Tải bản đầy đủ (.pdf) (80 trang)

Luận văn xây dựng công thức thức ăn hỗn hợp cho lợn con giống ngoại sau cai sữa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (938.81 KB, 80 trang )

1

1. Mở đầu
1.1. Đặt vấn đề

Chăn nuôi lợn chiếm vị trí hàng đầu trong việc cung cấp thực phẩm
cho nhu cầu tiêu thụ trong nớc và xuất khẩu. Trong những năm qua ngành
chăn nuôi nói chung,chăn nuôi lợn nói riêng đà đạt đợc những thành tựu
đáng kể về công tác giống, thức ăn và kỹ thuật nuôi dỡng. Năm 1990 tổng
đàn lợn cả nớc 12,26 triệu con, năm 2002 đạt 23,17 triệu con và đến năm
2004 đạt 26,14 triệu con. Sản lợng thịt hơi các loại năm 1990 là 1007,9
nghìn tấn trong đó thịt lợn là 729 nghìn tấn chiếm 72,3%; năm 2002 sản
lợng thịt hơi các loại đạt 2146,3 nghìn tấn trong đó thịt lợn hơi 1653,6
nghìn tấn chiếm 77% và đến năm 2004 sản lợng thịt hơi các loại đạt 2505,7
nghìn tấn trong đó thịt lợn 2012 nghìn tấn chiếm 80,3% tổng thịt hơi các
loại. [1], [16]. Nh vậy thịt lợn sản phẩm chủ yếu chiếm u thế cao nhất so
với các loại thịt khác.
Tuy vậy năng suất và chất lợng đàn lợn của Việt Nam vẫn còn ở mức
thấp so với nhiều nớc trên thế giới. Sản lợng thịt hơi/nái/năm của Việt Nam
480 - 600 kg, trong khi đó ở các nớc có nền chăn nuôi lợn tiên tiến, một nái
có thể sản xuất 1800 - 2000 kg thịt hơi / nái/ năm cao hơn 3 lần so với lợn nái
Việt Nam.
Để tăng hiệu quả sản xuất của lợn nái trong những năm gần đây, thờng
ngời ta áp dụng biện pháp cai sữa sớm cho lợn con, hiện nay lợn con thờng
đợc cai sữa ở ngày 21 hoặc 28. Nhng sau khi cai sữa lợn con phải chuyển
thức ăn một cách đột ngột từ sữa mẹ (một loại thức ăn lỏng giàu chất dinh
dỡng, dễ tiêu hóa và hấp thu) sang thức ăn khô (dạng bột khô hoặc dạng
viên) khó tiêu hóa và dễ tiêu chảy, ảnh hởng không tốt đến khả năng sinh
trởng của lợn. Chính vì vậy, thức ăn hỗn hợp cho lợn cai sữa ở tuổi này đòi



2

hỏi phải có đầy đủ các chất dinh dỡng, có khả năng tiêu hóa thấp thu tốt,
đảm bảo cho lợn con khỏe mạnh không ỉa chảy, sinh trởng bình thờng.
Việc xây dựng các công thức thức ăn hỗn hợp cho lợn con cai sữa trở
nên bức thiết, một mặt giúp cho việc nuôi dỡng đàn lợn con tốt hơn, góp
phần nâng cao năng suất và hiệu quả chăn nuôi ở nớc ta, một mặt tạo điều
kiện cho các xí nghiệp thức ăn trong nớc có khả năng cạnh tranh với các xí
nghiệp thức ăn nớc ngoài trong việc sản xuất loại thức ăn này.
Để góp phần giải quyết vấn đề trên chúng tôi thực hiện đề tài:
"Xây dựng công thức thức ăn hỗn hợp cho lợn con giống ngoại sau
cai sữa"

1.2 Mục đích và yêu cầu

1.2.1. Mục đích
- Lựa chọn nguyên liệu và chế biến nguyên liệu phù hợp với khả năng
tiêu hoá của lợn con.
- Xây dựng công thức ăn hỗn hợp cho lợn con cai sữa có tăng trởng
nhanh và hiệu suất sử dụng thực ăn cao.

1.2.2. Yêu cầu của đề tài
- Xây dựng tiêu chuẩn chất lợng nguyên liệu thức ăn trong công thức
thức ăn hỗn hợp cho lợn con cai sữa.
- Xây dựng công thức thức ăn hỗn hợp hoàn chỉnh cho lợn con sau cai
sữa, đảm bảo lợn con tăng trọng 370 - 390 g/ngày, hiệu quả chuyển hoá thức
ăn 1,8 - 1,9 kg/kg tăng träng.


