Tải bản đầy đủ (.docx) (11 trang)

Phong tục cưới hỏi của người Việt ngày nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (111.15 KB, 11 trang )

Phong tục hôn lễ của người Việt ngày nay
I.
Quan niệm về hơn nhân
“Ơng bà anh u nhau thời chưa có tivi
Ơng bà anh u nhau thời chưa có xe hơi
Ơng thường đưa bà anh đi dạo quanh
Trên con ngựa sắt Thống Nhất màu xanh
Ông bà anh đưa nhau đi khắp phố xa
Bà ngồi trên gác baga chiếc xe đạp tróc sơn
Ơng mua tặng bà anh một đóa hoa
Và đó là món q đầu tiên
Ơi tình u, ngày xưa đẹp lắm con ơi
Những dòng thư tay viết vội, những lời ngây ngơ đầu mơi
Và thời ấy, bình dị lắm con ơi
Chạm tay nhau một giây thơi, là nhớ nhau cả đời”
Đó là lời mở đầu cho một bài hát đang làm mưa làm gió trên thị trường âm
nhạc thời gian vừa qua. Lời hát đó là lời kể của một người cháu về tình u của
ơng bà mình thời xưa. Đó là một tình yêu bình dị, nhẹ nhàng. Và thời đó quan
niệm về hơn nhân của họ cũng khác so với thời hiện tại.
1. Quan niệm hôn nhân thời xưa
Kết hôn là cuộc sống quan trọng của cả đời người. Mục đích của hơn nhân
ngồi việc để duy trì nịi giống cịn để xây dựng những gia đình hạnh phúc. Gia
đình có hạnh phúc thì xã hội mới thanh bình.
Với quan niệm như vậy nên người xưa rất coi trọng việc kết hôn. Ngày xưa
tư tưởng nho giáo ảnh hưởng rất nhiều đến đời sống nhân dân. Nam nữ không
được tự do luyến ái, tìm hiểu, yêu thương nhau như bây giờ. "Môn đăng hộ đối",
"Lấy vợ xem tông, lấy chồng xem giống" là những quan niệm thời xưa. Thế nên
việc hôn nhân đại sự là việc của ông bà, cha mẹ hai bên sắp đặt.
Căn cứ để chọn dâu hiền, chọn rể thảo của các bên cha mẹ, ngoài việc môn
đăng hộ đối, việc hợp tuổi nhau, hợp ý hai gia đình thì cho cưới hỏi, trai gái nhiều
khi cũng không được biết mặt nhau, cứ thuận theo sự sắp đặt của ông bà, cha mẹ


và về ở với nhau. Vì vậy ngày xưa việc coi tuổi của đơi bên nam nữ đặc biệt quan
trọng. Họ cho rằng vận mệnh của con người đã được sắp đặt từ kiếp trước và cứ
thể thuận theo ý trời là sẽ hạnh phúc.
2. Quan niệm hôn nhân hiện đại
Do xã hội phát triển, nhận thức của con người cũng “thoáng” hơn, tự do hơn
, thoải mái hơn ngày xưa rất nhiều bởi giới trẻ có thể hồn tồn làm chủ trong vấn
đề hơn nhân.
Phụ nữ kết hơn khi cịn rất trẻ.
Quan niệm con gái không cần học cao, quan trọng là phải kiếm được tấm
chồng cho ra chồng để nâng khăn sửa túi đã bó buộc nhiều người phụ nữ thời các
cụ. Các cô gái mới “nhú” đến tuổi cập kê đã rộn rã theo chồng, để rồi khơng ít
người phải hát lời ru buồn, cả đời bó buộc vào “tịng phu, tòng tử”.


Ngày nay, dù bạn đã 30 mà chưa kết hôn cũng khơng cịn là chuyện lạ.
Thậm chí khoa học đã chứng minh, bộ não con người chỉ đến tuổi 26 mới đạt tới
sự trưởng thành toàn diện, tốt nhất là nên chờ đến lúc “đủ khôn” mới nên chọn bạn
đời.
“Chồng đi kiếm ăn, vợ ở nhà trơng con” - chính quan niệm lỗi thời này
khiến hôn nhân của các cụ bị bó buộc về tài chính và xuất hiện q nhiều gánh
nặng. Dù thế nào, cả hai người cùng lao động ni sống gia đình ln tốt hơn một
người quần quật chu cấp cho cả gia đình đơng con.
Ngày nay, phụ nữ có thể ở nhà, theo đuổi sự nghiệp hay cùng lúc thực hiện
cả hai cơng việc đó. Vấn đề nằm ở chỗ, đây là lựa chọn của cô ấy và cơ ấy có thể
thay đổi vai trị bất cứ lúc nào. Một lúc đảm nhận nhiều vai trò - người mẹ, người
vợ, người lao động, người tình nguyện, người biết dành thời gian cho những sở
thích riêng - có thể tăng cường sự tự tin. Nếu việc khơng sn sẻ ở vai trị này, họ
có thể tìm thấy niềm an ủi, sự khuyến khích ở vai trị khác.
Có thể hiểu rằng, hôn nhân hiện đại là một cái gì đó tự nhiên, khơng q áp
lực bởi nhiều yếu tố khách quan, "Yêu là cưới" . Chúng ta đủ lớn để chịu trách

