Tải bản đầy đủ (.doc) (13 trang)

DIEN BIEN CU THE CHIEN DICH TAY NGUYEN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (230.68 KB, 13 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

<b>Diễn biến chiến dịch</b>



<b>[</b>

<b>sửa</b>

<b>] Nghi binh, tạo thế và cài thế</b>


<b>[sửa] Nghi binh</b>


Quân đội Nhân dân Việt Nam hành quân vào phía Nam Tây Nguyên


Giữa tháng 2, trong dịp Tết Nguyên đán Ất Mão, một binh sĩ QĐNDVN đào ngũ đã khai
với Phòng 2 (Bộ tham mưu Quân đoàn II) về việc QĐNDVN điều động sư đoàn 10 đánh
Đức Lập (căn cứ Núi Lửa), sư đoàn 320 đã đến Ea H'leo chuẩn bị đánh Thuần Mẫn (Cẩm
Ga), một lực lượng khác sẽ tấn công Buôn Ma Thuột. Nhưng đúng vào ngày diễn ra cuộc
họp các sĩ quân chỉ huy thuộc Quân khu II, một cuộc pháo kích lớn của QĐNDVN chụp
xuống Pleiku nên tướng Phú lại cho rằng đây là kế trá hàng lừa địch của đối phương. Mặc
dù có lúc ơng ta đã định điều Sư đồn 23 về Bn Ma Thuột nhưng các chi nhánh CIA tại
Quân khu II và phòng 2 Bộ Tổng Tham mưu QLVNCH đều khẳng định sư đoàn 10 và sư
đoàn 320 QĐNDVN vẫn ở nguyên chỗ cũ.[25]<sub> Trên bản đồ tình báo của Phủ đặc ủy tình </sub>
báo VNCH, của Bộ Tổng tham mưu QLVNCH, của Đại sứ quán Hoa Kỳ tại Sài Gòn và
Sở chỉ huy Quân đoàn II đều cho thấy một cụm qn rất lớn gồm 2 đến 3 sư đồn có
trang bị mạnh của QĐNDVN đang chiếm lĩnh vị trí quanh Kon Tum và cả Pleiku cách đó
hơn 20 km.[26]<sub>.</sub>


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

tổ chức cơ động liên tục suốt ngày đêm quanh phòng tuyến. Hai bến phà (gỗ) được triển
khai tại cầu Diên Bình và sơng Đakbla. Sư đồn 10 để lại một lực lượng nhỏ liên tục
dùng súng cối bắn phá thị xã Kon Tum và đào nhiều hầm hào trong tuyến phịng ngự. Sư
đồn 320 cũng để lại một bộ phận lực lượng hoạt động ở đường 19 phía Tây Pleiku, cùng
súng cối bắn phá các căn cứ La Sơn, Thanh An, Đồn Tằm. Trung đồn 95 hoạt động
mạnh ở đường 19 Đơng, chặn đánh các đồn xe qn sự và tập kích một số chốt của
QLVNCH. Trung đồn đặc cơng 198 để lại 2 trung đội tập kích kho xăng Pleiku. Khi lực
lượng chủ lực của các sư đoàn 10, 320 và các trung đoàn 40, 234, 273, 675 di chuyển về
quanh Buôn Ma Thuột, hệ thống điện đài của các đơn vị này vẫn giữ nguyên vị trí và liên
tục phát đi các bức điện giả, báo cáo giả, mệnh lệnh giả với tần suất ngày càng cao. Trong


khi các đơn vị này di chuyển vào Đắc Lắc thì Sư đoàn 968 (thiếu) từ Lào về lần lượt thay
thế các đơn vị này và vẫn sử dụng hệ thống liên lạc vơ tuyến điện đã có tại địa bàn. Sở
chỉ huy mặt trận Tây Nguyên cũng để lại và duy trì hoạt động của các bộ máy điện đài
15W (loại dùng cho sở chỉ huy sư đoàn trở lên) tại K'Leng, bắc Võ Định, điểm cao 518
bên đường 19 đông. Lực lượng an ninh giải phóng Pleiku và Kon Tum cịn cho người vào
tìm người thân" trong khu vực do QLVNCH kiểm soát, phao tin Quân giải phóng sắp
đánh lớn và Kon Tum và Pleiku. Dân chúng trong các vùng do Mặt trận kiểm sốt ở các
khu vực Đơng, Bắc và Tây Pleiku - Kon Tum làm nhiều cờ, hoa, biểu ngữ với nội dung
chào mừng Pleiku và Kon Tum được giải phóng. [27]<sub> Khi Trung đồn 45 (sư đồn 23) </sub>
Qn lực Việt Nam Cộng hòa tổ chức các cuộc hành quân lùng sục xung quang khu vực
Buôn Ma Thuột, Thuần Mẫn và Đức Lập; Bộ tư lệnh mặt trận Tây Nguyên đã lệnh cho
các đơn vị của Sư đồn 320A tạm lùi về phía Tây, tránh giao chiến, khơng bộc lộ lực
lượng. Sư đồn 316 bố trí phía sau Sư đồn 320A được lệnh khơng tiến hành bất kỳ hoạt
động quân sự nào. [28]


