Tải bản đầy đủ (.pdf) (23 trang)

Về nguồn gốc dân tộc Việt Nam và Ðịa đàng phương Ðông

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (326.25 KB, 23 trang )

Về nguồn gốc dân tộc Việt Nam và Ðịa đàng phương Ðông của
Oppenheimer
Nguyễn Quang Trọng

Trong báo Thế Kỷ 21 (số tháng 12 năm 2001, nam California,
USA) ông Nguyễn văn Tuấn có đặt lại vấn đề nguồn gốc (Tàu)
của dân tộc và văn minh Việt Nam sau khi ông đọc cuốn "Địa
đàng ở phương Đông" của Stephen Oppenheimer. Với nhiều
điểm mới dựa trên sự tổng hợp tài liệu nhiều ngành (khảo cổ
học, ngữ học, di truyền học, dân tộc học) và kết quả nghiên
cứu của chính Oppenheimer, "Địa đàng ở phương Đơng" phát
giác sự đóng góp quan trọng của vùng Đơng Nam Á trong lịch
sử nhân loại. Ngô thế Vinh đã giới thiệu sách này trong bài
"Tìm về phương Đơng- Địa đàng lại đánh mất" trong Thế Kỷ 21
số tháng tư năm 2000. Việc Nguyễn văn Tuấn (NVT) tóm tắt
cuốn sách đồ sộ này (560 trang với kiểu chữ nhỏ) và thêm
những dữ kiện mới thông báo rất đáng ca ngợi. Những thuyết
mới về nguồn gốc dân tộc khi được thông báo cho cộng đồng
người Việt Nam giúp hiểu thêm về cội nguồn tổ tiên, xóa bỏ
mặc cảm tự ti (nếu có). Tuy nhiên, do tầm quan trọng của vấn
đề, khi sử dụng những số liệu và dữ kiện để chứng minh quan
điểm của mình, có lẽ chúng ta cần thận trọng để tránh các bẫy
rập tự tôn, duy chủng tộc, duy dân tộc q khích.

Tự tơn dân tộc - tự tôn chủng tộc.
Người Tàu rất tự tôn, không riêng ở cái tên Trung Quốc tự xưng, mà cịn vì thói quen hay tự
nhận là "người đầu tiên" sáng chế ra nhiều thứ (dù có phần nào sự thật). Tính tự tôn này đôi khi
cũng thể hiện trong lãnh vực khoa học. Một số khoa học gia Trung Quốc muốn chứng minh đất
Trung Hoa là nơi phát sinh ra giống dân Á châu, và văn minh tộc Hán là văn minh trung tâm thế
giới. Họ cố tình che dấu, giảm thiểu, hay vơ chung vào văn minh tộc Hán những nền văn minh
rực rỡ cổ xưa tìm thấy trên đất Trung Hoa nhưng khơng thuộc vùng ảnh hưởng Hán tộc. Điển


hình là trường hợp văn minh Sanxingdui phía bắc Thành Đơ (Chengdu, thuộc tỉnhTứ Xun),
phía nam thượng lưu sơng Dương tử. Năm 1986, một nhóm thợ lị gạch tình cờ tìm được một hố
tế lễ chứa đầy đồ đồng, vàng và ngọc thạch. Khi đồn khảo cổ Tứ Xun đến đó khai quật, họ
tìm ra hố thứ hai. Tổng số đồ vật trên 800 món, với nhiều thức tuyệt xảo bằng đồng, kích thước
to, trong đó có tượng người cao bằng người thật (1.72 m), nhiều đầu người và mặt nạ bằng
đồng. Đây là tượng đồng to nhất tìm thấy ở Trung Hoa. Tượng có mắt to và xếch, mũi lớn, lông
mày rậm dày và miệng thật rộng, rõ ràng không phải chân dung tiêu biểu người Hán. Hơn nữa
nền văn minh đời Thương, là văn minh cổ nhất của Tàu, khơng hề có đồ đồng mang dạng người.
Trung Hoa xem đó là cổ vật thuộc nhóm dân Ba- Thục, và xếp chúng vào thời đại cuối thời
Thương.
Một nhóm khảo cổ Hoa Nhật khám phá ra thêm một thứ đền "kim tự tháp" ở Longma, phía tâynam Thành Đơ, có cùng những đường nét văn hóa. Đền này nằm tại trung tâm thành cổ, trong
khi đền thờ, nơi tế lễ cổ và thuần Trung Quốc (Hán) đều nằm ngồi vịng thành. Các nhà khảo
cổ Nhật ước tính tuổi cho nền văn minh này là 3000 đến 4700 năm về trước. Khám phá này
được công bố ở Kyoto, Nhật vào tháng 10 năm 1996, hình ảnh được đăng trên những báo lớn và


sau đó trong những sách, báo Anh và Pháp ngữ, trong khi báo Trung Hoa khơng hề đăng, và rất
ít thường dân Tàu biết đến tin này. Trên thực tế, Trung Hoa không muốn chấp nhận sự hiện
diện một nền văn minh khác, rực rỡ và xưa hơn văn minh Hán tộc vốn dĩ được xem là văn minh
gốc của cả nước.
Vào nửa đầu thế kỷ 20, các nhà khảo cổ Ấu châu đặc biệt chú trọng đến việc khai quật các di
tích tiền sử ở những nước thuộc địa. Nhưng vì dựa vào mơ hình các giai đoạn phát triển kĩ thuật
ở châu Ấu để nghiên cứu các dữ kiện khảo cổ nên họ đã đưa đến những kết luận nhuộm màu ưu
/ duy chủng tộc trong chiều hướng tôn cao văn minh dân da trắng. Nhà khoa học Áo HeineGeldern nổi tiếng về thuyết thiên di ở Đông Nam Á, đã cố sức chứng minh văn hố Đơng Sơn
bắt nguồn từ văn hoá phương tây người Kimmer, hay người Tokhara (tức người Nhục Chi) từ
vùng Hắc Hải thiên di đến (thật ra người Tokhara chỉ đến vùng nam Tây Bá Lợi Á). Mansuy,
người Pháp đã phát giác ra các di vật ở Bắc Sơn (vùng Cao Bằng Lạng Sơn),- theo Hà Văn Tấnđã "gắn sự xuất hiện của kĩ thuật mài đá trong văn hoá Bắc Sơn với yếu tố tộc người da trắng
có nguồn gốc phương Tây." Nhà tiền sử học Mĩ Movius xem sự kiện trường tồn của đồ đá đặc
thù Á Châu "Choppers/Chopping-tools" là biểu hiện tính chất kém phát triển của văn hố Đơng
phương so với Tây phương cùng thời. Coedès, hàn lâm viện sĩ Pháp, từng là Giám đốc Viện Viễn

Đông Bác Cổ danh tiếng, cũng cho rằng cư dân bản địa Đông Dương vốn thiếu óc sáng tạo, ít
khả năng tiến hố và khó tiến bộ nếu khơng có sự đóng góp của bên ngồi.
Nói thẳng ra, tất cả các nhà khảo cứu này cho rằng cư dân Đông phương cổ mọi rợ, không văn
minh bằng cư dân Tây phương cổ. Vô tình hay hữu ý, các nhà khoa học thời đó đưa ra những lí
lẽ biện minh cho chính sách thuộc địa mà kết luận đưa ra là dân Tây phương (có bổn phận) đem
ánh sáng văn minh đến cho những dân tộc bán khai địa phương. Đó là tính tự cao chủng tộc của
người da trắng.

Nhưng Đông Nam Á thời tiền sử có thật sự kém văn minh như người ta tưởng
không?
Ngày nay đa số khoa học gia công nhận rằng khơng thể áp dụng mơ hình các giai đoạn kĩ thuật
ở Ấu Châu để định tuổi cho dụng cụ đá tại Đơng Nam Á, và qua đó định tuổi các nền văn hố
Đơng Nam Á, là vùng có khí hậu và mơi trường sống hồn tồn khác. Dụng cụ chặt đẽo
choppers sở dĩ không thay đổi trong một thời gian dài là vì người Đơng Nam Á thời đó đã biết
dùng tre, gỗ chế biến thành dụng cụ cần thiết cho đời sống hằng ngàỵ. Nhưng người ta khơng
tìm ra được các thứ vật dụng này vì chúng đã bị tiêu huỷ trong mơi trường Đơng Nam Á nóng
ẩm ; và chính cơng cụ đá đã được sử dụng trong việc chế tạo tre, gỗ thành đồ dùng. Đó là mô
hinh gỗ / mộc , tức "lignic" model, hay bamboo-karst model. Người ta có thể khẳng định như
thế nhờ những phương pháp tiếp cận khảo cổ học mới sau này (dựa vào kinh tế học, sinh thái
học và xã hội học). Một trong các bằng chứng thực tiễn là cuộc sống của bộ lạc nhỏ Tasaday
trên đảo Mindanao (Phi luật Tân). Dân bộ lạc này vẫn còn sống theo kinh tế săn bắt-hái lượm
như người "thời đồ đá", nhưng họ hầu như khơng có (vì khơng cần) cơng cụ làm bằng đá.
Dân tiền sử Đông Nam Á sống thiên về hái lượm cây, trái, đào củ và săn, bắt, bẫy các loài thú
nhỏ hơn là thú lớn như dân xứ lạnh Ấu châu (bị rừng, tuần lộc...), nên khơng cần dùng khí giới
lao, cung với lưỡi ngọn lao, mũi tên làm bằng đá đẽo. Họ săn heo rừng, khỉ, nai, nhím, chim...
bằng cung nỏ với tên tre chuốc nhọn hay bằng ống thổi (blow-pipe) với mũi tên (là) gân lá tẩm
thuốc độc, như dân các bộ lạc miền núi Việt Nam và trong rừng Indonesia ngày nay. Trong vùng
nhiệt đới nóng ẩm, rừng nhiều cây lá, nếu cần che thân, sử dụng vỏ cây hay lá cây thì mát mẻ,
dễ chịu và tiện lợi hơn da thú ; và vì khơng cần da thú nên họ khơng cần cơng cụ đá để nạo da



thú như người tiền sử Ấu châu; họ bắt cá, săn thú, xẻ thịt, với các cạm bẫy, dao chế biến từ tre,
lá, như thổ dân trên đảo Mentawai xứ Indonesia ngày nay. Nói chung những bộ lạc miền nhiệt
đới chưa "văn minh" hiện nay vẫn chế tạo rất nhiều đồ dùng từ tre, mây, gỗ, lá. Đó là dấu vết
kinh nghiệm cư dân cổ bản địa truyền lại.
Các hình vẽ thú, cảnh đi săn, trên vách nhiều hang động Ấu Châu thời tiền sử (peintures
rupestres), cho biết thịt là món ăn chính của người tiền sử tại đây. Trong khi đó, người cổ Hồ
Bình ăn nhiều sị ốc, bằng chứng là vỏ các loài ốc núi và ốc nước ngọt tìm thấy trong những
đống rác bếp trong hang động trên mười ngàn năm trước (ở vùng Hồ Bình và vịnh Hạ Long);
cũng như sau đó người sống dọc bờ biển từ vịnh đến bắc Trung Phần đều vẫn ăn sò, điệp biển
và để lại hàng đống vỏ lớn. Cư dân Bắc Việt cổ đã ăn ốc từ 15 000 năm trước (và bây giờ ta vẫn
ăn), điều này không thấy trong di tích người tiền sử Ấu châu.
Sau những phát hiện khảo cổ chấn động thế giới vào thập niên 60 tại Thái Lan, Malaysia,
Indonesia, một số nhà tiền sử học đã đặt lại vấn đề tiền sử Đông Nam Á. Solheim II, giáo sư
Đại học Hawaii, viết một loạt bài từ năm 1967 về sự ra đời sớm của việc trồng trọt, làm gốm,
đóng thuyền, đúc đồ đồng thau... Solheim đã đi ngược lại các luận điểm của Heine-Geldern
(nguồn gốc từ người Tokhara, Kimmer) về cuộc thiên di của người Nam Đảo (Austronesian) và
nguồn gốc văn hố Đơng Sơn. Theo Solheim, đóng góp của văn hố cư dân Đơng Nam Á vào
văn hố Bắc Trung Quốc thật quan trọng ; ông đưa thuyết mạng lưới buôn bán đường biển liên
đảo, gọi là mạng Nusantao, ở khắp vùng Thái bình Dương từ Nhật xuống đến các đảo phía nam
từ trên mười ngàn năm trước. Những nhà hàng hải Nusantao này là cư dân vùng thềm Sunda
phía đơng Indonesia và nam Phi luật Tân, đã buộc lòng phải dùng đường biển khi mực nước
dâng cao làm ngập đất họ sống. Tuy nhiên, Hà văn Tấn cho rằng luận điểm của Solheim chưa
có hay khơng có cơ sở vững chắc, với nhiều điểm "phi lý, hỗn loạn" và dễ bị chủ nghĩa dân tộc
hẹp hòi lợi dụng.
Sau Solheim, một số nhà khảo cổ học khác như Meacham ở Hong Kong, Higham ở Tân Tây Lan,
Pookajorn ở Thái Lan đều đồng ý là vùng Đông Nam Á, từ Thái Lan xuống Indonesia qua bán
đảo Đông Dương, là cái nôi của văn minh Nam Á (Austroasiatic)- Nam Đảo (Austronesian). Và
mới đây, Oppenheimer còn đi xa hơn nữa, khi đưa ra thuyết rằng văn minh Đông Nam Á là cội
nguồn của văn minh phương tây, rằng khi cư dân thềm Sunda di tản tránh biển dâng, họ đã đến

vùng Lưỡng Hà - Trung Đông, mang theo kinh nghiện trồng trọt, làm đồ gồm và ... sự tích Đại
hồng thủy.