nhiệm cho những điều mình làm ra.
II.
Lễ Dạm Ngõ
Trong phong tục cưới hỏi truyền thống của Việt Nam, thì cơ dâu, chú rể Việt
Nam sẽ phải trải qua 3 nghi lễ chính rất quan trọng trong hơn nhân khơng thể bỏ
qua đó là, theo thứ tự là lễ dạm ngõ, lễ ăn hỏi và lễ đón dâu.
Lễ Dạm Ngõ (gọi là lễ xem mặt, lễ chạm ngõ) là một nghi lễ trong phong
tục hôn nhân của người Việt. Lễ này nhằm chính thức hóa quan hệ hơn nhân của
hai gia đình.
Lễ dạm ngõ ngày nay là buổi gặp gỡ giữa hai gia đình. Nhà trai xin đến nhà
gái đặt vấn đề chính thức cho đơi nam nữ được tìm hiểu nhau một cách kỹ càng
hơn trước khi đi đến quyết định hôn nhân. Buổi lễ này, không cần vai trò hẹn trước
của người mối (kể cả những trường hợp yêu nhau nhờ mai mối), không cần lễ vật
rườm rà.
Về bản chất, lễ này chỉ là một ứng xử văn hóa, thơng qua đó hai gia đình
biết cụ thể về nhau hơn (về gia cảnh, gia phong), từ đó dẫn tới quyết định tiếp tục
hay khơng quan hệ hơn nhân của hai gia đình. Lễ vật của lễ dạm ngõ theo truyền
thống rất đơn giản: một cơi trầu và cau, phủ vải nhiễu đỏ, hình thức tương tự như
tráp đón dâu, ngồi ra, có thể thêm lẵng hoa quả, bánh kẹo tùy điều kiện. Thường ở
miền Bắc, số lượng mỗi loại lễ vật phải là chẵn, ví dụ hai gói chè, hai chục cau, hai
chục lá trầu.
Xét về mặt chức năng: nếu bỏ qua lễ này mà đi thẳng vào lễ ăn hỏi thì mọi
việc sẽ bị cảm thấy đường đột, ngang tắt, khơng có khởi đầu. Vì thế, tuy không
phải là một lễ trọng nhưng lại là một lễ khơng thể thiếu trong tiến trình hơn lễ. Hơn
nữa, lễ này khơng tốn kém (lễ vật chỉ có trầu cau) mà lại biểu thị được bản sắc văn
hóa dân tộc (văn hố trầu cau) thì việc bỏ qua lễ này là điều không hợp lý. Đối với
lễ này, thường người Việt Nam vẫn tiến hành theo khuôn mẫu cổ truyền.
Lễ dạm ngõ là buổi lễ nhỏ trong phạm vi gia đình, khơng cần rườm rà nên
thành phần chủ yếu là người thân thiết.
 Thành phần tham dự bao gồm:



-

Nhà trai: Bố mẹ nhà trai, chú rể, họ hàng ruột thịt trong gia đình như ơng bà, cơ
bác...
- Nhà gái: Bố mẹ nhà gái, cơ dâu, có thể có thêm người thân ruột thịt trong gia đình
tham dự.
Cũng tùy vào điều kiện và văn hóa từng nhà, lễ dạm ngõ tại nhiều gia đình
chỉ có cha mẹ hai bên gặp gỡ nhau và đơi un ương. Ngồi ra, đơi bạn trẻ có thể
mời thêm một số bạn bè thân tới dự.
Người tham dự lễ dạm ngõ không nhất thiết phải mặc vest, áo dài mà chỉ
cần trang phục lịch sự. Đơi bạn trẻ cũng khơng cần "đóng bộ" như ngày ăn hỏi
hoặc đón dâu. Cơ dâu có thể diện váy ngắn, chú rể mặc quần âu, áo sơmi đơn giản.
Tới ngày giờ đã định cho lễ dạm ngõ, nhà trai tới nhà gái tặng lễ vật, thưa
chuyện, tỏ ý muốn để đơi bạn trẻ chính thức tìm hiểu nhau và có kế hoạch tiến tới
hơn nhân. Sau thời gian chuyện trị, cơ dâu chú rể tương lai được cha mẹ nhà gái
đưa lên thắp hương và dâng lễ vật lên bàn thờ tổ tiên.
Đa số các gia đình hiện nay coi ngày dạm ngõ là buổi gặp gỡ thân mật,
khơng đặt nặng thủ tục nên trình tự khơng q nghiêm ngặt. Nhiều phụ huynh cẩn
thận còn xem trước ngày giờ, nhiều nhà khác lại chọn ngày dạm ngõ tùy vào thời
gian rảnh của cả hai gia đình, chủ yếu là cuối tuần.
Cô dâu chú rể cũng cần chuẩn bị tinh thần là người gắn kết gia đình hai nhà.
Đơi un ương cần tìm hiểu trước một số tính cách, nết ăn ở của hai gia đình và
chia sẻ những hiểu biết này với bố mẹ trước ngày dạm ngõ để buổi lễ diễn ra suôn
sẻ. Cô dâu chú rể nên chủ động biến buổi chạm ngõ của hai nhà thành dịp gặp gỡ
thân tình, vui vẻ để hai gia đình có mối quan hệ thân tình, gắn bó về sau.
Sau khi buổi gặp gỡ kết thúc trong lễ dạm ngõ, nhà gái có thể làm cơm thiết
đãi nhà trai. Nếu khơng có thời gian và điều kiện, nhà gái có thể bỏ qua việc mời
cơm này.

