Tải bản đầy đủ (.pdf) (81 trang)

Nghiên cứu hoa văn trang trí trong công trình kiến trúc gỗ cổ việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (7.94 MB, 81 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT

TRƢỜNG ĐẠI HỌC LÂM NGHIỆP

CHU HỒNG SƠN

NGHIÊN CỨU HOA VĂN TRANG TRÍ

TRONG CƠNG TRÌNH KIẾN TRÚC GỖ CỔ VIỆT NAM
CHUN NGÀNH: MỸ THUẬT ỨNG DỤNG
MÃ NGÀNH: 8210410

LUẬN VĂN THẠC SĨ MỸ THUẬT ỨNG DỤNG

NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. NGUYỄN THỊ VĨNH KHÁNH

Hà Nội, 2020


i
LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của riêng tôi. Các tư liệu, số
liệu sử dụng trong luận văn là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng. Các kết quả nghiên
cứu trong luận văn chưa từng được ai cơng bố trong bất kỳ cơng trình khoa học nào.
Hà Nội, ngày

tháng


năm 2020

Ngƣời cam đoan

Chu Hồng Sơn


ii
LỜI CẢM ƠN
Nhân dịp hoàn thành bản luận văn thạc sĩ, tơi xin bày tỏ lịng biết ơn sâu sắc
tới TS. Nguyễn Thị Vĩnh Khánh - người đã trực tiếp hướng dẫn tận tình.
Tơi xin trân trọng bày tỏ lịng biết ơn tới các Thầy, Cô giáo viện công nghiệp
gỗ và nội thất, khoa đào tạo sau đại học - Trường Đại học Lâm nghiệp, khoa Mỹ
thuậtứng dụng - Trường đại học Mỹ thuật Hà Nội, lãnh đạo Trường Cao đẳng Công
nghệ, Kinh tế và Chế biến Lâm sản - nơi tôi đang công tác đã quan tâm và tạo mọi
điều kiện thuận lợi trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu.
Cuối cùng, tôi xin cảm ơn bạn bè, gia đình và người thân đã ln giành tình
u, sự động viên và ủng hộ trong suốt thời gian tôi học tập và làm nghiên cứu.
Hà Nội, ngày

tháng

năm 2020

Tác giả

Chu Hồng Sơn


iii


MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN ................................................................................................... i
LỜI CẢM ƠN ........................................................................................................ii
MỤC LỤC.............................................................................................................iii
DANH MỤC CÁC BẢNG .................................................................................... iv
DANH MỤC BIỂU ĐỒ ........................................................................................ iv
DANH MỤC CÁC HÌNH ...................................................................................... v
ĐẶT VẤN ĐỀ ........................................................................................................ 1
Chƣơng 1. TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU ............................................ 3
1.1. Tình hình nghiên cứu ngồi nước............................................................................................. 3
1.2. Tình hình nghiên cứu trong nước ............................................................................................. 8
1.2.1. Nghiên cứu về kiến trúc gỗ Việt Nam............................................................. 8
1.2.2. Nghiên cứu về hoa văn trang trí trong cơng trình kiến trúc gỗ cổ Việt Nam 12
Chƣơng 2. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG .............................................................. 18
2.1. Mục tiêu nghiên cứu ................................................................................................................ 18
2.2. Đối tượng nghiên cứu .............................................................................................................. 18
2.3. Phạm vi nghiên cứu.................................................................................................................. 18
2.4. Nội dung nghiên cứu................................................................................................................ 18
2.5. Phương pháp nghiên cứu......................................................................................................... 19
2.6. Tính mới của luận án................................................................................................................ 19
Chƣơng 3. CỞ SỞ LÝ LUẬN VÀ NỘI DUNG NGHIÊN CỨU ........................ 20
3.1. Cở sở lý luận ............................................................................................................................. 20
3.1.1. Cơ sở lý luận văn hóa Việt Nam .................................................................. 20
3.1.2. Mối quan hệ kiến trúc và văn hóa ................................................................ 25
3.2. Nội dungvà kết quả nghiên cứu .............................................................................................. 27
3.2.1. Nghiên cứu hoa văn trên cơng trình cơng cộng ........................................... 27
3.2.2. Nghiên cứu hoa văn trên nhà gỗ cổ ............................................................. 59
3.2.3. Nghiên cứu ý nghĩahoa văn trên cơng trình kiến trúc gỗ ............................. 67
KẾT LUẬN .......................................................................................................... 70

