Tải bản đầy đủ (.doc) (8 trang)

On tap 11 HK II

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (124.2 KB, 8 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

<b>BÀI 1: </b>

<b>PHÂN TÍCH BÀI CHIỀU TỐI</b>



Đã hơn ba mươi năm rồi, kể từ ngày Bác Hồ (1890 – 1969) vĩnh biệt chúng ta đi vào cõi
vĩnh hằng. Hơn ba mươi năm đó là cả một quãng thời gian dài, thời gian đó đã làm cho
biết bao mái đầu xanh ngã bạc, bao em thơ khôn lớn thành người. Ba mươi năm dễ làm
người ta quên đi một con người. Thời gian cứ vùn vụt trôi qua, cứ đi mãi và chôn vùi
những điều trong quá khứ. Nó trở nên đáng sợ với tất cả mọi người nhưng với Bác Hồ là
một ngoại lệ. Người bất tử trước thời gian bởi vì Người là kết tinh của tinh hoa dân tộc.
Những tác phẩm của Người là nghệ thuật – nghệ thuật đích thực. Văn thơ của Người hài
hòa giữa chất nghệ sĩ và chiến sĩ, giữa cái cổ điển phương Đông và cái mới mẻ độc đáo
của phương Tây đã thể hiện được một tư thế ung dung, tự tại, một tấm lòng nhân đạo cao
cả, luôn hướng về sự sống và tương lai bằng một tấm lịng u thương, gắn bó, nhân hậu
đối với con người, một tình yêu nước cháy bổng. Tất cả đã tạo nên một phong cách văn
học rất riêng, rất độc đáo và rất Hồ Chí Minh. Bài thơ “Chiều tối” cho ta thấy được phần
nào tâm hồn và phong cách thơ văn độc đáo ấy:


<i> Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ</i>
<i> Chịm mây trôi nhẹ giữa tầng không</i>
<i> Cơ em xóm núi xay ngơ tối</i>


<i> Xay hết lò than đã rực hồng”</i>


Trong hơn một năm bị chính quyền Tưởng Giới Thạch bắt giữ, Bác Hồ đã bị giải đi giải
lại qua hơn ba mươi nhà lao, bài thơ “Chiều tối” được Bác sáng tác trong khoảng thời
gian Người bị giải đi từ nhà lao huyện Tĩnh Tây đến nhà lao Thiên Bảo và được ghi lại
trong “Nhật kí trong tù” – một tập thơ chữ Hán gồm 133 bài viết trong khoảng 1942 –
1943. “Chiều tối” là một bức tranh thiên nhiên và sinh hoạt ở vùng sơn dã trong buổi
chiều tà. Qua đó Hồ Chí Minh đã phê phán niềm tin tưởng, tình yêu của bản thân đối với
thiên nhiên, con người và sự sống. Để thấy được phong cách nghệ thuật đặc sắc cùng
như là tấm lòng của nhà thơ Nguyễn Ái Quốc, hãy cùng đồng hành với Người trong bài
“Chiều tối” nay.



Có nhiều ý kiến cho rằng “Chiều tối” là bài thơ thể hiện một cách cụ thể và sinh động cái
tư tưởng được coi như là tun ngơn của Hồ Chí Minh:


<i>“Thân thề ở trong lao</i>
<i> </i>Tinh thần ở ngồi lao”


Và thật sự là vậy, dù có ở trong hồn cảnh gian khổ, khó khăn đến mấy thì Bác vẫn cứ
luôn giữ một tư thế hiên ngang, tinh thần lạc quan và yêu đời, cụ thể trong bài thơ này là
dù trải qua nhiều lần bị giải tù đầy gian nan, khổ ải:


<i>“Năm mươi ba cây số một ngày</i>
<i> Áo mũ dầm mưa rách hết giày”</i>


Tuy vậy nhưng Bác đã quên đi nỗi gian khổ dọc đường để ln hướng về phía trước, một
tương lai tươi sáng và tốt đẹp hơn.


Trong điều kiện thể xác bị đọa đày, chân bị xiềng xích, tay thì bị trói nhưng tâm hồn Bác
vẫn nhẹ tênh như một người đi ngoạn cảnh. Người thưởng thức vẻ đẹp của thiên nhiên,
đồng cảm với chim muông, hoa lá. Không gian bao la mở ra ở đầu bài thơ là một bức
tranh đặc sắc về cảnh hồng hơn:


<i>“Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ</i>
<i> Chịm mây trôi nhẹ giữa tầng không”</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

câu thơ trong thơ cổ:


<i>“Chim hôm thoi thót về rừng”</i>


(Truyện Kiều – Nguyễn Du)


Hay:


<i> “Ngàn mai gió cuốn chim bay mỏi”</i>


(Chiều hôm nhớ nhà – Bà Huyện Thanh Quan)
Hay gần hơn chút nữa là:


<i>“Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa”</i>
<i> </i>(Tràng Giang – Huy Cận