III. Lễ Ăn hỏi
Lễ ăn hỏi cịn được gọi là lễ đính hơn, là một nghi thức trong phong tục hôn
nhân truyền thống của người Việt. Đây là sự thơng báo chính thức về việc hứa gả
giữa hai họ. là giai đoạn quan trọng trong quan hệ hôn nhân: cô gái trở thành "vợ
sắp cưới" của chàng trai, và chàng trai sau khi mang lễ vật đến nhà gái là đã chính
thức xin được nhận làm rể của nhà gái và tập gọi bố mẹ xưng con.
Trong lễ ăn hỏi, nhà trai mang lễ vật tới nhà gái. Nhà gái nhận lễ ăn hỏi tức
là chính danh cơng nhận sự gả con gái cho nhà trai, và kể từ ngày ăn hỏi, đôi trai
gái có thể coi là đơi vợ chồng chưa cưới, chỉ cịn chờ ngày cưới để cơng bố với hai
họ.
1. Thành phần tham gia
Nhà trai: Chú rể, bố mẹ, ông bà, gia đình,bạn bè và một số thanh niên chưa
vợ bưng mâm quả (hoặc bê tráp). Thường thì người bê tráp là nữ nhưng do mâm
quả bây giờ khá nặng nên có thể thay thế bằng nam. Số người bê tráp là số lẻ, 3, 5,
7, 9 hoặc 11.
Nhà gái: Cô dâu, bố mẹ, ơng bà, gia đình và một số nữ chưa chồng để đón
lễ ăn hỏi, số nữ đón lễ vật tương ứng với số nam bưng mâm.
2. Lễ vật


3.






Trầu, cau, bánh cốm, mứt sen, rượu, chè, thuốc lá, bánh phu thê (bánh xu
xê), bánh đậu xanh, lợn sữa quay, tiền dẫn cưới... v.v
Những gia đình xưa thường dùng bánh cặp nghĩa là gồm hai thứ bánh tượng

trưng cho âm dương. Những cặp bánh thường dùng trong lễ ăn hỏi là bánh phu thê
và bánh cốm - bánh phu thê tượng trưng cho Dương, bánh cốm tượng trưng cho
Âm; hoặc bánh chưng và bánh dày - bánh chưng vuông là Âm, bánh dày tròn là
Dương. lễ ăn hỏi đều được đựng trong hộp giấy màu đỏ hoặc bọc trong giấy đỏ,
màu đỏ chỉ sự vui mừng. Cũng có gia đình thay vì các thứ bánh trên, dùng xơi
gấc và lợn quay.
Đó là những lễ vật tối thiểu theo tục lệ cổ truyền; tất nhiên, chất lượng và số
lượng thêm bớt thì tùy thuộc vào năng lực kinh tế của từng gia đình. Theo phong
tục Hà Nội truyền thống thường có lợn sữa quay, cịn theo phong tục miền Nam có
thể có một chiếc nhẫn, một dây chuyền hay bơng hoa tai đính hơn. Tuy nhiên, số
lượng lễ vật nhất thiết phải là số chẵn (bội số của 2, tượng trưng cho có đơi có lứa),
nhưng lễ vật đó lại được xếp trong số lẻ của tráp (số lẻ tượng trưng cho sự phát
triển).
Lễ vật dẫn cưới thể hiện lòng biết ơn của nhà trai đối với công ơn dưỡng
dục của cha mẹ cơ gái. Nói theo cách xưa là: nhà trai bỗng dưng được thêm người,
cịn nhà gái thì ngược lại, "Con gái là con người ta". Mặt khác, lễ vật cũng biểu thị
được sự quý mến, tôn trọng của nhà trai đối với cô dâu tương lai.
Trong một chừng mực nào đó, đồ dẫn cưới cũng thể hiện thiện ý của nhà
trai: xin đóng góp một phần vật chất để nhà gái giảm bớt chi phí cho hơn sự. Tuy
nhiên, điều này ngày nay càng lúc càng trở nên mờ nhạt xét về vai trị, vì dễ dẫn
đến cảm giác về sự gả bán con, thách cưới.
Thủ tục
Rước lễ vật
Tất cả các lễ vật phải được sắp xếp gọn gàng và thẩm mỹ. Và nhất thiết phải
được bày vào quả sơn son thếp vàng (hay mâm đồng đánh bóng, phủ vải đỏ). Có
như thế mới nhấn mạnh được tính biểu trưng của lễ vật. Xưa, người đội lễ phải
khăn áo chỉnh tề, thắt dây lưng đỏ. Nay, các cơ gái đội lễ đã có áo dài đỏ thay thế
nên không cần phải dùng thắt lưng đỏ nữa. Dù dùng phương tiện đi lại là: ơ tơ,
xích lơ, xe máy, hay đi bộ thì đồn ăn hỏi cũng nên dừng lại cách nhà gái khoảng
l00 m, sắp xếp đội hình, rồi mới đội lễ vào nhà gái. Đây thực sự là một hình thái

văn hóa dân tộc.
Tiếp khách
Vì đây là một lễ trọng nên nhà gái phải chuẩn bị chu đáo hơn lễ chạm mặt.
Tuy nhiên, do nội dung chủ yếu của lễ này là sự bàn bạc cụ thể, chính thức của hai
gia đình về việc chuẩn bị lễ cưới, nên nhà gái không bày tiệc mặn mà chỉ bày tiệc
trà. Ngày nay hầu hết các gia đình gái đều chuẩn bị tiệc mặn để thết đãi gia đình
trai mong tạo hịa khí gắn bó và hàn hun. Nghi thức trao nhận lễ vật cũng nên trở
thành nghi thức bắt buộc.
Cơ dâu
Phải ngồi trong phịng cho đến khi nào chú rể vào đón hoặc cha mẹ gọi mới
được ra. Ra mắt tổ tiên bằng cách thắp hương lên bàn thờ. Sau đó cơ dâu sẽ cầm
ấm trà đi từng bàn để rót nước mời khách.