KIẾN NGHỊ ......................................................................................................... 71
TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................... 72


iv

DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 3.1: Phân loại nhóm hoa văn và tần xuất xuất hiện trong Chùa, Đền ............. 41
Bảng 3.2: Motip hoa văn trang trí đình làng .......................................................... 57
Bảng 3.3: Thống kế hoa văn trang trí nhà cổ .......................................................... 64
Bảng 3.4: Sosánh hoa văn Chùa, Đình làng và Nhà cổ........................................... 65
DANH MỤC BIỂU ĐỒ
Biểu đồ 3.1: Phân loại nhóm hoa văn và tần xuất xuất hiện trong Chùa, Đền ............. 42
Biểu đồ 3.2: Tần suất xuất hiện hoa văn đình làng ................................................. 57
Biểu đồ 3.3: So sánh kết quả nghiên cứu hoa văn ở Chùa và Đình làng ....................... 58
Biểu đồ 3.4: Tần suất xuất hiện hoa văn trang trí nhà cổ ........................................ 65
Biểu đồ 3.5: So sánh hoa văn Chùa, Đình làng và Nhà cổ ...................................... 66


v

DANH MỤC CÁC HÌNH
Hình 1.1: Hoa văn gỗ trang trí nhà thờ hồi giáo ....................................................... 4
Hình 1.2: Một số hoa văn bằng gỗ trên cơng trình kiến trúc Ai cập .......................... 5
Hình 1.3: Một số hoa văn trong kiến trúc nhà thờ hồi giáo Châu Âu ........................ 6
Hình 1.4: Một số hoa văn trên cánh cửa gỗ, nhà gỗ cổ Trung Quốc ......................... 7
Hình 1.5: Hoa văn trên nhà gỗ cổ Trung Quốc ......................................................... 8
Hình 3.1: Hình ảnh chùa Bối Khê và hoa văn trên bức tường gạch xây nhà Tiền
Đường của chùa..................................................................................................... 28
Hình 3.2: Hình ảnh một số hoa văn trang trí trên ván bưng và xà ngang Chùa Bối Khê ...... 29

Hình 3.3: Hình ảnh chùa Dâu ................................................................................ 29
Hình 3.4: Hoa văn Rồng trang trí trên ván bưng Chùa Dâu .................................... 30
Hình 3.5: Hình ảnh cổ chùa Phổ Minh ................................................................... 30
Hình 3.6: Chạm khắc gỗ hoa văn Rồng trên hai cánh cửa chùa Phổ Minh.............. 31
Hình 3.7: Hìnhảnh Chùa keo Thái Bình ................................................................. 31
Hình 3.8: Gác Chng là cơng trình kiến trúc độc đáo của chùa Keo..................... 32
Hình 3.9: Hình ảnh hoa văn trên gỗ chùa Keo ....................................................... 32
Hình 3.10: Hình ảnh chùa Thái lạc ........................................................................ 33
Hình 3.11: Hoa văn Rồng, Nghê trên bức ván bưng ............................................... 34
Hình 3.12: Hình ảnh hoa văn Tiên nữ kéo nhị, thổi tiêu ......................................... 34
Hình 3.13: Hình hoa văn ơng Phỗng, Tiên nữ nhảy mứ trên vách bưng ................. 34
Hình 3.14: Hình hoa văn Tiên nữ đầu người mình chim trên ván bưng .................. 35
Hình 3.15: Hình ảnh hoa văn đơi Rồng chầu trên ván bưng ................................... 35
Hình 3.16: Chùa Tây Phương ................................................................................ 36
Hình 3.17: Các vị La hán chùa Tây Phương........................................................... 36
Hình 3.18.: Hình ảnh hoa văn Rồng trang trí trên gỗ chùa Tây Phương ................. 36
Hình 3.19 : Hình ảnh Chùa Mía ............................................................................. 37
Hình 3.20: Kiến trúc gỗ Chùa Mía ......................................................................... 37
Hình 3.21: Hoa văn Vân mây, ngọn lửa và hoa văn đầu Rồng trang trí trên xà ngang
Chùa Mía............................................................................................................... 38
Hình 3.22: Hình ảnh Điện Lam Kinh thờ các Vua Lê ............................................ 38