Các hành động nghi binh trên đây của Quân đội nhân dân Việt nam (QĐNDVN) đã dẫn
đến những thông tin trái ngược trong các báo cáo tình báo của CIA, Phủ đặc ủy tình báo,
Bộ Tổng tham mưu QLVNCH và Bộ tham mưu và cơ quan tình báo Qn đồn II
QLVNCH. Và nó dẫn đến kết quả là ngày 18 tháng 2 năm 1975, Tư lệnh quân đoàn II,
Thiếu tướng Phạm Văn Phú đã có một quyết định sai lầm: <b>giữ sư đoàn 23 (thiếu) ở lại </b>
<b>khu vực Pleiku - Kontum</b> mặc dù chỉ trước đó một ngày, ông ta đã phê chuẩn kế hoạch
chuyển sư đoàn này về Buôn Ma Thuột.[29][30][31]<sub> Cho đến cuối tháng 2, CIA tại Sài Gịn </sub>
vẫn chưa biết gì về việc tập trung quân của QĐNDVN tại đây và vẫn phán đốn rằng mục
tiêu tấn cơng chủ yếu vẫn là Pleiku và Kon Tum [32]<sub>.</sub>


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

Một trong các căn cứ hậu cần của Quân đội Nhân dân Việt Nam tại mặt trận


Chiến dịch Tây Nguyên chính thức bắt đầu đêm 3 rạng ngày 4 tháng 3 với trận đánh của
Trung đoàn 95A diệt căn cứ Ayun do 1 tiểu đoàn bảo an chiếm hữa và một số điểm chốt
giao thông nhỏ của QLVNCH trên 20 km đường 19 từ ngã ba Pleibon đến ấp Phú Yên


(Tây An Khê) ở. Cùng thời gian này, trung đoàn 9, sư đoàn 320A cắt đường 14 ở Ea
H'Leo (Bắc Cẩm Ga). Ngày 4 tháng 3, Sư đoàn 3 Sao Vàng (thiếu) của Quân khu 5 tấn
công và tràn ngập 11 chốt do 2 đại đội bảo an đóng giữ (có 300 quân VNCH bị tiêu diệt
[33]<sub>, chiếm đoạn đường 19 từ đèo Thượng An đến cầu số 13 ở Đông An Khê. Đêm 4 rạng </sub>
ngày 5 tháng 3 Trung đoàn 25 (QĐNDVN) tổ chức trận phục kích một đồn xe vận tải
của QLVNCH tại Chư Cúc, cắt đứt đường số 21 ở tây Khánh Dương, đông Buôn Ma
Thuột.[34]<sub> Tướng Phạm Văn Phú một mặt xin viện binh để khơi phục tình hình trên đường </sub>
19 phía Đơng Pleiku, mặt khác rút trung đồn 45 từ Thuần Mẫn (căn cứ Cẩm Ga) lui về
giữ đường 14 tại Thanh An, phía Nam Pleiku. Bộ Tổng tham mưu QLVNCH chấp nhận
tăng viện liên đoàn 4 biệt động quân lên Pleiku bằng đường không. Tướng Phú lập tức
điều động tăng phái đơn vị này cho Thiết đoàn 2 do đại tá Nguyễn Văn Đồng chỉ huy
đang trấn giữa phía Đơng Pleiku tổ chức tấn cơng nhổ các chốt của Trung đồn 95A
(QĐNDVN) trên đường 19 nhưng khơng thành cơng. Trung đồn 53 do đại tá Vũ Thế
Quang (phó tư lệnh sư đồn 23 chỉ huy) đang tăng phái cho Quảng Đức cũng được tướng
Phú điều về Bn Ma Thuột phịng thủ thị xã.[35][36]<sub> Đến ngày 8 tháng 3, Tây Nguyên đã </sub>
bị cô lập với đồng bằng ven biển miền Trung và Nam Trung bộ về đường bộ, trừ đường
số 7 rất xấu đã lâu không sử dụng. Thế trận ở Tây Nguyên đã được thiết lập.


Ngày 5 tháng 3, đại tá Quang đích thân chỉ huy 1 tiểu đồn của trung đoàn 53 cùng 14 xe
hành quân vè Bn Ma Thuột thì bị trung đồn 9, sư đồn 320 phục kích tại Thuần Mẫn.
8 xe bị bắn cháy, 2 pháo 105 mm bị đối phương chiếm được[37]<sub>. 7 xe còn lại phải quay về </sub>
Pleiku. Đại tá Quang phải trở về Buôn Ma Thuột bằng trực thăng. Ngày 7 và ngày 8
tháng 3, trung đoàn 48 (sư đoàn 320A QĐNDVN) với sự chi viện của 5 khẩu đội pháo
binh (2 pháo 105 mm, 3 pháo 85 mm) tấn công đánh chiếm Chư Sê và Thuần Mẫn (căn
cứ Cẩm Ga) loại khỏi vòng chiến đấu 1 tiểu đồn bảo an QLVNCH ( có 121 người bị bắt
làm tù binh [38]<sub>), cô lập Buôn Ma Thuột với Bắc Tây Nguyên. Tướng Phú điều liên đoàn </sub>
21 biệt động quân từ Kon Tum đến Buôn Hồ bằng trực thăng vận và lệnh cho đơn vị này
phối hợp với trung đoàn 53 mở cuộc hành quân lấy lại căn cứ Cẩm Ga trong ngày 9 tháng
3. Trong khi liên đồn 21 và trung đồn 53 khơng lấy lại được Cẩm Ga thì đêm ngày 8
rạng ngày 9 tháng 3, sư đoàn 10 QĐNDVN (thiếu) tấn công cụm cứ điểm Đức Lập (gồm


căn cứ Núi Lửa và căn cứ liên đoàn 23 biệt động quân do 1 đại đội trinh sát, 1 chi đội xe
tăng, 14 khẩu pháo, 1 tiểu đoàn và 2 đại đội bảo an, 18 trung đội dân vệ, 1 trung đội cảng
sát có quân số tổng cộng là 2400 chiếm giữ[37]<sub>), chiếm giữ hoàn toàn các cứ điểm này vào</sub>
ngày 10 tháng 3.[39]