 Nhà gái
Nhà gái nhận lễ rồi đặt một phần lên bàn thờ gia tiên. Khi lễ ăn hỏi xong,
bánh trái, cau, chè được nhà gái "lại quả" (chuyển lại) cho nhà trai một ít, cịn nhà
gái dùng để chia cho họ hàng và người thân.
Lưu ý: đối với cau thì phải xé chứ khơng được dùng dao để cắt. Khi nhà trai
nhận lại tráp để bê về thì phải để ngửa, không được úp tráp lại.
 Biếu trầu
Xưa, sau lễ ăn hỏi, nhà gái dùng các lễ vật nhà trai đã đưa để chia ra từng
gói nhỏ để làm quà biếu cho họ hàng, bè bạn, xóm giềng,... Ý nghĩa của tục này là
sự loan báo: Cô gái đã có nơi có chỗ.
Trong việc chia bánh trái, cau, chè cau phải chia theo số chẵn, nhưng kiêng
chia hai quả, nghĩa là mỗi nơi từ bốn quả cau, bốn lá trầu trở lên. Con số chẵn là số
dương, số lẻ là số âm dùng trong việc cúng lễ.
Theo lối mới bây giờ, cũng chia bánh trái, thường có kèm theo những
tấm thiếp ai họ báo tin đính hơn của đơi trẻ. Nếu ngày nghênh hôn không xa ngày
hỏi, trong thiếp sẽ ghi rõ lễ cử hành vào ngày nào. Trong trường hợp này có khi

cùng với thiếp "báo hỷ" lại có thiếp mời tiệc cưới.
 Trang phục
Trang phục cho cơ dâu: một bộ áo dài, vừa có thể mặc trong lễ cưới, vừa có
thể mặc ở những dịp lễ hội sau này. Có thể sắm cho cơ dâu tương lai những đồ
trang sức sau: xuyến, vòng, hoa tai. Chú rể mặc comple, cà vạt
 Chia lễ
Nhà gái thường nhờ các cô gái trong họ hoặc bạn bè chia giúp. Khi nhà trai
dẫn lễ ăn hỏi tới nhà gái, nhà gái thường làm cơm thiết đãi. Sau lễ ăn hỏi đôi bên
kể là giao kết gắn bó với nhau rồi. Tuy vậy ngày xưa các cặp vị hôn phu và hôn thê
cũng không được phép gặp nhau, trừ trường hợp đặc biệt lắm đôi bên cha mẹ mới
cho phép. Phong tục ngày nay đổi khác, sau lễ ăn hỏi đôi trai gái thường gặp nhau
luôn. Từ lễ ăn hỏi đến lễ cưới, xưa kia có khi hàng bốn năm năm, nhưng ngày nay
thời gian đó thường được rút ngắn, có khi chỉ vài ba ngày.
Chính ngày xưa, các cụ vẫn khuyên các chàng trai đã hỏi vợ thì cưới ngay
để tránh sự bất trắc của thời gian. Ca dao có câu:
Cưới vợ thì cưới liền tay,
Chớ để lâu ngày lắm kẻ dèm pha.
Lễ ăn hỏi xong đôi bên trai gái chờ lễ cưới là xong nhưng theo tục xưa, có
nhiều nhà gái đã nhận ăn lễ hỏi của nhà trai cũng khơng cho cử hành lễ nghênh hơn
sớm, có khi vì cơ gái cịn q nhỏ tuổi, có khi vì cha mẹ thương con vì khơng
muốn con sớm phải về nhà chồng.
IV.
Lễ Thành Hơn
1. Lễ xin dâu
Trước khi đến giờ đón dâu chính thức, đại diện nhà trai, thường là mẹ chú rể cùng
cô hoặc bác thân thiết sẽ mang cơi trầu đến nhà cô dâu trước để làm lễ xin dâu.Mẹ cô dâu
sẽ nhận tráp trầu cau và mang lên thắp hương trên bàn thờ tổ tiên của nhà gái.Đây là nghi
lễ truyền thống lâu đời, có ý nghĩa như lời chấp nhận chính thức cho cơ dâu về nhà
chồng.Tuy nhiên, hiện nay nhiều người thường muốn tranh thủ thời gian trong buổi lễ đón