Bác sĩ Oppenheimer, nhà thám hiểm nhà nghiên cứu, người bạn các dân tộc
Đông Nam Á.
Oppenheimer tốt nghiệp bác sĩ Đại học Oxford bên Anh năm 1971. Năm 1972 ông sang vùng
Viễn Đông hành nghề tại nhiều bịnh viện trong vùng, mà độc đáo nhất là khi ông làm "bác sĩ
bay" (flying-doctor) ở Borneo. Ở vùng này gần hai mươi năm, ông du hành và nghiên cứu về
nhân học khắp Đông Nam Á lục địa (kể cả Việt Nam) và các đảo Thái bình Dương. Ơng không
ngại nguy hiểm, lặn lội nơi thâm sâu cùng cốc, tìm đến những bộ lạc cịn giữ ngơn ngữ xưa hay
cổ tích truyền khẩu... Trong sách nói trên có vài bức ảnh do tác giả chụp. Có một ảnh nhà sàn
với hàng chữ : nhà sàn thành phố không đất Sitankai (cất trên bải san hô ngầm) giữa biển Sulu,
tác giả chú thích rằng người tiếp viên trên tàu (ship's steward) ở góc phải hình đã cứu tác giả và
ý trung nhân của ơng thốt khỏi tay lính Phi. Ơng kể giai thoại đó như sau:
Lần đó ơng cùng ý trung nhân người Tàu đi du lịch, và gặp hai người Tây phương tại nam Phi


Luật Tân. Hai người này khun đơi tình nhân trẻ đi "fun trip" bằng tàu trên vùng biển Sulu đầy
đảo nhỏ phía nam Mindanao (Philippins)-bắc Borneo. Họ nghe theo, đáp một tàu lớn chuyên chở
hành khách địa phương lẫn hàng hoá qua các hải đảo Sulu. Đến mỗi làng, tàu thả người xuống,
và cho khuân lên những bao hải sâm (sea cucumber) món hàng đắt tiền rất được các nhà hàng
ăn ở Hong Kong ưa chuộng. Tàu được một nhóm lính vũ trang đi theo bảo vệ chống hải tặc
trong vùng. Một lần, đám lính ấy nhậu say, toan "dịm ngó" cơ vợ sắp cưới của ơng. Khi tình
trạng đến hồi nguy hiểm thì thuỷ thủ đồn đến kịp lúc, đưa hai người lánh lên boong trên, cứu
họ thoát nạn. Nhờ giai thoại này độc giả biết thêm một phần đời tư tác giả, một người yêu Đông
Nam Á và yêu người Đông Nam Á (cô ấy sống ở Nam Trung Hoa, có lẽ thuộc chủng Nam
Mongolic, như các dân Đông Nam Á khác).
Đầu thập niên 80 ông chuyển qua ngành nhi khoa nhiệt đới, và làm việc ở Madang, vùng phía
bắc New Guinea (Tân Guy nê, đảo phía bắc Úc Châu). Ông rất ngạc nhiên khi thấy quá nhiều trẻ
mới sinh bị thiếu máu (anaemic) mà không thiếu sắt (iron deficiency). Đem mẩu máu lấy từ

cuống rún trẻ về trường y khoa nhiệt đới ở Liverpool (ở Anh) phân tích, ơng nhận thấy trẻ sơ
sinh thiếu máu vì hồng huyết cầu hình dạng khơng bình thường, rất dễ vỡ trong một "bịnh" di
truyền gọi là a-thalassaemia (aT), do thiếu một trong hai gene (di tố) tạo ra a (alpha) globin;
alpha globin là một trong bốn protein a,b,d,g ; (bệnh b- thalassemea do thiếu gene b) hợp với
phần tử heme chứa chất sắt tạo thành haemoglobin (viết tắt HbA, F) nằm trong tế bào máu đỏ
(hồng cầu).
Khi các genes này có "vấn đề", các Hb tạo nên (A, F) khơng theo tỉ lệ bình thường hoặc cấu trúc
bị biến dạng (HbS, HbC, HbE.) khiến cho hồng cầu biến dạng, dễ vỡ. Thí dụ hồng cầu có hình
liềm (HbS) hoặc cầu trịn thay vì hình cầu lõm hai mặt. Tuỳ theo mức độ các "vấn đề" là giảm,
thiếu globins hay chuyển đổi các thành phần nucleic acids tạo di tố, và tuỳ các đôi di tố tương
hợp hay dị hợp mà các hậu quả mất máu nặng nhẹ khác nhau. Tính miễn nhiễm sốt rét là một
hậu quả (tốt bất) ngờ của sự biến dạng và dễ vỡ của hồng cầu.
Khi nghiên cứu kĩ sự phân bố trẻ sơ sinh aT trên đảo, ơng thấy trẻ có cha mẹ gốc vùng núi cao
bên trong đảo ít bị sốt rét hơn trẻ trong các làng vùng thấp, ven biển hay trên đảo nhỏ xung
quanh. Để biết rõ ngun nhân, ơng bỏ thì giờ đi thăm từng gia đình các em bé được phân tích
máu, hỏi gốc gác và tiếng nói của họ. New Guinea là nơi có số ngơn ngữ cao nhất thế giới (750
thứ tiếng) đa số là thổ ngữ Papua, các tiếng cịn lại thuộc họ Nam Đảo, tiếng nói người sống ven
biển. Điểm nghịch lí là số trẻ aT khơng phân bố theo gốc gác tiếng nói, mà phân bố theo độ cao
nơi gia đình sống. Những trẻ aT đều thuộc gia đình miền núi cao chưa hề bị sốt rét. Nhờ lấy
mẩu máu này ở New Guinea đem về Anh phân tích gene mà ơng thành ngườI đầu tiên khám
phá ra sự liên hệ giữa a-thalassaemia và sự phân bố bịnh sốt rét trong vùng New Guinea ; kết
quả này cơng bố trên báo The Lancet năm 1984.
Ơng đi đến kết luận là những người không bị sốt rét nhờ hưởng gene aT của ông cha tổ tiên, vì
chỉ những người có gene đột biến aT mới sống còn qua sự "tuyển lựa tự nhiên" của bịnh sốt rét.
Bịnh sốt rét là bịnh gây tử vong cao cho loài người: ngày nay sốt rét vẫn làm chết người trên
thế giới nhiều hơn các bịnh khác. Trong bệnh này, các trùng Plasmodium vào người theo vết cắn
muỗi Anopheles, vào gan và hồng huyết cầu kí sinh để tiếp tục sinh sôi tăng trưởng.
Oppenheimer khám phá ra là trùng sốt rét Plasmodium falciparum không tấn công được hồng
huyết cầu aT, và trùng này bị chận không lan tràn được trong cơ thể người bị muỗi nhiễm trùng
cắn. Đây là một kết quả quan trọng, nhất là cho dân Đông Nam Á ( hay bị sốt rét và bị "thiếu

máu"-anemia- do thalassaemia), được công bố trên báo khoa học hàng đầu thế giới (Nature)
năm 1997.. Những đợt đột biến đưa đến sự tuyển chọn gene kháng sốt rét thay đổi tùy nơi, nên
cùng là aT mà di tố đột biến ở Việt Nam và ở New Guinea chẳng hạn, không giống nhau, gây ra
hiện tượng "thiếu máu" anemia nặng hay nhẹ tùy theo di tố truyền lại cho dân đó. Căn cứ theo
bản đồ những vùng có di tố "chống sốt rét" và nhiều dữ kiện văn hoá phong tục khác, ông suy


ra rằng dân Đông Nam Á đã di cư đến Trung Đông (dân Trung Đông cũng hay bị thalassaemia)
và lập văn minh cổ Ur và Ai cập.
Khi nghiên cứu về sốt rét, Oppenheimer để ý thấy vùng phân bố các nhóm dân New Guinea có
liên hệ đến huyền thoại-cổ tích : những bộ lạc nói tiếng khác nhau nhưng có cùng cổ tích truyền
khẩu thì có cùng di tố. Thế là ngồi nghiên cứu y khoa, ơng cịn tìm hiểu sâu về dân Á châu, về
cổ tích, tiền sử, ngơn ngữ, tập quán của họ.
Từ những kiến thức đa dạng này, ơng có một số ý niệm về sự hình thành của hai nhóm dân
chính Đơng Nam Á, là dân nói tiếng Nam Á (Austroasian) và dân nói tiếng Nam Đảo
(Austronesian). Để tiếp tục cơng trình, ơng làm giáo sư nhi khoa tại Đại Học Hongkong từ 1990
đến 1994; ông nghiên cứu về những đường thiên di đưa người nói tiếng Nam Đảo đi chiếm lĩnh
các hải đảo trên một vùng biển rộng lớn, trải từ Madagascar ở bờ tây Ần độ dương đến đảo
Hawaii và đảo Phục Sinh ( Iles de Pâques) phía đơng Thái Bình dương. Trở về giảng dạy ở Đại
học Oxford sau khi rời Hongkong, ông khơng ngừng tìm hiểu về hai giống dân Nam Á- Nam Đảo
mà ông đã từng chung sống trong hai mươi năm. Tình cảm đặc biệt của ơng đối với dân và đất
Đông Nam Á đã thể hiện qua cuốn sách "Địa đàng ở phương Đông".

"Địa đàng ở phương Đông"
Như Nguyễn văn Tuấn đã nhận xét, cuốn sách này tập trung những dữ kiện nhiều mặt, cũ mới,
về vùng Đông Nam Á. Ông NVT đã lược qua đầy đủ những điểm chính của sách, nên tơi khơng
trở lại.
Nói chung, Oppenheimer tổng hợp các tài liệu trong đó có kết quả nghiên cứu của chính mình
bao gồm y khoa, ngơn ngữ, nhân chủng, xã hội học để đưa ra một thuyết hoàn toàn mới mẻ về
nguồn gốc một số dân tộc và văn minh Á châu cũng như thế giới.

