Tải bản đầy đủ (.pdf) (15 trang)

Định nghĩa chủ nghĩa xã hội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (235.36 KB, 15 trang )

Chủ nghĩa xã hội
Chủ nghĩa xã hội bao gồm các tư tưởng chính trị ủng hộ một hệ thống kinh tế-xã
hội mà trong đó các sở hữu và các tài sản là thuộc quyền điều khiển của toàn thể
cộng đồng nhằm mục đích tiến đến sự cơng bằng trong xã hội và trong kinh tế
cũng như tiến đến một sự hợp tác tốt hơn[1]. Quyền điều khiển có thể là trực tiếp
qua một tập thể như hình thức cơng đồn hay gián tiếp qua hình thức nhà nước.
Nhìn theo khía cạnh kinh tế thì chủ nghĩa xã hội có đặc tính là sự sở hữu của các
phương tiện sản xuất đã được "cộng đồng hóa".
Phong trào xã hội hiện nay bắt đầu từ phong trào của giai cấp lao động trong cuối
thế kỷ 19. Trong thời gian đó, cụm từ "chủ nghĩa xã hội" thường được dùng để nói
về những phê phán của các nhà phê bình xã hội châu Âu khi họ phê bình về chủ
nghĩa tư bản và về khái niệm sở hữu riêng. Đối với Karl Marx, người đã đóng góp
một phần lớn trong việc xây dựng phong trào xã hội hiện đại, thì chủ nghĩa xã hội
sẽ là một hệ thống kinh tế-xã hội sau khi một cuộc cách mạng đã nổ ra để chuyển
quyền điều khiển các phương tiện sản xuất từ tay của một số ít sang tay của một
tập thể. Sau đó, xã hội đó sẽ tiến sang chủ nghĩa cộng sản.
Có rất nhiều tư tưởng và phong trào được gọi, hay tự gọi, là theo chủ nghĩa xã hội.
Nhưng từ thế kỷ 19 đến nay, những người theo chủ nghĩa xã hội đã không thể đưa
ra một tư tưởng hay một kế hoạch chung cho họ. Trái lại, những người theo chủ
nghĩa xã hội tự chia họ ra nhiều nhánh khác nhau và đôi khi đối nghịch nhau, nhất
là giữa những người theo nhánh chủ nghĩa xã hội cải cách và những người theo chủ
nghĩa cộng sản.
Kể từ thế kỷ 19 những người theo chủ nghĩa xã hội đã có những lối nhìn khác nhau
cho chủ nghĩa này dưới góc độ của một hệ thống về cách tổ chức kinh tế. Một số


người muốn quốc hữu hóa hồn tồn các phương tiện sản xuất, trong khi những
người dân chủ xã hội đề nghị chỉ quốc hữu hóa một số kỹ nghệ chính trong phạm
vi của một nền kinh tế hỗn hợp giữa thị trường và nhà nước. Những người theo chủ
nghĩa Stalin, kể cả những người có ấn tượng về mơ hình phát triển kinh tế của Liên
Xô, đã kêu gọi cho một nền kinh tế tập trung được chỉ định bởi một nhà nước nắm


tất cả quyền sản xuất. Những người khác, trong đó có nhiều người tự gọi mình là
Cộng sản tại Nam Tư và Hungary trong thập niên 1980 và thập niên 1990, nhiều
người Cộng sản Trung Quốc sau thời kỳ cải cách và một số nhà kinh tế học
phương Tây, đã đề nghị nhiều dạng của chủ nghĩa xã hội thị trường nhằm mục đích
tìm được hịa giải giữa hai lợi thế của quốc hữu hóa và của sức mạnh thị trường[2].
Trong khi đó, nhiều người trong cơng đồn khơng tin tưởng vào hình thức chính
phủ (chủ nghĩa cơng đồn vơ chính phủ - anarcho-syndicalism; anarchy = vơ chính
phủ, syndicate = cơng đồn), các người theo chủ nghĩa Luxemburg như Đảng Xã
hội Hoa Kỳ (Socialist Party USA) cũng như nhiều thành phần của phong trào
"New Left" (Cánh tả Mới) của Mỹ lại muốn phân quyền của các sở hữu cộng đồng
tại trung ương để trao cho các hợp tác xã hay các hội đồng của các nhóm lao động.
Vì các quốc gia theo chủ nghĩa cộng sản hay sử dụng các từ "xã hội chủ nghĩa" và
"chủ nghĩa xã hội" để tự gọi họ nên đã có nhiều nhầm lẫn[cần dẫn nguồn]. Sự khác biệt
giữa hai chủ nghĩa là: theo lý thuyết của những người theo chủ nghĩa Mác- Lênin
chủ nghĩa xã hội là giai đoạn nằm giữa trong quá trình từ chủ nghĩa tư bản tiến lên
chủ nghĩa Cộng Sản hay những người theo trường phái chủ nghĩa xã hội khác đưa
ra chủ nghĩa xã hội là hình thái kinh thái kinh tế - xã hội khơng phải chủ nghĩa tư
bản, và không đưa ra mục tiêu tiến đến chủ nghĩa cộng sản. Một số trường phái chủ
nghĩa xã hội vẫn chấp nhận đa nguyên về kinh tế và chính trị. Chủ nghĩa này tạo ra
sự bình đẳng xã hội bằng chính sách thuế và an sinh xã hội thay vì kinh tế tập thể
bắt buộc.