Những cánh chim trong thơ văn trung đại sao mà buồn quá vậy? Còn cánh chim trong
“Chiều tối” lại hiện ra có nét gì đó thống rộng, nhẹ nhàng, mở ra được cái linh hồn của
tạo vật, thiên nhiên. Tại sao lại như vậy? Vì người phương Đơng, thơ cổ phương Đơng
vẫn quen nhìn chiều như vậy. Bác ở đây cũng thế! Cũng vẫn là “mây”, là ‘chim bay về
núi tối rồi” nhưng xét kĩ ra thì cái nhìn của Người có khác thơ xưa, mang màu sắc mới
mẻ hiện đại hơn. Cánh chim kia không bay về núi, không bay vút lên trời, mây khơng
lững lờ để rồi bay “xa tít mù khơi” mà tất cả dường như rất gần gũi và quấn quýt, dường
như chúng đã xác định được điểm đến riêng cho mình. Những chi tiết ấy đã thể hiện một
cái nhìn trìu mến, một cái nhìn nhân đạo và một tình cảm sâu nặng dành cho thiên nhiên
của Bác – một con người vĩ đại. Hai câu thơ trên đồng thời còn là một sự cảm nhận tinh
tế của một tâm hồn nghệ sĩ thật sự rung động với cái khống đạt của khơng gian bao la,
cái yên tĩnh của chiều thu nơi núi rừng. Điều đặc biệt ở đây là bức tranh thiên nhiên hiện
lên không phải bởi nghệ thuật miêu tả cầu kì mà bằng vài nét phác họa đơn sơ cũng đủ
để cho bức tranh thiên nhiên mênh mông, buồn hiu hắt hiện lên. Câu thơ giản dị như
chính con người của bác vậy!


Cả hai câu thơ trên đều nói đến bầu trời, một bầu trời đang chuyển dần về tối. Thông
thường cảnh chiều tối luôn gợi những tứ thơ buồn. Đó là lúc ánh nắng chỉ cịn le lói rồi
nhường chỗ cho bóng tối lan dần, chim về tổ, nhà nhà sum họp. Nhưng ngược lại người
đi đường xa vào lúc hồng hơn lại dễ cảm thấy cô đơn, chạnh buồn, khao khát một mái


nhà, một sự sum họp bên mái ấm gia đình. Đặt vào trong hoàn cảnh của Bác lúc bấy giờ,
lúc này đây Bác đang trong cảnh ngộ của một tù nhân đáng lí ra Người phải buồn, phải
than thở cho nỗi khổ của chính mình . Nhưng khơng Bác dường như đang cố quên mình
đi, quên cả cảnh ngộ của mình để có mặt mình. Có lẽ nếu là một nhà thơ khác thì chắc
hẳn đã không tránh khỏi cái quy luật: “thể lắng nghe hơi thở và nhịp đập của không gian,
thời gian, của bức tranh thiên nhiên trước Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”, nhất là
một người vừa trải qua một ngày nặng nhọc, trước mặt là một đêm dài trong xài lim ẩm
thấp, đầy muỗi, rệp. Có như thế ta mới thấy được nơi Bác một bản lĩnh phi thường, vượt
lên trên mọi khổ đau thử thách, giữ vững tinh thần lạc quan kì diệu của một người biết
làm chủ bản thân, làm chủ hoàn cảnh.


Những tưởng cái buồn của cảnh sẽ tác động tiêu cực lên tâm trạng của một người tù đang
bị giải đi trên đường, cái buồn sẽ thấm sâu vào lòng người khiến cho người tù cảm thấy
cơ đơn, buồn vì cảnh ngộ lưu đày, nhưng ở hai câu tiếp theo lại là một tâm trạng khác
hẳn. Điều này thấy rõ qua bức tranh hiện thực sống động ấm áp với hình ảnh một cơ gái
nơi xóm núi đang lao động bên lò than rực hồng:


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

<b>BÀI 2: </b>

<b>PHÂN TÍCH BÀI THƠ TRÀNG GIANG</b>

<b> – HUY CẬN</b>
Tràng giang khơi nguồn từ cảm hứng không gian: Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài.
Nhớ không gian là cảm hứng chủ đạo của tác phẩm Lửa thiêng. Nhớ làm cho trời đất
phân ly, giữa trời rộng và sông dài trở thành hai mảng khơng gian viễn cách. Huy Cận đã
mơ hình hóa vũ trụ dưới cái nhìn mới của con người hiện đại:


Nắng xuống, trời lên, sâu chót vót
Sơng dài, trời rộng, bến cô liêu


Trong cái ranh giới giữa ngày và đêm, giữa sáng và tối xuất hiện các chiều đối nghịch
của không gian: mặt trời lặn xuống để ánh sáng hắt lên, trời vừa thấp vừa cao thành sâu
chót vót; sơng dài để đường biên của chân trời thêm rộng, bến bờ mất hút, điểm hẹn của
bao cuộc gặp gỡ trở thành hoang vắng, cô liêu. Không gian giãn cách ở mọi chiều kích


của nó đã phá vỡ cái mơ hình vũ trụ Thiên - Địa - Nhân trong quan niệm của con người
thời cổ. Con người khơng cịn ở cái tư thế đầu đội trời chân đạp đất nữa mà trở thành một
tinh cầu giá lạnh chơi vơi giữa cõi hư vô.