3


2 Tổng quan tài liệu

2.1. Đặc điểm sinh lý sinh trởng của lợn con

2.1.1. Đặc điểm sinh trởng phát dục và tiềm năng di truyền của lợn con
Lợn con có tốc độ sinh trởng nhanh . Qua nghiên cứu và thùc tÕ s¶n
xt ng−êi ta thÊy r»ng so víi khèi lợng ban đầu (khối lợng sơ sinh) thì sau
10 ngày tuổi tăng gấp 2 lần, 20 ngày tuổi tăng gấp 5 lần, 30 ngày tuổi tăng
gấp 6 lần, 40 ngày tuổi tăng gấp 7 - 8 lần, 50 ngày tuổi tăng gấp 9 - 10 lần, 60
ngày tuổi tăng gấp 12 - 16 lần (Lê Hồng Mận, Bùi Hữu Lũng, 2002)[12].
Về mặt lý thuyết ngời ta tính rằng lợn mới đẻ có thể trọng là 1,5
kg/con ở tuổi cai sữa 21 ngày tuổi có thể đạt khối lợng 15 kg và đến 60 ngày
tuổi có thể đạt 30 kg. Nhng trong thực tế sản xuất thờng ở tuổi cai sữa 27
ngày, lợn có 8 kg (tăng trọng 250 g/ngày) và phải 70 ngày mới đạt khối lợng
30 kg.
Lợn con bú sữa có tốc độ sinh trởng phát dục nhanh nhng không đều
qua các giai đoạn. Tốc độ nhanh nhất là 21 ngày tuổi đầu, sau 21 ngày tốc độ
giảm xuống, có sự giảm này do nhiều nguyên nhân nhng chủ yếu là do sản
lợng sữa của mẹ bắt đầu giảm và hàm lợng hemoglobin trong máu lợn con
bị giảm.
Thời gian giảm tốc độ phát triển thờng kéo dài 2 tuần và gọi là giai
đoạn khủng hoảng của lợn con. Chúng ta có thể hạn chế giai đoạn khủng
hoảng này bằng cách tập ăn sớm để bổ sung thức ăn sớm cho chúng.
Do lợn con sinh trởng và phát dục nhanh nên khả năng đồng hoá và
trao đổi chất rất mạnh ®ßi hái tÝch l chÊt dinh d−ìng cao. ë 20 ngày tuổi,
một ngày lợn con tích lũy đợc 8 - 1 4g protein/1 kg khối lợng, trong khi đó
lợn trởng thành mỗi ngày chỉ tích luỹ đợc 0,3 - 0,4g protein/1 kg khèi l−ỵng



4

(Trần Cừ, Nguyễn Khắc Khôi, cơ sở sinh học và biện pháp nâng cao năng suất
lợn, 1996)[3]. Ngợc lại để tăng 1 kg khối lợng cơ thể lợn con cần ít năng
lợng hơn, nghĩa là tiêu tốn ít thức ăn hơn lợn lớn. Vì tăng trọng của lợn con
chủ yếu là tăng nạc, mà để sản xuất 1 kg nạc thì cần ít năng lợng hơn để sản
xuất ra 1 kg thịt mỡ.

2.1.2. Một số biện pháp để phát huy tiềm năng sinh trởng của lợn con
Để phát huy tối đa tiềm năng sinh trởng của lợn, đặc biệt là lợn con
chúng ta phải hiểu rõ đặc điểm sinh lý và sự phát triển của chúng từ đó có biện
pháp tác động một cách hợp lý và đồng bộ, trong đó cần quan tâm một số
điểm sau:
2.1.2.1 Chọn giống và lai giống
Giống là yếu tố quan trọng quyết định khả năng sinh trởng của lợn
con. Muốn có lợn sinh trởng nhanh phải có giống tốt, giống tốt phải đợc
chọn lọc hoặc lai tạo những giống cao sản. Hiện nay có một số giống cao sản
đợc nuôi rộng rÃi ở nớc ta nh−: Yorkshire, Landrace, Duroc, Pietrain, con
lai Landrace x Yorskire,…
+ Đàn bố mẹ của chúng phải thuộc giống cao sản, có khả năng sinh sản
tốt, cho đàn con đồng đều, cho sữa tốt, tăng trọng nhanh, tiêu tốn thức ăn ít.
+ Đàn con phải đồng đều, khối lợng sinh toàn ổ trên 17 kg va khối
lợng sơ sinh trung bình/con từ 1,3 kg trở lên.
2.1.2.2 Dinh dỡng thức ăn
Là yếu tố quan trọng quyết định năng suất lợn. Muốn cho lợn sinh trởng
tốt phải có thức ăn tốt trong khẩu phần cân đối các chất dinh dỡng nh protein,
năng lợng, xơ, chất béo, canxi, photpho, vi lợng, khoáng, vitamin và nhất là
cân đối các axit amin không thay thế. Khẩu phần phải phù hợp và đáp ứng với
nhu cầu của từng loại lợn, từng giai đoạn phát triển của chúng.



5

Có hai giai đoạn nuôi dỡng lợn con:
Giai đoạn 1
Nuôi lợn con phải đạt những yêu cầu sau: lợn có tốc độ sinh trỏng cao,
khối lợng đồng đều, khỏe mạnh, tỷ lệ sống đến cai sữa cao.
+ Tạo môi trờng khí hậu thuận lợi, nhiệt độ chuông nuôi từ lúc đẻ đến
cai sữa phải ấm(30-32oc), thoáng mát khô ráo.
+ Cho lợn con bú sữa đầu sớm và đẩy đủ.
+ Cho ăn sớm: Mục đích là để thúc đẩy sự phát triển bôn máy tiêu hoá,
tăng thu nhận thức ăn giai đoạn sau.
Lợng thức ăn không có ý nghĩa đối với sinh trởng vì lợng thức ăn
thu nhận rất ít, 4 tuần đầu chỉ tiêu thụ 50-100 g/ngày/con(10-20 g CK/Kg TT).
ở giai đoạn này việc lựa chọn nguyên liệu và đa vào hỗn hợp một hàm lợng
hợp lý có ý nghĩa quan trọng hơn là nồng độ dinh dỡng(Vũ Duy Giảng,
2001)[4]. Chú ý dùng các nguyên liệu sau:
Bột ngũ cốc

25% nguyên dạng, 75% xử lí nhiệt

Bột sữa

tối thiểu 10%.