Điểm độc đáo chính là sự kết hợp nhiều bộ mơn nói trên, cổ điển và hiện đại, khoa học chính
xác và khoa học nhân văn. Trong kết hợp này, các huyền thoại, cổ tích truyền khẩu giữ vai trị
đặc biệt.
Việc sử dụng các truyền thuyết có một sức thuyết phục nào đó, thí dụ khi ta thấy quả thật Việt
Nam, ngồi một số tập tục, cũng có những cổ tích và huyền thoại truyền miệng khá giống
những vùng xa phía nam như New Guinea.
Tích Sơn Tinh Thuỷ Tinh, Trầu Cau của ta nói về hai người cùng u, tranh chấp một cơ gái với
một số khúc mắc éo le tương tự như tích Kulabob và Manup của các bộ lạc trên những hịn đảo
nam Thái bình Dương. Theo Oppenheimer, chuyện tích này rất dài, nhiều tình tiết, ở vùng đảo
ấy người ta kể cả ngày; thỉnh thoảng phải ngưng kể để... ăn trầu.
Kulabob trong tích vùng New Guinea được xem là thuỷ tổ dân nói tiếng Nam Đảo. Manup là anh
; cịn người em Kulabob, đôn hậu, giỏi giang, đã sáng chế ra thuật xâm mình, chế tàu đi biển và
Kulabob lái tàu đánh cá rất điêu luyện.... Một hôm đi săn, Kulabob bắn lạc một mũi tên khắc
chạm tinh vi. Lúc đi tìm mũi tên, Kulabob bị chị dâu (vợ Manup) "dụ dỗ", quyến rũ. Cô này dấu
mũi tên và nằn nì Kulabob xâm một hình đẹp trên chỗ kín của mình. Kulabob khơng muốn
nhưng cuối cùng đã xiêu lịng chìu ý chị dâu. Trong một dạng chuyện kể, hai người đã ái ân với
nhau lúc đó. Khi người anh khám phá ra chuyện ngoại tình này, đi tìm giết em mình. Hai anh
em đánh nhau dữ dội bằng đủ cách, kể cả pháp thuật, nhưng bất phân thắng bại. Cuối cùng để


tránh huynh đệ tương tàn, Kulabob làm một chiếc tàu to bỏ đi về hướng biển cả, chở theo
người, cây, thú vật và đồ đạc, từ đó lập thành các nhóm dân hải đảo Thái bình Dương.
Oppenheimer xem tích Kulabob này là cổ tích gốc của tất cả các dân liên hệ huyết thống đến
giống dân Nam Đảo, vi có rất nhiều dạng kể khác nhau trong vùng đảo. Theo ông, chuyện cổ
Cain/ Abel ở Cận Đông và Adonis/Attis/ Osiris ở Ai Cập được ghi lại sau đó bắt nguồn từ tích
Kulabob, cũng như truyền thuyết đại hồng thủy ghi lại thành thiên trường ca Gilgamesh xứ Ur
cổ xưa bắt nguồn từ một tích gốc Nam Đảo và do thảm kịch nước biển dâng ngập đại lục thềm
Sunda mà ra. Từ các chuyện cổ và từ những chi tiết như dấu xâm mình, mắt xếch trên tượng Ur
cổ, Oppenheimer kết luận là nền văn minh Lưỡng Hà và Ai Cập đã bắt nguồn từ văn hố Nam
Đảo nơng nghiệp. Sự phân chia ngơi thứ xã hội, tổ chức chính trị, tín ngưỡng, phù phép (magic)

đều do những người sống trên thềm Sunda mang đến Trung Đông bằng đường biển khi
Sundaland bị nhận chìm dưới nước.
Thuyết về nguồn gốc xưa của văn minh Đông Nam Á và đường thiên di người Nam Đảo nói
chung rất "quyến rủ", có mạch lạc, giá trị, nhưng khơng thể khẳng định vì chưa có những
phương pháp định "tuổi" các truyền thuyết, cho phép xếp chúng theo thứ tự trước sau, thêm
vào đó những chứng minh về ảnh hưởng Nam Đảo trên hai nền văn minh cổ sáng chói này theo
tơi khơng đủ sức thuyết phục.
Bởi vì vùng Cận Đơng là vùng có người hiện- đại H. sapiens sống từ rất lâu (-100 000 năm ).
Những người ở đấy cũng lập nên làng xã từ gần 10 000 năm nay, từ Turkey đến Israel, và từ
lâu đã sống bằng nghề canh nơng (lúa mạch, lúa mì), chăn ni (dê, cừu, bị...). Cái nơi các
giống lúa mạch, lúa mì, dê, cừu, bị. thuần dưỡng của cả nhân loại chính là ở nơi đó. Tuy nghề
làm đồ gốm ở đấy có niên đại sau đồ gốm Jomon bên Nhật (khoảng -10 000 năm ), nhưng các
kĩ thuật khác (đi ngựa, làm xe, làm đồ vật bằng đồng thau, bằng sắt ) được biết rất sớm. Ngày
nay người sống trong vùng này giống người Ấu hơn người Á Châu. Giả thuyết của Oppenheimer
sẽ thuyết phục hơn nếu có thêm những bằng chứng khác.

Những điểm có thể gây ngộ nhận
trong bài N. V. Tuấn.
Tôi muốn bàn đến một số điểm trong bài của N..V. Tuấn dễ gây ngộ nhận, có thể đưa đến nhận
định khơng chính xác về nguồn gốc dân tộc Việt Nam.

1- Thuyết "Bắc tiến" (của người cổ Việt Nam), theo kết quả mới về nghiên cứu di truyền?
Quả có "Bắc tiến" cách đây trên 50 000 năm, từ vùng Đông Nam Á lên Trung Hoa. Tuy nhiên, ở
đây phải hiểu theo hiện tượng thiên di người cổ nói chung. Mới đây, nhiều phịng thí nghiệm
trên thế giới hợp tác nhau để so sánh genes người ở vùng Đông Á châu và đã đưa ra một kết
luận quan trọng đăng trên hai bài báo (xem tác giả Chu, Su, phần sách tham khảo) : người cổ
thuộc giống người hiện- đại (sapiens) đến từ Phi châu, ghé vùng Đông Dương trước, rồi từ đó
thiên di lên phía bắc đến nam Trung Hoa, và sau đó hợp chủng với người Altaic (từ Trung Á đến
sau qua đường thiên di bắc Á châu) thành dân "mới hơn" sống ở đông Siberia -Tây Bá Lợi Á.
Dĩ nhiên trên đường thiên di đầu tiên từ Phi châu xuống phía nam, tổ tiên dân Á Đông đã ghé



bán đảo Ần Độ trước khi đến Đông Nam Á, nên người Ần Độ khơng thể "có gốc gác Đơng Nam
Á" được như Nguyễn Văn Tuấn đề nghị. Ần Độ sau đó đã đón nhận rất nhiều luồng thiên di
khác, trong đó có cả chủng da trắng aryen đến từ phía tây bắc. Oppenheimer có đưa ra ý kiến
là một trong những chủng sống ở đông bắc Ần Độ, chủng Munda nói tiếng thuộc họ Nam Á như
người Việt và dân Đông Nam Á lục địa, là di dân Nam Á đến từ phía đơng (là Thái Lan, nơi có
vết tích lúa xưa) vào thời tiền sử, mang theo kĩ thuật trồng lúa.
Oppenheimer có thể có lí về điểm này, nhưng ơng khơng hề nói dân Ần nói chung có gốc gác ở
Đơng Nam Á. Nhóm dân rất cổ tại Ần Độ là Dravidians (hiện còn người kế thừa ở nam Ần) gần
với tổ tiên Phi châu, nhưng cũng đã lai với các chủng đến sau. Chỉ có thổ dân các hịn đảo đơng
Ần Độ (Nicobar...) cịn nhiều nét của tổ tiên đến từ Phi châu là cổ hơn cả, vì họ ít gặp di dân
khác để lai giống.

Chúng ta biết rằng càng gần gốc Phi châu, các di tố càng đa dạng. Genes của dân Đông Nam Á
đa dạng hơn genes những dân phía đơng bắc Á châu, nghĩa là dân Đông Nam Á gần tổ tiên Phi
châu hơn Đơng Bắc Á. Cần nói thêm là kết luận của bài Chu & Su (xem sách tham khảo) được
rút ra từ kết quả mới về phân tích genes các giống dân thiểu số tại nam Trung Hoa (kết hợp với
kết quả phân tích genes khác như thổ dân Đài Loan v..v..); genes "Đơng Nam Á" là genes (một)
người Kampuchia, cịn genes người Việt Nam khơng có trong những genes nghiên cứu !. Trung
Hoa đã đóng góp nhiều vào kết quả này qua chương trình "Chinese Human Genome Diversity
Project".

Kết luận tương tự thật ra đã được Ballinger rút ra ở di truyền học từ 1992 (xem phần sách tham
khảo). Ba mươi năm trước, Bình Nguyên Lộc cũng đề nghị là người cổ Việt Nam (ông gọi là "Mã
Lai đợt I, hay Lạc bộ Trãi") đã từ phía nam tiến lên làm chủ phía bắc Trung Hoa, nhưng sau đó
bị giống dân phía bắc (lai dân Nhục Chi) đẩy lùi trở xuống. Kết quả phân tích genes của các
nhóm Chu/ Su cho biết nói chung dân Đơng Nam Á gần "tổ" Phi châu, nhưng không đủ chi tiết
để cho biết những sự lai giống trước sau nào đã đưa đến các giống dân khác nhau hiện nay. Tất
cả các dân tộc trên thế giới ngày nay đều đã lai "giống" (ít) nhiều dù tất cả đều cùng gốc tổ Phi

Châu, vì người hiện- đại đã không ngừng thiên di từ lúc sinh ra hơn trăm ngàn năm trước tại Phi
Châu.

2- Có phải Người Hồ Bình tràn lan về phía nam (Indonesia ?) , lên hướng bắc (Trung Hoa ?) và
sang hướng tây (Thái Lan ?).
Văn hố Hịa Bình (với giai đoạn muộn từ 7000 đến 12000 năm trước đây) được bà Colani, nhà
khảo cổ Pháp, khai quật, nghiên cứu và đề xuất ra vào cuối những năm 1920. Văn hố này có
những đặc trưng về dụng cụ đá cuội (pebble) ghè trên một hay hai mặt thành chopping tools và
về nơi cư dân sống : hang động đá vôi. Cho đến nay người ta chưa có bằng chứng trực tiếp về
sự nảy sinh nơng nghiệp trong văn hố Hồ Bình ở Việt Nam, mặc dù có những bằng chứng gián
tiếp, như mơi trường, sự khủng hoảng về cách tìm thức ăn, sự xuất hiện của rìu đá mài. Danh
từ "Hồ Bình" ngày nay được các nhà khảo cổ thế giới dùng trong khái niệm techno-complex
(phức hợp kĩ thuật) để chỉ những di tích khảo cổ loại này. Nhiều hang động có di tích người tìm
thấy ở Thái Lan qua những thập niên gần đây được xếp vào techno-complex loại Hồ Bình. Khi
nghiên cứu phấn hoa trong tàng đất khảo cổ ở nhiều hang, đặc biệt trong Spirit Cave tại Thái


Lan, người ta nghĩ là chủ nhân chúng đã bắt đầu trồng một số cây như trầu cau, bầu bí.vào giai
đoạn cuối của thời săn bắt-hái lượm. Theo thói quen trong ngành, người ta dùng tên của nơi mà
đặc trưng về di tích khảo cổ được tìm thấy lần đầu -Hồ Bình- để chỉ di tích có đặc trưng đó tìm
được sau này, ngay cả khi chúng được tìm ra trong vùng khác. "Người Hồ Bình" là những người
thuộc văn hố đặc trưng tiền đá mới (pre-neolithic) này. Tơi nghĩ khơng phải dụng cụ đá tìm
được ở Úc Châu là từ Hồ Bình mà ra, vì tuổi di tích Úc già hơn, bởi niên đại sớm nhất của văn
hố Hồ Bình, theo khảo cổ học Việt Nam, là 18 ngàn năm trước (với rất ít di tích trong khoảng
thời gian từ đó đến 12 ngàn năm trước). Người sống ở Hồ Bình khó lịng vượt mấy ngàn cây số
để đến Úc từ 14 000 đến 20 000 năm trước. Theo tơi, chữ "người Hồ Bình" dùng cho các di tích
ở nơi khác khơng có nghiã là người ở Hồ Bình -Bắc Việt- vào thời điểm đó (7 000 đến 12 000
năm trước) đã tràn lan đến những nơi khác như Thái Lan, Indonesia, Úc, Trung Hoa.

Về văn hố Hồ Bình, các nhà khảo cổ Việt Nam đã đóng góp rất nhiều qua các cơng trình

nghiên cứu quan trọng được cơng bố, thiết tưởng khơng cần nói thêm. Độc giả nào muốn biết
thêm về việc có một hay nhiều văn hố Hồ Bình, văn hố hay phức hợp kĩ thuật, có thể xem
"Theo dấu các nền văn hoá cổ" của giáo sư Hà văn Tấn.

3- Kĩ thuật làm đồ đồng thau (dụng cụ, vũ khí) của cư dân Đơng sơn có trình độ cao nhất nhì
thế giới ?
Trình độ đúc đồng của cư dân Đông Sơn ( 700 năm trước công nguyên đến sau công nguyên)
quả rất cao, nhưng không thể nói là cao hơn trình độ thợ các nơi khác, trong các nền văn minh
có lâu trước Đơng Sơn. Điển hình là nền văn minh Sanxingdui nói trên, xưa hơn Đông Sơn đến
mấy ngàn năm. Nền văn minh bắc Trung Hoa thời Thương (thiên kỷ thứ hai trước công nguyên)
đã làm ra hàng loạt đỉnh đồng to như trống Đông Sơn với nhiều khắc chạm độc đáo. Cịn đồ
đồng tìm thấy ở Thái Lan tuy không to bằng nhưng xưa hơn Đông Sơn khá nhiều (một ngàn
năm ) và cũng có sắc thái riêng. Đó là khơng kể đến những đồ đồng làm tại các đô thị văn minh
cổ ở Irak, vùng Cận Đông, Ai cập sớm hơn đồ đồng Đơng Sơn rất nhiều. Đồ đồng Đơng Sơn có
mặt trễ hơn đồ đồng của rất nhiều nơi khác, tôi tự hỏi biết đâu cư dân Đơng Sơn cũng đã có dịp
học hỏi thêm kĩ thuật đến từ những nơi gần Việt Nam. Kết quả khảo cổ cho thấy cư dân Phùng
Nguyên chỉ mới bắt đầu luyện đồng mà chưa biết đúc vật dụng. Đến thời Đồng Đậu trên dưới
3000 năm trước đây, đột nhiên cư dân sống ở đấy đúc được nhiều đồ kĩ thuật cao như lưỡi giáo,
mũi tên. Phải chăng có một (hay nhiều?) thời kì cư dân bản địa được dịp tiếp xúc, gặp gỡ các kĩ
thuật khác qua những sứ giả, thương khách? Hay một lí do khác? (Tôi sẽ trở lại về thay đổi này
ở phần sau) Nghĩa là thợ Đông Sơn vào khoảng 2500 năm trước đã chứng minh khả năng sáng
tạo kĩ thuật và mĩ thuật, khi làm được một số lượng lớn trống to giá trị cao, dùng trong lãnh vực
thương mại, ngoại giao khắp cõi Đông Nam Á, nhưng khả năng nội tại này không loại trừ việc
kết hợp và ứng dụng các đặc tính nhân bản là hiếu học, óc tò mò, ý muốn cách tân.