Theo các nhà kinh điển chủ nghĩa Marx - Lenin thì nguyên tắc phân phối Xã hội
chủ nghĩa: "Làm theo năng lực, hưởng theo lao động"; xã hội Cộng Sản chủ nghĩa:
Làm theo năng lực, hưởng theo nhu cầu.[cần dẫn nguồn]
Mục lục


1 Tiền lệ lịch sử




2 Chủ nghĩa Marx và phong trào xã hội
o

2.1 Quan niệm về chủ nghĩa xã hội theo quan điểm Marx: (góc độ lý
luận)



3 Các trường phái chủ nghĩa xã hội



4 Chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản



5 Các nước xã hội chủ nghĩa



6 Xem thêm



7 Đọc thêm




8 Chú thích

Tiền lệ lịch sử
Trong lịch sử các tư tưởng chính trị, các nhân tố nhất định của một quan điểm chủ
nghĩa xã hội hay cộng sản đã xuất hiện trước khi được khái quát lại thành hệ thống
lý luận của chủ nghĩa xã hội trong nửa đầu thế kỷ 19.


Ví dụ, tác phẩm Cộng hịa (tiếng Hy Lạp: Πολιτεία Politeia) của Plato hay tác
phẩm Utopia (Thế giới không tưởng) của Thomas More là hai dẫn chứng[3]. Phong
trào Mazdak trong thế kỷ thứ 5, diễn ra ở vùng mà bây giờ là Iran, đã được tả là
"có tính chất cộng sản" do đã thách thức nhiều quyền lợi của tầng lớp quý tộc và
tăng lữ, đồng thời đấu tranh cho một xã hội quân bình[4]. William Morris cho rằng
John Ball, một trong những lãnh đạo của cuộc khởi nghĩa nông dân ở Anh vào năm
1381, là người theo chủ nghĩa xã hội đầu tiên[5]. John Ball được công nhận là đã
nói câu nói nổi tiếng sau đây:
"When Adam delved and Eve span, Who was then the gentleman?" (Khi
Adam đào đất, và Eve quay sợi, Thì ai là chủ [để họ phải trả tiền cho]
đây?[6])
Trong cuộc Nội chiến Anh vào giữa thế kỷ 17, các phong trào được mô tả là có
dáng dấp xã hội chủ nghĩa gồm Phong trào san bằng (Levellers) và Phong trào đào
sâu (Diggers), phong trào sau tin rằng đất đai nên được giữ chung. (to level = san
bằng; to dig = đào; có nghĩa là Diggers chú trọng là phải đào sâu hơn, hay san
bằng nhiều hơn, Levellers.)
Suốt thời kỳ Khai sáng trong thế kỷ 18, sự phê bình về bất bình đẳng đã xuất hiện
trong tác phẩm của những nhà lý luận như Jean Jacques Rousseau ở Pháp, tác
phẩm Du contrat social (Hợp đồng xã hội) của ông bắt đầu với "Con người được
sinh ra tự do, và đâu đâu anh ta cũng ở trong xing xớch"[7]. Sau Cỏch mng Phỏp
nm 1789, Franỗois Noởl Babeuf ủng hộ mục tiêu quyền sở hữu chung về đất đai

và sự bình đẳng tồn diện về kinh tế và chính trị giữa các cơng dân.
Chủ nghĩa Marx và phong trào xã hội
Quan niệm về chủ nghĩa xã hội theo quan điểm Marx: (góc độ lý luận)




Là tổng hợp các tư tưởng phản ảnh các cuộc đấu tranh chống áp bức bóc lột
giữa giai cấp bị áp bức, bóc lột và giai cấp bóc lột đang là giai cấp thống trị.