Bột khô đỗ tơng
Bột cá

tối thiểu 10-15%(<20%)
70-72% protein thô


Giai đoạn 2
Cơ sở tính:
- Duy trì: 120 kcal/kg W0.75
- Sinh trởng: năng lợng của 1kg tăng trọng là 2000-2300 kcal,
hiệu suất lợi dụng thức ¨n ME cho sinh tr−ëng lµ 65-70%, tû lƯ ME/DE=96%
T¨ng trọng hàng ngày sau cai sữa 500-550g cho tới khi lợn đạt thể trọng
25 kg(650g ở 20-25kg)
- Tăng thu nhận thức ăn
Hay ăn thì chóng lớn, lợn ăn nhiều hay ít chủ yếu phụ thuộc vào tỷ lệ
tiêu hoá thức ¨n vµ khÈu phÈn


6

Whittemore (1991)[28] đà ớc tính lợng thu nhận thức ăn tù do (VFI:
Voluntary Feed Intake) cđa lỵn con nh− sau:
VFI (kg/ngày) = 0,013.w/(1 - tỷ lệ tiêu hoá)
W: thể trọng (Kg)
Để tăng thu nhận phải lựa chọn thức ăn sao cho phủ hợp với choc năng
sinh lý và cấu tạo bộ máy tiêu hoá và phải chế biến thức ăn.
Lựa chọn thức ăn nào để phủ hợp với chức năng và cấu tạo bộ máy tiêu
hoá và để có tỷ lệ tiêu hoá cao là một thách thức đối với ngời chăn nuôi lợn.
- Thức ăn khác nhau có ảnh hởng đến cấu trúc giải phẫu của ống tiêu
hoá từ đó ảnh hởng đến khả năng tiêu hoá các chất dinh dỡng của thức ăn.
- Chế biến thức ăn có ý nghĩa rất quan trọng đối với tỷ lệ tiêu hoá thức
ăn: nghiền mịn tốt hơn ngiền thô, chất lợng viên kém làm giảm tỷ lệ tiêu hoá,
ép đùn, bung nổ hạt đều làm tăng tỷ lệ tiêu hoá.
Bảng 1.2: ảnh hởng của kích cỡ hạt mì đến sinh trởng lợn
con(W=8,5kg)

(Vũ Duy Giảng 2001)[4]
Mịn

Thô

Kích cỡ mm

0,86

1,71

Tăng trọng g/ngày

550

500

Chỉ số tiêu thụ thức ăn

1,72

1,81

Bảng 2.2: Tầm quan trọng của chất lợng viên
Xấu

Tốt

Tăng trọng g/ngày


342

415

Thu nhận g/ngày

451

495

Chỉ số tiêu thụ thức ăn kg/kg TT

1,32

1,19

Tiền thức ăn bảng/kg TT

40,5

36,7


7

Nên chọn thức ăn nh sau:
Pha 1: ngũ cốc xử lý nhiệt 0 - 25%, bột sữa, bột cá, sữa bột khử bơ tối
thiểu 15%.
Đa dần thức ăn để thích øng víi hƯ thèng enzyme 20 - 30% h¹t ngị
cèc nguyên dạng (không xử lý), 10 - 15% khô đỗ tơng, tối đa 20%.

Không sử dụng sắn, khô đầu lạc, đậu đỗ không xử lý, phụ phẩm thay
thế (Gluten ngô, bỗng bà rợu).
Hạn chế protein khoảng 20% trong trờng hợp rối loạn tiêu hóa, cân
bằng axit amin: cân bằng lysin, methionin, treonin.
Pha 2: cã thĨ chØ sư dơng mét sè nguồn protein (khô dầu đỗ tơng) hay
một số nguồn ngũ cốc khác. Không cần thiết sử dụng nhiều nguyên liệu đắt
tiền nh bột cá, bột sữa.
- Dinh dỡng lợn mẹ: ngoài ảnh hởng của giống và lai giống, việc
chăm sóc nuôi dỡng lợn mẹ cũng có ảnh hởng rất lớn đến khả năng
sinh trởng của lợn con đặc biệt là giai đoạn bào thai và bú sữa từ đó ảnh
hởng trực tiếp và gián tiếp đến khả năng sinh trởng của lợn ở các giai
đoạn sau.
Nuôi dỡng tốt lợn mẹ ở giai đoạn chửa sẽ giảm tối đa lợn con chết/lứa,
tăng khối lợng sơ sinh và độ động đều của lợn con, giảm thời gian chờ phối.
ở giai đoạn nay cần đảm bảo năng lợng duy trì cho lợn mẹ là 105ME kcal/kg
W0,75 ở nhiệt độ trung hoà 18- 20oC đối với lợn nái nhốt riêng và 14oC đối với
lợn nái nhốt chung.
Năng lợng tích luỹ 60 kcal ME/ngày ở giai đoạn 40- 70 ngày chửa và
450 - 500 kcal ME/ ngày ở 110 ngày chửa.
Năng lợng cho sinh trởng lợn mẹ 4800 kcal ME/ ngày.
Nuôi dỡng lợn nái cần ®¶m b¶o møc dinh d−ìng sau.


8

Bảng 3.2: Mức dinh dỡng cho lợn mẹ (Nguyễn Khắc Tích,2002)[14]

Giai đoạn

Mức ăn


Năng lợng

Protein

kg/con/ngày

kcalME/kgTA

%

Chời phối

2,5 3

2800 2900

13 14

Chöa kú I

1,8 – 2

2800 – 3000

13 – 14

Chöa kú II

2,2 – 2,4


2800 – 3000

13 – 14

Nu«i con

2,5 + 0,4 kg/lợn con

2800 3000

15 16

2.1.2.3 Chuồng trại và môi trờng chăn nuôi
Chăn nuôi lợn cũng nh gia súc, gia cầm khác, có thức ăn tốt, đầy đủ
đòi hỏi có môi trờng sống tốt mới đảm bảo năng suất cao, ít bệnh tật.
Chuồng thông thoáng mát mẻ, rộng rÃi lợn sống thoải mái, lợn sẽ mau lớn,
khoẻ mạnh. Chuồng nuôi có nhiệt độ độ ẩm cao, ánh sáng thiếu thì quá
trình chuyển hoá khoáng, vitamin bị ngừng trệ, ảnh hởng đến sức sản
xuất của lợn. Chuồng nuôi không đúng kiểu cách và vệ sinh chuồng trại
kém sẽ làm tăng độ ẩm dẫn đến không khí thiếu các ion nhẹ, tăng các ion
nặng. Từ đó trong chuồng tỷ lệ bụi tăng, trong không khí tăng khí amoniac
(NH3), cácbonic (CO2), sulfuahydro (H2S). Các yếu tố đó ảnh hởng đến
sức khoẻ và làm giảm năng suất của lợn. Chuồng trại phải đợc xây dựng
đúng kiểu cách, đảm bảo thông thoáng, vệ sinh sạch sẽ không có phân,
nớc tiểu ứ đọng.