vi
Hình 3.23: Hoa văn Rồng trên cửa chính vào Điện ............................................... 38
Hình 3.24: Hoa văn Rồng trên xà ngang Điện Lam Kinh ....................................... 39
Hình 3.25: Chùa Bút Tháp ..................................................................................... 40
Hình 3.26: Tương Phật bà nghìn mắt nghìn tay đặc sắc Chùa Bút Tháp ................. 40
Hình 3.27: Hình ảnh đình Chu Quyến.................................................................... 44
Hình 3.28: Hình ảnh hoa văn Rồng, Phượng, Người cưỡi ngựa voi trên cột, xà

ngang, bức ván bưng Đình Chu Quyến .................................................................. 44
Hình 3.29: Hình ảnh đình Đình Bảng .................................................................... 46
Hình 3.30: Hoa văn phong cảnh, hoa văn chữ Thọ, hoa văn bát bảo trong lan can gỗ
Đình Bảng ............................................................................................................. 46
Hình 3.31: Hoa văn ngọn lửa bằng gỗ nóc đầu trái nhà .......................................... 46
Hình 3.32: Hoa văn con Nghê dưới chân cột nhà trước cửa bước vào .................... 47
Hình 3.33: Hoa văn Rồng trên xà ngang, ván bưng đình Đình Bảng ...................... 47
Hình 3.34: Hình ảnh Đình Thổ tang....................................................................... 48
Hình 3.35: Hoa Văn Hội mùa Đình Thổ Tang ....................................................... 49
Hình 3.36: Hoa văn uống Rượu Đình Thổ tang ...................................................... 49
Hình 3.37: Hoa văn Đánh ghen Đình Thổ tang ...................................................... 49
Hình 3.38: Hình ảnh Đình Hương Canh................................................................. 50
Hình 3.39: Hoa văn Bơi chải ở phía trên, hoa văn cưỡi Long dự hội ở phía dướiĐình Hương Canh ................................................................................................. 50
Hình 3.40: Hoa văn đánh vật ở phía trên, đi săn ở phía dưới đình Hương canh ...... 51
Hình 3.41: Đình Thổ Hà ........................................................................................ 51
Hình 3.42: Hình ảnh hoa văn Rồng có nhiều bộ phận đầu dư, bẩy, kẻ, cốn, ván nong,
câu đầu với nhiều đề tài Rổng ổ, rồng mẹ cõng rồng con, rồng và thiếu nữ............ 52
Hình 3.43: Hoa văn Tiên cưỡi Phượng -Đình Thổ Hà ............................................ 52
Hình 3.44: Hoa văn Tiên cưỡi Rồng- Đình Thổ Hà ............................................... 52
Hình 3.45: Hoa văn Nghê- đình Thổ Hà ................................................................ 53
Hình 3.46: Hình ảnh Đình Tây Đằng ..................................................................... 54
Hình 3.47: Hoa văn chim Phượng Đình Tây Đằng ................................................. 54
Hình 3.48: Hoa văn chạm khắc - ĐìnhTây Đằng................................................... 54


vii
Hình 3.49: Nghệ thuật trang trí -Đình Tây đằng.................................................... 55
Hình 3.50: Đình làng Mơng Phụ ............................................................................ 55
Hình3.51: Hoa văn trang trí trên Đình Mơng Phụ .................................................. 56
Hình 3.52: Hoa văn tứ linh trang trí trên xà ngang đình Mơng phụ ........................ 56