</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

phải cố giữ ngã ba Đắc Sắc, chờ thời cơ phản kích lấy lại Đức Lập; tăng viện một chi
đoàn thiết giáp cho thị xã và rút 2 tiểu đoàn bảo an ở Bản Đơn về phịng thủ ngoại vi thị
xã. Đại tá Vũ Thế Quang được bổ nhiệm làm tư lệnh các lực lượng phịng thủ Bn Ma
Thuột. Cho đến lúc đó, tướng Phú vẫn một mực cho rằng: Cộng sản đánh Quảng Đức, uy
hiếp Buôn Ma Thuột là để nghi binh và vài ngày tới, họ sẽ tập trung tấn kích mạnh vào
Pleiku - Kon Tum. 6 giờ chiều ngày 9 tháng 3, tướng Phú về đến Pleiku và ra lệnh cấm
trại 100%[7]<sub>. Ngay cả đến khi Buôn Ma Thuột bị tấn công, tướng Phú và cả Bộ Tư lệnh </sub>
Quân đoàn II cũng chưa biết rằng cuộc tấn công này được thực hiện chủ yếu bởi sư đồn
316 đã bí mật hành qn xuống Nam Tây Nguyên theo sau sư đoàn 320A, dùng sư đồn
320A làm bình phong che giấu sự có mặt của mình. Lợi dụng việc các đơn vị chủ lực của
QLVNCH tại Buôn Ma Thuột tập trung giải tỏa đường 14 trên hướng Thuần Mẫn - Buôn
Hồ, các trung đồn cơng binh 7 và 575 (QĐNDVN) đã mở thông các con đường 50B,
50C, 50D, 51, 57B, 57C bảo đảm cho xe pháo các loại có thể kéo thẳng vào Buôn Ma
Thuột. Riêng đường 20C ở Tây Nam Bn Ma Thuột nằm trên hướng đột kích của trung
đoàn xe tăng 273 được mở một cách độc đáo. Các cây lớn chỉ được cưa 3/4 gần gốc. Khi
xe tăng xuất kích, có thể húc đổ cây tự mở đường trong hành tiến. Vì vậy, trinh sát đường
khơng của QLVNCH khơng phát hiện được sự có mặt của trung đoàn xe tăng 273 tại đây.
Việc chỉ huy tác chiến được thực hiện hồn tồn bằng thơng tin hữu tuyến đã vơ hiệu hóa
các hoạt động trinh sát điện đài của QLVNCH. [40]<sub>. Các đơn vị chủ lực của QLVNCH tại </sub>
Quân khu II đã bị căng kéo ra nhiều hướng và chôn chân tại các cứ điểm phòng thủ, giảm
thiểu khả năng cơ động ứng cứu cho nhau. Thế trận xung quanh Buôn Ma Thuột đã được
cài đặt.[41]


<b>[</b>

<b>sửa</b>

<b>] Trận Buôn Ma Thuột</b>




Hỏa tiễn H-12 được Mặt trận Tây Nguyên sử dụng để đánh chiếm thị xã Buôn Ma Thuột
sáng ngày 10 tháng 3 năm 1975. Hiện vật trưng bày tại Bảo tàng Chiến dịch Hồ Chí
Minh.


<b>[sửa] Cuộc chiến trong thị xã</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

tướng Phạm Văn Phú, trận pháo kích gây kinh hồng cho cả hai vị chỉ huy QLVNCH tại
Buôn Ma Thuột là đại tá Nguyễn Trọng Luật và đại tá Vũ Thế Quang[42]<sub>. Tại thời điểm </sub>
đó, đại tá Quang vẫn nhận định rằng: Cộng quân chỉ dùng đặc công và pháo binh quấy rối
rồi đến sáng, họ sẽ rút ra[43]<sub> Đến 3 giờ 30 phút, tiểu đoàn 4 (trung đoàn 198) đã khai thông</sub>
đường Phan Chu Trinh và chiếm được phần phía Nam sân bay Hịa Bình chốt giữ tại đó,
chờ bộ binh và xe tăng chi viện. Tiểu đoàn 5 (trung đoàn 198) đánh vào khu kho Mai Hắc
Đế và đoạn đường 429, tiếp tục pháo kích bằng hỏa lực ĐKB, H-12 (trong đó ĐKB là
hỏa lực chủ cơng kiểm sốt tồn bộ các mục tiêu trong thị xã. theo yêu cầu của bộ
binh)vào Sở chỉ huy sư đoàn 23, Sở chỉ huy tiểu khu, trung tâm thông tin, doanh trại thiết
giáp và khống chế trận địa pháo. Lúc 5 giờ sáng, cửa ngõ tiến quân bằng cơ giới của
QĐNDVN từ hướng đông bắc, tây bắc, tây và tây nam vào Buôn Ma Thuột đã được khai
thơng. Sau khi pháo binh sư đồn và pháo binh chiến dịch tiếp tục pháo kích vào thị xã,
các đại đội xe tăng có bộ binh đi kèm bật đèn pha mở hết công suất, húc đổ các cây rừng
đã cưa sẵn, vượt qua các tuyến phịng thủ vịng ngồi đánh thẳng vào trung tâm thị xã.[44]<sub>. </sub>
Hướng Tây Nam, trung đồn 174 có 1 đại đội xe tăng yểm hộ vượt qua các chốt Chi
Lăng, Chư Di và khu kho Mai Hắc Đế. Hướng Tây Bắc, trung đồn 148 có 1 đại đội xe
tăng mở đường đánh vào Sở chỉ huy tiểu khu Đắc Lắc và dùng 1 tiểu đồn tấn cơng ấp
Châu Sơn . Hướng Tây, có tiểu đồn 4 (trung đoàn 24 sư đoàn 10) và 2 đại đội xe tăng
đánh vào Sở chỉ huy sư đoàn 23 và mặc dù xe tăng bị sa lầy và bị máy bay QLVNCH bắn
phá song họ vẫn tấn công vào khu qn y, khu truyền tin [45]<sub>. Hướng Đơng Bắc có trung </sub>
đoàn 95B đánh vào khu vực ngã sáu, hướng Đơng Nam, trung đồn 149 (khơng có xe
tăng đi kèm) dùng một tiểu đồn tấn cơng cứ điểm Chư Blom và điểm cao 582, 1 tiểu
đồn cịn lại đánh thốc qua cứ điểm Ba Lê và điểm cao 491 tiến thẳng vào trung tâm thị
xã. Phía Đơng thị xã, trung đồn 3 (sư đồn 10) có 1 đại đội xe tăng yểm hộ phối hợp với


