Tải bản đầy đủ (.pdf) (11 trang)

LÒNG DÂN ÐỐI VỚI NHÀ TÂY SƠN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (148.37 KB, 11 trang )

Quách Tấn, Quách Giao
Nhà Tây Sơn
LÒNG DÂN ÐỐI VỚI NHÀ TÂY SƠN

Danh người anh hùng dân tộc Quang Trung Nguyễn Huệ, người đã hai phen
thảo quân xâm lược do Duy Kỳ thỉnh về, Nguyễn Phúc Ánh rước tới, cứu
nhân dân Việt Nam thốt vịng nơ lệ của ngoại quốc, cùng mặt trăng mặt trời
rạng rỡ trên sông núi Việt Nam.
Và nghĩ rằng nếu khơng có Vua Thái Ðức mở đường, Ðơng Ðịnh Vương
giúp sức thì chắc gì đã có những chiến cơng oanh liệt của Vua Quang Trung,
nên người Bình Ðịnh, nhất là người Bình Khê, ghi nhớ cả ba người anh hùng
áo vải
Bởi vậy, sau khi ngôi từ đường của nhà Tây Sơn ở Kiên Mỹ bị nhà Nguyễn
phá hủy thì ngơi đình làng thay thế vào.
Ðình làng dựng lên để thờ thần. Nhưng nhân dân địa phương đem sắc thần
để một ngơi miếu khác, cịn đình thì bí mật thờ ba Vua Tây Sơn. Xuân kỳ
thu tế, nhưng chỉ vái thầm chớ khơng đọc văn.
Ngồi xn kỳ thu tế, còn ngày kỵ của ba vua vào tháng 11 âm lịch. Ðể che
mắt vua quan nhà Nguyễn, ngày kỵ gọi trại là ngày cúng cơm mới.
Lâu ngày chánh quyền địa phương biết được, nhưng một mặt sợ thần linh bẻ
họng, một mặt sợ thất nhân tâm, nên bóp bụng làm lơ.
Lịng kính u nhớ tiếc ba Vua Tây Sơn thấm thía và bền bỉ, chẳng những ở


trên tầng lớp sĩ phu mà cả dưới mọi tầng lớp nhân dân. Bất kỳ trẻ già trai
gái, hễ đi qua đình Kiên Mỹ, là lấy nón cúi đầu. Khách đi ngựa đi võng đều
phải xuống ngựa xuống võng.
Và ca dao địa phương có câu:
Ðá Hàng cữ nước khơng sâu
Hàng Thuyền lai láng mặc dầu cá đua.
Có đua sơng trước thì đua


Sơng sau mắc miễu thờ Vua xin đừng[103].
Lịng kính yêu nhớ tiếc nhà Tây Sơn chẳng những ở thời trước, mà cho đến
năm 1945 vẫn nồng nàn như cũ. Xuân kỳ thu tế, ngày kỵ cúng cơm mới
trong năm 1945 vẫn cử hành theo thường lệ. Ðến năm 1947 có lệnh tiêu thổ
kháng chiến, đình miễu bị phá hủy, việc cúng tế mới thơi.
Năm 1960, nhân dân Bình Khê chung tiền chung sức lập lại đền thờ Tây Sơn
nơi đình cũ.
Ðền khơng lấy gì làm rộng lớn, song trang nghiêm. Ðối với sự nghiệp anh
hùng thật không xứng. Nhưng đối với hoàn cảnh thiếu thốn của nhân dân địa
phương lúc bấy giờ, thì chừng ấy cũng là một cố gắng vượt mức.
Ðền có ba gian.
Gian giữa thờ vua Quang Trung.
Hai bên thờ vua Thái Ðức và Ðông Ðịnh Vương.
Trước sân có tượng bán thân của Vua Quang Trung và có bi đình khắc bài
ký tán tụng cơng đức nhà vua:
Ðức Vũ Hoàng,
Họ Nguyễn, húy Huệ.
Ứng hùng năm Quý Dậu (1753),
Thừa long năm Nhâm Tý (1792)
Thọ 40 tuổi, ở ngôi 5 năm.