Hình 3.53: Hoa văn nghê trang trí đình Mơng phụ ................................................. 56
Hình 3.54: Nhà gỗ cổ xã Tiên Phương (Chương Mỹ, Hà Nội). .............................. 60
Hình 3.55: Hoa văn trang trí nhà cổ Tiên Phương- 200 năm tuổi ........................... 61
Hình 3.56: Nhà cổ Lý Nhân Hà Nam, 100 năm tuổi .............................................. 61
Hình 3.57: Hoa văn Dơi ngậm tiền trang trí trên nhà cổ Lý Nhân Hà Nam ............ 61
Hình 3.58: Nhà cổ 400 năm tuổi Đường Lâm Hà Nội ............................................ 62
Hình 3.59: Hoa văn mây nhà cổ Đường lâm Hà Nội .............................................. 62
Hình 3.60: Hoa văn trang trí ngơi nhà cổ 100 năm tuổi thôn Trung Sơn, xã Tĩnh Hải,
Tĩnh Gia, Thanh Hóa ............................................................................................. 62
Hình 3.61: Nhà cổ 400 năm tuổi Vĩnh Lộc, Thanh Hóa ......................................... 63
Hình 3.62: Hoa văn mây, hoa lá dây trang trí nhà cổ 400 400 năm tuổi Vĩnh Lộc,
Thanh Hóa ............................................................................................................. 63
Hình 3.63: Họa tiết hoa văn nhà gỗ cổ Hà nam ...................................................... 63
Hình 3.64: Hoa văn hoa lá Tây nhà cổ Hà Tây....................................................... 64


1
ĐẶT VẤN ĐỀ
Nghệ thuật tạo hình dân gian Việt nam đa dạng về phong cách, phong phú về
thể loại, giàu có về chất liệu. Trong kho tàng văn hóa nghệ thuật phong phú và đa
dạng ấy nghệ thuật chạm khắc gỗ truyền thống là một nghệ thuật tạo hình tài hoa,
góp phần làm nên hồn cốt linh thiêng cho những cung vua phủ chúa, những cơng
trình thờ cúng tâm linh như đình, chùa, miếu, phủ. Trải qua dặm dài năm tháng,
nghệ thuật chạm khắc gỗ cùng với những cơng trình ấy cịn mang trên mình nhiều ý
nghĩa về lịch sử, về khoa học, chính trị, văn hóa, tư tưởng.
Đất nước Việt Nam ở vùng nhiệt đới, nguyên liệu gỗ là nguồn nguyên liệu
tương đối dồi dào, phù hợp với kỹ nghệ chế tác nên đã được các nghệ nhân dân gian
chọn làm vật liệu chủ đạo để thể hiện tư tưởng, bản chất và sự tài hoa khéo léo của
mình, biến những kết cấu gỗ vô tri vô giác thành muôn vàn tác phẩm nghệ thuật, từ
cỏ cây hoa lá đến mng thú và các hình tượng khác theo trí tưởng tượng phong

phú của con người. Những con giống, hoa trái, Rồng Phượng, mây nước được chạm
khắc trong các cấu kiện như đầu đao, xà, kèo, cây nóc, vì nhà ở các cung điện, đình,
chùa đều thể hiện rõ nét các quan niệm triết học sâu sắc về thiên nhiên, con người với
triết lý phương Đông “Thiên - Địa - Nhân” rất xúc tích qua phương pháp tượng hình.
Với nguồn gốc lịch sử và nền văn hóa lâu đời, những cơng trình kiến trúc cổ
được xây dựng dầy đặc, những cơng trình này tập trung những kiệt tác điêu khắc
bao gồm phù điêu, chạm trổ… trên hầu hết các chi tiết kết cấu xây dựng bằng gỗ,
thể hiện tinh hoa của người nghệ nhân dân gian mang tính độc đáo, sáng tạo, đóng
góp một hình thức đa dạng về văn hóa nghệ thuật Việt Nam với cộng đồng nhân
loại thế giới.
Những cấu kiện được chạm khắc trong các cơng trình nhà gỗ truyền thống,
kết cấu khung nhà gỗ như: Đầu dư, cốn, xà nách, bẩy, đẩu, ván nong, lá đề, con
rường, vì, nóc, xà, kèo…và những khoảng khơng gian trống trên các mảng vì kèo,
cánh cửa đều được các nghệ nhân dân gian tận dụng làm nơi bố trí những mảng đề
tài chạm khắc gỗ. Trong đó, thơng thường Đầu dư được chạm khắc hình đầu
rồng.Đấu chạm sen hóa. Xà, bẩy, vì ,kèo chạm hoa lá hoặc các tích về tứ linh. Các