9


Bảng 4.2: Nhiệt độ, độ ẩm chuồng nuôi lợn (Lê Hồng Mận, Bùi Đức
Lũng, 2002)[12]

Nhiệt độ (oC)

Độ ẩm tơng đối

Loại lợn
(%)

Vừa phải

Tối thiểu

Tối đa

29,4

23,9

34

Lợn con bú sữa

23,8 - 26,7

12

Lợn con cai sữa


15 - 18

75

Lợn vỗ béo

14 - 22

60 80

Lợn mới đẻ

Lợn nái
Nái có chửa

10
18,314 - 22

70 80

15,5

70

12,8

2.1.2.4 Vệ sinh thú y: cần triệt để thực hiện một số biện pháp sau
ã Lợn mới mua về nhất thiết phải nhốt riêng 5 - 7 ngày đảm bảo khoẻ mạnh
mới thả vào đàn.
ã Lợn nghi mắc bệnh phải nhốt cách ly để theo dõi chữa trị hoặc loại thải

nếu không bị bệnh hoặc đà chữa khỏi mới thả chúng lại vào đàn.
ã Tiêu độc chuồng trại giữa các đợt xuất và nhập lợn bằng dung dịch thuốc
sát trùng để diệt ký sinh trùng, vi khuẩn, làm mất mùi hôi thối, không làm
hỏng dụng cụ. Chuồng lợn bị bệnh phải tẩy rửa chuồng bằng xút (NaOH)
hay formol diệt đợc vi khuẩn và virus, nhng phải rất cẩn thận.
ã Diệt trừ chuột, ký sinh trïng, cã hè s¸t trïng ë cỉng, ë cửa chuồng.
ã Định kỳ tiêm phòng vacxin.


10

2.2. Đặc điểm sinh lý tiêu hoá của lợn con

Các vật chất dinh dỡng của thức ăn, mà động vật nói chung, lợn nói
riêng ăn vào, muốn đợc cơ thể sử dụng với mục đích duy trì sự sống, sinh
trởng, phát triển, sinh sản trớc tiên phải qua đờng tiêu hoá và ở đó chúng
đợc phân giải thành những chất đơn giản và đợc hấp thu qua niêm mạc ruột
đi vào máu cung cấp cho các mô tế bào của cơ thể.
2.2.1. Đặc điểm cấu tạo của bộ máy tiêu hoá
Bộ máy tiêu hoá của lợn gồm có ba bộ phận chính: miệng, dạ dày và ruột.
- Miệng của lợn ngoài chức năng lấy thức ăn còn có vai trò nghiền thức
ăn (răng) và thấm ớt (nớc bọt).
- Dạ dầy lợn là một túi rỗng có hai đờng cong, đờng cong nhỏ và
đờng cong lớn và chia làm 3 vùng: vùng thợng vị, thân vị và hạ vị. Vùng
thợng vị (giáp đoạn cuối của thực quản) có tế bào phụ tiết ra niêm dịch (dịch
nhày) bảo vệ niêm mạc dạ dày. Vùng thân vị có đủ ba loại tế bào: tế bào chủ
tiết ra men tiêu hoá, tế bào vách tiÕt ra axit chlohydric (HCl) vµ tÕ bµo phơ tiÕt
ra niêm dịch. Vùng hạ vị (nối liền với đầu ruột non) có hai loại tế bào là tế
bào chủ và tế bào vách.
- Ruột lợn đợc chia làm hai phần chính là ruột non và ruột già. Ruột

non đợc chia thành tá tràng, không tràng và hồi tràng. Ruột già đợc chia ra
làm manh tràng, kết tràng và trực tràng. Từng bộ phận này đều có chức năng
riêng biệt.
Ngoài các bộ phận trên cơ quan tiêu hoá còn có các bộ phận khác tham
gia vào hoạt động tiêu hoá đó là mật và tuỵ. Các cơ quan này tiết ra các dịch
tiêu hoá giúp cho quá trình tiêu hoá thức ăn đợc hoàn thiện.
2.2.2. Đặc điểm phát triển của bộ máy tiêu hoá
Cơ quan tiêu hoá của lợn con trong những ngày đầu sau sơ sinh chỉ
thích hợp với việc tiếp nhận và tiêu hoá sữa. Sữa nh một nguồn dinh d−ìng


11

duy nhất, mặc dù chức năng tiêu hoá cha hoàn thiện nhng về kích thớc và
dung tích thì phát triển rất nhanh.
+ Dung tích dạ dày của lợn con lúc 10 ngày tuổi gấp 3 lần lúc sơ sinh,
lúc 20 ngày tuổi gấp 8 lần và 60 ngày tuổi gấp 60 lần (dung tích dạ dày lúc sơ
sinh khoảng 0,03 lít)[7].
+ Dung tích ruột nọn lợn con lúc 10 ngày tuổi gấp 3 lần lúc sơ sinh, 20
ngày tuổi gấp 6 lần và 60 ngày tuổi gấp 50 lần (dung tích ruột non lúc sơ sinh
khoảng 0,01 lít)[7].
+ Dung tích ruột già của lợn con lúc 10 ngày tuổi gấp 1,5 lần lúc sơ
sinh, 20 ngày tuổi gấp 2,5 lần, 60 ngày tuổi gấp 50 lần (dung tích ruột già lúc
sơ sinh khoảng 0,04 lít)[7].