Tràng giang không còn là bức tranh thiên nhiên để con người hòa nhập cùng trời đất nữa
mà trở thành dòng đời với bao xao động trong cái ranh giới nhập nhòa giữa cũ và mới.
Cuộc sống cũ đi qua, cuộc sống mới đang hình thành, "cái tơi" chơi vơi giữa biển đời đầy
biến động. Những xao động của ngoại cảnh đều chuyển hóa thành những xao động của
tâm hồn, "cái tơi" thu nhận vào trong lịng mình mọi âm vang của vũ trụ. Con sóng gợn li
ti cộng hưởng thành nỗi buồn điệp điệp, con thuyền xuôi mái với nước song song nhân
lên thành nỗi sầu trăm ngả. Củi một cành với thân phận mong manh, vì thế trở thành "cái
tơi" xê dịch giữa mấy dịng li tán. Sự sống trong vũ trụ Tràng giang trở nên mờ mịt, gián
cách giữa hiện tại và quá khứ:


Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều


Cồn nhỏ lơ thơ như những nấm mồ hoang lạnh vật vờ trong cõi mịt mờ sương khói. Âm
vang đìu hiu của con gió như thổi cái hồn của quá khứ vọng về hiện tại, xua sự sống của
hiện tại vào hư ảnh của tương lai. Làng của một thời mất rồi, chỉ còn nghe dư âm. Chợ
tưởng như đang cịn đó nhưng đã muộn màng, chưa sum họp đã ly tan. Sự sống chứa
đựng trong cái vũ trụ này có vẻ tiếp liền đấy mà vẫn chia cắt, nối kết đấy mà vẫn đứt
đoạn: bèo dạt hàng nối hàng, bờ xanh tiếp bãi vàng hóa thành khơng một chiếc đị ngang,
không cầu gợi chút niềm thân mật. "Cái tôi" cảm thấy bơ vơ, lạc lõng không biết về đâu
trong cõi xa khuất nghìn trùng.


Bao nhiêu thanh âm tinh tế, mơ màng của sự sống được biểu đạt qua tiết tấu ngữ âm của
thi ca: điệp điệp, song song, lơ thơ, đìu hiu, chót vót… cuối cùng dồn tụ lại thành âm ba
"dợn dợn" có sức mạnh cuộn xốy trong lịng nhà thơ. Con sơng của trời đất hóa thành
con sơng của trái tim, dịng chảy của cuộc đời biến thành dòng chảy của cảm xúc. Con


sóng buồn điệp điệp hóa thành con sóng của khát vọng, dợn dợn lên tưởng chừng như
dội ngược về nguồn:


Lòng quê dợn dợn vời con nước
Khơng khói hồng hơn cũng nhớ nhà


Tràng giang đưa ta chảy xuôi về biển trời xa xăm cuối cùng lại đẩy ngược ta về với
nguồn cội. Giống như củi một cành khơ lạc mấy dịng bất giác nhớ về núi rừng, nơi nó
đã ra đi. Giống như chim nghiêng cánh nhỏ dưới áp lực của bóng chiều sa mà khao khát
tìm về tổ ấm. "Cái tơi" với ảo tưởng tự do sẽ không bao giờ quên được cái ta cộng đồng
của mình, dịng chảy trong trái tim của mỗi con người Việt Nam vẫn giữ một lòng quê
với cái làng xa dù sau này chỉ còn dư âm trong những huyền thoại.


</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

<b>BÀI 3: </b>

<b>PHÂN TÍCH BÀI THƠ TỪ ẤY </b>



Trong những năm tháng dầu sôi lửa bỏng của chiến tranh, rất nhiều nhà thơ đã giác
ngộ chân lý của Đảng, của Cách mạng Việt Nam, từ đó đã cho ra đời những bài thơ
mang đậm khí thế hiên ngang, anh dũng. Một trong những nhà thơ nổi tiếng của nền Văn
học kháng chiến chống Pháp chính là nhà thơ Tố Hữu, mà sự giác ngộ Cách mạng của
ông được thể hiện qua bài thơ "Từ ấy".