dâu nên thường gộp lễ xin dâu và đón dâu vào làm một, mẹ chú rể sẽ không phải đến nhà
gái trước nữa.
Nếu hai gia đình thống nhất nhập lễ xin dâu và lễ đón dâu vào làm một thì trước
khi đến nhà gái, nhà trai chuẩn bị một cơi trầu để làm thủ tục xin dâu. Khi gộp hai lễ, lễ
xin dâu phải diễn ra rất nhanh để lễ đón dâu được tiếp tục.
2. Lễ rước dâu
Các bước trong thủ tục rước dâu truyền thống:
 Nhà trai đến nhà gái
Trong ngày cưới, đồn nhà trai gồm có trưởng đồn, chú rể và các ơng, các bà, cơ,
dì, chú bác đại diện sẽ rời nhà trai và tiến đến nhà gái để đón cơ dâu về làm lễ thành hơn.
Để mọi việc được ổn định và êm xuôi nhất, hai bên gia đình nên bàn bạc và thống nhất
trước giờ đi, giờ đón, cũng như chỗ để xe, chỗ ngồi… Đặc biệt là khi nhà cô dâu nằm
trong những con đường nhỏ khiến cho việc di chuyển khó khăn hơn bình thường.
 Trao nhận lễ vật
Nếu quyết định ghép chung lễ ăn hỏi với ngày cưới thì khi nhà trai đến, đội ngũ bê
tráp của nhà gái sẽ xếp hàng sẵn, sau đó, khi hai bên trưởng đồn nhà trai, nhà gái đã bắt
tay chào hỏi nhau thì chú rể với đội ngũ bê tráp của nhà trai sẽ tiến vào đứng đối mặt với
nhà gái để trao nhận lễ vật.
 Hướng dẫn thủ tục rước dâu theo quan niệm truyền thống:
- Đội ngũ bê tráp của nhà gái xếp thẳng hàng
- Đội ngũ bê tráp của hai bên là những chàng trai, cơ gái cịn độc thân và
thường là người thân, bạn bè của cô dâu, chú rể.
 Mang lễ vật trưng trên bàn thờ gia tiên
Sau khi trao nhận lễ vật thì các chàng trai, cơ gái bê tráp sẽ mang đặt các mâm lễ
lên bàn thờ gia tiên của gia đình nhà gái. Thường thì mâm trầu cau sẽ được đặt chính giữa
để đánh dấu cho người mở biết vì theo thủ tục rước dâu thì người mở quả sẽ phải mở
mâm trầu cau đầu tiên.
 Trình lễ vật
Trình lễ là cơng đoạn quan trọng, người chủ hơn của gia đình nhà trai sẽ xin phép

quan viên hai họ được mở khăn đỏ ở các mâm lễ
và giới thiệu lễ vật gồm có những gì, cũng như là trình lễ vật lên gia tiên nhà gái.
 Cơ dâu được dắt ra để ra mắt
Ngay từ đầu, cô dâu vẫn ngồi trong phịng kín.Sau khi hai bên gia đình chào hỏi và
trình lễ vật thì cha hoặc mẹ cô dâu sẽ vào và dắt cô dâu ra để ra mắt quan viên hai họ và
trao cho chú rể.
 Cơ dâu, chú rễ làm lễ gia tiên
Trong q trình làm lễ gia tiên, một người đàn ông trong gia đình cơ dâu như bố,
anh trai hoặc em trai sẽ thắp hương, sau đó, cơ dâu và chú rể khấn bái giống như một sự
ra mắt ông bà tổ tiên. Thủ tục khấn bái ngày nay đơn giản hơn xưa rất nhiều, khơng địi
hỏi cơ dâu và chú rễ phải khấn bao nhiêu cái và bao nhiêu lễ.
 Cô dâu, chú rể nhận quà từ nhà gái
Sau khi làm lễ xong, cha mẹ, người thân của cô dâu sẽ trao q làm vốn cho đơi vợ
chồng trẻ, cùng với đó là những lời gửi gắm, dặn dò cho cuộc sống về sau.
 Hướng dẫn thủ tục rước dâu theo quan niệm truyền thống


- Họ nhà gái trao quà và nhắn nhủ cô dâu, chú rể
 Cô dâu, chú rể mời trà, rượu và trầu cau
Sau khi khấn vái gia tiên, cô dâu, chú rễ sẽ mang trà, rượu và trau cau mời quan
viên hai họ, trước hết là người chủ hôn, ông bà, cha mẹ, sau đến người thân, họ hàng, bạn
bè.
 Tiệc tại nhà gái
Ngày xưa, nhà gái cũng sẽ sắp cỗ mời nhà trai nhưng ngày nay, thủ tục rước dâu
được giản lược đi chỉ là mời bánh trái và trà nước mà thơi vì thời gian lưu lại nhà gái
thường khơng được lâu, đồn rước dâu cần phải về đúng giờ lành để cịn kịp làm lễ thành
hơn ở nhà trai nữa.
 Nhà gái lại quả
Tục lại quả là một tục lệ rất quan trọng.Nhà gái sẽ lấy ra một phần lễ trong các
mâm tráp để biếu lại nhà trai trước khi họ ra về.

 Đưa nàng về dinh
Sau khi hoàn thành các thủ tục tại nhà gái, đoàn rước dâu nhà trai sẽ có lời xin
phép được đón cô dâu về nhà. Khi đi, cô dâu sẽ đi cạnh chú rể, khơng được ngối đầu
nhìn lại và được mẹ chồng dẫn ra xe hoa. Đi cùng với đoàn nhà trai là đồn đưa dâu nhà
gái, và thường thì người cha sẽ là người đưa cô dâu về nhà chồng đúng theo tục lệ “cha
đưa mẹ đón”.
 Thủ tục tại nhà trai
Khi về đến nhà trai, cô dâu, chú rể cùng người chủ hôn, ông bà, cha mẹ và những
người đại diện khác sẽ tiến thẳng vào nhà.Tiếp đến, hai bên gia đình sẽ có lời trao nhận
dâu, rể và cô dâu, chú rể sẽ ra mắt trước bàn thờ tổ tiên nhà trai. Sau đó, cơ dâu, chú rể ra
sân làm lễ thành hôn với màn trao nhẫn cưới, cùng với đó thì cha mẹ, người thân đàng trai
sẽ trao gửi quà và lời nhắn nhủ tới đôi vợ chồng trẻ. Kết thúc lễ cưới, nhà trai có thể mời
cơm đoàn đưa dâu bên nhà gái trước khi ra về nữa nhé.
3. Trải giường chiếu
Phịng tân hơn khơng chỉ là căn phịng đón cơ dâu mới mà cịn là nơi riêng
tư, quan trọng trong cuộc sống vợ chồng của cặp đôi mới cưới. Hơn thế nữa, khi
nhà gái đưa dâu về nhà chồng, gia đình nhà trai sẽ đưa đại diện nhà gái lên xem
phịng tân hơn, coi như giới thiệu nơi ở của cơ dâu mới. Vì vậy, phịng tân hơn và
giường cưới ln được trang trí đặc biệt bởi đó chính là "bộ mặt" và thể diện của
nhà trai.
Thông thường, trước khi nhà trai làm lễ đón dâu, những người phụ nữ thân
thiết trong gia đình chú rể sẽ trang trí phịng ở cho đơi un ương mới. Toàn bộ
giường sẽ được sắm mới, hoặc nếu khơng, gia đình nhà trai phải chuẩn bị chăn,
gối, đệm mới để trải giường. Việc trải giường cưới cũng phải được tiến hành vào
một giờ đẹp, hợp với tuổi của cơ dâu chú rể.
Khơng phải ai cũng có thể trải giường cưới cho đôi uyên ương mà người
được chọn phải là một phụ nữ thân thiết với nhà trai, đã lập gia đình và có cuộc
sống hơn nhân hạnh phúc, có cả con gái lẫn con trai. Phong tục khắt khe như vậy
bởi các bà, các mẹ tin rằng đôi uyên ương mới cũng sẽ có được cuộc sống gia đình
êm ấm, hạnh phúc như người trải giường phịng tân hôn.



