có quan hệ với những ngời thuộc
các cơ quan bổ trợ t pháp nh luật s;
giám định viên; những ngời tham gia tố
tụng khác nh bị can, bị cáo, nguyên đơn
dân sự, bị đơn dân sự, ngời có quyền và
nghĩa vụ liên quan, ngời làm chứng, ngời
bị hại. Trong thực tế hiện nay, ngời ta gọi
cơ quan giám định, tổ chức luật s, cơ quan
công chứng là các cơ quan bổ trợ t pháp.
Tuy nhiên, phải thấy sự thiếu vắng của các
cơ quan nói trên đôi khi làm cho hoạt động
t pháp không đạt hiệu quả hoặc thậm chí
không thực hiện đợc. Hiện nay, cơ quan
giám định và cơ quan công chứng vẫn là
các cơ quan nhà nớc nên trong chừng mực
nào đó, sự đối xử với họ từ phía các cơ quan
t pháp có phần tốt hơn và gần gũi hơn so
với các luật s và tổ chức luật s. Bên cạnh
một số cán bộ t pháp hiểu đúng vai trò, vị
trí của luật s trong x hội nói chung và
trong hoạt động t pháp nói riêng còn một
bộ phận đáng kể cán bộ t pháp xem
thờng vai trò của luật s. Những ngời này
có những hành vi tỏ ra thiếu tôn trọng sự có

mặt của luật s trong quá trình giải quyết
vụ việc, thậm chí không ít ngời xem
thờng, không tôn trọng chính bản thân các
luật s. Cách ứng xử trên đây đ hạ thấp vai
trò và uy tín của luật s, làm cho các đơng
sự hoang mang, dao động và cuối cùng thì
một số ngời đ phải tìm cách tiếp cận
các nhân viên t pháp. Rõ ràng, quan niệm,
nhận thức và cách ứng xử trên đây là trái
với đạo đức t pháp trong x hội ta, là vật
cản không nhỏ đối với chất lợng và hiệu
quả của hoạt động t pháp.
Trong hoạt động t pháp, những ngời
bị buộc tội nh ngời bị tạm giữ, bị can, bị
cáo là những ngời chịu nhiều thiệt thòi
nhất khi các nhân viên t pháp có những
hành vi và cách ứng xử không đúng với đạo
đức t pháp. Ngời bị buộc tội với một
trong những t cách nêu trên vẫn cha đợc
coi là có tội. Điều này đ đợc pháp luật tố
tụng hình sự khẳng định là nguyên tắc. Thế
nhng trong thời gian qua, nguyên tắc này
đ hầu nh không đợc tôn trọng và thực
hiện. Đ có ngời bỏ trốn trong quá trình
điều tra, đ chống lại nhân viên t pháp (kể


nghiên cứu - trao đổi
Tạp chí luật học số 2/2003 17


cả tại phiên toà xét xử) do không chịu đợc
sức ép tâm lí bởi các cán bộ quản giáo, điều
tra viên, thẩm phán, kiểm sát viên lăng mạ,
ép cung. Ngời đang bị truy tố với t cách
là bị can, bị cáo, ngời dù đ bị kết án
nhng họ vẫn là con ngời. Nếu thực sự họ
phạm tội thì họ phải chịu các hình thức
cỡng chế của Nhà nớc, chịu trách nhiệm
trớc Nhà nớc, trớc x hội. Trong quá
trình thực thi công vụ, nhân viên t pháp
phải đối xử với họ với hai t cách: Ngời
tiến hành tố tụng với bị can, bị cáo, ngời bị
kết án và giữa ngời với ngời. Mọi hành vi
hạ thấp nhân phẩm, danh dự, xâm phạm tới
sức khoẻ, tính mạng của ngời phạm tội
cho dù là từ phía cơ quan t pháp, nhân viên
t pháp cũng đều bị coi là vi phạm và xa lạ
với đạo đức x hội chủ nghĩa nói chung và
đạo đức t pháp x hội chủ nghĩa nói riêng.
Các hành vi trên đây là vi phạm đạo đức và
một số hành vi trong số đó bị coi là tội
phạm xâm phạm hoạt động t pháp - thứ
rào cản của chất lợng, hiệu quả của hoạt
động t pháp hiện nay.
Nghề nghiệp của các nhân viên t pháp
là một nghề đặc thù. Đây là một nghề vinh
quang nhng cũng đầy chông gai, thử
thách. Nhân viên t pháp là những chiến sĩ
trên mặt trận đánh giặc nội xâm. Trong hoạt
động, họ có thể phải hi sinh cả tính mạng

của mình. Khi gia nhập hàng ngũ những
ngời thực hiện hoạt động t pháp, mỗi
ngời đều phải xác định vị trí quan trọng
của mình trong quần chúng, trong x hội.
Nhiệm vụ của nhân viên t pháp chỉ có thể
thực hiện tốt, có hiệu quả khi họ là ngời
"vừa hồng vừa chuyên". Kiến thức chuyên
môn nghiệp vụ chỉ có thể đợc phát huy khi
mỗi nhân viên t pháp có đạo đức nghề
nghiệp; tinh thần trách nhiệm cao; tính kiên
quyết trong đấu tranh với vi phạm và tội
phạm; đức hi sinh cao cả và luôn đặt lợi ích
của Nhà nớc, của x hội lên trên lợi ích cá
nhân; lòng nhân ái, độ lợng, bao dung;
tình đoàn kết và tính cách cơng trực, trung
thực là những nội dung của đạo đức t
pháp cách mạng. Nó cần có trong mỗi điều
tra viên, kiểm sát viên, chấp hành viên,
thẩm phán, hội thẩm nhân dân. Nó vừa là
yếu tố để mỗi nhân viên t pháp đứng vững
trên trận tuyến của mình, khẳng định chính
mình để không bị gục ng trớc những viên
đạn bọc đờng của kẻ thù, vừa là yếu tố bảo
đảm cho chất lợng, hiệu quả của hoạt động
t pháp.
Đạo đức t pháp không phải là cái có
sẵn và đầy đủ trong mỗi nhân viên t pháp.
Nó dần dần đợc hình thành trong mỗi con
ngời qua con đờng đào tạo ở trờng lớp
và tự rèn luyện của mỗi cá nhân từ hoạt

động thực tiễn. Một số nội dung của đạo
đức t pháp đ đợc thể chế hoá trong chính
các quy phạm pháp luật nhng nó còn ít
đợc truyền tải trong quá trình giảng dạy ở
nhà trờng cho các cán bộ, nhân viên t
pháp tơng lai. Chính vì lẽ đó, chúng tôi
cho rằng cần phải có môn học mới - môn
đạo đức t pháp trong các trờng đào tạo
cán bộ t pháp nhằm trang bị những vấn đề
nêu trên cho học viên - những ngời bảo vệ
sự bình yên cho x hội khỏi sự xâm hại của
các vi phạm pháp luật và tội phạm./.

(1). Xem: Từ điển Tiếng Việt, Nxb. Đà Nẵng - Trung
tâm từ điển học, Hà Nội - Đà Nẵng 2000, tr. 290.

×