Là tổng hợp các tư tưởng phản ảnh những ước mơ, nguyện vọng, mong
muốn, nhu cầu của con người mà trước hết là những người lao động nghèo
khổ về một xã hội tương lai tốt đẹp khơng có áp bức bóc lột.



Là tổng hợp những (phương pháp, cách thức, con đường) giải pháp khả thi
để đi đến xã hội mong muốn đó.

Các trường phái chủ nghĩa xã hội
Mục tiêu của tất cả các phong trào theo chủ nghĩa xã hội là xây dựng một xã hội
công bằng hơn chủ nghĩa tư bản, nhưng họ thường bất đồng trong các quan điểm
về chủ nghĩa xã hội, cách thức cải tạo chủ nghĩa tư bản thành chủ nghĩa xã hội, mơ
hình nhà nước, vai trị nhà nước trong nền kinh tế, mơ hình quản lý sản xuất. Khác
với những người theo chủ nghĩa cơng đồn vơ chính phủ hay vơ chính phủ, chủ
nghĩa xã hội tự do cá nhân, hầu hết các trường phái chủ nghĩa xã hội đều đề cao vai
trò của Nhà nước. Hai trường phái chủ nghĩa xã hội cơ bản là trường phái chủ
nghĩa xã hội dân chủ và chủ nghĩa cộng sản. Mục tiêu của những người cộng sản

không chỉ đề cao vai trò của Nhà nước, sở hữu Nhà nước mà tiến tới một xã hội
cộng sản. Theo lý luận của những người cộng sản, nhất thiết cần tiến hành cách
mạng vô sản để xóa bỏ chủ nghĩa tư bản. Sự thích ứng của chủ nghĩa tư bản đặc
biệt là sự đa dạng hóa trong sở hữu và quản lý gây khó khăn và làm phân hóa thêm
những người theo chủ nghĩa xã hội.
Chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản


Thông tin trong bài này không thể kiểm chứng được do không được chú
giải từ bất kỳ nguồn tham khảo nào.
Xin bạn hãy cải thiện bài viết này bằng cách bổ sung chú thích tới các nguồn
uy tín. Nếu bài được dịch từ Wikipedia ngơn ngữ khác thì hãy chuyển nguồn
tham khảo từ phiên bản đó cho bài này.

Chủ nghĩa xã hội thường được hiểu là hệ tư tưởng hay hệ thống kinh tế đối lập với
chủ nghĩa tư bản. Cuộc chiến về lí luận và thực tế giữa những người ủng hộ chủ
nghĩa tư bản hay chủ nghĩa xã hội là trung tâm của các sự kiện thế giới trong suốt
thế kỷ XX.
Những người theo chủ nghĩa xã hội hay ủng hộ chủ nghĩa xã hội cơng kích chủ
nghĩa tư bản đã gây ra bất công xã hội, phân hóa giàu nghèo, chế độ đẳng cấp, nạn
bóc lột lao động, lối sống thực dụng, tha hoá con người. Họ cũng cơng kích những
người ủng hộ chủ nghĩa tư bản dung dưỡng, dung túng cho nhiều chế độ quân chủ,
thần quyền (như một số nước Trung Đông và một số nước khác hiện nay), cho chủ
nghĩa phong kiến và địa chủ, các hủ tục, cho các chế độ phân biệt chủng tộc (như
Nam Phi). Chủ nghĩa tư bản theo họ là cha đẻ cho chủ nghĩa thực dân (chủ nghĩa
đế quốc), hay thao túng kinh tế các nước nghèo đói. Chủ nghĩa tư bản được xem là
góp phần dựng nhiều chế độ độc tài hay cai trị độc đoán, chuyên chế ở Mỹ Latin
(Haiti, Nicaragua,Paraguay, Chile, Argentina, Peru, El Salvador...), ở Philippines,
Nam Triều Tiên, Nam Việt Nam, Indonesia trước đây, chế độ quân phiệt và độc
đoán Tưởng Giới Thạch ở Trung Quốc và Đài Loan, ở một số nước châu Phi, chế

độ độc đoán trước đây ở Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha.