Bài thơ "Từ ấy" được Tố Hữu sáng tác vào tháng 7/1938; nhan đề bài thơ trở thành
tên tập thơ đầu của Tố Hữu . Bài thơ nói lên niềm vui sướng hạnh phúc của một thanh
niên yêu nước bắt gặp lí tưởng cách mạng của Đảng, thấy gắn bó với nhân dân cần lao.
"Từ ấy" mang một ý nghĩa phiếm đinh về mặt thời gian ... Đó là khi tâm trạng của nhà
thơ trong giây phút giác ngộ lí tưởng cộng sản .", là mốc son đánh dấu bước ngoặt, lối rẽ
mới trong cuộc đời của nhà thơ Tố Hữu , đối với ông " từ ấy " là một thời gian rất cụ thể,
ông đã xác định được con đường đúng đắn mà mình phải đi và cũng chính từ đấy , lý
tưởng cách mạng đã soi sáng tâm hồn ông , đã giúp ơng tìm được lối đi đúng đắn cho
cuộc đời ... mà trước đây , ông đã từng lạc lối.Trong buổi ban đầu, những người thanh


niên như Tố Hữu dù có nhiệt huyết nhưng vấn chưa tìm được đường đi trong kiếp sống
nô lệ, họ bị ngột thở dưới ách thống trị của thực dân phong kiến "băn khoăn đi kiếm lẽ
u đời".Chính trong hồn cảnh đó lí tưởng cộng sản như nắng hạ ,nhà thơ được giác
ngộ chủ nghĩa Mác – Lênin ,người thanh niên yêu nước bắt gặp lí tưởng Cách mạng, như
mặt trời xua tan đi những u ám, buồn đau, quét sạch mây mù và đen tối hướng đến cho
thanh niên một lẽ sống cao đẹp vì một tương lai tươi sáng của dân tộc.


Người thanh niên học sinh Tố Hữu đã đón nhận lí tưởng ấy khơng chỉ bằng khối óc mà
bằng cả con tim, khơng chỉ bằng nhận thức lí trí mà xuất phát từ tình cảm một kỷ niệm
sâu sắc của người thanh niên yêu nước bắt gặp lí tưởng Cách mạng, mà sau này, ơng nói
rõ trong một bài thơ: "Con lớn lên, con tìm Cách mạng – Anh Lưu, anh Diểu dạy con đi
-Mẹ khơng cịn nữa, con cịn Đảng. Dìu dắt khi con chửa biết gì"(Quê mẹ).


<b>1.Hai câu đầu là niềm say mê náo nức của nhà thơ khi đón nhận lí tưởng Cách </b>
<b>mạng</b>


<i>" Từ ấy trong tơi bừng nắng hạ</i>
<i>Mặt trời chân lý chói qua tim"</i>


-Từ ấy: dấu ấn quan trọng đánh dấu bước ngoặt lớn trong cuộc đời người thanh niên Tố
Hữu


-"Bừng nắng hạ", "Mặt trời chân lý", "Chói qua tim" : hình ảnh ẩn dụ
+ "Bừng" : ánh sáng phát ra bất ngờ đột ngột, bao kín đơi mắt nhà thơ


+ "Chói" : ánh sáng có sức xuyên thấu mạnh mẽ, ánh nắng toả sáng rực rỡ , chói chang
bắt nguồn từ mặt trời chân lý -lý tưởng cách mạng ,soi sáng trong lòng tác giả


Từ ấy đã làm cho tâm hồn Tố Hữu" bừng nắng hạ" đó là một luồng ánh sáng mạnh mẽ,
rực rỡ của nắng vàng chứa chan hạnh phúc ấm no.Soi tỏ vào những bài thơ sau này ta


mới thấy hết được niềm vui sướng của Tố Hữu trước ánh sáng huy hồng của chân lí
"Mặt trời chân lí" là hình ảnh ẩn dụ ca ngợi lí tưởng Cách mạng, ca ngợi chủ nghĩa Cộng
sản đã soi sáng tâm hồn, đã "chói qua tim", đem lại ánh sáng cuộc đời như "bừng" lên
trong "nắng hạ" - Một cách nói rất mới, rất thơ về lí tưởng:. Tố Hữu với tấm lịng nhiệt
thành của mình đã tự hào đón lấy ánh sáng của mặt trời, sẵn sàng hành động cho lí tuởng
cách mạng cao đẹp.Bởi lí tưởng đã "chói" vào tim- chính là nơi kết tụ của tình cảm, là
nơi kết hợp hài hịa giữa tâm lí và ý thức trí tuệ chỉ thực sự hành động đúng khi có lí
tưởng cách mạng, khi có ánh sáng rực rỡ của mặt trời chân lí chiếu vào.


<i>"...Hồn tơi là một vườn hoa lá</i>


<i>Rất đậm hương và rộn tiếng chim..."</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

một cuộc đời. So sánh để khẳng định một sự biến đổi kì diệu mà lí tưởng Cách mạng
đem lại.