2.2.3. Hoạt động của men tiêu hoá
Cơ quan tiêu hoá của lợn con phát triển nhanh về kích thớc và dung
tích nhng chức năng vẫn cha hoàn chỉnh do một số men cha có hoạt tính
mạnh nhất là ở 3 tuần đầu sau khi sinh.
Với lợn con d−íi 3 tn ti chØ cã mét sè men cã ho¹t tÝnh m¹nh nh−

men: Trypsin, catepsine, lactaza, lipaza, kimozine.
+ Men trypsin: là men tiêu hoá protein của thức ăn. ở thai lợn hai tháng
trong chất chiết đà có men trypsin. Khi lợn con mới sinh ra, hoạt tính của men
này rất cao để bù đắp lại khả năng tiêu hoá kém của men pepsin dạ dày.
+ Men catepsin: là men tiêu hoá protein trong sữa, đối với lợn con ở ba
tuần tuổi men này có hoạt tính mạnh và sau đó hoạt tính giảm dần.
+ Men lactaza: là men tiêu hoá đờng lactoz trong sữa, men lactaza có
hoạt tính mạnh ngay từ khi lợn con mới sinh và tăng cao nhất ở tuần tuổi thứ
hai sau đó hoạt tính giảm dần.
+ Men pepsin: khoảng 25 ngày tuổi men pepsin trong dạ dày lợn con


12

cha có khả năng tiêu hoá protein của thức ăn, vì trong dịch vị cha có HCl ở
dạng tự do, nên men pepsinogen cha đợc hoạt hoá. Sau 25 ngày tuổi trong
dịch vị lợn con mới có HCl tự do và 5 tuần tuổi men này mới có hoạt tính
mạnh. Nh vậy hoạt tính của men pepsin tăng lên theo tuổi: ở 9 ngày tuổi tiêu
hoá 30 mg fibrin trong 19 giờ, 28 ngày tuổi chỉ cần 2 - 3 giờ, 50 ngày tuổi chỉ
cần 1 giờ để tiêu hoá fibrin (Nguyễn Xuân Tịnh, Tiết Hồng Ngân, Nguyễn Bá
Mùi, 1996)[15].
Do thiếu HCl ở dạng tự do nên lợn con dới 25 ngày tuổi rất dễ bị vi
khuẩn có hại xâm nhập vào đờng tiêu hoá. Chúng ta có thể hạn chế sự xâm
nhập của vi khuẩn có hại bằng cách kích thích tế bào vách dạ dày lợn con tiết
ra HCl ở dạng tự do sớm hơn. Để dạ dày lợn con tiết HCl ở dạng tự do cần
phải bổ sung thức ăn sớm cho lợn con, nên tập cho lợn con ăn sớm khi lợn con
đợc 7 - 10 ngày tuổi thì HCl tự do có thể tiết ra tõ 14 ngµy ti.
- Men amilaza vµ maltaza: hai men này có ở trong nớc bọt và trong
dịch tuỵ từ khi lợn con mới sinh ra, nhng dới 3 tuần tuổi hoạt tính còn thấp,
do đó khả năng tiêu hoá tinh bột còn kém, chỉ tiêu hoá đợc khoảng 50%

lợng tinh bột ăn vào, đối với tinh bột sống lợn con tiêu hoá càng kém. Sau 3
tuần tuổi men amilaza và maltaza mới có hoạt tính mạnh, nên khả năng tiêu
hoá tinh bột của lợn con tốt hơn (Kitss - 1956).
Theo Kitss, Bailey vµ Wood (1956), Hays, Baker (1961)[24] trong mô
tuyến tuỵ của lợn con lúc sơ sinh hoàn toàn không có men amilaza, hoạt tính
của men amilaza và maltaza tăng chậm, hoạt tính của hai men này tăng nhanh
khi lợn con đợc 35 - 40 ngày tuổi.
Theo Trơng Lăng (2003)[11], men maltaza có hoạt tính thấp khi lợn
con đợc 2 tuần tuổi sau đó tăng lên đạt tối đa ở 4 - 5 tuần tuổi.
- Men sacaraza: hoạt tính men sacaraza còn thấp khi lợn con ở hai tuần
tuổi, nếu cho lợn con ăn đờng sacaraza thì rất dễ bị ỉa chảy.


13

2.2.4 Sự tiêu hóa các chất dinh dỡng ở lợn
Mỡ trong đơng tiêu hoá sẽ đợc tiêu hoá dễ dàng nếu chúng ở trạng
thái bị phân chia thành những hạt rất nhỏ giống nh mỡ sữa của lợn mẹ. Mỡ
sữa lợn mẹ có những giọt nhỏ với đờng kính 0.1 đến 10 à. Khả năng tiêu hoá
mỡ còn phụ thuộc vào nguồn mỡ có trong khẩu phần ăn. Lợn con có khả năng
sử dụng tốt mỡ sữa sau đó đến mỡ lợn,dầu ô lu và cuối cùng là tinh dầu ngô.
Lợn có tỷ lệ tiêu hoá protein sữa rất cao( kể cả sữa lợn và sữa bò ),từ 9599 %. Ngoài ra khả năng tiêu hoá protein có nguồn gốc từ các động vật khác
nhau tăng lên theo lứa tuổi.
Sự tiêu hoá các chất dinh dỡng của lợn con phụ thuộc vào rất nhiều
yếu tố:
- Phơng pháp chế biến thức ăn:Việc chế biến thức ăn khác nhau có ảnh
hơng rõ rệt tới hoạt động tiết dịch tiêu hoá và hoạt tính của enzym. Khi cho
lợn ăn thức ăn tinh nấu chín, dịch tiêu hoá giảm nhiêu so với khi cho thức ăn
sống. Đối với lợn trong vòng một tháng tuổi bộ máy tiêu hoá cha phát triển
hoàn chỉnh nên việc cho lợn con tập ăn thức ăn nấu chín , hấp chín hay rang

chín đều làm tăng sự tiêu hoá các chất dinh dỡng trong khẩu phần. Nhng
đối với lợn lớn nấu chín sẽ làm giảm tỷ lệ tiêu hoá protein cũng nh các chất
dinh dơng khác ( E.M.Fedi,1967 ).
Nhiều tác giả cho rằng lợn con cai sữa sớm lúc 25 - 30 ngày tuổi thì tiêu
hoá protein thực vật trong thức ăn có nhiều khó khăn. Hàm lợng vật chất khô
trong dịch tuỵ càng nhiều, hoạt tính của men tiêu hoá càng cao. Lợn lớn dịch
tuỵ chứa 1,2 1,4% vật chất khô, còn lợn con một tháng tuổi chứa tới 1,61,7% vật chất khô.
Việc cai sữa sớm cho lợn con trớc hai tuần tuổi thờng gặp khó khăn
do lợn con lúc này cha tiêu hóa đợc hoặc tiêu hãa rÊt Ýt tinh bét. Maltaza
cđa dÞch tơy trong hai tuần đầu hoạt tính rất thấp và đạt mức tối ®a ë tn lƠ