1 tiểu đồn của trung đồn 149 (sư 316) tấn cơng đánh chiếm sân bay Hịa Bình từ hai
hướng Đơng Bắc và Tây Nam khép lại. Trung đoàn 2 (sư đoàn 10) đánh chiếm cứ điểm
Phước An.[46]


</div>
<span class='text_page_counter'>(6)</span><div class='page_container' data-page=6>

Đến 14 giờ 30, đại tá Trịnh Tiếu, trưởng phòng qn báo Qn đồn II mới trình tướng
Phú bản báo cáo trong đó kết luận: đã phát hiện sư đoàn 316 của QĐNDVN từ Lào về
đang di chuyển xuống phía Nam. Tướng Phú lập tức ra lệnh phá các cầu trên đường 14 để
ngăn chặn đơn vị này nhưng đã q muộn. Đến lúc dó thì tồn bộ sư đoàn 316 đã giao
chiến với quân VNCH trong nội đô thị xã được hơn 10 tiếng đồng hồ.[49]<sub> Lúc 17 giờ, tiểu </sub>
đoàn 9 (trung đoàn 149) phối hợp với các đơn vị của trung đoàn 198 đặc công vây đánh
nhưng không chiếm được sở chỉ huy sân bay Hịa Bình do một tiểu đồn biệt động qn
QLVNCH phịng giữ. Trong thị xã, tiểu đồn 7 (trung đoàn 149) đánh chiếm khu tham
mưu - truyền tin và nhầm lẫn rằng đó là Sở chỉ huy sư đoàn 23.[50]


Tượng đài kỷ niệm chiến thắng ngày 11-3-1975 tại Quảng trường Ngã Sáu, thành phố
Buôn Ma Thuột. Tác giả: Gorick Francois


Đêm 10 tháng 3, chiến sự tạm lắng. Các đơn vị QLVNCH còn lại trong thị xã co cụm
trong các cứ điểm còn giữ được như Sở chỉ huy sư đoàn 23, khu nhà ga sân bay Hịa
Bình, đài phát thanh. Đại tá Vũ Thế Quang điện cho chuẩn tướng Lê Trung Tường xin
tiếp ứng nhưng chỉ nhận được câu trả lời: Bộ chỉ huy đang bận đối phó trên hướng
Pleiku-Kon Tum. Đại tá ráng giữ vững. Cộng qn có đánh lớn thì cũng chỉ được vài
ngày rồi rút như hồi Mậu Thân.[51]<sub> Sáng 11 tháng 3, các đơn vị QĐNDVN tiếp tục tấn </sub>
công trong làn mưa bom từ các máy bay A-37 của không quân VNCH trút xuống thị xã.
Lúc 7 giờ 55, một tốp A-37 trong khi ném bom ngăn chặn 10 xe tăng của QĐNDVN đã
đánh hai quả bom trúng hầm chỉ huy và truyền tin Sở chỉ huy sư đoàn 23. Bộ tư lệnh
quân đoàn II QLVNCH mất liên lạc hoàn toàn với Bộ tư lệnh sư đồn 23 kể từ giờ phút
đó[52][49]<sub>. Mất sở chỉ huy, đồng thời bị vây đánh từ nhiều phía, các đơn vị cịn sống sót của </sub>
QLVNCH cố gắng chống cự chờ viện binh nhưng đến 11 giờ ngày 11 tháng 3, các đơn vị
của sư đoàn 316 đã hồn tồn làm chủ thị xã Bn Ma Thuột. Chỉ cịn liên đồn 21 biệt


động qn (thiếu) và một số đơn vị cịn lại của trung đồn 53 đang cố giữ chốt phòng ngự
cuối cùng tại sân bay Hịa Bình (phi trường Phụng Dực).[53]


<b>[sửa] Phản kích và chống phản kích</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(7)</span><div class='page_container' data-page=7>

ngày tác chiến đổ về đây. Tuy nhiên, trong số đó khơng có đại tá Vũ Thế Quang và đại tá
Nguyễn Trọng Luật. Hai ông này đã bị bắt làm tù binh lúc 2 giờ sáng ngày 12 tháng 3
năm 1975. Trung tá Võ Ấn, trung đoàn tưởng trung đoàn 53 chỉ huy cánh quân này [54]<sub>. </sub>
Từ Sài Gòn, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu lệnh cho tướng Phạm Văn Phú phải giữ bằng
được các vị trí cịn lại ở phía Đơng thị xã làm bàn đạp và phải có ngay kế hoạch phản
kích giải tỏa cho Bn Ma Thuột. Rạng sáng ngày 12 tháng 3, kế hoạch tái chiếm Buôn
Ma Thuột được Nguyễn Văn Thiệu chấp thuận gồm các hoạt động quân sự lớn sau đây:


 Sử dụng liên đoàn 21 biệt động quân (thiếu) phối hợp với số quân cịn lại của


trung đồn 53 tại trại B50 )hậu cứ sư đồn 23) hình thành một cánh qn tại chỗ
để phản kích.