Những người theo chủ nghĩa tư bản hay ủng hộ chủ nghĩa này đổ lỗi cho chủ nghĩa
xã hội gây ra nhiều cuộc nội chiến, các cuộc cách mạng (mà họ thường gọi là đảo
chính hay nổi loạn), sự cưỡng ép các mơ hình kinh tế tập thể hay nhà nước gây
nghèo đói, tham nhũng, tước đoạt quyền tư hữu. Họ cho các nạn đói trên diện rộng
ở Trung Quốc, Campuchia,... một số nước châu Phi trước đây là hậu quả của kinh
tế hợp tác cưỡng ép. Những người theo chủ nghĩa tư bản cũng cho chủ nghĩa xã hội
cản trở cho tự do kinh doanh của người dân, để nhà nước thao túng toàn bộ kinh tế
(bao gồm cả truyền thơng, giáo dục, y tế...) gây bất bình đẳng, chậm phát triển.
Đường lối chống tôn giáo của một số phái chủ nghĩa xã hội bị xem là cực đoan.
Nhiều người theo chủ nghĩa tư bản cũng đổ lỗi cho chủ nghĩa xã hội gây ra các chế
độ cai trị độc đoán ở Bắc Phi và một số nước châu Phi khác (Zimbabwe,...), Syria,
Iraq, Miến Điện trước đây, các chế độ độc đốn của Stalin (Liên Xơ), Mao Trạch
Đơng (Trung Quốc), Nicolae Ceauşescu ở Romania,... chế độ diệt chủng Pol Pot ở
Campuchia.
Cả hai phía ủng hộ chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội đều đổ lỗi cho nhau trong
sự xuất hiện của chủ nghĩa phát xít. Sự phát triển của các phong trào Hồi giáo cực
đoan được những người theo chủ nghĩa xã hội đổ lỗi cho sự khuyến khích của chủ
nghĩa tư bản để chống lại chủ nghĩa xã hội, nhưng bản thân những người này có
khi cũng chống cả chủ nghĩa tư bản.
Những người ủng hộ cho chủ nghĩa tư bản hay theo chủ nghĩa tư bản thường dựa
trên lập trường của chủ nghĩa cá nhân, vì thế họ thường coi trọng các vấn đề dân
chủ và nhân quyền. Chủ nghĩa tư bản hỗ trợ cho q trình xóa bỏ nhà nước qn
chủ thần quyền ở châu Âu, tuy nhiên do những khuyết tật vốn có của nó nên các
nền dân chủ đại nghị được xây dựng sau đó thường "méo mó" và chỉ được hồn
thiện thêm các giai đoạn sau này. Tuy nhiên chủ nghĩa tư bản đã hỗ trợ đắc lực cho



chủ nghĩa đế quốc lần thứ nhất (sau các phát kiến địa lý) mà chủ yếu là ở các vùng
đất mới như châu Mỹ, mặc dù nó được xem là hệ quả của chính sách các chính
quyền quân chủ đương thời nhiều hơn. Các cơng ty tư bản cịn lập ra các hải đội để
xâm chiếm thưộc địa ở các vùng đất nghèo nàn, lạc hậu hơn như châu Á, châu
Phi... Tuy nhiên các quá trình xâm chiếm chiếm thuộc địa bị gián đoạn trong giai
đoạn châu Âu xảy ra nhiều cuộc cách mạng, chiến tranh đầu thế kỷ XIX.
Chủ nghĩa tư bản một lần nữa góp phần tạo dựng lên chủ nghĩa đế quốc lần thứ hai
nửa sau thế kỷ XIX, mặc dù nó hay được xem là hệ quả của chính sách quân phiệt,
hay dân tộc nước lớn nhiều hơn. Q trình thực dân hóa kết thúc vào khoảng
những năm 1960. Nhìn chung chủ nghĩa tư bản đã hỗ trợ nhiều hơn cho các q
trình dân chủ hóa ở các chính quốc (và cả các tác động từ lực lượng cánh tả chủ
yếu cánh tả ơn hịa), nhưng lại được xem là có lỗi khi cùng tư tưởng dân tộc nước
lớn tạo dựng nên các thuộc địa cai trị hà khắc (trừ một số ít nơi), cho dù hệ quả
gián tiếp là các tư tưởng dân chủ cũng xâm nhập vào các vùng đất này đi kèm với
sự suy yếu của hệ thống phong kiến và quá trình hiện đại hóa bộ máy quản lý cai
trị.
Tuy nhiên đứng trước lo ngại của phong trào xã hội chủ nghĩa (chủ yếu là mang
tính cấp tiến) hay cộng sản chủ nghĩa, hay các phong trào tôn giáo cực đoan chống
tư bản, và các mong muốn có được ảnh hưởng ở các nước mới độc lập, đặc biệt là
tạo điều kiện cho các tập đoàn tư bản đầu tư nên các nhà nước thực dân khi trao trả
độc lập thường trao lại chính quyền cho các tổ chức dân tộc chủ nghĩa ơn hịa, hay
các chính quyền bù nhìn tồn tại từ trước, hoặc các lực lượng chống cộng sản, hay
chống tư tưởng tơn giáo cực đoan cho dù họ có vai trị trong đấu tranh giải phóng
dân tộc hay khơng. Nhiều nơi, phong trào phi thực dân hóa chỉ được tiến hành từng
bước theo mô thức như tự quản đến tự trị rồi độc lập. Một loạt các chế độ độc tài