4- "Đồ gốm Việt Nam xuất khẩu khắp Đông Nam Á đến tận Melanesia, trước khi có ảnh hưởng
của Ần Độ" ?.
Tơi e rằng có nhầm lẫn về điểu này: Việt Nam cổ xuất khẩu trống đồng chứ không xuất khẩu đồ
gốm. Đồ gốm thời Phùng Ngun, trước Đơng Sơn, có hoa văn độc đáo, sau đó được dùng trang



trí đồ đồng Đơng Sơn.

Gốm Đơng Nam Á nổi tiếng thế giới là gốm Lapita xưa 3500 năm, tìm được ở nhiều đảo vùng
nam Thái Bình Dương. Gốm Lapita nổi tiếng khơng phải chỉ vì đẹp, mà cịn vì dính dáng đến
nguồn gốc các thuyết thiên di của giống dân nói tiếng Nam Đảo. Đó là thuyết "chuyến tàu
nhanh" (express train) chở dân Nam Đảo đi từ Đài Loan đến khắp vùng biển nam Thái Bình
Dương của Bellwood, và thuyết "hai chuyến tàu, nhanh và chậm" của Oppenheimer. Cả hai đều
không nhắc nhở đến gốm Phùng Nguyên.

Theo thuyết "chuyến tàu nhanh" của Bellwood, người nói tiếng Nam Đảo từ Đài Loan dùng
thuyền vượt biển đến chiếm lĩnh nhanh chóng chuỗi đảo hoang trong vùng nam Thái bình
Dương, liên tiếp đảo này đến đảo kia trong vòng vài trăm năm ; họ mang theo đồ đạc, kĩ thuật
(làm gốm Lapita), thú ni, cây trồng, vào 3500 năm trước đây. Cịn Oppenheimer chủ trương
rằng trước chuyến tàu nhanh này, đã có "chuyến tàu chậm" "chở người tị nạn hồng thuỷ" (ở
thềm Sunda ), từ bắc Borneo đến vùng đảo Nam Thái Bình Dương nói trên vào 9000 hay 10000
năm trước. Ở mỗi nơi họ ngừng lại một thời gian, "lai giống" với người bản địa thuộc chủng
Australoid, họ sinh sống và sinh sôi trước khi lên đường tiếp tục đi qua đảo khác.

Đồ gốm Á Châu nổi tiếng thế giới, gốm Jomon của cổ dân sống ở bắc Nhật, là gốm sớm nhất
thế giới (trên 10 000 năm trước), có nét đẹp riêng biệt, khơng thể đến từ Hồ Bình, vì Hồ Bình
là văn hố khơng có đồ gốm, hay có rất ít vào thời kì cuối ( Bắc Sơn ). Nhưng người Nhật ngày
nay là con cháu của người thuộc văn hố Yayoi, khơng có cùng genes với chủ nhân gốm Jomon
nổi tiếng này, cũng như người Thái hiện tại có gốc ở vùng Vân Nam chứ không là hậu duệ trực
tiếp của chủ nhân các văn hoá cổ trên năm ngàn năm (Ban Chiang, Ban Kao.). Chủ nhân văn
hoá Yayoi đến Nhật chỉ vài trăm năm trước công nguyên, mang theo nghề trồng lúa, và có khả
năng là người U Việt di tản khi nước U Việt bị ngườI Hán thơn tính (xem R. Shiba).

Tơi cũng khơng tin rằng hai nền văn hoá Yangshao và Longshan (bắc Trung Hoa) đến từ Hồ
Bình như N. V. T đã viết. Vùng Bắc Trung Hoa hầu như khơng có dấu vết văn hố Hồ Bình

trong nghiã "phức hợp kĩ thuật". Thật vậy, nền văn hoá Yangshao (5000 năm trước) nổi tiếng
với gốm vẽ hình màu đen trên nền gốm đỏ là văn hóa gốc của tộc Hán ở Thiểm Tây (bắc Trung
Hoa) vốn là những người trồng kê, sống trong nhà thấp đào sâu dưới đất, và văn hố Longshan
(tỉnh Sơn Đơng) nổi tiếng về đồ gốm rất mỏng, màu đen bóng (đưa đến nền văn hoá triều
Thương), là những văn hoá đặc thù, hồn tồn khác với văn hố sống trong nhà sàn, trồng lúa
nước, ở Bắc Việt.

5- "Quê hương của kĩ thuật trồng lúa là ở quanh vùng Đông Nam Á" ?
Ngay ông Oppenheimer cũng không dám khẳng định như thế. Khi nói về vết tích hạt lúa theo
ơng cổ nhất thế giới ở Thái Lan, Oppenheimer hai lần nhấn mạnh "nếu phần định tuổi này được
xác nhận là đúng". Thật vậy, nhà khảo cổ Thái Pookajorn, người khám phá ra dấu vết lúa cổ


trong gốm thời đồ đá mới, đã định tuổi theo loại hình di vật tìm được trong các hang Sakai, Ban
Kao...vào giai đoạn nối tiếp văn hố loại Hồ Bình (tìm thấy trong lớp đất bên dưới), là khoảng
9260 - 7620 năm trước. Nhưng theo nhiều nhà khảo cổ, đa số di tích, di vật tìm thấy ở Thái
Lan, khi định tuổi lại thì thấy "trẻ" hơn nhiều so với tuổi định ban đầu.

Ngoài ra, so với Thái Lan, số chỗ có di tích lúa tìm thấy dọc theo nam sơng Dương tử khơng
những nhiều hơn, mà cịn rất xưa hơn. Vết tích bữa cơm tiền sử nấu với gạo từ lúa mọc hoang
xưa nhất thế giới, -13 000 năm, được một nhóm khảo cổ Mỹ -Trung hoa tìm thấy trong hang
Diaotonghuan phía nam sơng Dương tử (bắc tỉnh Giang Tây). Cư dân sống trong vùng này đã
biết thử nghiệm các giống lúa và cách trồng trong thời gian dài tiếp theo đó. Điều này đã được
nhóm khảo cổ chứng minh qua sự tăng độ lớn phytolith của lúa ( phần thực vật hoá thạch, tồn
tại nhờ giàu chất silica) lắng trong những lớp trầm tích theo thời gian. Tin này đã được đăng
trên báo khoa học hàng đầu thế giới Science, năm 1998. Các nhà khoa học nghiên cứu về
phytoliths- thạch thể lúa - này đã chứng minh rằng từ 9000 năm trước dân cổ ở vùng đó đã ăn
nhiều gạo của lúa trồng hơn lúa hoang. Nhóm cư dân bản địa này cũng bắt đầu làm đồ gốm thô
xốp bằng đất trộn trấu. Kinh nghiệm về trồng lúa tích tụ tại đấy trong mấy ngàn năm đã đưa
đến nghề trồng lúa trong toàn vùng nam Dương tử. Di tích xưa thứ hai, chín ngàn năm trước

(9000), là Pengtou, gần hồ Động Đình phía nam sơng Dương tử (Trường giang). Hơn bốn mươi
chỗ có di tích lúa cổ hàng ngàn năm đã được tìm thấy ở vùng nam Trường giang. Gần cửa biển
nam Trường giang, di tích văn hố Hemudu cho thấy văn minh lúa nước trong vùng lên đến
trình độ rất cao vào 7000 năm trước (sớm hơn cả di tích làng trồng kê Banpo xưa nhất của tộc
Hán phương bắc).

Hemudu là một làng vài trăm người sống trên nhà sàn trong vùng đầm lầy ở cửa sông Tiền
Đường. Dân Hemudu đã trồng lúa, ăn cơm, để lại lớp rơm và trấu dày 25- 50 cm (cịn dính một
số hạt lúa), có nơi dày đến cả thước, trên diện tích 400 thước vng. Có thể đó là lớp "rác" để
lại trên sân đập lúa. Di chỉ thực vật (củ ấu, củ năng, táo.) và di cốt động vật hoang (hươu, trâu,
tê giác, cọp, voi, cá sấu...) cho thấy khí hậu vùng nam sơng Dương tử bấy giờ thuộc loại nhiệt
đới, hồn tồn thích hợp với việc canh tác lúa nước.

Nền văn hoá Hemudu xưa bảy ngàn năm (7000) có nhiều điểm gần gũi với văn hố Phùng
Ngun- Đơng Sơn vốn là những văn hoá trẻ/trễ hơn nhiều (sau hơn 3000 năm). Cư dân vùng
nam Trường giang lúc ấy có lẽ gần với cư dân Bắc Việt về mặt chủng tộc và văn hoá hơn cư dân
bắc Trung Hoa. Khuôn mặt đắp từ sọ người Hemudu trưng bày ở Viện Bảo tàng Hemudu cho
thấy họ giống người thuộc chủng nam Mongolic, tức là chủng của người Việt Nam từ thời Đơng
Sơn về sau. Sau văn hố Hemudu, hàng loạt văn hoá lúa nước khác đã sinh ra dọc Trường
giang khoảng 4000 năm trước (Liangzhu, Majiabin, Quinshanyang, Qujialing, Daxi, Songze,
Dadunze.).

6-Tổ tiên chúng ta đã phát triển và ứng dụng kĩ thuật trồng lúa, hay tổ tiên chúng ta là thầy
dạy người Hán trồng lúa nước?
Theo tôi, diều này đúng. nếu ta chấp nhận rằng cư dân trồng lúa sống ở phía nam Trường


giang(thuộc nhóm Bách Việt, theo sử Tàu ) là tổ tiên của dân Việt Đông Sơn hoặc là anh em
ruột với tổ tiên người Việt Đơng Sơn, mà vì lí do nào đó tổ tiên này đã rời vùng nam Trường
Giang về trụ tại Đơng Sơn. Vì người Hán đã học được nghề trồng lúa với dân nam Trường giang

(Nam Trung Hoa) trước khi tiếp xúc thẳng với người Việt cổ ở Đông Sơn vào những năm trước
công nguyên. Và các kết quả về di truyền lẫn hình dáng sọ cho thấy là các bộ tộc Nam Trường
giang khác với chủng gốc bắc Trung Hoa. Trong các dân đã "dạy" người Hán trồng lúa, phải kể
đến dân U Việt . Mà dân U Việt vùng Cối Kê lại là con cháu của cư dân trồng lúa lâu đời tại
Hemudu.

Ngoài ra, tuy người Việt Đông Sơn đã biết trồng lúa, nhưng di tích lúa tìm được ở Việt Nam
khơng xưa như di tích lúa ở Thái Lan, và khơng thể nào xưa hơn di tích lúa vùng nam Trường
giang. Di tích xưa nhất là những hạt gạo cháy thành than tìm thấy trong văn hố Đồng Đậu ở
châu thổ sơng Hồng, nằm trong trấu trộn với đất làm đồ gốm, không q 3500 năm trước. Do
đó, tơi xem vùng nam Trường Giang mới thật là quê hương đầu tiên của lúa, không như
Oppenheimer, ông xem Thái Lan là quê hương của lúa nhưng Oppenheimer (xin lập lại lần nữa )
cũng lưu ý là thời điểm có lúa cổ ở Thái Lan cần được xác quyết.

7- "Trước khi tiếp xúc với người Hán, tổ tiên chúng ta có một nền văn minh rất cao, nếu khơng
muốn nói là cao nhất Đơng Nam Á "?
Thế nào là văn hố "cao nhất" Đơng Nam Á, và Đơng Nam Á nào, có kể ln vùng đất rộng lớn
Sundaland bị biển dâng làm chìm ngập khơng ?