"Hồn" người đã trở thành "vườn hoa", một vườn xuân đẹp ngào ngạt hương sắc, rộn ràng
tiếng chim hót. Khiến cho đây là khổ thơ hay nhất, đậm đà nhất


Cái giọng điệu rất tỉnh và rất say rạo rực và ngọt lịm hồn ta chủ yếu là cái say người và
lịm ngọt của lí tưởng, của niềm hạnh phúc mà lí tưởng đem lại .Ở đây hiện thưc và lãng
mạn đã hòa quyện vào nhau tạo nên cái gợi cảm, cái sức sống cho câu thơ. :


<b>2. Lời tự nguyện của nhà thơ khi giác ngộ lí tưởng Đảng</b>


Nếu khổ đầu là một tiếng reo vui phấn khởi thì khổ thứ hai và thứ ba là bản quyết tâm
thư của người thanh niên cộng sản nguyện hịa cái tơi nhỏ bé của mình vào cái ta chung
rộng lớn của quần chúng nhân dân cần lao.Người đọc thật sự cảm động bởi thái độ chân
thành thiết tha đến vồ vập của một nhà thơ vốn xuất thân từ giai cấp tiểu tư sản tự giác và
quyết tâm gắn bó vớI mọi người



<i>"Tơi buộc lịng tơi với mọi người</i>
<i>Để tình trang trải khặp muôn nơi</i>
<i>Để hồn tôi với bao hồn khổ</i>


<i>Gần gũi nhau thêm mạnh khối đời"</i>


- Động từ "buộc", "trang trải": những hành động có tính tự nguyện .


"Buộc" và "trang trải"là hai khái niệm hoàn toàn khác nhau nhưng nó đều nằm trong
nhận thức mới về lẽ sống của Tố Hữu. "Buộc" là đồn kết gắn bó, tự nguyện gắn bó đời
mình với nhân dân cần lao, với hết thảy nhân dân lao động Việt Nam


-"Lòng tơi ","tình ","hồn tơi"gắn liền với "mọi người ","trăm nơi","bao hồn khổ" , sự gắn
bó đồng cảm sâu xa giữa cái tơi riêng và cái ta chung ,giữa tấm lịng nhà thơ với khối đời
chung của nhân dân lao động


<i>"Để tình trang trải với trăm nơi"</i>


Xác định vị trí của mình là đứng trong hàng ngũ nhân dân lao động chưa đủ, "trang
trải"-"trăm nơi" biểu hiện một tinh thần đồn kết, tình cảm nồng thắm, chan hịa với nhân
dân.Tình yêu người, yêu đời trong Tố Hữu đã nâng lên thành chủ nghĩa nhân đạo cộng
sản.Nhà thơ muốn được như Mác: "Vì lẽ sống, hy sinh cho cuộc sống - Đời với Mác là
tình cao nghĩa rộng"., mong ước xây dựng một khối đời vững chắc làm nên sức mạnh
quần chúng cách mạng.Từ đó Tố Hữu đã thể hiện niềm hãnh diện khi được là một thành
viên ruột thịt trong đại gia đình những người nghèo khổ bất hạnh.


-"Bao hồn khổ": tầng lớp đáng thương nhất trong xã hội đương thời, "để" gợi lên ý thơ
chủ động sự gắn kết lịng mình với mọi người hịa làm một, chứa đựng nỗi thương xót tột
cùng và sự đồng cảm sâu sắc đối với "đại gia đình" đang trong cảnh lầm than.



-"Khối đời": danh từ trừu tượng, thể hiện một khái niệm cuộc sống bao quát, gộp chung,
khơng thể nhìn, cân đong đo đếm, nhưng lại gói ghém thành một sức mạnh phi thường,
cụ thể hóa phi vật thể.


=> Nhấn mạnh lần nữa mối ân tình giữa tác giả với mn dân, khẳng định cuộc sống bản
thân nhà thơ khơng có sự riêng biệt, mà chỉ là một phần tử nhỏ chan hòa và giao cảm với
những mảnh đời còn lại.


<b>3.Sự khẳng định của nhà thơ</b>
"<i>Tôi đã là con của vạn nhà</i>
<i>Là em của vạn kiếp phôi pha</i>
<i>Là anh của vạn đầu em nhỏ</i>
<i>Không áo cơm ,cù bất cù bơ."</i>


-"đã là", "là con","là em", "là anh": tình cảm đầm ấm ,thân thiết, gắn bó và gần gũi
- Đối tượng :"vạn nhà ", "vạn kiếp phôi pha", "vạn đầu em nhỏ ": quần chúng lao khổ,
những kiếp sống mòn mỏi đáng thương, những mái đầu trẻ thơ tội nghiệp không nơi
nương tựa.


</div>
<span class='text_page_counter'>(6)</span><div class='page_container' data-page=6>

quan hệ tự nhiên mà gắn bó sâu sắc, mặt khác ngầm khẳng định nhiệm vụ, vai trò lớn lao
của người thanh niên đối với cộng đồng, xã hội .


"Cù bất cù bơ": tính từ khá mới lạ nhưng người đọc vẫn cảm nhận được hòan cảnh nay
đây mai đó, bơ vơ khơng chỉ riêng tác giả, mà còn dựng lên được cuộc sống mỏng manh
của hầu hết đồng bào đang trong đói khổ.