dựng lên dưới sự ủng hộ hay dung dưỡng của chủ nghĩa tư bản phương Tây ở
nhiều nước mới thoát ra khỏi thực dân (tiêu biểu ở Mỹ Latinh và châu Phi), hoặc
sự duy trì của các chế độ mang màu sắc phong kiến, hay quân chủ (ở những nước

mà ảnh hưởng tôn giáo lớn, hay các chế độ quân chủ được một bộ phận khá lớn
dân tin tưởng như ở Trung Đơng), được xem là thành trì bảo vệ chủ nghĩa tư bản
chống lại chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản hay tôn giáo cực đoan. Chế độ phân
biệt chủng tộc ở Nam Phi có sự dung dưỡng của chủ nghĩa tư bản phương Tây, là
tiền đồn chống lại các tư tưởng chủ nghĩa xã hội hay chủ nghĩa cộng sản phát triển
ở miền nam châu Phi, bao gồm cả ở Nam Phi. Tuy phản đối các chế độ độc tài ở
Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha một thời nhưng do các chính sách chống cộng sản
nên các nhà nước này vẫn được sự chấp nhận phần nào ở phương Tây. Các q
trình dân chủ hóa ở các quốc gia này hết sức chậm chạp, ở một số nước đã nổ ra
các cuộc cách mạng dù đa phần là khá ổn định nhờ vào các chính sách tư bản tạo
một nền kinh tế tương đối "dễ thở" cho dù tồn tại khá nhiều bất công.
Do bản chất chủ nghĩa tư bản rất thực dụng nên họ thường thỏa hiệp với các chính
quyền phong kiến hay nửa phong kiến, các chế độ quân sự hay dân tộc chủ nghĩa
phi dân chủ, hay các chính quyền của đảng cộng sản, hay các đảng mang màu sắc
xã hội chủ nghĩa khác lãnh đạo, miễn là có lợi cho họ đầu tư. Các lý thuyết tự do,
dân chủ thường bị những trùm tài phiệt của chủ nghĩa tư bản xao lãng. Tuy nhiên
trong một vài thập kỷ gần đây những người theo đuổi chủ nghĩa tư bản ở phương
Tây quan tâm nhiều hơn đến các vấn đề tự do, dân chủ hay nhân quyền ở các nước
kém phát triển, bao gồm cả các nước đồng minh của họ trong chiến tranh lạnh
chống chủ nghĩa cộng sản trước đây.
Ngược các lực lượng cánh hữu thường tập trung vào các vấn đề tự do, dân chủ,
nhân quyền, hay quyền lợi dân tộc, mà ít coi trọng đến giải quyết các vấn đề về xã


hội như phân hóa giàu - nghèo, tình trạng thất nghiệp, hay các vấn đề xã hội khác
như giáo dục, y tế, an sinh xã hội, các lực lượng cánh tả các nước tư bản chú ý
nhiều hơn đến các khía cạnh này, đấu tranh nhiều hơn cho các lĩnh vực bình đẳng
giới hay bảo vệ mơi trường,... và thường ít chú ý hơn đến các vấn đề về chống độc
tài và vi phạm quyền cá nhân, mặc dù tôn trọng dân chủ đại nghị. Tuy nhiên sau sự
sụp đổ của chủ nghĩa cộng sản ở Đông Âu, xuất hiện các tư tưởng thiên hữu nhiều