Ta có thể nói văn hố Việt Nam vào thiên kỷ một trước cơng ngun có bản sắc riêng, khơng
"thua kém" ai, và được lưu truyền từ cư dân cổ hơn sống trong cùng vùng, chứ không phải
ngoại nhập. Điều này đã được các nhà khảo cổ Việt Nam chứng minh rõ ràng qua tính liên tục
của các nền văn hố nối tiếp nhau trên vùng Bắc Việt.

Nếu tính rằng Việt Nam có "bốn ngàn năm văn hiến" với truyền thuyết các vua Hùng ở Bắc Việt
thì có thể xem giai đoạn Văn Lang tương ứng với nhiều nền văn hố liên tục từ Phùng Ngun
đến Đơng Sơn. Văn hố Đơng Sơn cũng là nền văn hố độc lập cuối cùng trước khi ngườI Hán
chiếm Bắc Việt Nam và đô hộ một ngàn năm. Văn hố Đơng Sơn tuy nổi tiếng về trống đồng to
đẹp, từng được mua bán trao đổi đến tận Mã Lai, Indonesia, nhưng lại là một văn hố nằm
trong thời kì đồ sắt, tức là thời nằm sau thời đồng thau trong quá trình tiến triển văn minh các

nơi trên thế giới theo thứ tự trước sau là : đồ đá cũ, đồ đá mới (đá mài), đồ đồng thau, đồ sắt.
Nghĩa là cư dân ấy vẫn cịn q "lưu luyến" đến đồ đồng thau (vì tuy đã biết nhưng không chú ý
nhiều đến đồ sắt ?! ). Đồ sắt có những điểm trội hơn đồ đồng trên phương diện kinh tế và quân
sự : sắt cứng chắc, kiếm sắt chặt gãy kiếm đồng, và tên sắt xun qua áo giáp đồng. Thời Đơng
Sơn quả có sản xuất nhiều đồ đồng thau chạm trổ tinh vi : vũ khí (dao găm, qua, giáp che
ngực, lưỡi lao...) và cả lưỡi rìu, lưỡi cày (tuy lưỡi cày sắt đã xuất hiện). Người Hán chính nhờ
phát triển mạnh kĩ thuật đồ sắt vào thời Chiến Quốc nên đã thắng các nhóm dân giáp ranh phía
nam cịn mãi bám vào đồ đồng thau, như nước U Việt ba trăm năm trước cơng ngun. Các di
tích qn Tần ( ở Xi'an) cho thấy họ mang khí giới và giáp sắt. Người Hán tiếp tục thanh toán


các nước Mân Việt, Ấu Việt, rồi... diệt luôn Ấu Lạc thời Đơng Sơn ! Hay nói cách khác, nếu văn
hóa ta xưa kia "cao nhất", mà lại bị Hán đô hộ, ấy bởi ta "thua" họ về sức mạnh, kĩ thuật, kinh
nghiệm chinh chiến; nghĩa là ta không xem kĩ thuật, quân sự như một thành tố của một nền
văn hóa !

8- "Đơ thị cổ xưa nhất trong vùng là do tiền nhân chúng ta xây dựng" ?
Đô thị cổ xưa nhất trong vùng? Tuỳ theo vùng xem xét có bao gồm... cả nam Trung Hoa hay Ần
Độ khơng. Thành Cổ Loa xưa nhất Việt Nam xây vào thời An Dương Vương, hơn hai trăm năm
trước công nguyên. Về kiến trúc hiện nay khơng cịn gì nhiều. Theo truyền thuyết, thành xây
hình trơn ốc, gồm 9 vịng, có hào nước thơng với sơng Hồng Giang nối với sơng Cầu và sơng
Hồng. Hiện nay chỉ cịn những đoạn lẻ của ba vòng thành đất, với vòng lớn nhất chu vi 9 km.

Trong khi đó, phía bắc vùng đất Loa thành là Trung Hoa, nước lớn nhất thế giới vào thời đó. Vua
Trung Hoa, Tần Thuỷ Hồng Đế thu phục được nhiều thành trì bằng đá (cịn dấu vết đến ngày
nay) khi đánh bại những nước vùng bắc và trung nước Tàu. Tần Thuỷ Hồng cịn cho xây Vạn Lý
Trường Thành ngăn dân phía bắc xâm lấn. Xưa hơn nữa, một ngàn năm trước đó, nhà Thương,
nhà Ấn xây thành bảo vệ các thủ đô vùng bắc Trung Hoa, và ở nam sơng Dương tử nền văn
minh Sanxingdui cũng có thành trì rất xưa ở Tứ Xuyên, đến ngày nay vẫn cịn. Đó là chưa kể
đến Persepolis, thủ đơ cổ 3600 năm ở Ba Tư (Iran), với thành quách bằng đá cịn rất nhiều hình

phù điêu cũng như tài liệu viết bằng ba thứ tiếng khắc trên đất nung. Cũng như các thành phố
tối cổ có tường gạch dày với nhà hai tầng có cả phịng tắm và hệ thống cống thoát nước, ở vùng
Ần hà (Mohenjo Daro và Harappa, Pakistan), tất cả đều trong Á châu.

Cổ Loa là một công trình lớn đối với dân Đơng Sơn, nhưng khơng so sánh được với Trung Hoa và
Sanxingdui thời trước đó. Theo Oppenheimer có thể cũng đã có thành quách xây trên thềm
Sunda hay thềm Nam Hải nhưng chưa ai nghiên cứu được vì ngày nay các thềm này nằm dưới
biển. Ơng có đưa ra hình chụp những tảng đá to hình bậc thang nằm dưới đáy biển phía đơng
Đài Loan, nhưng lại nói các nhà khoa học chưa đồng ý với nhau là đá đó do thiên nhiên bào mịn
hay nhân tạo.

Như vậy, "cổ nhất vùng" hay không, Cổ Loa là di tích (duy nhất) cho thấy ở Bắc Việt đã có một
tập hợp dân đủ mạnh và đủ tài nguyên, năng lực để xây một thành trì lớn. Số lượng lớn các mũi
tên đồng nhiều kiểu tìm thấy trong thành Cổ Loa là bằng chứng thủ lãnh cư dân tại đấy đã tổ
chức quân đội bảo vệ thành. Thế nhưng Triệu Đà đã chiếm Loa thành và lên làm vua nước Nam
Việt. Mà Triệu Đà chỉ là viên tướng nhỏ nhiều tham vọng của Tần Thuỷ Hoàng trong đạo quân
mở bờ cõi phía nam Trung Hoa. Nhân dịp Tần Thuỷ Hoàng chết và tướng Nhâm Ngao cầm đầu
đạo quân này cũng khơng cịn nữa, Đà xưng vương ở Phiên Ngung, tức thị trấn Quảng Đơng
(Canton) bây giờ. Truyền thuyết nói rằng Triệu Đà dùng mưu phá nỏ thần giữ Loa thành nên
chiếm được Ấu Lạc. Tiếc rằng nay khơng cịn bằng chứng gì về nỏ thần Loa thành, dù có nhiều
cơ bẩm nỏ đã được tìm thấy. Các cơ bẩm này tương tự như cơ bẩm nỏ cá nhân quân Trung Hoa
sử dụng dưới thời Tần Thủy Hồng, khơng phải là thứ nỏ có thể diệt hàng loạt địch quân như
truyền thuyết để lại. Vũ khí Trung Hoa có khả năng tiến bộ hơn Đơng Sơn vì người Trung Hoa


đánh lẫn nhau liên miên trong thời Xuân Thu - Chiến Quốc (gần trọn thiên kỷ I BC) trên một
bình diện rộng lớn. Trong lúc đó, sự tranh chấp quyền lực bằng vũ khí nếu có tại Bắc Việt chỉ có
thể xảy ra ở qui mơ nhỏ hơn (mức độ bộ lạc hơn là một quốc gia). Có lẽ vì vậy mà vũ khí thời
Đơng Sơn được chạm trỗ kĩ lưỡng, như đồ dùng trong nghi lễ hơn là khí giới giết người trong các
trận chiến. Lại thêm một chi tiết về "sức mạnh kĩ thuật" (hơn Việt) của tộc Hán !


Những điểm nêu trên khơng nhằm mục đích "hạ uy tín" của tổ tiên dân Việt, chủ nhân các văn
hố từ Hồ Bình đến Đơng Sơn. Một vùng nhỏ, ít dân như Bắc Việt không thể so sánh được với
các nhóm dân q đơng đúc sống trên một vùng rộng lớn như Trung Hoa. So với cư dân khác
tại Đơng Nam Á, ngồi trừ kĩ thuật làm trống đồng, văn minh Đơng Sơn có lẽ cũng khơng cao
hơn nhiều. Dĩ nhiên về mặt chính trị, Trung Hoa với số dân và chủng tộc q đơng đảo, phải tìm
mọi cách để tránh những nổi dậy, yêu sách sắc tộc và/hoặc để cổ động, biện minh cho chủ
trương bành trướng, cũng như Việt Nam, để giữ đoàn kết dân tộc, tự vệ trước người láng giềng
quá lớn và nhiều tham vọng. Một trong những phương tiện là ra sức chứng minh, khẳng định sự
lâu đời và liên tục đồng nhất hoặc hơn trội về cội nguồn văn hoá, chủng tộc của mình.

Nhưng quả là liều mạng khi xem "Đơng Nam Á là một trung tâm văn hoá lớn ngay từ thời cổ
đại, trong đó Việt Nam là nơi hội tụ ở mức độ đầy đủ nhất mọi đặc trưng của văn hoá khu vực",
như một học giả trong nước đã viết (theo Tạ Chí Đại Trường, xem phần sách tham khảo) mà
khơng đưa ra lí luận cũng như bằng chứng thuyết phục.

Nhìn lại nguồn gốc dân Việt
Khi xét về nguồn gốc dân Việt, chúng ta cần tổng hợp các nguồn tài liệu khác nhau, trong đó có
khối lượng đồ sộ về khảo cổ tích tụ từ thời Pháp thuộc. Các nhà khảo cổ Việt Nam hiện đại đã
đóng góp phần rất quan trọng trong việc khai quật, sắp xếp, phân tích các di tích văn hố cổ
trên đất Việt Nam. Tuy nhiên di truyền học (có lẽ vì q mới mẻ ? và nhiều tốn kém ?) gần như
vắng mặt trong những nghiên cứu này. Di truyền học là một ngành không thể thiếu trong việc
nghiên cứu gốc gác chủng tộc. Thật vậy, văn hố có thể vay mượn, và ngơn ngữ phần lớn tuy
có liên hệ với nguồn gốc, nhưng những dây liên hệ rất phức tạp; khi có sự hợp chủng, ngôn ngữ
không những chịu ảnh hưởng của sự lai giống, mà còn tuỳ vào những yếu tố như sức mạnh
tương đối các giống dân, số đông và khả năng chuyên chở rõ ý tưởng.

Trong tình trạng thiếu hiếm dữ kiện di truyền học về dân Việt các miền và về những sắc tộc có
liên hệ gốc gác với người Việt như Tày, Mường, Ba-Na, Gia-Rai..., "Địa đàng ở phương Đơng" là
một nguồn tư liệu rất q. Tính chất cổ xưa của di tố các dân tộc toàn vùng Đông Nam Á do

Oppenheimer nêu ra, kết hợp với kết quả nghiên cứu sọ cổ, đưa đến kết luận là "người hiệnđại" đến từ Phi châu đã sống trong vùng Đông Nam Á từ sáu mươi ngàn năm trước cho đến thời
đá mới (khoảng 8 ngàn năm trước). Họ là người thuộc chủng Australoid- Melanesian cổ. Tuy có
những thay đổi đặc điểm nhân chủng theo khí hậu và mơi trường (qua sự lựa chọn, đột biến tự
nhiên của genes), cư dân trên đất Việt trước thời đá mới (thuộc các văn hố Sơn Vi, Hồ Bình,
Bắc Sơn) là những người thuộc chủng nói trên, cũng như các nhóm dân khác sống trong cùng
vùng lúc ấy và cùng khí hậu (ở Ần độ, Miến Điện -Myanmar-, Thái Lan, Cao Miên -Kampuchia-


....). Họ có đại diện cùng chủng ở New Guinea, nơi cư dân cổ sống trong những vùng hẻo lánh,
ít tiếp xúc với các chủng khác. Họ có đặc điểm như mũi to, tóc quăn, mặt rộng, cung mày rộng,
vùng chân răng (prognath ) vẩu, đầu to dài, da ngâm đen.