 Điều động tồn bộ hai trung đồn cịn lại của sư đồn 23 (44 và 45) dùng trực


thăng vận đổ bộ xuống khu vực Nông Trại - Phước An (phía Đơng Bn Ma
Thuột), hình thành cánh quân phản kích chủ yếu đánh thẳng vào thị xã.


 Huy động tối đa các sư đồn khơng quân 6 (thuộc Quân đoàn II), 1 (tại Đà Nẵng),


4 (tại Cần Thơ) yểm trợ tối đa cho cuộc hành quân.


 Điều động liên đoàn 7 biệt động từ Sài Gịn lên Pleiku thay thế hai trung đồn 44


và 45 được rút đi để ném xuống Buôn Ma Thuột.[55]<sub>.</sub>



Chiều ngày 12 tháng 3, sau trận oanh kích dọn bãi của 81 máy bay cường kích A-1, A-37,
F-5; hai tiểu đoàn của trung đoàn 45 và một đại đội thám báo của sư đoàn 23 do trung tá
Phùng Văn Quang (trung đoàn trưởng trung đoàn 45 chỉ huy) là những đơn vị đầu tiên đổ
quân xuống Phước An. Hơn 100 máy bay trực thăng đủ loại, kể cả CH-47 Chinook được
huy động cho cuộc chuyển quân. Lúc 13 giờ 10 phút chiều 12 tháng 3, đích thân thiếu
tướng Phạm Văn Phú bay trên phi cơ hạng nhẹ U-17 lên vùng trời Buôn Ma Thuột chỉ
huy cuộc phản kích. Từ trên máy bay, tướng Phú điện cho trung tá Võ Ấn đang chỉ huy
các lực lượng giữ sân bay Hịa Bình biết cuộc đổ qn xuống Phước An - Nông Trại đã
bắt đầu và động viên các đơn vị này cố gắng giữ vững. Sang ngày 13 tháng 3, 145 chiếc
trực thăng đã đổ trung đồn 44, pháo đội 232 và tiểu đồn cịn lại của trung đoàn 45
xuống khu vực điểm cao 581, Nông Trại, Phước An, Chư Cúc dọc đường 21. Chiều tối
12 tháng 3, sau khi đợt 1 của cuộc đổ quân hoàn tất, tướng Phú quay lại Pleiku gặp tổng
thống Nguyễn Văn Thiệu trên máy liên lạc cao tần để báo cáo cho tổng thống Thiệu tin
tức mới nhất về sự xuất hiện của sư đoàn 316 QĐNDVN trên chiến trường Buôn Ma
Thuột.[56]


</div>
<span class='text_page_counter'>(8)</span><div class='page_container' data-page=8>

trong khi các đơn vị của hai trung đoàn 44 và 45 QLVNCH cịn chưa triển khai đội hình,
trung đồn 24 (sư đồn 10 QĐNDVN) có hai tiểu đồn của trung đoàn xe tăng 273 yểm
hộ đã từ hai phía nổ súng tấn cơng trung đồn 45 tại điểm cao 581.[58]<sub>.</sub>


Đến 12 giờ trưa ngày 14 tháng 3, các tiểu đoàn 1 và 2 của trung đoàn 45 cùng tiểu đoàn
bảo an tại điểm cao 581 hầu như bị đánh ta. Tiểu đồn cịn lại vừa đánh vừa lùi về khu
vực Nơng Trại. Bây giờ thì nhiệm vụ trước mắt của trung đoàn 44 (sư đoàn 23


QLVNCH) chưa phải là giải toả Buôn Ma Thuột mà là ứng viện cho trung đoàn 45 đang
bị vây ép. Ngày 15 tháng 3, cánh quân còn lại của sư đồn 23, trong đó có Sở chỉ huy nhẹ
của sư đoàn đổ quân xuống Phước An. Ngày 16 tháng 3, cả hai cụm quân của sư đoàn 23
tại Phước An và Nông Trại cùng lúc bị tấn cơng. Đến 8 giờ 15 phút, tiểu đồn 3, đơn vị
cuối cùng của trung đoàn 45 (sư đoàn 23 QLVNCH) bị đánh tan, trung tá Phùng Văn


Quang và toàn bộ ban chỉ huy trung đoàn bị bắt làm tù binh cùng với chiếc trực thăng đã
nổ máy định bốc họ lên không. Ngày 17 tháng 3, Bộ Tư lệnh mặt trận Tây Nguyên điều
tiếp trung đoàn 28 (sư đồn 10) và tiểu đồn xe tăng cịn lại của trung đoàn 273 tăng
cường cho trung đoàn 24 tấn cơng Phước An. Cùng ngày, trung đồn 66 (sư đồn 10) và
trung đồn đặc cơng 198 mở đợt tổng cơng kích vào cụm qn cịn lại của trung đoàn 53
và liên đoàn 21 biệt động quân tại sân bay Hịa Bình (Phụng Dực). 11 giờ 30 sáng 17
tháng 3, sân bay Hịa Bình bị chiếm. Trung đồn 53 bị xóa sổ. Một nhóm nhỏ gần 20 binh
sĩ của cụ quân này thoát vây chạy về được Phước An[42]<sub>. Trong ngày 17 tháng 3, trung </sub>
đoàn 44 bị tấn công liên tục tan rã tại Phước An. Đại tá Đức (tư lệnh mới của sư đoàn 23)
đưa sở chỉ huy nhẹ sư đoàn và hơn 700 quân còn lại về Chư Cúc. Ngay lập tức, họ bị
trung đoàn 28 (sư đoàn 10) và 1 tiểu đồn của trung đồn xe tăng 273 QĐNDVN truy
kích, phải bỏ Chư Cúc chạy về Pleiku.[59]<sub>. Trận phản kích của QLVNCH với ý định tái </sub>
chiếm Buôn Ma Thuột thất bại.