Sự chuyển biến trong tâm trạng của Tố Hữu: tấm lịng đồng cảm, xót thương đối với mọi
người lao khổ . Qua đó cịn thể hiện lòng căm giận của nhà thơ trước bao bất công ngang
trái của cuộc đời cũ. Tố Hữu đã thể hiện niềm hãnh diện khi được là một thành viên ruột


thịt trong đại gia đình những người nghèo khổ bất hạnh, nguyện sẽ đứng vào hàng ngũ
những người "than bụi, lầy bùn"là lực lượng tiếp nối của "vạn kiếp phôi pha", là lực
lượng ngày mai lớn mạnh của "vạn đầu em nhỏ",để đấu tranh cho ngày mai tươi


sáng.Điệp từ "là" được nhắc đi nhắc lại, nó vang lên một âm hưởng mạnh mẽ lắng đọng
trong tâm hồn ta một niềm cảm phục, quý mến người trai trẻ yêu đời, yêu người này.
Với một tình cảm cá nhân đằm thắm, trong sáng, "Từ ấy" đã nói một cách thật tự nhiên
nhuần nhụy về lí tưởng, về chính trị và thật sự là tiếng hát của một thanh niên, một người
cộng sản chân chính ln tn trào trong mình mạch nguồn của lí tưởng cách mạng.
<b>4. Nghệ thuật</b>


-Sử dụng biện pháp tu từ : ẩn dụ ,so sánh , diệp từ
-Thể thơ thất ngôn, 1 thể thơ truyền thống


-Ngơn ngữ giàu hình ảnh, nhịp diệu


-Sự đa dạng của bút pháp tự sự, lãng mạn, trữ tình.
<b>Tổng kết:</b>


Trong lịch sử văn học cách mạng nước nhà, thật hiếm thấy nhà thơ nào lại có những tác
phẩm mang đậm dấu ấn đặc trưng của mỗi giai đoạn lịch sử và đã đi vào lòng người như
thơ Tố Hữu trong thế kỷ 20. Tình yêu quê hương, đất nước thiết tha, sâu nặng đã hóa
thân vào những vần thơ trữ tình chính trị đạt tới đỉnh cao về nghệ thuật thơ ca cách
mạng, cả cuộc đời Tố Hữu đã hiến dâng cho tổ quốc, cho Đảng và nhân dân. Khi biết sắp
phải đi xa, ông cũng chỉ nghĩ là về một nơi mà ta vẫn gọi là "cõi tạm". Ông mong muốn
tiếp tục được hiến dâng.Nhà thơ Cách mạng ấy , cùng biết bao nhà thơ khác đã từng lac
lối giữa cuộc đời , giữa sự lựa chọn lớn lao , cống hiến cuộc đời , tuổi trẻ cho Cách Mạng
. Nhưng " từ ấy " , nhà thơ đã tìm được lối đi cho mình khi giác ngộ lý tưởng cộng sản...
Bài thơ "Từ ấy" là tâm niệm của một người thanh niên yêu nước, giác ngộ lý tưởng cách
mạng. Nó thể hiện niềm vui sướng, say mê mãnh liệt, những nhận thức và tình cảm mới


của Tố Hữu khi có ánh sáng lý tưởng cách mạng soi rọi. Sự vận động ấy của tâm trạng
nhà thơ được thể hiện bằng những hình ảnh tươi sáng, rực rỡ; các biện pháp tu từ và
ngôn ngữ giàu nhịp điệu."Từ Ấy" là một bài thơ vừa có tính triết lý sâu sắc, vừa rất gần
gũi, bình dị, thân thuộc. Sau mấy chục năm đọc lại, những vần thơ đó vẫn là một câu hỏi
thấm thía mà những người cộng sản hôm nay không thể không suy ngẫm một cách
nghiêm túc để tự mình tìm ra lời giải đáp thấu đáo. Giữa cái chung và cái riêng, giữa
cộng đồng - tập thể và cá nhân, giữa vật chất tầm thường và tinh thần – tư tưởng của
người cộng sản.


<b>BÀI 4: </b>

<b>PHÂN TÍCH BÀI THƠ ĐÂY THƠN VĨ DẠ</b>



<b> - HÀN MẶC TỬ</b>


<i> “Mở cửa nhìn trăng, trăng tái mặt, </i>
<i> Khép phòng đốt nến, nến rơi châu…”</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(7)</span><div class='page_container' data-page=7>

trăng… Cả một trời trăng mộng ảo, huyền diệu. Thơ Hàn Mặc Tử rợn ngợp ánh trăng,
thể hiện tâm hồn “say trăng” với tình yêu tha thiết cuộc đờ, vừa thực vừa mơ. Ông là một
trong những nhà thơ lỗi lạc nhất của phong trào Thơ mói (1932-1941). Với 28 tuổi đời
(1912-1940), ông để lại cho nền thơ ca dân tộc hàng trăm bài thơ và một số kịch thơ. Thơ
của ông như trào ra máu và nước mắt, có khơgn ít hình tượng kinh dị. Cũng chưa ai viết
thơ hay về mùa xuân và thiếu nữ (“Mùa xn chín”), về Huế đẹp và thơ(“Đây thơn Vĩ
Giạ”) như Hàn Mặc Tử.