Niên hiệu Quang Trung.
Miếu hiệu Thái Tổ Vũ Hoàng Ðế.
Tổ tiên vốn người Châu Hoan, dời vào ấp Tây Sơn được bốn đời. Trước ở
Phú Lạc, sau xuống Kiên Thành buổi tiềm long, chính nơi đây là Tây Kỳ cơ
chỉ.
Vũ Hồng có ba anh em.
Anh là Vua Thái Ðức Nguyễn Nhạc, thiệp thế đa mưu.
Em là Ðông Ðịnh Vương Nguyễn Lữ, thành tín nhân hậu.

Cịn Vũ Hồng: Sức mạnh cử đảnh, tài dụng binh như thần, lại sùng thượng
kinh văn, quý trọng đạo lý. Kẻ cao tài đại đức được tơn kính vào bậc thầy.
Văn võ dưới cờ đều những trang khai quốc tuấn kiệt.
Thân bố y, tay trường kiếm, Vũ Hồng gồm cả khí tượng họ Hạng họ Lưu.
Quả là cái thế anh hùng vậy.
Năm Tân Mão (1771), thống tâm vì cảnh đất chia nước loạn, trăm họ hết chỗ
đặt tay chân, ba anh em Vũ Hoàng chiêu tập nghĩa binh, chịu gian nan mà
dấy nghiệp. Lấy thành Quy Nhơn làm căn cứ. Rồi đánh vào Nam, tiến ra
Bắc. Lòng xa gần đều theo. Trăm trận trăm thắng. Thanh thế nhà Tây Sơn
lẫy lừng.
Riêng Vũ Hoàng. Bốn lần bạt thành Gia Ðịnh, ba lần vào thành Thăng Long.
Thắng chúa Nguyễn, diệt chúa Trịnh. Thu non sông về một mối, dựng nên
cơ nghiệp Võ Thang.
Lại hai phen thảo quân xâm lược:
Năm Giáp Thìn (1784) quét sạch 300 chiến thuyền Xiêm La do Phúc Ánh
lưu vong rước tới.
Năm Kỷ Dậu (1789), đánh tan 20 vạn hùng binh Mãn Thanh do Duy Kỳ
khất lân lĩnh về.
Nhờ vậy mà dân tộc thoát ách vong nô.


Nhờ vậy mà tổ quốc vững nền độc lập.
Công thật cao như Trường Sơn.
Ân thật sâu như Nam Hải.
Non sông đãng định, Vũ Hồng chăm lo việc trị bình.
Ðắp quốc cơ theo tơn chỉ phú cường. Sửa chính sự cho kỷ cương nghiêm
túc. Dùng chữ Nôm làm quốc gia văn tự. Lập Sùng Chính viện để đào tạo
nhân tài.
Và cái nhục cống người vàng cho Trung Hoa rửa xong, Vũ Hồng luyện
tướng ni binh, quyết khơi phục phần đất Lưỡng Quảng.

Nhưng than ôi!
Năm sắc đá rèn gan, trời chưa kịp vá,
Chín tầng mây lấp núi, rồng thốt bay xa.
Khiến nhà Tây Sơn lâm vào bước suy vong!
Khiến nước Việt Nam lỡ mất cơ cường thịnh!
Tuy nhiên,
Danh Vũ Hoàng vẫn cùng mặt trăng mặt trời mà sáng. Ân Vũ Hoàng vẫn
cùng núi Trưng núi Tượng mà cao. Và nhân dân Việt Nam vẫn ca rằng:
Non Tây áo vải cờ đào
Giúp dân dựng nước xiết bao cơng trình.
Tiết Trọng Xn năm Tân Sửu (1961)
Nhân dân Bình Khê cẩn ký.
Sau khi đền lạc thành, cứ mỗi năm, đến ngày lễ Ðống Ða, nhân dân tồn tỉnh
Bình Ðịnh hợp nhau tại đền làm lễ kỷ niệm. Lễ kỷ niệm cử hành theo cổ lễ,
nhưng những cuộc vui thì có mới có xưa. Người đến dự lễ vô cùng đông
đúc. Ngựa xe như nước áo quần như nêm.
Và riêng nhân dân Bình Khê, rằm tháng 11 âm lịch, lại tổ chức ngày kỵ ba
Vua theo thường lệ.