<b>[</b>

<b>sửa</b>

<b>] Cuộc rút quân trên đường số 7</b>



<b>[sửa] Quyết định sai lầm chiến lược của Nguyễn Văn Thiệu</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(9)</span><div class='page_container' data-page=9>

11 giờ trưa 14 tháng 3, tại Cam Ranh diễn ra một cuộc họp mà sau này, nhiều nhà bình
luận qn sự cho rằng nó là một trong những nguyên nhân gây ra một thảm họa quân sự
lớn nhất trong chiến tranh Việt Nam[63][64]<sub> Tại cuộc họp, thiếu tướng Phạm Văn Phú báo </sub>
cáo tổng quát diễn biến chiến sự tại Tây Nguyên; trong đó, tướng Phú thỉnh cầu xin thêm
máy bay cho sư đoàn 6 không quân, bổ sung quân số bị tổn thất, tăng viện từ 1 đến 2 lữ
đồn dù để phịng giữ Kon Tum, Pleiku và sau đó dùng để phản kích chiếm lại các vùng
đã mất. Nguyễn Văn Thiệu không chấp nhận đề nghị của tướng Phú với lý do "khơng cịn
qn tăng phái, Cộng sản có thể đánh mạnh hơn năm 1972" và lệnh cho ông này rút quân
về đồng bằng, tái phối trí lại lực lượng. Về hướng rút quân, đại tướng Cao Văn Viên lưu
ý về nhũng nguy hiểm khó lường khi rút theo đường 19, ông nhắc lại thảm họa đã xảy ra
đối với Binh đoàn cơ động số 100 của quân viễn chinh Pháp trên đường 19 năm 1954.
Sau khi thảo luận nhiều lần về việc chọn đường rút quân, Nguyễn Văn Thiệu và các


tướng lĩnh đã quyết định rút theo đường số 7 vì họ cho rằng, con đường đó tuy xấu nhưng
gây được bất ngờ cho đối phương[65]


Trở về Pleiku, Phạm Văn Phú không biết biết rằng trước đó một ngày, Ngơ Quang
Trưởng, tư lệnh Qn khu I cũng được lệnh rút các lực lượng của mình khỏi địa bàn quân
khu.[66]<sub> 16 giờ ngày 14 tháng 3, tướng Phú triệu tập ngay chuẩn tướng Trần Văn Cẩm, </sub>
chuẩn tướng Phạm Ngọc Sang, chuẩn tướng Phạm Duy Tất (mới được thăng) và đại tá Lê
Khắc Lý bàn việc rút quân với mấy yêu cầu:


 <i>Về kế hoạch chung: Bảo đảm bí mật tuyệt đối, khơng làm văn bản, chỉ truyền </i>


khẩu lệnh; cấm tiết lộ cho địa phương quân và các tiểu khu. Phải rút nhanh gọn,
đem theo vũ khí và một cơ số đạn đủ cho một trận chiến đấu. Rút theo kiểu cuốn
chiếu, ở xa rút trước, ở gần rút sau.


 <i>Về điều phối: Giao chuẩn tướng Phạm Duy Tất chỉ huy hành quân; chuẩn tướng </i>


Cẩm đôn đốc kiểm tra; chuẩn tướng Sang điều điều động máy bay vận tải chở
hàng hóa quý hiếm, dọn sạch hai bên đường rút quân bằng máy bay oanh tạc; đại
tá Lý điều động công binh sửa đường, bắc cầu, giữ liên lạc với Bộ chỉ huy tiền
phương Quân khu II tại Nha Trang và Bộ Tổng tham mưu tại Sài Gòn để xin tiếp
ứng khi cần.[67][7]


<b>[sửa] Thảm họa trên đường số 7</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(10)</span><div class='page_container' data-page=10>

13 giờ chiều 15 tháng 3, cuộc di tản của Qn đồn II chính thức bắt đầu trong sự cập
rập, vội vã. Thiết đoàn 19 và liên đoàn 6 biệt động quân mở đường từ Pleiku đi Phú Túc.
Tiếp đó là bộ phận cịn lại của Bộ tư lệnh Quân đoàn II, bộ tư lệnh lữ đoàn 2 kỵ binh thiết
giáp, các đơn vị bộ binh, hậu cần. Theo tính tốn của tướng Phú, các đơn vị QĐNDVN
tập trung vây đánh trung đoàn 53, căn cứ B50 ở Buôn Ma Thuột và lo đối phó với cuộc


phản kích của sư đồn 23 tại Phước An nên phải mất ba đến năm ngày mới có thể điều
quân đến do đường sá rất xấu, cơ động khó khăn. Cịn sư đồn 968 nếu có đuổi theo cũng
phải hành quân bộ, đánh vuốt đuôi và sẽ bị liên đoàn 25 biệt động quân cản hậu chặn
đánh. Hai ngày đầu cuộc di tản diễn ra thuận lợi. Sáng 16 tháng 3, khi đội thiết giáp đi
đầu trong đoàn xe quân sự dài đến hơn 2.000 chiếc kèm theo gần 2.000 phương tiện giao
thông dân sự các loại đã đến Cheo Reo an toàn và bắt đầu di chuyển xuống Củng Sơn thì
tốn cuối của đoàn xe này mới ra khỏi thị xã Pleiku. [70][42]