hơn trong các lực lượng cánh tả, họ quan tâm nhiều hơn đến các vấn đề về dân chủ
và nhân quyền, và chú trọng nhiều hơn vào các vấn đề kinh tế hơn là bình đẳng.
Nhìn chung sự xích lại gần nhau của các lực lượng cánh hữu và cánh tả như sự
chấp nhận nhiều hơn của cánh hữu trong vấn đề an sinh xã hội hay tạo việc làm,
tạo điều kiện cho các tổ chức cơng đồn hoạt động, hay cánh tả trong bảo vệ các
quyền cá nhân, kể cả quyền tư hữu và kinh doanh đã làm cho chủ nghĩa tư bản và
chủ nghĩa xã hội xích lại gần nhau hơn. Chia sẻ quan điểm về dân chủ nhưng bất
đồng vai trò nhà nước là đặc điểm thường thấy ở các nước phát triển của cánh tả và
hữu, cánh hữu không mấy tin tưởng ở nhà nước, tạo không gian lớn hơn cho thị
trường tự điều tiết, còn cánh tả muốn nhà nước có vai trị lớn hơn trong điều tiết
kinh tế và giải quyết các vấn đề xã hội. Tuy nhiên các mơ hình kinh tế của cánh tả
thường chỉ thích nghi trong một số hoàn cảnh nhất định, và hay được xem cho
năng suất lao động yếu, sự đặc quyền đặc lợi và tham nhũng do hệ thống quản lý
yếu kém ở một số nước, cũng như can thiệp nhà nước thái quá gây bất bình đẳng
trong cạnh tranh trên thị trường, xã hội hóa khơng thực hiện được và hay biến
tướng thành nhà nước hóa tư liệu sản xuất, nên ảnh hưởng cánh tả nhiều nơi suy
yếu. Song sự trỗi dậy của cánh hữu nhiều nơi đi kèm với toàn cầu hóa của chủ
nghĩa tư bản đã gây ra nhiều hệ quả mới ở các nước như sự phân hóa xã hội ngày
càng lớn, quan hệ "chủ - tớ" trong quan hệ sản xuất tư bản vẫn còn tồn tại nhiều
yếu tố bất bình đẳng chủ yếu do luật pháp yếu kém, các chính sách đầu tư nước


ngoài ở các nước kém phát triển thường đem lại lợi ích trước mắt nhưng có thể gây
tổn hại cho các lợi ích lâu dài (mà hay được xem là chủ nghĩa thực dân mới) , tình
trạng tội phạm và tệ nạn xã hội gia tăng, sự suy đồi đạo đức..., các nền dân chủ đại
nghị có nhiều ưu điểm nhưng vẫn không thể che hết những khuyết điểm, và tạo
điều kiện cho tư tưởng cực đoan phát triển như tư tưởng vơ chính phủ (chán ghét
nhà nước bất kỳ, không tin tưởng các đảng phái)... hay là các phong trào chính trị
tơn giáo cực đoan chống lại chủ nghĩa tư bản hay văn hóa, tơn giáo du nhập từ
phương Tây (như phong trào Hồi giáo cực đoan).

Các nước xã hội chủ nghĩa
Các nước xã hội chủ nghĩa là một khái niệm gây tranh cãi. Một số quốc gia Hiến
pháp tuyên bố xây dựng chủ nghĩa xã hội, hiện nay gồm có Trung Quốc, Việt
Nam, Bắc Triều Tiên, Cuba và Lào có các đảng cộng sản cầm quyền và một số
nước khác như Ấn Độ, Guyana, Bangladesh, Sri Lanka, Syria, Ai Cập, Libya,
Tanzania, Bồ Đào Nha, Cộng hòa Trung Hoa (Đài Loan), và khơng chính thức có
Venezuela, Bolivia, Nicaragoa.
Các nước Bắc Âu với nhiều năm được các đảng Dân chủ xã hội (một nhánh của
học thuyết Marx) chiếm ưu thế tuyệt đối được nhiều người gọi là các nước xã hội
chủ nghĩa nhưng nhiều người khác lại không cho là như vậy. Chế độ an sinh xã hội
được thực hiện rất thành công ở các nước này cũng được hiểu khác nhau, nó có khi
được xem như là một sự thích ứng của chủ nghĩa tư bản trong hồn cảnh mới, hay
một yếu tố cấu thành của chủ nghĩa xã hội. Tuy nhiên đứng trước những khó khăn
của nền kinh tế, một quá tư hữu hóa đã diễn ra trong thập niên 1990 đi kèm với sự
chiến thắng của các lực lượng cánh hữu hoặc phái hữu trong các lực lượng cánh tả.