Trong buổi lễ Ðống Ða và ngày kỵ đều có đọc văn tế và cử nhạc theo cổ lễ.
Hai bài văn tế đầu tiên:
Văn Tế Ðống Ða:
“ Than ơi!
Dịng Cơn thủy mây lồng thức gấm, mãn vui tình mai liễu độ xuân;
Ðỉnh Trường Sơn gió cuộn sóng tùng, chạnh tưởng đức anh hùng cứu quốc.
Nhớ tơn linh xưa:
Khí cốt lăng tằng,
Anh tư khôi đặc.
Sức điều binh khiển tướng, Hạng Võ Lưu Bang Lịng trọng sĩ tơn hiền, Văn

Vương Huyền Ðức, Tình đất nước giận cơn chia xẻ, lưỡi gươm thần dẹp
loạn cứu dân; Nghĩa Bắc Nam trải dạ gắn hàn, thân áo vải giúp anh dựng
nước.
Quy Nhơn biển lặng, rực rỡ ánh tường vân,
Thuận Hóa trời cao, chói chang vầng bạch nhật. Xiêm phê áp phủ, trên chín
trùng toan mối trị bình, Vuốt dũa nanh mài, ngồi mn dặm rắp tâm xâm
lược. Cõng rắn tội kìa ai?
Bắt hùm tay sẵn chước.
Tế Trời Ðất đàn Giao cao vút vút, bóng tinh kỳ sáng dọi buổi đăng quang.
Nhìn non sơng khí giận ngất từng mây, tiếng hiệu lệnh sấm vang giờ xuất
phát. Hùng binh mười vạn hăng hái hy sinh!
Chiến tượng hai trăm tinh trường trận mạc.
Lòng một quyết ra tay hùng hổ, hẹn nước non ca khúc khải hoàn sau.
Chỉ mười ngày dẹp giống sài lang, cùng tướng sĩ chung vui Nguyên Ðán
trước.
Cạn lời ủy lạo, trống giục cờ giong:
Dốc dạ truy tùy, non băng biển vượt.


Ngày ba mươi tháng chạp, sông Giản Thủy dồn binh;
Ðêm mồng ba tháng giêng, đồn Hà Hồi hãm giặc.
Ðánh trận này tiếp trận khác, sấm dậy chớp giăng:
Xong đồn nọ tới đồn kia, khói tan đá nát.
Khuya mồng bốn gió sương mờ mịt, đốt lương rừng lửa đỏ, khiến ba quân
liều chết chớ lui;
Sáng mồng năm voi ngựa sẵn sàng, quấn cổ thước khăn vàng, quyết một trận
chẳng hơn thì thác.
Thế giặc dẫu binh đông tướng dữ, thuốc súng chôn quanh thành, chông sắt
cắm khắp lũy, thêm bốn bề đạn rạc rào mưa;
Quân ta nhờ trí sáng gan bền, ván dày cột thành cốt, rơm ướt phủ làm bì, hị

một rập sức cuồn cuộn thác, Ầm tiếng pháo, Ngọc Hồi kịp hạ, sông máu
láng lai; Thúc chân voi, Khương Thượng liều thân, núi thây chồng chất.
Nghi Ðống liệu khôn bề sống sót, vội vàng treo cổ Ðống Ða! Sĩ Nghị may
tìm được lối ra, hớt hải thốt thân mạn Bắc. Ngồi ải sói gió tan mùi sát khí,
niềm hân hoan nhuộm thắm mặt sơn xuyên; Vào thành Long cờ rợp bóng
vinh quang, áo chiến thắng phủ đen hồn đạn dược. Mười ngày hẹn trước,
trời đất chứng lời vàng;
Hai bận vui xuân, cỏ hoa lồng tiệc ngọc.
Lửa tạnh hề biên cương
Nền cao hề xã tắc,
Tiếng anh dũng nước mây lừng lẫy sấm,
Triều Mãn Thanh bóp bụng sống chung trời;
Chí đấu tranh gan sắt vững vàng non,
Niềm Lưỡng Quảng quyết tâm đòi lại đất,
Nhưng than ôi!
Tấm gan rèn đá, trời chửa vá xong;


Ðỉnh Ngự chìm mây, rồng sao vội khuất!
Cơ cường thịnh thiếu tay xếp đặt,
Cửi dòn thoi phút để mối tơ chùng!
Nghiệp đế vương đuối sức giữ gìn,
Thuyền thuận bến trúc theo cơn gió lật!
Trời Phú Xuân sương gió lạnh lùng!
Biển Thị Nại bèo mây tản mác!
Bút chép sử múa men tay đắc thế: trang oanh liệt son nhòa! Nền ghi ân
khuất lấp bóng cơ thơn: gương anh hùng thủy nhạt!
Nối chí cả người sau toan lấp hận,
Lao cơng Tinh Vệ, ngậm ngùi thương.
Gìn dấu linh chốn cũ khó ngi tình,