Kế hoạch rút quân của Quân đoàn II QLVNCH không quá bất ngờ đối với QĐNDVN.
Bất ngờ duy nhất mà Nguyễn Văn Thiệu và Phạm Văn Phú tạo ra được là cuộc di tản này
được tiến hành quá nhanh. Đến chiều 15 tháng 3, khi cánh quân đi đầu của thiết đoàn 19
đã qua Cheo Reo, Bộ Tư lệnh mặt trận Tây nguyên mới được tin QLVNCH bắt đầu rút
khỏi Pleiku và Kon Tum. 20 giờ tối 16 tháng 3, lệnh truy kích mới được ban bố. Tiểu
đoàn 9, trung đoàn 64 (sư đoàn 320 QĐNDVN) là đơn vị đầu tiên được điều động đã
hành quân cắt rừng suốt đêm để lập một chốt chặn ở phía Nam thị xã Cheo Reo. Theo sát
họ là đội hình chính của trung đồn 64 hành quân trên 110 xe ô tô các loại được huy
động. Bộ Tư lệnh mặt trận Tây Nguyên đã có ngay một kế hoạch chặn đánh trên đường
số 7, sử dụng toàn bộ sư đoàn 320, tiểu đoàn xe tăng 2 (trung đoàn 273), trung đoàn pháo
binh 675, trung đoàn cao xạ 593 và hai tiểu đoàn quân địa phương ở Phú Yên.[71]<sub>.</sub>


Sáng 17 tháng 3, tốp xe tăng, thiết giáp đi đầu của thiết đoàn 19 và liên đoàn 6 biệt động
quân QLVNCH đã chạm súng với tiểu đoàn 9, trung đoàn 64 QĐNDVN tại đèo Tuna,
cách Cheo Reo 4 km về Đông đông Phú Bổn. Đoàn xe di tản khổng lồ ứ lại tại Cheo Reo.
Từ chiều tối 17 đến sáng 18 tháng 3, chuẩn tướng Tất sử dụng liên đoàn 7 biệt động quân
với sự yểm họ của không quân, pháo binh và thiết giáp liên tục cơng kích nhổ chốt, vu
hồi bọc chốt để mở đường nhưng đều bị đẩy lùi.[72]<sub> Sáng 18 tháng 3, toàn bộ trung đoàn </sub>
64 (sư đoàn 320A QĐNDVN) đã triển khai xong các chốt chặn tiếp theo phía hạ lưu đèo
Tuna; trung đồn 48 (thiếu) của sư đoàn này và trung đoàn 9 (sư đoàn 968) đã bao vây
Cheo Reo từ ba mặt.[73]<sub>.</sub>



</div>
<span class='text_page_counter'>(11)</span><div class='page_container' data-page=11>

Củng Sơn với ít thiệt hại, thương vong nhất. Trên đường về Tuy Hoà, họ phải dừng lại tại
sông Ba bốn ngày để chờ công binh thiết lập lại bến phà. Cuối cùng, các đơn vị này về
đến Tuy Hòa ngày 25 tháng 3 năm 1975.[75]<sub>.</sub>


<b>[</b>

<b>sửa</b>

<b>] Bước ngoặt của chiến cuộc 1975</b>


<b>[</b>

<b>sửa</b>

<b>] Tổn thất quân sự và dân sự</b>



Đại tướng Cao Văn Viên nhận xét: "Cuộc triệt thoái khỏi cao nguyên là một thất bại chiến
<i>lược về phương diện quân sự. 75% lực lượng của Quân đoàn 2, gồm sư đoàn 23, biệt </i>
<i>động quân, thiết kỵ, pháo binh, truyền tin và công binh bị hao tổn chỉ trong 10 ngày. Kế </i>
<i>hoạch tái chiếm Ban Mê Thuột cũng bị thất bại vì Qn đồn khơng cịn quân. Cộng sản </i>
<i>chiếm được Kon Tum và Pleiku không tốn một viên đạn"</i>.[76]


Theo các nhà bình luận quân sự phương Tây, thất bại trong của cuộc rút lui của Quân
đoàn II QLVNCH trên đường số 7 kèm theo những tổn thất rất nặng nề cả về quân sự và
dân sự. Ít nhất 3/4 lực lượng của Quân đoàn II đã bị đối phương tiêu diệt, bắt sống hoặc
đào ngũ, rã ngũ.[77]<sub> Cơ quan CIA tại Sài Gịn nhận xét rằng chỉ cần một sư đồn rút về </sub>
được đến ven biển với tổn thất tối thiểu cũng đã là một sự may mắn.[78]<sub> Số tài sản quân sự</sub>
gồm xe tăng M-48, xe bọc thép M-113, đại bác M-107 175 mm, đại bác HM-3 155 mm,
đại bác HM-2 105 mm bị phá hủy hoặc rơi vào tay QĐNDVN lên đến con số nghìn.
QĐNDVN cho biết họ chỉ sau tám ngày, họ đã loại khỏi vòng chiến đấu 28.514 sĩ quan
và binh sĩ QLVNCH, trong số đó có 4.502 chết hoặc bị thương, 16.822 người bị bắt làm
tù binh, có 779 sĩ quan từ chuẩn úy đến chuẩn tướng và có 7.190 người được thả[37]<sub>. Họ </sub>
đã thu giữ và phá 17.183 súng các loại, trong đó có 79 khẩu pháo từ 105 mm trở lên; phá
hủy và thu giữ hơn 2.000 xe quân sự, trong đó có 207 xe tăng và xe bọc thép; bắn rơi 44
máy bay, thu và phá 110 chiếc khác của Khơng lực VNCH[37]<sub>. Về phía họ, chỉ tổn thất 56 </sub>
người chết và hơn 100 người bị thương. [79]<sub> Những tổn thất về dân sự cũng rất nặng nề. </sub>
Trong cuộc di tản hỗn độn, các sĩ quan và binh sĩ QLVNCH đem theo cả gia đình họ và
cùng với những nhân viên dân sự chen chúc nhau trên con đường ngập cỏ, bụi cây đã rơi
vào tình thế cực kỳ náo loạn và thậm chí cịn bị chính máy bay của họ bắn nhầm trong