Tại một số địa phương, khi trải giường cưới, người phụ nữ chịu trách nhiệm
làm việc này sẽ chuẩn bị 5 phong bao lì xì đỏ, trong phong bì có để một số tiền
may mắn nhất định, rồi đặt 4 phong bao ở 4 góc giường, bao lì xì cịn lại sẽ để ở
chính giữa giường. Việc làm này có ý nghĩa cầu chúc sự sung túc, phú quý sẽ đến
với đôi uyên ương mới cưới. Ngày nay, nhiều nhà đã bỏ đi phần phong bao lì xì,
mà chỉ chuẩn bị hoa tươi trong phòng và rải những cánh hoa hồng nhung trên
giường tượng trưng cho hạnh phúc.
Ngoài ra, ở một số địa phương cịn có tục lệ cho trẻ con ngồi lên giường
cưới. Thông thường, không ai được ngồi lên giường tân hôn, nhưng một số người
Việt lại cho rằng, nên cho các bé trai chơi trên giường với hy vọng cặp vợ chồng sẽ
sớm sinh quý tử.
Tuy có nhiều phong tục và nghi lễ, nhưng việc trải giường cưới chủ yếu
nhằm mục đích cầu chúc sự an lành, hạnh phúc tới các đơi tân lang, tân nương.
Cũng vì thế mà các nghi thức này có thể thay đổi theo từng gia đình và theo quan
niệm của từng người. Nếu các gia đình cầu kỳ và coi trọng lễ nghĩa thì hai nhà nên
bàn bạc và có sự thống nhất từ trước để đám cưới diễn ra vui vẻ.
4. Lễ hợp cẩn
Lễ hợp cẩn hay còn gọi là lễ uống rượu chung của đôi vợ chồng mới cưới.
Khi cô dâu bắt đầu về nhà chồng ra mắt họ hàng hai bên, cặp đơi sẽ được một dì
hoặc bác trong gia đình nhà trai đưa vào phịng tân hơn.
Theo tục lệ cũ, lúc này người được giao trách nhiệm trải giường, và rót 1 ly
rượu, cơ dâu chú rể mỗi người sẽ uống nửa ly với ý nghĩa cùng nhau nếm được
đắng cay trong cuộc sống.
Nhưng cũng có ý nghĩa cho rằng lễ hợp cẩn là lễ kết hợp hai con người
mang ý nghĩa của sự sinh sôi nảy nở về tình cảm và con cái. Ngày nay, lễ hợp cẩn
chính là lễ uống rượu giao bơi và rót rượu tháp ly.
Trong tục lệ cưới hỏi của người Việt, có rất nhiều những nét đẹp văn hóa mà
con người hiện đại còn lưu giữ được. Lễ hợp cẩn là một trong những nghi thức đó

mà bạn cần lưu tâm. Có người cho rằng uống rượu giao bôi đã được du nhập từ
nước ngồi nhưng thực sự nó đã có từ rất lâu đời trong truyền thống của người Việt
Nam.
5. Tiệc cưới
Dù đám cưới lớn hay nhỏ, cũng phải có tiệc cưới. Đặc biệt là ở nơng thơn, tính
cộng đồng xóm giềng, làng xã, họ hàng đang cịn mạnh thì tiệc cưới là một dịp tốt để
củng cố tính cộng đồng ấy. Ở thành phố, người ta thường tổ chức tiệc cưới ngay sau lễ
thành hôn, cho nên nhiều khi cái "tục" của sự ăn lấn át mất cái "thiêng" của lễ cưới.
Người ta đến ăn, ngồi cùng bàn ăn là những người không quen biết, ăn sao cho đúng giờ.
Tiệc cưới có thể tổ chức nhà gái (trước hơm cưới) và nhà trai (trong ngày cưới); nhưng
cũng có thể hai nhà tổ chức chung thành một tiệc.
Lễ cheo: một số vùng của Việt Nam cịn có lễ cheo. Lễ cheo có thể tiến hành trước
nhiều ngày, hoặc sau lễ cưới một ngày. Lễ cheo là nhà trai phải có lễ vật hoặc kinh phí
đem đến cho làng hay cho xóm có con gái đi lấy chồng. Lễ cưới là để họ hàng cơng nhận,
lễ cheo là để xóm làng tiếp thu thêm thành viên mới, tế bào mới của làng.
Nếu ở thành phố lớn, gia đình khơng có đủ khơng gian rộng để tổ chức tiệc
cưới thì đám cưới sẽ tổ chức ở nhà hàng, khách sạn. Sự lựa chọn địa điểm tổ chức