2
đầu bẩy chạm chữ thọ, kẻ biên chạm lá đề chữ thọ. Cốn, ván nong, cánh cửa là nơi
thể hiện sự đa dạng của trang trí chạm khắc, với tất cả các loại đề tài, tùy theo ý
nghĩa của công trình làm tăng thêm tính tơn nghiêm, linh thiêng cho các cơng trình.
Có thể nói, ở hầu hết các cấu kiện, phụ kiện bằng gỗ trong các cơng trình của vua
chúa, cơng trình đình chùa miếu phủ… các nghệ nhân đều biết khéo léo chạm khắc
những hình tượng hoa văn, phong cảnh phù hợp với văn hóa, tơn giáo và cấp độ
chức năng của cơng trình.
Hoa văn chạm khắc trên kết cấu nhà gỗ truyền thống Trên các cơng trình
cịn được bảo tồn và sử dụng có niên đại từ cuối thế kỷ XV trở lại, các hoa văn
chạm khắc trên gỗ mang phong cách nghệ thuật Tây phương là chủ đạo và trộn lẫn
phong cách Trung hoa và dân gian Việt, trong đó biểu hiện sự ảnh hưởng khá lớn

của Phật giáo và Nho giáo.
Với mong muốn góp phần tìm hiểu rõ hơn nền nghệ thuật dân gian Việt độc
đáo trong kho báu tinh hoa nghệ thuật, chúng tôi chọn đề tài: “Nghiên cứu hoa văn
trang trí trong cơng trình kiến trúc gỗ cổ Việt Nam”.
Ý nghĩa khoa học và thực tiễn
Việc nghiên cứu cứu hoa văn trang trí trong cơng trình kiến trúc gỗ cổ Việt
Nam là khai thác dạng hoa văn được sử dụng trang trí tại các cơng trình cơng cộng
hay nhà cổ và giả cổ tại Việt Nam, nhằm đa dạng hóa cách trang trí nhà cổ truyền
thống nói riêng và chạm khắc gỗ trang trí nội thất nói chung sẽ là nguồn động lực thúc
đẩy sự phát triển nền kiến trúc Việt Nam mới hướng tới bản sắc riêng trong hội nhập.


3
Chƣơng 1.
TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Tình hình nghiên cứu ngoài nƣớc
Những nghiên cứu về kiến trúc cổ và kiến trúc Gỗ nước ngoài tương đối phong phú.
Tác giả Dalia Shebl Said, Viện Công nghiệp trường đại học Kfar–Elshiekh,
Ai cập, đã nghiên cứu về kiến trúc gỗ cổ trong nhà thờ hồi giáo ở Ai cập.Trong
cơng trình nghiên cứu, tác giả đã nghiên cứu đặc điểm loại gỗ, tuổi lịch sử, đặc
điểm hoa văn trang trí của cơng trình kiến trúc gỗ trong nhà thờ Hồi giáo. Từ kết
quả nghiên cứu, tác giả đưa ra giải pháp bảo tồn di sản văn hóa đó [1].
Tác giả K. Larsen, N. Marstein [2], Anh, nghiên cứu bảo tồn cơng trình kiến
trúc gỗ cổ trên thế giới. Tác giả đề cập đến ngun tắc bảo tồn cơng trình gỗ cổ,
chủng loại gỗ trong cơng trình kiến trúc gỗ cổ, phân tích sự xuống cấp hư hỏng của
gỗ theo thời gian, đồng thời tác giả đề cập đến đặc điểm và hoa văn của một số cơng
trình kiến trúc gỗ cổ trên thế giới.
Tác giả R. Kliger [3], Thụy điển, nghiên cứu sự tác động của độ ẩm đến cơng
trình kiến trúc gỗ. Tác giả nêu đặc điểm loại gỗ sử dụng, thiệt hại do ẩm tác động
đến gỗ và cấu trúc công trình.