Lắng giọng đề quyên tê tái ruột,
Cũng may thay!
Lẽ tuần hoàn trời đất chẳng ngừng xoay,
Ách chuyên chế giống nòi nay đã thốt,
Trăng hào kiệt bấy lâu u ám, ngọn đơng phong mát mẻ vén màn sương;
Vườn anh hoa đua nở tự do, bút thanh nghị ngọt ngào rơi giọt móc
Chúng tơi nay:
Chung gội ơn xn.
Kính dâng lễ bạc,
Non xanh nước biếc, khí anh tú mơ màng,
Nội thắm ngàn xa, hương tinh thành bát ngát.
Dịng lịch sử mở ra ơn lại, dịu dàng chữ gấm dệt lời hoa. Tranh vĩ nhân trải
rộng xem chung, lộng lẫy chỉ vàng treo bóng ác.
Hầm hơ con cá nhảy, trong bóng mây thấp thống bóng rồng
Trưng Lĩnh cánh diều bay, theo tiếng gió lẫy lừng tiếng nhạc.


Linh thiêng xin chứng.
Bài văn nhân dân Bình Khê tế Tây Sơn tam kiệt ngày rằm tháng 11.
“Duy!
Nước bị qua phân,
Nhà sanh tam kiệt,
Non Tây áo vải, phất nghĩa kỳ dẹp loạn an dân.
Ðất Việt khí thiêng, tung bửu kiếm diệt thù cứu nước.
Nền đế nghiệp xây cao trời một cõi,
Bước tiền đồ hoa cỏ đón mừng xuân;
Tiếng anh hùng vang dội sấm mười phương,
Miền biên tái sài lang im lặng dấu.
Ví thử bóng rồng khơng vội khuất
Thì chi đi ngạc dễ mà tung.

Biển nên cồn thời vận khéo xui, tay bé không xoay trời đất lại;
Ðất vá khuyết cơ duyên chưa gặp, dấu linh còn tạc nước non đây.
Nhân dân Bình Khê chúng tơi:
Lắng hơi qun trằn trọc giấc canh chầy.
Mơ bóng hạc thẫn thờ đêm nguyệt rạng.
Ðền cũ dâng lịng hương một nén;
Bia xanh tạc đức ngọc mn hàng.
Cá nhớ nguồn lên xuống nước Côn giang, dạ nhắc dạ mồi thơm chẳng
tưởng;
Chim mến cội đi về cây Tượng Lĩnh, đàn gọi đàn gò thấp chớ nương.
Một lòng nguyện giữ sắt son,
Mn gội dám qn mưa móc.
Nay:
Niệm kỳ húy nhật, lá vàng điểm tiết hàn đông;


Chứng tấc thành tâm, lễ bạc dâng trời dị lộ.
Trăm thước trầm hương cuồn cuộn gió,
Ðơi hàng bạch lạp ngập ngừng châu.
Nâng kim bôi rượu đủ ba tuần, phảng phất long nhan dường thấy đó;
Trước linh án lễ rồi bốn lạy, mơ màng loan giá trở về đây. Gương nghìn thu
lai láng ánh quang huy,
Trong khuất tịch cũng khơng cịn hắc ám;
Ðất ba cõi sáng soi vầng bạch nhật,
Dẫu vô cùng vẫn được hưởng vinh quang.
Lời cầu xin mong thấu cõi u huyền,
Lịng thành kính ngửa nhờ ơn chiếu giám.
Phục duy,
Thượng hưởng “
Từ khi đền Tây Sơn lập lại, năm năm đều tế lễ. Lễ Ðống Ða thay thế lễ Xuân