14

thứ năm. Đối với đờng sacharose thì chỉ sau hai tuần tuổi, lợn con mới có thể
tiêu thụ đợc (Manners và Kidar, 1961), vì trớc hai tuần trong dịch tụy
không có enzym sacharaza hoặc là hoạt tính cả enzym này thấp.
Theo Hintenze (1975) tiêu hóa thức ăn trong đờng dạ dày, ruột của lợn
con chủ yếu là tiêu hóa enzym, bởi vậy bất kỳ một thay đổi nào về thức ăn và
phơng thức nuôi dỡng đều dẫn đến những thay đổi tơng ứng đối với hệ
thống enzym tiêu hóa.
Việc nuôi dỡng lợn con trong giai đoạn bú sữa là để chuẩn bị cho lợn
con có một điều kiện tốt nhất trớc khi bớc vào cai sữa. Khoảng thời gian
xung quanh ngày cai sữa (trớc và sau cai sữa) là một thời kỳ lợn con bị nhiều
stress nhất trong cuộc đời của chúng.
Những công trình nghiên cứu của Cranwell (1985) cho biết lợn con
đợc nuôi dỡng bằng thức ăn đặc từ 12 ngày tuổi trở đi và đợc cai sữa ở 21
ngày tuổi, lợng axit chlohydric và men pepsin đợc sản xuất nhiều hơn đáng
kể so với những lợn con không đợc tập ăn trớc khi cai sữa.
- ảnh hởng của tình trạng vật lý của khẩu phần:

Thức ăn cho lợn con cai sữa thờng ở dạng bột khô hoặc dạng viên khô.
Nhiều công trình nghiên cứu đà cho thấy rằng thức ăn ở dạng lỏng sệt thờng
có lợi hơn so với thức ăn ở dạng khô, vì thức ăn ở dạng lỏng làm giảm số
lợng E.coli trong ruột non (Decuypere an Van de Hyde, 1972), c¶i thiƯn hiƯu
qu¶ chun hãa thức ăn (E.Fird, 1982). Bởi vậy sự chuyển tiếp trạng thái vật
lý từ thức ăn ở dạng lỏng sang dạng đặc có thể dẫn đến ỉa chảy sau cai sữa.
Lawrence (1983) thông báo rằng cho thức ăn ớt làm giảm pH dạ dày do đó
duy trì đợc bức rào chắn đối với sự xâm nhập của mầm bệnh tốt hơn, đồng
thời ảnh hởng đến tính chất của dỡng chất và tốc độ vận động của chúng
trong đờng dạ dày ruột.
Byme và Hall (1984) thông báo rằng việc chuyển trạng thái vËt lý tõ


15

thức ăn lỏng sang thức ăn ở dạng đặc làm giảm chiều cao của lông nhung và
làm tăng chiều sâu của các hốc crypt.
- Nguồn protein của khẩu phần cho lợn con cai sữa cũng rất đợc quan
tâm, những sản phẩm có tỷ lệ tiêu hóa cao nh sữa bột khử bơ, sữa bột chiết
suất casein là nguồn đợc quan tâm nhiều hơn cả.
- Tỷ lệ xơ trong khẩu phần lợn con cai sữa.
Có một số thông báo cho biết rằng sự mẫn cảm đối với bệnh ỉa chảy sau
cai sữa có thể giảm bớt việc thêm một tỷ lệ xơ nhất định trong khẩu phần
(Richards và Fraser, 1961). Tuy nhiên, Rivera và cộng sự (1978) cho thấy rằng:
không có kết quả tốt (cả về sinh trởng và hạn chế ỉa chảy) khi bổ sung thêm
một lợng xơ đại mạch trong khẩu phần. English (1981)[20] thông báo rằng:
hiện tợng ỉa chảy sau cai sữa ít hơn ở lơn con ăn khẩu phần có tỷ lệ xơ thấp
(0,8%) và tỷ lệ tiêu hóa cao so với nhóm lợn ăn khẩu phần có tỷ lệ xơ cao (3%).
- Số lợng thức ăn ăn vào và số lần cho ăn trong ngày.
Có những ý kiến cho rằng thông thờng năng suất lợn con thấp ngay

trong giai đoạn sau cai sữa là sự phản ánh của mức quá thấp thức ăn thu nhận
hàng ngày. Cho ăn một số lợng nhỏ với khoảng cách đều đặn đà nâng cao
đợc năng suất của lợn con. Vì với phơng pháp nuôi dỡng này có thể khắc
phục đợc hai vấn đề, một lá tránh tồn đợc thức ăn lâu dài trong máng, tránh
rơi vÃi thức ăn và hai là làm tăng đợc khả năng tiêu hóa, hấp thu của lợn con.
Ball và Aherne (1982) cho rằng: những lợn con đợc ăn một bữa trong
ngày bị ỉa chảy nhiều hơn so với nhóm lợn đợc ăn tự do, trái lại với những
lợn con cho ăn hạn chế năng suất lại khá nhất. Sự ăn quá nhiều có thể sẽ dẫn
đến sự ứ máu trong đờng dạ dày ruột (Rukebuch và Buneo, 1976). Việc cho
ăn hạn chế trong thời gian sau cai sữa có hiệu quả rõ rệt đối với việc phòng
tránh bệnh ỉa chảy (Palm và Hulland, 1965; Smith vµ Halls, 1968).