Sự tranh cãi các nước xã hội chủ nghĩa về thực chất xuất phát từ sự hiểu khác nhau
về khái niệm chủ nghĩa xã hội và nền kinh tế thực tế các nước đó. Tất cả các nước
này thể chế chính trị có sự khác nhau, kinh tế khác nhau và có khi bất đồng về cách
hiểu xã hội chủ nghĩa, và mục tiêu khơng hồn tồn giống nhau. Với một số nước
không phải đảng cầm quyền nào cũng là đảng xã hội chủ nghĩa. Đối với những
người theo các hệ tư tưởng khác nhau cũng có sự lý giải khác nhau về xã hội chủ
nghĩa. Ngược lại những nước mà một số nước gọi là các nước tư bản chủ nghĩa thì
Hiến pháp họ lại khơng quy định như vậy. Và thực tế nền kinh tế tư bản chủ nghĩa
tại nhiều nước đã chuyển hóa sang những mơ hình mới mang nhiều yếu tố của chủ
nghĩa xã hội và thường khơng có một đường lối rõ ràng trong tương lai.
Nhìn chung các nước xã hội chủ nghĩa thường hay được hiểu là những nước ghi
nhận trong Hiến pháp mục tiêu quốc hữu hóa, tập thể hóa tư liệu sản xuất, tuy
nhiên cách thức và quy mô khác nhau. Một số quan điểm chủ nghĩa xã hội khác

cho rằng chủ nghĩa xã hội có thể thơng qua các chính sách nhà nước nhằm tạo một
xã hội công bằng hơn. Song khái niệm này được nhiều người xem khá là mơ hồ, và
bản thân những người không theo chủ nghĩa xã hội cũng có thể đưa ra một khái
niệm cơng bằng mơ hồ, mang tính chủ quan, mà thường được xem xét trên khía
cạnh cơng bằng tài sản hay cơng bằng lợi ích từ lao động.
Trong các nước XHCN hiện nay mơ hình Trung Quốc là mơ hình điển hình nhất.
Thời kỳ trước đổi mới, Trung Quốc chịu nhiều ảnh hưởng của chủ nghĩa Mao
trong tư duy xây dựng chủ nghĩa xã hội. Nền kinh tế hầu như được tập thể hóa và
quốc hữu hóa, dưới sự điều hành tập trung của Nhà nước. Kinh tế được điều chỉnh
bằng kế hoạch, nhà nước can thiệp vào tất cả các khâu của nền kinh tế, kể cả lao
động và phân phối lợi ích. Do các cán bộ quản lý kinh tế (xí nghiệp, hợp tác xã,...)
đều do nhà nước bổ nhiệm theo ý chí chủ quan, khơng qua cạnh tranh thị trường


thường thấy ở kinh tế tư bản, nên không tận dụng được những người tài năng,
lương hoặc phân phối lợi ích lao động theo quy chuẩn của nhà nước mang tính duy
ý chí vừa có tính chất cào bằng vừa có tính chất tạo ra một sự phân cách khơng tính
thực chất năng suất lao động hoặc chất xám và công sức bỏ ra, nên tuy là tạo ra
một xã hội ít có sự phân hóa nhưng khơng hồn tồn là cơng bằng. Tình trạng vi
phạm sở hữu tài sản cá nhân cũng hay xảy ra.
Sau ngày đổi mới, Trung Quốc khuyến khích nền kinh tế đa thành phần. Những tư
duy thời bao cấp như "nghèo mới là đáng quý" hay "đạo đức chỉ có ở những người
nghèo", "đời sống tinh thần phải được đề cao hơn đời sống vật chất", được thay thế
bằng khuyến khích làm giàu cá nhân và lối sống hưởng thụ vật chất, văn hóa
hướng vào kích thích tiêu dùng và ham muốn cá nhân ngày càng nhiều hơn. Những
giá trị cũ trước được xem là tư tưởng phong kiến,... như Khổng giáo,... được khôi
phục lại. Nhìn chung tuy vẫn hướng đến một xã hội xã hội chủ nghĩa, nhưng chịu
ảnh hưởng nhiều hơn của trên một số phương diện chủ nghĩa bảo thủ hơn là chủ
nghĩa tự do.
Các tư tưởng chủ nghĩa dân tộc được đề cao thay cho vấn đề giai cấp, và nhằm