một cuộc hành trình đầy nước mắt, thậm chí khi các cây cầu bị phá hủy, đồn xe dồn ứ
lại, các xe quân sự vẫn tràn đại qua sơng, thậm chí cán qua các xe khác. Số dân thường và
binh sĩ bị chết do xe cán lên tới vài nghìn. Trong số gần 400.000 người di tản xuống đồng
bằng thì chỉ có non một phần tư đến nơi.[80][81]<sub> Hàng nghìn người dân đã chết do hỏa lực </sub>
của hai bên hoặc do đói ăn trên các đồn xe mà giới báo chí gọi là "đồn xe nước mắt".[82]
Theo tính tốn của Hoa Kỳ, sự tổn thất vượt quá mọi sự đo lường. Trong số 60.000 quân
khởi hành thì chỉ có 20.000 về đến đích và hầu như khơng cịn sức chiến đấu. Trong số
7.000 biệt động qn chỉ cịn 700 sống sót. Sau trận Bn Ma Thuột và cuộc rút lui thảm
họa trên đường số 7, Qn đồn II khơng cịn thực sự hiện hữu như là một lực lượng
chiến đấu tương xứng với quy mơ của nó nữa.[83]


<b>[</b>

<b>sửa</b>

<b>] Lỗi lầm chí tử</b>



</div>
<span class='text_page_counter'>(12)</span><div class='page_container' data-page=12>

đội nhưng đến khi bị gài thế về quân sự quá chặt, không kịp trở tay gỡ ra thì lại quay ra
mất tin tưởng hồn tồn vào tình báo qn đội. Từ khi Bn Ma Thuột thất thủ, thái độ
của Nguyễn Văn Thiệu đã làm cho cơ quan này mất sự tự tin và bản thân ông ta cũng coi
cơ quan tình báo quân đội có cũng như khơng cho đến tận phút chót của cuộc chiến. Việc
mất lịng tin vào cơ quan tình báo quân đội và kể cả vào CIA đã dẫn đến những sai lầm
chiến lược quân sự của Nguyễn Văn Thiệu và ơng ta đã bỏ ngồi tai những lời bàn thảo
hợp lý của các tướng lĩnh, kể cả đại tướng Cao Văn Viên để rồi tự mình định đoạt mọi
chuyện.[84]<sub>. Khi thiếu tướng Phạm Văn Phú khăng khăng địi tăng qn để bảo vệ Tây </sub>
Ngun thì ông Thiệu đã đặt ra cho tướng Phú hai lựa chọn: hoặc là thi hành lệnh, hoặc là
bị thay thế và ngồi tù để người khác thi hành lệnh. Và đương nhiên, tướng Phú chọn giải
pháp chấp hành.[85]


Nguyên nhân thứ hai dẫn đến việc thất thủ ở Tây Nguyên là sự quá tin tưởng của Nguyễn
Văn Thiệu vào sự chi viện trực tiếp bằng quân sự của Hoa Kỳ. Trong khi cả Quân đoàn II
của tướng Phú đang phải vật lộn sống chết trên đường số 7 và mặc dù biết rằng "nội một
vài ngày tới, tình hình sẽ trầm trọng hết sức mau lẹ" nhưng ông vẫn hy vọng vào việc
"đặt với Hoa Kỳ câu hỏi "oui ou non" (có hay khơng) buộc họ phải dứt khốt có muốn


giúp hay khơng". Trong khi đó thì lời tuyên bố của Bộ trưởng Quốc phòng Hoa Kỳ Jame
Schlesinger sau khi được tin Phước Long thất thủ và lời an ủi của Thứ trưởng William
Clement đã chứng tỏ phần nào việc Hoa Kỳ khơng muốn dính líu trở lại về quân sự tại
Việt Nam.[86]


Nguyên nhân thứ ba làm cho việc thất thủ Tây Nguyên của QLVNCH là họ muốn một
cuộc rút quân có tổ chức, có chỉ huy, có giữ bí mật nhưng chính sự yếu kém về tổ chức
và tính linh hoạt khi xử lý các tình huống đã làm hại họ. Lực lượng đơng, binh khí kỹ
thuật nhiều nhưng lại kéo dài đội hình trên đường độc đạo nên khó tránh được ùn tắc.
Đoàn quân này lại kéo theo cả hàng chục vạn thường dân, trong đó quá nửa là gia đình
các sĩ quan, binh sĩ và cơng chức, rất khó tránh khỏi rối loạn khi gặp tình huống bất ngờ.
Hy vọng duy nhất có thể trơng cậy được là tính bất ngờ thì chỉ sau hai ngày cũng khơng
cịn. Khi bị đối phương chặn đánh quyết liệt thì sự tan rã khơng phải là điều khó hiểu.
Báo cáo tường trình về cuộc rút qn của khỏi Tây Nguyên của Bộ tư lệnh Quân đoàn II
trình tổng thống Nguyễn Văn Thiệu ghi nhận: "Cuộc hành qn dự trù khơng có áp lực
của đối phương; nhưng khi thực thi đã gặp áp lực nặng nề làm cho chỉ huy lúng túng
không sao đối phó được".[87]


</div>
<span class='text_page_counter'>(13)</span><div class='page_container' data-page=13></div>

<!--links-->
<a href=' /><a href=' /><a href=' /><a href=' /><a href=' /><a href=' /><a href=' /><a href=' /><a href=' /><a href=' /><a href=' /><a href=' />

×