Tác giả Dongping Fang [4], Trung Quốc nghiên cứu về kiến trúc gỗ cổ
Trung Quốc. Tác giả nghiên cứu về đặc điểm kiến trúc và một số hoa văn trên cơng
trình gỗ cổ, liên kết gỗ trong kiến trúc.Tác giả chỉ ra cơng trình kiến trúc gỗ nhờ
mối liên kết đặc biệt có khả năng giảm chấn động, động đất đáng kể, giúp cơng
trình gỗ bền với thời gian.
Tác giả Heba-Talla Hamdy Mahmoud [5], Ai cập, nghiên cứu về họa tiết hoa
văn và trang trí nội thất trong cơng trình kiến trúc cổ Ai cập.Tác giả chỉ ra Kiến trúc
và trang trí nội thất, cũng như nghệ thuật Ai Cập chú trọng đến các loại hình học.
Việc trang trí hoa văn hình học sử dụng nhiều vật liệu khác nhau như như gỗ, đá
cẩm thạch, đất sét, thủy tinh, đá, kim loại và dệt may. Nó có nhiều kích cỡ, khối
lượng và quy mô khác nhau, quy mô từ các tác phẩm nhỏ và chính xác như đồ trang
sức thủ công đến bề mặt lớn của kim tự tháp vĩ đại và mái vịm lớn nhà thờ Hồi giáo.
Các mơ hình hình học của Ai Cập được phổ biến khắp cả nước.


4
Sự tồn tại mơ típ hình học trang trí trong kiến trúc và nội thất được tiếp diễn
từ Ai cập cổ đại cho đến đương thời. Di sản của các giai đoạn lịch sử trước đó, đặc
biệt là thời kỳ Coplic và Hồi giáo, chứa đầy các tác phẩm kiến trúc và nghệ thuậtvới
các thiết kế mơ hình hình học thuần túy hoặc phối hợp và thống nhất với các phong
cách trang trí khác bằng cách sử dụngthư pháp, arabesque và các yếu tố tự nhiên.
Vai trị của cơng nhân và kỹ năng thợ thủ cơng Ai Cập có ảnh hưởng rất lớn đến giá
trị của trang trí.

Hình 1.1: Hoa văn gỗ trang trí nhà thờ hồi giáo


5

Hình 1.2: Một số hoa văn bằng gỗ trên cơng trình kiến trúc Ai cập

(Trích ảnh từ tài liệu)
Tác giả Behnam G, Atefeh F, Ali[6] đã nghiên cứu về họa văn trang trí trên
kiến trúc hồi giáo ở Châu Âu. Tác giả đề cập đến mẫu mã, chủng loại, cách thức
trang trí của hoa văn.Cùng với đó tác giả phân tích mối quan hệ giữa văn hóa và hoa
văn trang trí trên cơng trình kiến trúc đó.


6

Hình 1.3: Một số hoa văn trong kiến trúc nhà thờ hồi giáo Châu Âu
(trích ảnh từ tài liệu)
Liang Sicheng[ 7], Trung Quốc, nghiên cứu về lịch sử kiến trúc Trung
Quốc. Tác giả chỉ ra kiến trúc Gỗ là một trong những kiến trúc đặc biệt của
Trung Quốc.Tác giả đề cập đến kiến trúc, văn hóa, hoa văn của rất nhiều cơng
trình kiến trúc gỗ cổ Trung Quốc.