thì tùy vào điều kiện gia đình cơ dâu và chú rể, có thể là một sảnh nhỏ của nhà
hàng, hoặc là những khách sạn 3*,4*.
6. Lễ lại mặt
Lễ lại mặt hay còn gọi là ngày nhị hỉ. Sau ngày cưới, cô dâu sẽ trở về nhà gái,
mang theo lễ vật để tạ gia tiên. Lễ vật trong ngày lại mặt gồm có: trầu, xơi, lợn. Nhà gái
sẽ chuẩn bị một bữa cơm thân mật để mời cặp vợ chồng mới cưới.
Trong đám cưới truyền thống, lễ cheo rất được chú trọng là một nghi lễ
quan trọng của đám cưới. Những nhà nho học ngày xưa, gọi lễ cheo là lễ lan nhai
(nhiều người đọc ra là lễ lan giai). Lan nhai có nghĩa là tiền nộp cheo cho làng khi
nhà trai đến đón dâu ở nhà gái.
Lễ cheo được tiến hành trước nhiều ngày hoặc sau lễ cưới 1 ngày. Nghi lễ

này được tiến hành như sau: Nhà trai sẽ mang lễ vật hoặc tiền bạc đến cho làng của
cô dâu, để mong nhận được sự công nhận của làng xóm đối với chú rể. Hiện nay,
thủ tục này đã khơng cịn thay vào đó khi các cặp đơi đăng ký kết hôn sẽ ra ủy bản
để đăng ký và khai báo.
V.
Những lễ cưới đặc biệt
1. Lễ cưới theo nghi thức tơn giáo
 Phật giáo
Phật chưa hề khuyến khích chuyện lứa đơi; nhưng giáo lý Phật có dạy về
bổn phận của vợ đối với chồng, chồng đối với vợ, con cái đối với cha mẹ, cha mẹ
đối với con cái. Nếu hai Phật tử là người đã quy y, hoặc chưa quy y, nhân ngày
cưới, sắm sửa lễ vật nhang đèn, hoa quả đến chùa nhờ Thầy làm lễ chú nguyện cho
hai Phật tử và có sự chứng kiến của hai họ. Quý Thầy sẽ tụng kinh, trì chú, đọc lời
dạy của Ðức Phật theo như trong tinh thần của "kinh Thiện Sanh". Sau đó hai
người đọc lời phát nguyện trước Tam bảo và sau cùng là lễ trao nhẫn cho nhau. Ở
ngay chính điện của chùa, kê một chiếc bàn dài, các vị hòa thượng sẽ đứng ngay
sau chiếc bàn, anh em, gia đình bạn bè đứng theo nguyên tắc “nam tả, nữ hữu”.
Sau phần tụng kinh lễ Phật, cô dâu chú rể đến lễ ông bà và cảm ơn những người
tham dự cũng như đón nhận những lời chúc tụng hoặc quà cưới và cuối cùng là
tiệc trà Ðạo vị.
Lễ cưới tổ chức theo kiểu này gọi là "Lễ Hằng Thuận". Người khởi xướng
nghi lễ này là ông Đồ Nam Tử (1883-1940). Ông tên thật là Nguyễn Trọng Thuật
quê tỉnh Hải Dương.Lễ Hằng Thuận đầu tiên là Lễ cưới của ơng Hồng Văn Tâm
và bà Lê Thị Hoành ở chùa Từ Đàm (Huế). Năm 1971, hoà thượng Thích Thiện
Hoa chính thức dùng hai chữ "Hằng Thuận" để chỉ nghi lễ kết hôn trước cửa Phật.
Lễ cưới ở chùa còn được gọi là lễ Hằng Thuận, Hằng là thường xun, ln, Thuận
là hịa thuận, đồng thuận, để vợ chồng ý thức được cuộc sống gia đình ấm no, hạnh
phúc
Lễ Hằng Thuận kết thúc, hai bên gia đình sẽ mời sư thầy cùng các vị chư tăng
và bạn bè, người thân ở lại chung vui bên mâm tiệc cưới chay thanh tịnh và ấm

cúng với đủ các món gà luộc, nem hải sản, canh măng được chế biến từ các loại
thực vật như nấm, mộc nhĩ, đậu phụ, hạt ngũ cốc.
 Cơng giáo
Lễ cưới được gọi là "Bí tích Hôn phối" và được cử hành trong nhà thờ nếu
đôi nam nữ là đồng đạo Công giáo. Mọi nghi lễ đều do linh mục của nhà thờ lo