“Đây thôn Vĩ Giạ” rút trong tập “Thơ điên” xuất bản năm 1940, sau khi nhà thơ qua
đời. Bài thơ nói rất hay về Huế, về cảnh sắc thiên nhiên hữu tình, về con người xứ Huế,
nhất là các cơ gái dun dáng, đa tình, đáng u – tình yêu thơ mộng say đắm, lung linh
trong ánh sáng huyền ảo. Bài thơ giãi bày một nỗi niềm bâng khuâng, một khao khát về
hạnh phúc của thi sĩ đa tình, có nhiều dun nợ với cảnh và con người Vĩ Giạ.



Câu đầu “dịu ngọt” như một lời chào mời, vừa mừng vui hội, vừa nhẹ nhàng trách móc
người thương biết bao nhớ đợi chờ. Giọng thơ êm dịu, đằm thắm và tình tứ: “Sao anh
khơng về chơi thơn Vĩ?”. Có mấy xa xơi. Cảnh cũ người xưa thấp thoáng trong vần thơ
đẹp mang hoài niệm. Bao kỷ niệm sống dậy trong một hồn thơ. Nó gắn liền với cảnh sắc
vườn tược và con người xứ Huế mộng mơ:


<i>“Nhìn nắng hàng cau, nắng mới lên </i>
<i> Vườn ai mướt quá, xanh như ngọc </i>
<i> Lá trúc che ngang mặt chữ điền?” </i>


Cảnh được nói đến là một sáng bình minh đẹp. Nhìn từ xa, say mê ngắm nhìn những
ngọn cau, tàu cau ngời lên màu nắng mới, “nắng mới lên” rực rỡ. Hàng cau như đón chào
người thân thương sau bao ngày xa cách. Hàng cau cao vút là hình ảnh thân thuộc thơn
Vĩ Giạ từ bao đời nay. Quên sao được màu xanh cây lá nơi đây. Nhà thơ trầm trồ thốt lên
khi đứng trước một màu xanh vườn tược thôn Vĩ Giạ: “vườn ai mướt quá xanh như
ngọc”. Sương đêm ướt đẫm cây cỏ hoa lá. Màu xanh mỡ màng, non tơ ngời lên, bóng lên
dưới ánh mai hồng, trơng “mượt q” một màu xanh như ngọc bích. Đất đai màu mỡ, khí
hậu ơn hồ, con người cần cù chăm bón mới có “màu xanh như ngọc” ấy. Thiên nhiên
rạo rực, trẻ trung và đầy sức sống. Cũng nói về màu xanh ngọc bích, trước đó (1938)
Xn Diệu đã từng viết: “Đổ trời xanh ngọc qua muôn lá…” (“Thơ duyên). Hai chữ
“vườn ai” đã gợi ra nhiều ngạc nhiên và man mác. Câu thứ tư tả thiếu nữ với khóm trúc
vườn đầy đặn, phúc hậu. “Lá trúc che ngang” là một nét vẽ thần tình đã tơ đậm nét đẹp
của cơ gái Huế dun dáng, dịu dàng, kín đáo, tình tứ đáng yêu. Hàn Mặc Tử hơn một
lần nói về trcs và thiếu nữ. Khóm trúc như toả bóng xanh mát che chở cho một mối tình
đẹp đang nảy nơ:


<i>“Thầm thì với ai ngơì dưới trúc </i>
<i> Nghe ra ý nhị và thơ ngây” </i>


<i> (“Mùa xuân chín”) </i>



Câu 3, 4 trong khổ thơ đầu tả cau, tả nắng, tả vườn, tả trúc và thiếu nữ với một gam
màu nhẹ thoáng, ẩn hiện, mơ hồ. Đặc sắc nhất là hai hình ảnh so sánh và ẩn dụ. (xanh
như ngọc… mặt chữ điền) Cảnh và người nơi Vĩ Giạ thật hồn hậu, thân thuộc đáng yêu.
Vĩ Giạ - một làng quê nằm bên bờ Hương Giang, thuộc ngoại ô cố đơ Huế. Vĩ Giạ đẹp
với những con đị thơ mộng, những mảnh vườn xanh tươi bốn mùa, sum sê hoa trái.
Những ngơi nhà xinh xắn thấp thống ẩn hiện sau hàng cau, khóm trúc, mà ở đây thường
dìu dặt câu Nam ai, Nam bình qua tiếng đàn tranh, đàn thập lục huyền diệu, réo rắt. Thôn
Vĩ Giạ đẹp nênthơ. Hàn Mặc Tử đã dành cho Vĩ Giạ vần thơ đẹp nhất với tất cả lòng tha
thiết mến thương.