Xuất phát từ cùng một nhóm người với cùng ngơn ngữ gốc Austric, nhưng sống trên một vùng
quá lớn, những nhóm cư dân Australoid này tất nhiên có những ngơn ngữ khác nhau. Từ tiếng
nói chung lúc đầu, hai nhóm tiếng chính thành hình: nhóm nói tiếng Nam Đảo (austronesian,
như tiếng Indonesia và thổ ngữ các đảo Thái Bình Dương), và tiếng Nam Á (austroasiatic) là
tiếng nói của người Việt Nam, Munda, Khmer, Môn và một số thổ dân Thái Lan, Mã Lai. Phương
pháp ngôn ngữ tỉ hiệu không chỉ xét những tiếng giống nhau trong những ngôn ngữ, mà cịn xét
giọng nói, cấu trúc và thứ tự từ ngữ trong câu. Bởi thế mà tiếng Việt được xếp vào nhóm tiếng
Nam Á. Tiếng Nam Á là tiếng đơn lập (mà đơn vị cơ bản là một âm tiết có nghĩa) không "dấu"
(atonal, như tiếng Khmer), nhưng do ảnh hưởng tiếng Tàu, tiếng Việt trở thành có "dấu"
(tonal).

Benedict, và sau này Blust, Oppenheimer đều đồng ý rằng tiếng Austric cũng là ngơn ngữ gốc
của nhóm thứ ba, là nhóm nói tiếng Thái-Kadai, trước đây sống miền cực Bắc Việt Nam và Nam
Trung Hoa, về sau họ di cư một phần xuống Lào và Thái Lan. Thật ra tiếng Việt Nam, tuy được
xếp vào nhánh Nam Á, lại có nhiều từ thuộc ngôn ngữ Nam Đảo, và rất nhiều từ Hán Việt. Từ
Hán chỉ thâm nhập vào Việt Nam kể từ thời Hán Vũ Đế về sau. Trái lại các từ thuộc ngơn ngữ
Nam Đảo có gốc trước đó. Bình Ngun Lộc phân tích kĩ về tiếng Việt dân gian gốc "Mã Lai".
Tiếng "Mã Lai" cổ của ông bao gồm tiếng nói thuộc hai nhánh chính Nam Á và Nam Đảo mà ông

gọi là "Mã Lai đợt I" và "Mã Lai đợt II".

Vấn đề cần giải thích là cách nào tiếng Nam Đảo đã ảnh hưởng nhiều đến tiếng nói người Việt cổ
(Nam Á). Những từ ngữ "Nam Đảo" trong tiếng Việt có thể do vay mượn, hoặc do quan hệ gốc
gác (di truyền).

Vay mượn xảy ra khi hai nhóm dân sống chung đụng trong một thời gian. Nhưng dân Việt chỉ
sống chung đụng nhiều với dân Chàm nói tiếng Nam Đảo từ khoảng ngàn năm nay, khi nước
Việt bành trướng xuống phương nam. Nước Lâm Ầp nói tiếng Chàm (sau trở thành Chiêm
Thành) được sử Tàu nói đến ngay từ đầu công nguyên như nước giáp ranh với nước Việt, lúc đó
là quận Giao Chỉ của Tàu. Cư dân văn hóa Sa Huỳnh (và tiền Sa Huỳnh) nói tiếng Nam Đảo có
mặt từ lâu trước cơng ngun trên bờ biển miền Trung Việt Nam hẳn đã là một trong những văn
hố gốc của những vương quốc Chàm này.

Văn hóa Sa Huỳnh là một văn hố rực rỡ của dân nói tiếng Nam Đảo vào thiên kỷ thứ nhất
trước công nguyên, với những đồ sắt tiến bộ trước cả văn minh Đông Sơn, với nhiều đồ trang
sức đẹp đặc biệt bằng đá và bằng thuỷ tinh (bông tai bốn hoặc ba mấu, bơng tai tạc hình đầu
thú ở hai đầu, chuỗi đeo...), và tục táng người trong mộ vò. Căn cứ vào số lượng và kĩ thuật
làm đồ thuỷ tinh, tôi cho là cư dân Sa Huỳnh đã làm ra thuỷ tinh đầu tiên trong vùng Đông Nam


Á (khơng nơi nào khác có di tích thuỷ tinh vào cùng thời); và có kĩ thuật cao đến độ chế được
đồ trang sức khá cầu kì : ngồi hạt chuỗi các loại, người ta tìm được một khuyên tai hai đầu thú
bằng thủy tinh đang làm dở dang. Như vậy Sa Huỳnh không kém vùng Cận Đông, là nơi làm
thủy tinh sớm nhất thế giới, vào thế kỷ 7 trước công nguyên. Trung Hoa mãi đến sau công
nguyên mới bắt đầu sản xuất đồ thuỷ tinh, cịn trước đó họ nhập từ nơi khác. Sách cổ Trung
Hoa cho biết con cháu cư dân Sa Huỳnh, người nước Lâm Ầp, làm được bát thuỷ tinh, là đồ quý,
đem cống vua Trung Hoa ở những thế kỷ đầu công nguyên. Việc dân Sa Huỳnh khám phá ra
thủy tinh sớm xem ra hợp lý về mặt khoa học. Muốn có thủy tinh phải có cát mịn (silica) trộn vỏ
sị nát (calcium carbonate), là những món có sẵn ngay trên bờ biển họ sống. Khi luyện sắt gần

bờ biển, rất có thể cư dân địa phương tình cờ tạo ra trong lị những mảng thủy tinh sáng bóng,
và từ đó phát minh việc chế đồ trang sức bằng vật liệu nhân tạo này.

Ngành khảo cổ chứng minh cư dân Sa Huỳnh đã buôn bán trao đổi với những dân Nam Đảo
khác, như thổ dân Phi Luật Tân-Philippins-, Mã Lai-Malaysia-, Nam Dương - Indonesia -. Người
cổ Sa Huỳnh bán đồ sắt, đồ gốm, đồ trang sức., và có mua trống đồng.từ Đơng Sơn ! Ngành
khảo cổ thế giới xem văn hoá Sa huỳnh quan trọng khơng kém văn hố Đơng Sơn. Từ sự có
mặt của di vật văn hóa này ở vùng bờ biển hay hải đảo khác nhưng khơng có dấu vết chế tạo
tại chỗ, ngườI ta suy ra là có sự bn bán trao đổi. Theo Solheim, gốm Sa Huỳnh có liên hệ với
gốm Kalanay của dân Phi Luật Tân cổ. Solheim đưa ra thuyết "mạng buôn bán trao đổi
Nusantao" của dân Nam Đảo trên khắp biển Thái Bình Dương mấy ngàn năm trước cơng
ngun. Dù cư dân Sa Huỳnh sau đó chịu ảnh hưởng nặng của văn hoá Ần Độ, nhưng tiếng nói
Nam Đảo vẫn cịn tồn tại lâu sau đó trong dân Lâm Ầp và Chàm, cho.đến khi họ bị dân Việt
đồng hố dần vào thiên kỷ II sau cơng nguyên. Một số cư dân cổ này đã lên trên cao nguyên
miền Trung, là tổ tiên những thổ dân nói tiếng Nam Đảo còn sống đến ngày nay như người GiaRai, Rha- đê. Những bộ lạc khác trên cao nguyên (cùng gọi là "Thượng" như các bộ lạc Nam
Đảo) lại nói tiếng Nam Á, và có tổ tiên sống từ lâu ở vùng núi đồi khắp vùng Đông Nam Á. Tuy
nhiên các bộ lạc nói tiếng Nam Á này cũng biết luyện sắt từ đất quặng để chế thành dụng cụ
như người tiền sử Sa Huỳnh; chắc rằng họ học kĩ thuật làm đồ sắt qua các bộ lạc Nam Đảo gốc
gác văn hố Sa Huỳnh.
Ngồi tiếng nói, người Việt cịn chịu nhiều ảnh hưởng khác của văn hố Nam Đảo. Yếu tố Nam
Đảo trong phong tục người Việt gồm tục xâm mình, ăn trầu, việc trồng, ăn khoai từ, khoai mơn,
và gồm cả những chuyện cổ tích gốc Nam Đảo như chuyện Sơn Tinh, Trầu Cau... Theo Hà văn
Tấn, văn hố Sa Huỳnh có gốc ở văn hố Bàu Tró (từ Nghệ An đến Thừa Thiên), và chủ nhân
văn hố Bàu Tró có thể là của "người Nam Đảo". Vậy người Nam Đảo từ đâu đến, và gốc gác
thế nào?



Áp dụng lập luận Oppenheimer (về sự thiên di của dân sống trên thềm lục ra đi khi biển dâng)
vào việc phân tích dữ kiện khảo cổ Việt Nam và Đơng Nam Á, tơi xin phác họa hình thành của

người cổ Bắc Việt Nam như sau.


Người cổ thiên di từ Phi châu về phía Đơng Nam Á. Đến khi gặp biển Đơng (Nam hải, nói theo
Tàu) ngăn chận, họ phải theo hai hướng. Về phía bắc, họ đến sống vùng nam Trung Hoa và dần
dần tràn lên Mông Cổ, khi núi băng tan bớt, càng đi dần về phía bắc. Về phía nam, họ thiên di
đến trên thềm Sunda, khi đó cịn nối liền lục địa với các đảo phía nam đến tận Úc châu. Tất cả
đều là người thuộc chủng Australoid (da đen, tóc quăn, mũi to...).

Tại phía bắc Đơng Á châu người thuộc chủng Australoid thay đổi dần nhân dạng sau thời gian
dài sống trong mơi trường lạnh, gió, ít nắng.

Khoảng 15 ngàn năm trước, chủng Altaic thiên di từ Tây Á, dọc theo mạn phía đơng nam nước
Nga đến vùng Tân Cương, lai với thổ dân đông bắc Á Châu Australoid này, thành chủng Bắc
Mongoloid (da trắng vàng, mắt hí, tóc thẳng). Dân Mơng Cổ thuộc chủng này và nói tiếng Altaic.
Chủng Bắc Mongoloid sinh sôi, ngày càng mạnh lên, bành trướng về phía bắc và qua eo biển
Beringia lúc ấy cịn đóng băng, trở nên di dân đầu tiên ( thổ dân Amerindians) của châu Mỹ.
Khoảng 5000 năm trước, tổ tiên tộc Hán sống ở Bắc Trung Hoa là dân trồng kê thuộc chủng Bắc
Mongoloid.

Miền Nam Trung Hoa sau cuối kỳ băng tan có khí hậu nhiệt đới nóng ẩm. Cư dân Australoid cổ
có thể đã lai chủng bắc Mongoloid ít nhiều. Dân thuộc chủng Bắc Mongoloid bành trướng ngày
càng mạnh về phía nam, gặp cư dân Australoid tại giữa đất Trung Hoa, sống đan xen với nhau
và lai thành chủng Nam Mongoloid (da ngâm đen, tóc dợn sóng...), kết quả là càng về phía bắc
và càng về sau, cư dân càng nhiều nét Bắc Mongoloid và càng về nam dân càng nhiều nét Nam
Mongoloid. Chủng lai Nam Mongoloid là chủng tạo thành người Việt, Khmer, Thái, Miến, Mã Lai,
Nam Dương, hải đảo Thái Bình Dương.. Người Nam Mongoloid có những nét của cả hai chủng
Australoid và Mongoloid nhưng với những mức độ đậm nhạt khác nhau tuỳ theo lai nhiều ít.

Càng về phía nam Đông Nam Á, nét Australoid càng đậm, vì ảnh hưởng giống Mongoloid hãy

cịn mới. Ở vùng đảo Thái Bình Dương, du khách đi từ đầu tây về phía đơng trên những đảo
(như ở Indonesia) có thể thấy dễ dàng tỷ lệ lai Australoid tăng dần. Hiện tượng Australoid lai
Mongoloid trên đất Việt Nam có lẽ khơng phải do lai thẳng với người Mongoloid chính cống
phương bắc, mà lai qua người nam Trung Hoa, vì người ta khơng tìm thấy sọ thuần chủng Bắc
Mongoloid nào ở Việt Nam trước thời người tộc Hán trên phía Bắc đến đô hộ. Trong thời Bắc
thuộc, lai với chủng Bắc Mongoloid đến đơ hộ, cư dân bắc Việt tuy có thêm nhiều từ ngữ gốc
Hán, nhưng lại mất đi dần dần một số phong tục như xâm mình và kĩ thuật như tài lặn dưới
nước, đóng thuyền to, đi biển, là những kĩ thuật của thành phần Nam Đảo. Nước Lâm Ầp (và
sau đó là Chiêm Thành) của con cháu người nói tiếng Nam Đảo nhờ khơng bị người Hán đơ hộ
trực tiếp nên vẫn giữ được phong tục, tiếng nói, và nghề đi biển : Chế Bồng Nga đã đem chiến
thuyền vượt biển đánh phá Thăng Long !