hướng tới một xã hội đồng nhất và ổn định dù trên nền các "tư tưởng tư bản"
hướng đến chủ nghĩa cá nhân phát triển mạnh. Sự đổi mới kinh tế nhanh hơn các
đổi mới chính trị tạo ra một sự ổn định, nhưng bất bình đẳng ngày càng gia tăng.
Phân hóa xã hội ở Trung Quốc hiện cao hơn nhiều so với nhiều nước tư bản châu
Âu. Kinh tế nhà nước được ưu tiên, tạo một sự ổn định, chuyển dần sang kinh
doanh kiểu chủ nghĩa tư bản nhà nước, tham gia đầu tư nước ngoài ngày càng
nhiều. Do kinh tế nhà nước được ưu tiên nên các thành phần kinh tế dân doanh
chịu nhiều sức ép hơn của cơ chế thị trường và tạo một sự canh tranh không bình
đẳng. Các thành phần kinh tế nhà nước được nhà nước ưu đãi, bao gồm cả độc


quyền trên một số lĩnh vực, kinh doanh thua lỗ được nhà nước bù đắp, hoặc hay
được bao cấp, do đó hoạt động kém hiệu quả. Tư duy "tư bản" ngày càng xâm
nhập, vì thế tham nhũng là một vấn nạn. Các quá trình bổ nhiệm cán bộ quản lý,
hay tuyển dụng lao động đều thiếu công bằng và minh bạch. Ngồi ra cơ chế trả
lương của nhà nước khơng kích thích chất xám, hay năng suất lao động.
Ngược lại, các thành phần kinh tế tư nhân do luật pháp lỏng lẻo, các hiện tượng
làm giàu bất chính hay lạm dụng sức lao động, vi phạm luật pháp hay các nguyên
tắc đạo lý cộng đồng cũng hay xảy ra. Nhiều công chức đảng viên tham gia vào
kinh tế tư nhân, đầu tư vốn như là các nhà tư bản tài chính để thu lời, và do đó một
số doanh nghiệp tư nhân được ưu ái. Các nguyên tắc nền kinh tế thị trường chỉ
được áp dụng một cách "méo mó". Đứng trước một số vấn đề nhất là phân hóa xã
hội (Trung quốc là một trong số những nước nhiều tỷ phú nhất), các chính kinh tế
hướng giải quyết các vấn đề xã hội được khuyến khích, chính sách đánh thuế cá
nhân (mà những người dân chủ xã hội hay khuyến khích) để điều chỉnh thu nhập
cũng được áp dụng nhưng hiệu quả còn thấp do chống đối của một số người cho sự
đánh thuế không công bằng, hay liên quan sự minh bạch của nhà nước. Tuy nhiên
Trung Quốc vẫn được xem là có một sự chuyển đổi kinh tế thành công dựa trên
kinh nghiệm của các sự chuyển đổi trước đó, tận dụng những lợi thế rất nhiều sẵn
có của đất nước.

Một mơ hình khác phát triển tại Mỹ Latinh. Các lãnh đạo XHCN tuyên bố chống
"chủ nghĩa đế quốc kinh tế", tồn cầu hóa quyết liệt. Đây là một xu hướng ngược
với Trung quốc, nơi khuyến khích tư bản nước ngoài đầu tư, và tham gia toàn cầu
hóa cạnh tranh kinh tế. Q trình quốc hữu hóa ở các nước Mỹ latinh tuyên bố
XHCN (không chịu ảnh hưởng chủ nghĩa Marx) theo các phương thức gây tranh
cãi, nhất là liên hệ với chủ nghĩa xã hội dân chủ và được sự ủng hộ khá lớn dân


chúng. Các nước này chưa phải là các nước XHCN, do kinh tế thành phần tư nhân
vẫn chiếm một vai trị đáng kể, và tương lai các nước này khơng thật sự rõ ràng, do
duy trì dân chủ đại nghị, bầu cử tự do theo nhiệm kỳ, sức ép đối lập, và sự thất
thường tăng trưởng kinh tế. Theo một số nhà lý luận thì phong trào cánh tả ở Mỹ
Latinh mang màu sắc chủ nghĩa dân tộc nhiều hơn.



×