</div>
<span class='text_page_counter'>(8)</span><div class='page_container' data-page=8>

cách trở. Dòng Hương Giang êm trôi lờ lững, trong tâm tưởng thi nhân trở nên “buồn
thiu”, nhiều bâng khuâng, man mác. Hoa bắp lay nhè nhẹ đung đưa trong gió thoảng.
Nhịp điệu khoan thai thơ mộng của miền sông Hương, núi Ngự được diễn tả rất tinh tế.
Các điệp ngữ luyến láy gợi nên nhiều vương vấn mộng mơ:


<i>“Gió theo lối gió, mây đường mây </i>
<i> Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay”. </i>


Hai câu tiếp theo nhà thơ hỏi “ai” hay hỏi mình khi nhìn thấy hay nhớ tới con đị
mộng nằm bến sơng trăng. Sơng Hương q em trở thành sơng trăng. Hàn Mặc Tử với
tình u Vĩ Giạ mà sáng tạo nên vần thơ đẹp nói về dịng sơng Hương với những con đị
dưới vầng trăng. Nguyễn Cơng Trứ đã từng viết: “Gió trăng chứa một thuyền đầy”. Hàn
Mặc Tử cũng góp cho nền thơ Việt Nam hiện đại một vần thơ trăng độc đáo:


<i>“Thuyền ai đậu bến sông trăng đo </i>
<i> Có chở trăng về kịp tối nay?” </i>


Tâm hồn nhà thơ xao xuyến khi nhìn sơng trăng và con thuyền. Thuyền em hay
“thuyền ai” vừa thân quen, vừa xa lạ. Chất thơ mộng ảo “Đây thôn Vĩ Giạ” là ở những


thi liệu ấy. Câu thơ gợi tả một hồn thơ đang rung động trước vẻ đẹp hữu tình của xứ Huế
miền Trung, nói lên một tình u kín đáo, dịu dàng, thơ mộng và thoáng buồn.


Khổ thơ thứ ba nói về cơ gái xứ Huế và tâm tình thi nhân. Đương thời nhà thơ Nguyễn
Bính đã viết về thiếu nữ sông Hương: “Những nàng thiếu nữ sông Hương – Da thơm là
phấn, má hường là son”…Vĩ Giạ mưa nhiều, những buổi sớm mai và chiều tà phủ mờ
sương khói. “Sương khói” trong Đường thi thường gắn liền với tình cố hương. Ở đây
sơng khói làm nhồ đi, mờ đi áo trắng em, nên anh nhìn mãi vẫn khơng ra hình dáng em
(nhân ảnh). Người thiếu nữ Huế thống hiện, trắng trong, kín đáo và duyên dáng. Gần
mà xa. Thực mà mơ. Câu thơ chập chờn, bâng khuâng. Ta đã biết Hàn Mặc Tử từng có
một mối tình với một thiếu nữ Huế mang tên một loài hoa đẹp. Phải chăng nhà thơ muốn
nói về mối tình này?


<i> “Mơ khách đường xa, khách đường xa </i>
<i> Áo em trắng q nhìn khơng ra </i>


<i> Ở đây sương khói mờ nhân ảnh </i>
<i> Ai biết tình ai có đậm đà”. </i>


“Mơ khách đường xa, khách đường xa… ai biết… ai có…” các điệp ngữ luyến láy
ấy tạo nên nhạc điệu sâu lắng, dịu buồn, mênh mang. Người đọc thêm cảm thương cho
nhà thơ tài hoa, đa tình mà bạc mệnh, từng say đắm với bao mối tình nhưng suốt cuộc
đời phải sống trong cô đơn bệnh tật.


Cũng cần nói đơi lời về chữ “ai” trong bài thơ này. Cả 4 lần chữ “ai” xuất hiện đều mơ
hồ ám ảnh: “vườn ai mướt quá xanh như ngọc?” – “Thuyền ai đậu bến sơng trăng đó?” –
“Ai biết tình ai có đậm đà?”. Con người mà nhà thơ nói đến là con người xa vắng, trong
hồi niệm bâng khng. Nhà thơ ln cảm thấy mình hụt hẫng, chơi với trước một mối
tình đơn phương mộng ảo. Một chút hi vọng mong manh mà tha thiết như đang nhạt
nhồ và mờ đi cùng sương khói?



Hàn Mặc Tử đã để lại cho ta một bài thơ tình thật hay. Cảnh và người, mộng và
thực, say đắm và bâng khuâng, ngạc nhiên và thẫn thờ… bao hình ảnh và cảm xúc đẹp
hội tụ trong ba khổ thơ thất ngơn, câu chữ tồn bích. “Đây thơn Vĩ Giạ” là một bài thơ
tình tuyệt tác. Cái màu xanh như ngọc của vườn ai, con thuyền ai trên sông trăng, và cái
màu trắng của áo em như đang dẫn hồn ta đi về miền sương khói của Vĩ Giạ thôn một
thời xa vắng:


</div>

<!--links-->

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×