16

Ngời ta cũng nhận thấy rằng tốc độ thủy phân tinh bột của dịch vị ở
lợn con rất khác nhau vµ phơ thc rÊt nhiỊu vµo ngn gèc cđa tinh bột
(Aumaintre, 1972). Một số phơng pháp chế biến thức ăn hạt nh cán, nổ
bỏng hoặc xử lý vi sóng (Lawrence, 1975 và Aumaintre, 1976) đà tăng đợc
khả năng thủy phân tinh bột của các enzym tiêu hóa.

2.3. Đặc điểm về cơ năng điều tiết nhiệt

Lúc mới sinh thân nhiệt lợn con là 38,5 - 39ảC, nhiệt độ trung hoà là
33 - 35ảC.
Ra khỏi cơ thể mẹ tạm thời tụt xuống, tuỳ thuộc vào nhiệt độ chuồng
nuôi. ở giai đoạn này năng lực điều hoà nhiệt rất yếu, nhiệt độ trực tràng giảm
2ảC trong chuông nuôi 18ảC, nhng sẽ giảm 5ảC khi nhiệt độ chuồng nuôi là
11ảC (trong 20 phút). Thân nhiệt trở lại bình thờng sau 24 giờ, nhng càng
chậm khi nhiệt độ thấp đối với lợn nhẹ cân và lợn tiêu thụ sữa đầu ít.

Nhiệt độ trực tràng trở lại bình thờng sau 24 - 48 giờ khi nhiệt độ
chuồng nuôi là 25 - 30ảC, còn nếu nhiệt độ chuồng nuôi dới 15ảC phải mất
3 tuần nhiệt độ trực tràng mới trở lại bình thờng. Nhiệt nhợc sẽ không hồi
phục đợc dẫn đến chết khi thân nhiệt xuống dới 32 - 33ảC.
Chuồng lạnh là nguyên nhân trực tiếp và gián tiếp (mệ đè con chết) của tỷ
lệ tử vong của lợn nuôi đến cai sữa. Lợn chết trong 48 giờ là 12,1% khi nhiệt độ
chuồng nuôi là 20 - 25ảC so với 7,7% khi nhiệt độ chuông nuôi >25ảC
Tốc độ sinh trởng của lợn cũng sẽ tốt hơn khi chuồng ấm(lợn con
trong tuần đầu sau khi sinh có tăng trọng 169 g/ngày nếu nhiệt độ chuồng
nuôi là 20,5ảC, nhng chỉ đạt 135 g/ngày nếu ở chuồng 13,5ảC).
Nhiệt độ tối u đối với lợn con là 18 - 20ảC ở chuồng nuôi, riêng góc
ấm của lợn con phải đạt 32 - 35ảC.
Lợn con dự trữ năng lợng rất thấp, lúc míi sinh cã 80% n−íc vµ chØ cã


17

2% lipit (ở 3 tuần có 65% nớc và 12% lipit) ngoài chất dự trữ là lipit còn có
glycogen. Tổng năng lợng dự trữ (mỡ + glucogen) khoảng 1000 - 1200 kcal
chỉ tơng đơng 1 lít sữa. ở nhiệt độ trung hoà, năng lợng này chỉ đủ cho 2
ngày. Sống trong chuồng lạnh năng lợng tiêu hao còn nhanh hơn, và nhanh
chóng cạn kiệt. Lợn con mất 9,5 kcal/giờ ở nhiệt độ 30oC, mất 15,7 kcal/giờ ở
nhiệt độ 20oC. Lợng đờng huyết 10 ngày đầu cao(trung bình 110 - 140
mg/ml) sau giảm nhanh nhất là khi phải sống ở nhiệt độ thấp hoặc không đợc
ăn, ăn ít.
Giảm lợng đờng huyết (hypo - glycaemia) là một trong những
nguyên nhân làm cho lỵn con cã tû lƯ tư vong cao. NÕu lỵn con sau khi sinh
30 giờ mà không đợc bú chúng sẽ hôn mê và chết.
Khối lợng sơ sinh cũng ảnh hởng nhiều đến sự tăng giảm thân nhiệt
của lợn con. Khối lợng sơ sinh cao nhng nuôi ở chuồng có nhiệt độ thấp thì

thân nhiệt bị giảm nhiều hơn so với những lợn con có khối lợng sơ sinh thấp
nhng đợc nuôi dỡng ở trong chuồng có nhiệt độ cao. Kết quả theo dõi của
Newland (1975) thấy rằng: khối lợng sơ sinh trung bình của lợn con là 1,13 kg
đợc nuôi trong chuồng có nhiệt độ 16 - 21C thì sau 30 giây thân nhiệt bị giảm
khoảng 1,6C. Nhng những lợn con có khối lợng sơ sinh trung bình là 2,4 kg,
nuôi ở chuồng có nhiệt độ - 4C thì thân nhiệt giảm tới 16,6C [8].