liệu (thường thì có nhiều quy định trước khi tổ chức lễ cưới). Lễ cưới ở nhà thờ có
nghi lễ tuyên hứa, làm phép và đeo nhẫn cưới cho chú rể và cô dâu (nếu chú rể và
cô đâu đã đeo nhẫn cưới ở nhà thì khi đến nhà thờ, linh mục cũng lặp lại nghi thức
đeo nhẫn). Lễ cưới ở nhà thờ luôn phải cử hành trước lễ gia tiên. Ở hải ngoại, nếu
lễ cưới được cử hành ở nhà thờ thì nhà thờ đã thừa lệnh của chính quyền địa
phương để làm giấy hôn thú cho chú rể cô dâu ngay tại nhà thờ trong khi làm lễ
cưới. Nhưng ở Việt Nam, vì khơng có quy chế này nên cơ dâu và chú rể bắt buộc
phải có Giấy đăng ký kết hơn từ chính quyền thì mới được tổ chức lễ cưới.
Khác với ở nhà chùa, nhà thờ quy định thánh đường chỉ là nơi tổ chức hôn
lễ, bởi vậy tiệc cưới chúc mừng đơi un ương có thể đến khách sạn, nhà hàng để
tổ chức như thường
2. Cưới chạy tang
Luật Hơn nhân và gia đình Việt Nam quy định "Việc để tang không cản trở
việc kết hôn" nhưng việc cưới chạy tang vẫn có thể xảy ra. Cưới chạy tang tức đám
cưới cử hành trước đám tang. Trường hợp cha mẹ hay người thân (thuộc ngũ hạng
tang) mất thình lình mà hai đưa trẻ đã hứa hơn hay đính hơn, nếu phải chờ cho mãn
tang thì bất tiện nên hai nhà thu xếp để cho làm đám cưới trước và sau đó mới cử
hành tang lễ. Lễ cưới cũng đủ các giai đoạn nhưng giản lược đi nhiều.
3. Đám cưới tập thể
Là hình thức tuy một lễ cưới nhưng cho nhiều cặp cô dâu chú rể.
Vừa qua, tại thành phố Cần Thơ tổ chức Lễ cưới tập thể cho thanh niên khu vực
Đồng bằng Sông Cửu Long tại Cần Thơ lần thứ I năm 2016. Với sự tham gia dự kiến từ
60 cặp đôi đến 71 cặp đơi un ương đến từ các tỉnh, thành có đủ điều kiện kết hơn theo

pháp luật. Mục đích của chương trình nhằm tơn vinh và giữ gìn nét đẹp của lễ cưới truyền
thống Việt Nam, loại bỏ những nghi lễ phong kiến lạc hậu, đề cao lối sống tiết kiệm và
văn minh trong giới trẻ. Đồng thời, sự kiện còn mang lại niềm tin vào cuộc sống, đồng
hành và chia sẻ những khó khăn với các bạn thanh niên cơng nhân. Các cặp đơi tham gia
đều là những người có hồn cảnh khó khăn, khơng thể tổ chức đám cưới cho riêng mình.
Sáng 2/9, hịa chung trong khơng khí đất nước mừng ngày Quốc khánh , 100 cặp
đôi tại TP HCM cũng hạnh phúc đón chờ giây phút thiêng liêng của cuộc đời mình với nụ
cười rạng rỡ, trong khơng gian sắc màu cờ hoa, áo dài khăn đóng tươi thắm
4. Hơn nhân có yếu tố nước ngồi
Là khi một người Việt Nam kết hơn với một người có quốc tịch không phải
là Việt Nam. Sau khi kết hôn hai người có thể thay đổi sang quốc tịch của người
kia hoặc có cả hai quốc tịch tuỳ vào luật pháp của mỗi quốc gia. Hôn nhân với
những người thuộc các quốc gia phương Tây thường là lựa chọn được các cơ gái
Việt Nam u thích vì những người phương Tây như châu Âu, châu Mỹ có tiếng là
có lối sống văn minh và tôn trọng phụ nữ.
Ngày 11/9 vừa qua, cơ gái gốc Ninh Bình, Nguyễn Thị Mai đã có một đám
cưới trong mơ giữa rừng cẩm tú cầu bên bãi biển cùng người đàn ông của cuộc đời,
Andrew, hơn cô 25 tuổi, người đàn ông thành thạo tiếng Nhật, Trung, Pháp ấy là
một trong 5 cổ đông của một chuỗi nhà hàng ăn nhanh tồn cầu, và cổ đơng của
một số dự án tàu điện ngầm ở châu Á, có tiềm lực kinh tế rất vững.
Nhưng nhiều khi cũng có mặt trái khi xuất hiện một trào lưu mới của một
bộ phận phụ nữ, nhằm có điều kiện di cư hoặc cải thiện đời sống kinh tế gia đình.


Yếu tố nước ngồi có thể là kết hơn với người nước ngoài da trắng, Việt Kiều hoặc
về sau là người dân các nước quanh vùng như người Đài Loan, Hàn Quốc, Trung
Quốc, Singapore. Một số vùng quê đồng bằng sơng Cửu Long đã có hiện tượng bắt
chước nhau cùng lấy chồng ngoại để giúp cha mẹ, phần lớn họ là những phụ nữ
thiếu học vấn, không rành tiếng nước ngồi, phong tục nơi sắp đến và khơng biết
cách kêu cứu khi bị ngược đãi. Thông qua các công ty mai mối hôn nhân một

người đàn ông độc thân từ 20 đến 70 tuổi chỉ cần một cú điện thoại, một số tiền
cọc 1.000 đơ la Singapore là có thể lựa chọn trong một số đông phụ nữ trẻ Việt
Nam được trưng bày trong các "bể cá". Đã có một số cơ dâu vùng q bị chồng
hoặc gia đình chống ngược đãi, hành hạ, đánh chết sau một thời gian ngắn kết hôn
với người ngoại quốc xa lạ vừa mới được môi giới thông qua một đám cưới tập thể
ở thành phố rồi bỏ nước ra đi làm dâu nơi xứ người.
5. Lễ tun hơn
Hay là cịn gọi là Lễ Tun bố là lễ cưới khơng theo trình tự hỏi, cưới ở trên
mà Lễ cưới và Ăn hỏi nhập chung lại thành một gọi là đám cưới một lễ. Trước đây
hình thức này rất phổ biến trong quân đội



×