Thu. Lễ húy nhật vẫn giữ y như cũ. Và tuy đời đổi mới, lễ vẫn cử hành theo
lề lối xưa. Nhưng lần lần, người đọc văn tế có tài qua đời hết, và cứ đọc đi
đọc lại mãi một bài nghe cũng chán, nên cứ vài ba năm, thay văn tế một lần,
không thiếu những điểm quan trọng, nhưng gọn gàng dễ đọc.
Có hai bài thường được dùng đến:
Văn Tế lễ Ðống Ða:
Non Tây áo vải,
Trời Việt khí thiêng;
Ngọn cờ đào gió thuận lịng dân,
Mối ly loạn dẹp n dòng Trịnh Nguyễn;
Thanh kiếm báu chớp ngời thế trận,
Ðường xâm lăng quét sạch giặc Xiêm, Hoa.
Ðài vinh quang rạng rỡ giống nòi,


Nền độc lập vững bền đất nước.
Mây áng Trường Sơn rồng dẫu khuất,
Trăng lồng Quế Hải gấm còn giăng.
Ðền ghi ân ngào ngạt nén tâm hương, đá tạo nghìn thu vững núi;
Bút chép sử ung dung ngịi chính luận, son pha từng nét đơm bồng.
Nay chúng tơi:
Ðón tiết dương xn,
Nhớ ngày kỷ niệm.
Ngửa dâng lễ bạc,
Cúi trải niềm son.
Mơ màng trận thắng Ðống Ða, hồn chiến sĩ thơm lây chiều gió mới;
Lai láng dịng trong Cơn Thủy, gương anh hùng sáng dọi ánh trăng xưa.
Nén tinh thành mong thấu cõi u linh,
Cơ huyền diệu sớm xoay thời thịnh thái.
Giống Hồng Lạc đơm hoa kết trái, sương nắng chung, mưa móc cùng chung.

Tình Bắc Nam líp thịt liền xương, dâu bể đổi, ruột gan chẳng đổi.
Linh thiêng xin chứng.”
Bài Văn tế ngày kỵ 15 tháng 11:
Tây lĩnh tài cao,
Côn giang đức cả.
Giận Trịnh, Nguyễn cắt tình đất nước,
Thêm Phúc Loan đọa kiếp giống dòng.
Tuốt gươm thần phạt ngụy điếu dân, danh Tam Kiệt nướcnon lừng lẫy sấm.
Thu mối nước bình Nam định Bắc, cơng nghìn thu sử sách rõ ràng son.
Nay chúng tôi:
Ðối cảnh đông thiên.
Niệm kỳ húy nhật,


Ngọn gió hương đưa hồn Tổ Quốc,
Ðầu non thơng vút khí anh hùng.
Rượu ba tuần rót chén tinh thành.
Lễ bốn lạy dâng trời dị lộ,
Phảng phất đài mây điện ráng, ngưỡng vọng giáng lâm,
Chít chiu con lạc cháu Hồng, huệ diên phước tải
Thượng hưởng “
Những bài văn ký đã nói lên được trung thực lòng người yêu nước đối với
nhà Tây Sơn.
Nhưng trong đó lịng chỉ dám biểu lộ sau khi nhà Nguyễn đã bị nhân dân
đứng lên lật đổ.
Dám biểu lộ trong lúc ách cường quyền còn đè nặng trên cổ nhân dân, thì
long kính u nhớ tiếc mới thật là mạnh liệt.
Nguyễn Bá Huân viết:Cân Quắc anh hùng truyện, Tây Sơn văn thần liệt
truyện, Nguyễn Trọng Trì viết: Tây Sơn danh tướng chinh Nam truyện, Tây
Sơn lương tướng ngoại truyện v.v...

Các tác phẩm trên ghi chép sự tích, hành trạng của các anh hùng hào kiệt
văn võ phò tá nhà Tây Sơn. Sách viết thời Tự Ðức. Dụng ý đề cao nhà Tây
Sơn.
Không phải là danh sơn sự nghiệp mà sách được phổ biến trong giới trí thức
đương thời, trong đó có một đại thần nhà Nguyễn là Ðào Tấn ở Vĩnh Thạnh.
Ðiều đó chứng minh rằng lịng người dân yêu nước đối với nhà Tây Sơn dâu
bể đổi, ruột gan chẳng đổi.
Ðến năm 1975, Bắc Nam thống nhất, đền Tây Sơn ngót 15 năm thuộc quyền
quản trị của nhân dân Bình Khê, giao lại cho Nhà nước cách mạng. Ðền
được mở rộng thêm, và mỗi năm lễ Ðống Ða vẫn được tổ chức trọng thể.



×