2.4. nhu cầu dinh dỡng lợn con

2.4.1. Nhu cầu protein
Protein là nguyên liệu cấu tạo tế bào. Cơ lợn chiếm 35 - 40% protein,
lợn con có tốc độ phát triển mạnh về hệ cơ, khả năng tích luỹ protein lớn do
đó đòi hỏi số lợng và chất lợng protein cao. Cần cung cấp 26 - 23% protein
thô trong khẩu phần và tỷ lệ lysin/năng lợng phải đảm bảo từ /kcalME


18

Trong protein cã hai loai axit amin: lo¹i thay thÕ đợc và không thay
thế đợc. Loại không thay thế đợc, cơ thể lợn không thể tự tổng hợp đợc mà
phải cung cấp từ thức ăn.
Giá trị sinh vật học của protein phụ thuộc vào thành phần của các axít
amin thiết yÕu, khi thiÕu 1 trong c¸c axit amin thiÕt yÕu đều dẫn đến giảm giá
trị sinh vật protein (Leonard và ctv, 1979)[25]. Sự tổng hợp protein ở lợn đòi
hỏi có nhiều axit amin khác nhau trong đó có 10 axit amin quan trọng không
thay thế là: acginin, histidin, isoleucin, leucin Lysin, , methionin, phenylanin,
threonin, tryptophan, valin, (Crampton và ctv, 1995)[19].
Bảng 5.2: Nhu cầu protein thô, ME và một số axit amin cho lỵn con
(Theo NRC 1998) [27]
Lỵn 5 - 10kg


Lỵn 10 - 20kg

ME kcal/kg

3265

3265

Protein th« (%)

23,7

20,9

Lyzin (%)

1,35

1,15

Treonin (%)

0,86

0,74

Tryptophan (%)

0,24


0,21

Methionin + Cystin (%)

0,76

0,65

Methionin

0,35

0,30

Chất lợng thức ăn hỗn hợp lợn con sau cai sữa ở 28 ngày tuổi có ý
nghĩa to lớn đảm bảo cho sự sinh trởng của lợn ở giai đoạn tiếp theo. Điều
quan trọng nhất là cung cấp đầy đủ nhu cầu protein với sự cân đối tốt nhất axit
amin trong khẩu phần cũng nh cân đối axit amin với năng lợng. SCA (1987)
đà mô tả và cho thấy mối quan hệ này bị ảnh hởng bởi từng giai ®o¹n sinh


19

trởng của lợn, trong đó sự cân đối tỷ lệ Lyzin/năng lợng trao đổi (ME) có
nghĩa hàng đầu.
Kết quả nghiên cứu của Hoàng Toàn Thắng và ctv [13] cho thấy việc sử
dụng tỷ lệ 3,88g lyzin/1000kcal ME để nuôi lợn con sau cai sữa từ 25-56 ngày
tuổi có hiệu quả kinh tế hợp lý nhất so với các tỷ lệ lyzin/ME khác. Hàm
lợng protein cho lợn con cai sữa sớm thờng ở mức 18 20% nhng hàm

lợng lyzin đợc chú ý đặc biệt. ARC (1981)[17] và NRC (1998)[27] đề nghị
dùng mức 0,99g lyzine/MJ DE cho lợn 21-56 ngày tuổi.
Theo Kaji và Furuya (1987)[22] nhu cầu lyzin cần cho 1kg tăng trọng ở
lợn con và lợn sinh trởng là 20g.
Nghiên cøu cđa Kev willams, Danny singh vµ John Kopin, (1995)
[23] về nhu cầu axit amin cho lợn nuôi theo hớng nạc cho thấy nếu coi
lyzin là 100 các axit amin khác là: Methinin + cystin là 55, phenylanin +
tryrosin là 120, tryptophan lµ 17, treonin lµ 67, leucin lµ 110, iso leucin lµ
60, valin lµ 75.
Theo W.Close vµ K.H. Menke (1996) [18] lợn con có tốc độ sinh
trởng trung bình 200g/ngày ở tuần thứ 2 và 350 ngày ở tuần tuổi thứ 5. trong
2 tuần lễ đầu các chất dinh dỡng của lợn con chủ yếu do sữa mẹ cung cấp.
Tuần lễ thứ 3, sữa mẹ không tăng do vậy cần bổ sung thức ăn cho lợn con gọi
là Creep feed. Thức ăn này chứa 20-22% protein thô và dễ dàng tiêu hoá
protein ở lợn con. Tỷ lệ tiêu hoá protein của lợn con không chỉ phụ thuộc vào
nguồn gốc và chất lợng protein mà còn phụ thuộc vào tỷ lệ Protein trong thức
ăn, hiệu quả sử dụng Protein sẽ giảm khi mức protein trong khẩu phần tăng
(Zintzen và ctv, 1975) [29].
Thức ăn cho lợn con thờng thiếu hai axit amin, đó là lysin và methionin.
Lyzin đóng vai trò quan trọng trong quá trình tổng hợp các nucleotit và
hemoglobin, giúp tổng hợp thịt nạc, nếu thiếu lyzin lợn con lời ¨n, da kh«, t¨ng
träng kÐm.


20

Metionin tham gia vào tổng hợp anbumin, bởi có nhóm metyl cần cho
quá trình tổng hợp các enzym, hoạt động của tuyến giáp, khử các chất độc
xâm nhập vào cơ thể, thiếu metionin trong khẩu phần sẽ làm giảm khả năng
sinh trởng, số trao đổi chất bị rối loạn.

Theo Admina 1985 trong protein thô của khẩu phần lợn con bú sữa cần
có 5 - 6,5% lyzin, 3 - 3,2% met, 1,4 - 1,5% trytophan.

2.4.2. Nhu cầu năng lợng
Nhu cầu năng lợng của lợn tăng theo tuổi nhng nhu cầu năng lợng
tính cho 1 kg thể trọng thì giảm theo tuổi (bảng 6.2)
Bảng 6.2: Mức năng lợng cho lợn con
(Trơng Lăng - 2003)[11]
NL cung cấp từ

Tuần
tuổi

KL lợn
(kg)

Tăng trọng 1
ngày đêm (g)

Nhu cầu NL 1
ngày đêm
(Kcal)

Sữa mẹ
(Kcal)

Thức ăn
(Kcal)

Sự cung cấp

tính theo sữa
mẹ (%)

1

2

172

750

810

-

108,0

2

3,5

227

1110

1050

-

95,0


3

5,4

295

1530

1125

405

73,5

4

7,9

263

2100

1125

975

53,0

5


10,9

481

2650

1125

1525

42,4

6

13,6

476

3100

1055

2045

34,0

7

16,3


450

3500

480

2660

24,0

8

20,4

520

4000

740

3260

18,5



×