Trên đất Việt Nam, vào thời đồ đá, cư dân thuộc chủng Australoid ban đầu nói cùng tiếng gốc
Austric, dần dần phân thành hai nhóm dân nói tiếng khác nhau theo vùng họ ở, vì cách sinh


sống khác nhau. Nhóm nói tiếng tiền-Nam- Á sống phía trong lục địa, trú trong hang động vùng
cao (văn hoá Hồ Bình). Nhóm thứ hai nói tiếng tiền- Nam- Đảo sống vùng đồng bằng ven biển,
vào lúc ấy mức biển thấp, vùng này lan ra xa ngoài đường biển hiện tại trên vịnh Bắc Việt do
thềm lục địa lài /thoai thoải. Tại vùng vịnh Bắc Việt, dọc từ bờ biển Móng Cái tới Quảng Ngãi
qua đến đảo Hải Nam, đáy vịnh sâu nhất ngày nay không quá 100 mét . Từ bờ ra khơi 20 km,
mực sâu dưới 25 m ! (trong khi ngoài khơi Trung Việt nơi núi ra tận biển và nhiều mũi, nhiều
hòn như mũi Dinh, hòn Trâu, hòn Tre.bờ biển thật dốc, sụp sâu rất nhanh, khơng có thềm).
Mười hai ngàn năm về trước, tồn vùng vịnh Hạ Long là đất liền trải dài về phía đông đến bên
kia đảo Hải Nam và Đài Loan, và về phía bắc lên đến cửa sơng Dương Tử. Nhờ các di tích khảo
cổ thuộc văn hố Soi Nhụ trong những hang cao trên trên bờ vịnh Quảng Ninh-Hải Phòng hay
đảo Cát Bà mà ngày nay ta biết đã có cư dân sống ít nhất từ 15 ngàn năm trước, trên thềm lục
địa Hạ Long, trước khi mực biển dâng cao. Những di tích khác về cc sống của cư dân sống
trên thềm đã bị ngập ở tại đấy (Meacham gọi là Nanhailand, theo tên Nam Hải, vùng vịnh Bắc
Việt), cũng như tại thềm Sunda, không thể khai quật được. Trong chừng mực nào đó, vùng vịnh

Bắc Việt, kể cả (đảo) Hải Nam có thể xem là lãnh thổ của một phần tổ tiên người Việt, thuộc
thành phần nói tiếng Nam Đảo, từ 15 ngàn năm trước ! Văn hoá Hạ Long và các văn hoá tiền
Nam Đảo khác sau đó đã góp phần quan trọng vào sự hình thành văn hố và con người Việt
Nam.

Nhóm nói tiếng tiền-Nam- Đảo không chỉ sống giới hạn ở vùng thềm lục địa ngay trên vịnh Hạ
Long mà có lẽ sống rải rác về phía bắc trên cùng thềm lục địa, vì người ta tìm thấy hàng loạt di
tích con cháu họ ở vùng HongKong trên những doi cát giống như cư dân sống dọc biển Bắc và
Trung Việt Nam. Đến khoảng 7 ngàn năm trước, nước đã lên cao hơn gần một trăm mét so với
mức 12 ngàn năm trước. Cư dân ở đấy phải dời đi nơi khác, mang theo kĩ thuật, phong tục,
tiếng nói, và . các di tố. Việc đi lại trên thềm lục địa từ nam Trường giang đến vịnh Hạ Long dễ
dàng hơn trong đất liền vì khơng có trở ngại thiên nhiên (độ cao trung bình dưới 50 thước). Lúc
nước lên cao nhất, khoảng 3 đến 5 m trên mức nước biển ngày nay, vào 4000 năm trước, các
thềm lục địa đã nằm sâu dưới biển.

Như vậy trong suốt mấy ngàn năm, dân sống trên thềm lục địa đã phải dần dà, lần lượt di cư
hoặc tìm cách lánh biển tiến. Theo Oppenheimer, có người lùi dần vào phía đất cao trong lục
địa, có người đóng tàu đi biển, người ở lại thì phải cất nhà sàn. Có thể một số nhỏ đã vượt biển,
nhưng số đông chọn giải pháp đơn giản đối với họ là tiến vào chỗ đất liền gần nhất ; đối với cư
dân vịnh Hạ Long, đó là vùng bờ biển Nam Bắc phần và Bắc Trung phần Việt Nam. Chủ nhân
các văn hoá ven biển như Đa Bút, Quỳnh Văn, Bàu Tró, và cả Bàu Dủ, Sa Huỳnh do đó đều là
những người Nam Đảo tị nạn biển tiến. Riêng dân sống trên thềm lục địa biển vùng đông nam
Trung Hoa, một số lùi vào phía HongKong trong lục địa, một số lên chỗ cao bên ngoài là đảo Đài
Loan. Di tích xưa ở bắc Đài Loan Dapengeng có gốm hoa văn thừng và hoa văn chải bằng
"lược", cùng loại với nhiều di tích trên bờ biển Nam Trung Hoa và Bắc Việt Nam, và cư dân nơi
ấy cũng ăn sò nhiều, cũng dùng chày đập vỏ cây. Ngưòi sống trên lục địa này sau đó bị Hán
hố. Xem qua di tích khảo cổ, tại Đài Loan ngồi các di tích, thổ dân trên núi còn giữ tiếng Nam
Đảo và một số phong tục đến bây giờ (thí dụ ăn trầu). Những di tích nầy được Trung Hoa xem
như di tích của người "Yue" (Việt) cổ.
Ngày nay các nhà khảo cổ đều đồng ý là cư dân nam Trung Hoa cổ, và thổ dân chưa bị lai hồn

tồn, khơng thuộc chủng tộc Hán. Cư dân vùng cực nam Trung Hoa (Quảng Đông và QuảngTây,
Vân Nam, Quế Lâm) và cực bắc Việt Nam nói những thứ tiếng thuộc nhiều nhánh khác nhau của
ngôn ngữ gốc Austric như Môn, Thái, Kadai, Yao, Miêu., nhưng thổ dân miền núi cao Đài Loan


chỉ nói những tiếng thuộc một nhánh của ngơn ngữ Austric: nhánh Nam Đảo. Vì những thổ dân
trên núi cao ít tiếp xúc với người Hán (đến trễ và chỉ ở vùng đồng bằng ven biển), nên có thể
xem thổ dân này cịn giữ genes ngun thuỷ, và văn hố cổ. Mặt khác, dân Đài Loan cổ có
nhiều liên hệ văn hoá thời đá mới (xưa trên 6000 năm) với các văn hoá của cư dân vùng Phúc
Kiến, đảo Quemoy (Kim Môn), Hongkong, Quảng Đông, và Bắc Việt cổ (qua di vật như gốm hoa
văn thừng, rìu tứ giác và rìu có vai mài nhẵn). Nếu như ta chấp nhận những cư dân cổ này có
cùng gốc, thì họ là người nói tiếng (tiền-) Nam Đảo, như thổ dân Đài Loan, và quê hương của họ
là thềm lục địa chung quanh đã bị biển tràn ngập. Vậy thì tại sao không thể xem vùng thềm
biển này, trước khi hồng thuỷ đến, là một trung tâm văn hoá lớn của dân nói tiếng Nam Đảo ?
Đây là một trung tâm văn hố Nam Đảo lớn vì đơng dân, so với những vùng được xem như
trung tâm gốc của người nói tiếng Nam Đảo theo đề nghị của Solheim (vùng nam Philippins &
bắc Indonesia) hay Oppenheimer (đông bắc Borneo) hoặc Bellwood (đảo Đài Loan). Thật vậy,
những người rời thềm lục địa trải dài từ vịnh Bắc Việt đến Đài Loan- Hongkong đến tị nạn ở
vùng đất không bị biển ngập gần đấy đã lập nên nhiều nền văn hoá nối tiếp, để lại rất nhiều di
tích khảo cổ thời đá mới trên bờ biển vịnh Hạ Long và vịnh Hongkong, cũng như trên đảo Đài
Loan.

Một phần cư dân thềm biển nam Trung Hoa (nói tiếng tiền- Nam- Đảo trong thuyết tơi đưa ra ở
đây) hẳn đã di chuyển trên thềm lục địa từ Trung Hoa đến Bắc Việt để tìm nơi khơ ráo. Thật
thế, vì núi cao ra đến tận bờ biền ở rìa lục địa gần Hongkong, nên cư dân trên thềm đi xa hơn
về phía nam, xuống tận Bắc Việt. Di tích khảo cổ tại những vùng này, từ Hongkong đến Bắc
Việt, cho thấy một dụng cụ đặc biệt của văn hóa Nam Đảo. Đó là chày đập vỏ cây cho mềm để
làm khố che thân, chày mà ngày nay dân Đa Đảo (như Tonga), cũng như dân Toraja sống trên
đảo Sulawesi vẫn còn dùng.


Bắt đầu từ thời đá mới, nghề làm rẫy phát triển với cây có củ (khoai từ, mơn..), và cây ăn trái
(bầu, bí, mướp.) khiến số dân nói tiếng Nam Á ở trong đất liền, và dân nói tiếng Nam Đảo dọc
biển Bắc Việt tăng nhanh. Đất sống bị thu hẹp trong khi dân số tăng lên, đến một lúc nào đó,
hai nhóm dân tràn lan về vùng châu thổ các sông, trồng thêm lúa, nuôi thêm lợn, và sống định
canh đan xen nhau. Sự hợp chủng của hai nhóm dân này có lẽ đã xảy ra khoảng 4000 năm
trước đây. Phải chăng sự gặp gỡ này đưa đến truyền thuyết Lạc Long Quân Nam Đảo từ phía
biển lên và Ấu Cơ Nam Á, tiên nữ vùng núi xuống ? Và cuộc gặp gỡ & sống chung có lẽ xảy ra
một cách tương đối hồ bình. Vì đơi bên đều cùng chủng tộc và ngơn ngữ gốc, và họ có những
kinh nghiệm sống bổ túc cho nhau. Dân Nam Đảo đã đem nghề miền biển : đóng tàu, đi biển,
đánh bắt hải sản góp vào cuộc phối hợp. Dân Nam Á thì đóng góp nghề lục địa trồng trọt (kể cả
lúa gạo), bắt ốc núi, nghề luyện quặng đồng thau.

Cả hai nhóm đều biết săn bắt - hái lượm và làm đồ gốm (Bắc Sơn cho nhóm Nam Á, và Quỳnh
Văn, Bàu Tró cho nhóm Nam Đảo...) Nhưng họ cũng có các kĩ thuật đặc trưng riêng. Nhóm Nam
Đảo mặc đồ (khố, váy) bằng vỏ cây đập mềm : các nhà khảo cổ tìm thấy 18 cái chày trong một
lần khai quật văn hoá Phùng Nguyên ở châu thổ sơng Hồng. Nhóm Nam Á có lẽ dùng đồ dệt
bằng sợi thảo mộc se bằng dọi ; nhiều dọi đất nung được tìm thấy ở châu thổ sơng Hồng. Đấy là
nơi gặp gỡ hai nhóm văn hố biển- lục địa. Người ta tìm thấy trong địa bàn văn hóa Phùng
Ngun di tích của cả hai nhóm Nam Á & Nam Đảo : rìu tứ giác khơng vai và rìu có vai có nấc,


chày đập vỏ cây và dọi se sợi.

Như vậy Tiên Ấu Cơ Nam Á và Rồng Lạc Long Quân Nam Đảo là tổ tiên Lạc Việt lẫn Bách Việt
(phía Nam Trường giang), và những Viêm Đế hay Thần Nông của huyền thoại Hán xa xưa, nếu
có, có lẽ khơng dính dáng đến tổ tiên tộc Việt. Cuộc phối hợp văn hóa hồn tất vào thời Đơng
Sơn, tạo thành mơt văn hóa chung cho cư dân bản địa, như các tượng người trên những đồ vật
bằng đồng tồn vùng Đơng Sơn có cùng nét mặt, cùng y phục trang sức. Cũng như trên đồ
đồng, vừa có hoa văn hình kĩ hà trịn- vạch, vừa có hình thuyền to (chứa nhiều người). Những
hình thuyền to khắc trên trống đồng cho thấy dân Đơng Sơn đã thừa hưởng kinh nghiệm đóng

thuyền từ người nói tiếng Nam Đảo. Tất cả các nhà khoa học đều đồng ý là dân nói tiếng Nam
Đảo có kinh nghiệm lâu đời về nghề đóng thuyền và hàng hải vì sống nhờ nguồn lợi từ biển, và
vì đã biết dùng thuyền thiên di khi biển dâng. Trong khi người Phùng Nguyên sống sâu trong
đất liền nên không cần thuyền to ; cho dù họ có dùng thuyền đi trên sơng, hồ, nhưng có lẽ
khơng coi là quan trọng, vì khơng thấy hình thuyền lên hoa văn đồ gốm.

Như nói ở trên cuộc sống chung này tương đối hồ bình vì các di tích khai quật cho thấy tại
Đồng Đậu, cư dân "đột nhiên" biết chế tạo vũ khí. Để tự vệ ? Để giải quyết những tranh chấp về
quyền lợi và ảnh hưởng ? Từ đó đưa đến những khủng hoảng mất mát chia lìa (năm mươi con
theo cha, năm mươi con theo mẹ?.) hoặc đến lúc suy vi sau thời kì sung mãn.

Nhờ người nói tiếng Nam Đảo mà trống đồng Đông Sơn đã được chở đi khắp Đông Nam Á bằng
đường biển (người ta biết vậynhờ đào được ở Mã Lai một trống Đơng Sơn cịn gắn/cột dính vào
ván thuyền). Dân cổ trong nhiều vùng ở Indonesia, đặc biệt là dân Toraja, đến nay còn giữ
truyền thống Đơng Sơn, có lẽ là di dân (khá đơng, nên gia tài mang theo được lưu truyền) đi từ
Bắc Việt (khi những người con xuống biển theo bên cha ? hoặc/và) trễ lắm là họ tị nạn lúc
Trung Hoa chiếm Việt Nam. Bởi vì hoa văn trên đồ (trống) đồng Việt sau khi bị Hán chiếm đã
bị/có ảnh hưởng mĩ thuật của người Hán. Trong khi dân Toraja ngày nay vẫn cịn làm vật lưu
niệm, đồ trang sức trang trí với hoa văn kĩ hà thuần Đông Sơn, và họ vẫn ở nhà rơng cất đúng
theo hình trên trống đồng Đông Sơn. Họ cử hành đám táng với quan tài hình thuyền kiểu Đơng
Sơn. Kiều Quang Chẩn gần đây nhắc lại đề nghị của nhiều học giả Tây Phương về nguồn gốc
Đơng Sơn của nhóm dân Dayak sống tại bắc đảo Borneo, cách khá xa dân Toraja ở đảo
Sulawesi trong quần đảo Indonesia. Trong chuyến đi Indonesia khảo cứu về trống đồng, ơng ghi
nhận là dân Dayak cũng có nhà rông mái cong, trồng lúa nước và tục đưa linh hồn người chết
bằng thuyền.

Kĩ thuật làm trống đồng còn được lưu truyền nhiều thế kỷ sau công nguyên tại Indonesia (trong
đó trống nhỏ cịn được làm lâu sau đó), mà Hà văn Tấn gọi là trống bản địa vì hình dáng hoặc
trang trí, hoa văn trên nhiều trống đào được ở Indonesia mang nhiều ảnh hưởng địa phương
(cảnh hiện thực người, ngựa, voi, công.). Kiều Quang Chẩn, cũng như nhiều học giả Indonesia

cho là hầu hết các trống to (loại Heger I) nhập từ Bắc Việt thời Đông Sơn (kể cả sau khi Bắc
thuộc). Chỉ tiếc là ngày nay kĩ thuật phức tạp dùng để đúc trống (cần thợ giỏi nhiều ngành) mà
di dân Đông Sơn để lại tại Indonesia đã thất truyền, chỉ còn mĩ thuật hoa văn trên đồ dồng cỡ


nhỏ.

Nơi xa nhất có đồ đồng Đơng Sơn là đảo Flores, gần Úc châu. Đồ đồng đó là một chiếc "thuyền
mỹ nghệ" giống kiểu thuyền khắc trên trống đồng Đông Sơn. Thuyền được dân địa phương xem
như di sản tổ tiên họ đem đến bằng đường biển với câu chuyện kể trong một bài hát chỉ được
hát trong những lễ đặc biệt. Tổ tiên ấy cũng là một số người Việt Đông Sơn (không chịu nổi ách
đô hộ của người Tàu hoặc kháng chiến quân Việt bị Tàu truy nã ?) lên đường theo lối cũ của bà
con vượt biển chạy lụt thuở trước hay vì óc mạo hiểm, muốn tìm miền đất hứa nào đó ? Có lẽ
khơng bao giờ ta biết được, vì người Việt Đơng Sơn khơng để lại chữ viết. Ngoài các huyền
thoại, truyền thuyết bằng miệng, không một sự việc, lịch sử, hay câu chuyện nào ghi lại bằng
chữ viết hay hình vẽ trên đá, trên gỗ- giấy, hoặc khắc trên đất nung, mu rùa. Trong khi đó
người ta biết nhiều sự việc xảy ra thời "tiền sử" ở Trung Hoa, Ai Cập, hay các xứ vùng Cận
Đông, Ần Độ, Trung Hoa, hay của cổ dân Trung Mỹ ngày nay, qua các chữ hay kí hiệu khắc trên
các vật liệu giữ được lâu nói trên là mu rùa, đất nung, đá.



Như những dân tộc khác, dân Việt đã lai nhiều trong suốt thời tiền sử và trong thời Hoa thuộc
(thời Pháp thuộc quá ngắn nên phần lai rất ít). Nhưng các di tích về gốc gác trên miền bắc Việt
Nam còn rõ rệt, và gốc này có liên hệ sâu xa với những tộc nói tiếng Nam Á và Nam Đảo. Nói về
chủng tộc theo di truyền học, dân Việt xa xưa có chung cội rễ với người cổ vùng Hoa Nam và
người cổ Đông Nam Á. Tuy nhiên văn hoá Việt Nam biệt lập và đầu tiên thành hình từ văn hố
bản địa của những tộc nói tiếng tiền- Nam Á trong lục địa và tiếng tiền-Nam Đảo ở vùng thềm
lục địa đông bắc Bắc Việt. Và vẫn giữ được độc lập quốc gia và bản sắc văn hoá riêng cho đến
nay. Trong khi tồn vùng Nam Trường giang đều bị Hán hố.


Ảnh hưởng của văn hoá Nam Đảo trên văn hoá Việt cổ đã được Hà Văn Tấn đề cập rải rác trong
các bài viết tập hợp trong cuốn "Theo dấu các nền văn hố cổ". Tơi chỉ căn cứ vào lập luận của
Oppenheimer và kết quả mới về di truyền học Đông Nam Á, để làm rõ nét thêm nguồn gốc dân
tộc Việt.

Ai chẳng hãnh diện về một quá khứ đặc thù tốt đẹp? Nhất là khi quá khứ tốt đẹp ấy có thể giúp
một dân tộc hiện tại nghèo nàn lạc hậu phấn đấu tiến lên cho khỏi hổ thẹn với tổ tiên. Tự ti hay
tự tôn đến từ những nhận xét chủ quan, dựa vào những chứng cớ và lí luận. Lí luận có thể khác
nhau nhưng chứng cớ khoa học phải được tôn trọng, cho đến khi tiến bộ khoa học về sau lại phủ
nhận sự chính xác hiện tại của chúng. Điều quan trọng hơn là làm thế nào cho nước Việt, dân
Việt hiện nay có thể tiến bộ để bắt kịp, hay vượt qua, những nước trong cùng vùng. Đó là một
thách đố cho tất cả người Việt Nam ngày nay.


Nguyễn Quang Trọng
Rouen 01/2002

• Diamond JM (1988) Express train to Polynesia. Nature 336:307-308
• Ballinger SW, Schurr TG, Torroni A, Gan YY, Hodge JA, Hassan K, Chen K-H, et al Southeast
Asian mitochondrial DNA analysis reveals genetic continuity of ancient Mongoloid migrations.
Genetics 130, 139- 152 (1992) Trích bản tóm tắt: Human mitochondrial DNAs (mtDNAs) from
153 independent samples encompassing seven Asian populations were surveyed for sequence
variation. The greatest mtDNA diversity and the highest frequency of mtDNAs with HpaI/HincII
morph 1 were observed in the Vietnamese suggesting a Southern Mongoloid origin of Asians.
• Bellwood P (1991) The Austronesian dispersal and the origin of languages. Sci Am 265:70-75
• Blust R, Subgrouping, circularity, and extinction: some issues in Austronesian comparative
linguistics, Symp Ser Ins Linguist Acad Sinica, 1, 31 (1999)
• Capelli C, Wilson JF, Richards M, Stumpf M PH, Gratrix F, Oppenheimer S, Underhill P, Pascali
V, Ko T, Goldstein DB, A Predominantly Indigenous Paternal Heritage for the AustronesianSpeaking Peoples of Insular Southeast Asia and Oceania Am. J. Hum. Genet., 68:432-43, 2001.

• Hà văn Tấn, Theo dấu các nền văn hóa cổ , Nhà xuất bản Khoa học Xã Hội, Hà Nội (1998)
• Hà văn Tấn, Văn hóa Đơng Sơn ở Việt Nam , Nhà xuất bản Khoa học Xã Hội, Hà Nội (1994)
• Higham C, The bronze age of southeast Asia, Cambridge University Press (1996)
• Khảo cổ học Việt Nam, I Thời đồ đá, và II, Thời đại kim khí Việt Nam, Hà văn Tấn Ed, Nhà
xuất bản Khoa học Xã Hội, Hà Nội (1998)
• Kiều Quang Chẩn, Văn hố Đơng Sơn ở Indonesia- một thống nhìn, Thế kỷ 21, tháng 6 năm
2001
• Meacham W, On the improbability of austronesian origins in south China, Asian perspectives,
25 (1), 100 (1985)
• Nguyễn văn Tuấn, Đặt lại vấn đề nguồn gốc dân tộc Việt, Thế kỷ 21, tháng 12 năm 2001
• Oppenheimer S, Eden in the East The Drowned Continent of Southeast Asia, Phoenix, 1999
• Solheim WGH, Southeast Asia and Korea : from the beginning of food production to the first
states, in History of humanity: scientific and cultural development, vol. 1 (Prehistory and the


beginning of civilization) Ch. 45, UNESCO/Rouletge, 468-80 (1994)
• The slow birth of Agriculture, trong Special section : Archeology : Transition in prehistory,
Science, 282, 1446,(1998)
•Tạ Chí Đại Trường, Tham gia đối thoại sử học, Văn Học, Westminster (USA), tháng 9, 9-33
• Shiba R., Việt và Nhật, nguyên tác đăng trên Bungei Shunju tháng 2-1990, Vĩnh Sính dịch,
Diễn Đàn Forum (Pháp), tháng 1-1993, 24-25
• Bình Ngun Lộc, Nguồn Gốc Mã lai Của Dân Tộc Việt Nam (The Malay origin
ofVietnamesepeople),Bách Bộc,Saigon,1971)
• Hemudu, Zhonghua Yuangu Wenhua Zhiguang (Hemudu, light of ancient culture in China),
ISBN 7-81035-572-4/K.066 (1998)
• Su B, Xiao J, Underhill P, Deka R, Zhang W, Akey J, Huang W, Shen D, Lu D, Luo J, Chu J, Tan
J, Shen P, Davis R, Cavalli-Sforza L, Chakraborty R, Xiong M, Du R, Oefner P, Chen Z, Jin L, Ychromosome evidence for a northward migration of modern humans into eastern Asia during
the last Ice Age, Am J Hum Genet, 65, 1718-1724 (1999)
• Chu J Y, Huang W, Huang SQ, Xu JJ, Chu Z T, Yang Z Q, Lin K Q, Li P, Wu M, Geng Z C, Tan C
C, Du R F, Jin L, Genetic relatioship of populations in China, Proc Nat Acad Sci USA, 95, 11763

(1998)



(Dưới đây là bản đồ và chú thích J)
Bản đồ vùng Đông Nam Á lục địa, từ Nam Trung Hoa đến Trung Việt Nam. Bờ biển phía đơng
(đường liên tục __) được thềm lục địa (độ sâu dưới 100 m, đường vẽ-) bọc bên ngoài đến tận
đảo Đài Loan và Hải Nam. Những mũi tên chỉ hướng đi của dân nói tiếng Nam Đảo từ ngồi
thềm lục địa di tản vào đất liền dọc bờ biển Bắc Việt khi vùng vịnh Hạ Long bị biển ngập.
Địa điểm di tích các văn hóa:
1- Soi Nhụ; 2- Hạ Long; 3- Đa Bút; 4- Quỳnh Văn; 5- Bàu Tró; 6- Sa Huỳnh; 7- Hong Kong
(cửa sơng Châu giang); 8- Dapengeng; HB: Hồ Bình.
2- Các di tích dọc sơng Dương tử, kể từ thượng nguồn (bên trái): a- Sanxingdui, b- Pengtou; cDiantonghuan; d- Hemudu




×