7

Hình 1.4: Một số hoa văn trên cánh cửa gỗ, nhà gỗ cổ Trung Quốc


8

Hình 1.5: Hoa văn trên nhà gỗ cổ Trung Quốc
TuYuanyua [8], nghiên cứu về kiến trúc nhà gỗ Trung Quốc,tác giả chỉ ra
ngơi nhà cấu trúc gỗ có khả năng bền vững với động đất. Bên cạnh đó tác giả
nghiên cứu về hoa văn, đặc điểm kiến trúc ngôi nhà, vật liệu...
1.2. Tình hình nghiên cứu trong nƣớc
1.2.1. Nghiên cứu về kiến trúc gỗ Việt Nam

Nghiên cứu về kiến trúc gỗViệt Nam đã được sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu.
GS. Trần Lâm Biền trong cơng trình nghiên cứu về Đình làng [9], Tác giả
nghiên cứu về đặc điểm, hoa văn trang trí trên cơng trình đình làng, giới thiệu đình
làng nổi tiếng Việt Nam. Tài liệu chỉ ra mỗi làng q Việt Nam đều có một ngơi
đình.Như là một ngôi nhà công cộng của làng quê thời xưa, đình được dùng làm nơi
thờ Thành Hồng làng (vị thần bảo trợ của làng) và họp việc làng. Đó là một ngôi
nhà to, rộng được dựng bằng những cột lim trịn, to, thẳng tắp đặt trên những hịn đá
tảng lớn.Vì, kèo, xà ngang, xà dọc của đình cũng làm tồn bằng gỗ lim. Tường đình
xây bằng gạch. Mái đình lợp ngói mũi hài, bốn góc có bốn đầu đao cong.
GS. Trần Lâm Biền, Trong nghiên cứu về mỹ thuật cổ Việt Nam [10]. Tác giả
đề cập đến hoa văn trang trí, phương pháp trang trí của người Việt cổ trên các chất
liệu đá, đồng... Tác giả cũng chỉ ra hoa văn trang trí đình làngcó ảnh hưởng của văn
hóa Champa.


9

GS. Trần Lâm Biền, trong nghiên cứu về diễn biến kiến trúc truyền thống
Việt Nam [11], Tác giả đề cập sự phát triển đặc điểm quy hoạch kiến trúc, thống số
kiến trúc, hoa văn của cơng trình kiến trúc Việt Nam qua các thời kỳ Lý, Trần, Lê
sơ, Mạc, sau này đến triều Nguyễn và Pháp. Nghiên cứu chỉ ra đặc điểm của cơng
trình kiến trúc Chùa, Đình làng và nhà ở dân người dân Bắc bộ.
PGS.TS Hồng Văn Khốn, trong cơng trình nghiên cứu Mỹ thuật và kiến
trúc Việt Nam truyền thống [12], Tác giả đề cập đến kiến trúc truyền thống Việt
Nam đình, chùa, đền, nhà ở Đồng bằng bắc bộ. Tác giả đề cập đến vật liệu, hoa văn
trang trí trên cơng trình kiến trúc. Hoa văn thường gặp Tứ linh (Long, Li, Quy,
Phượng), hoa văn tứ quý, tích truyện, tranh phong cảnh, đời sống sinh hoạt của
người dân. Vật liệu sử dụng cho kiến trúc là gỗ, đá, vật liệu thực vật tự nhiên.
PGS. TS. Trịnh Cao Tưởng, nghiên cứu về kiến trúc cổ Việt Nam từ cái nhìn
khảo cổ học [13], Tác giả nghiên cứu đến kiến trúc của các thời kỳ, đặc điểm kiến

trúc chùa chiền, đình làng, đặc điểm kiến trúc nhà cổ Việt Nam,vật liệu xây dựng
kiến trúc và thông số cơ bản kiến trúc cổ.
TS. Hoàng Đạo Cương và TS. Nguyễn Hồng Kiên, Viện Bảo tồn di tích,
trong cơng trình nghiên cứu về kiến trúc Chùa Việt Nam [ 14], tác giả đề cập đến
đặc điểm kiến trúc, hoa văn trang trí của ngơi chùa nổi tiếng Bắc bộ Việt Nam
từ thời Lý, Trần. Ngôi chùa cổ vẫn giữ được kiến trúc cổ như Chùa Dâu, chùa
Phật tích, Chùa Một cột...
TS. Hoàng Đạo Cương và TS. Nguyễn Hồng Kiên, Viện Bảo tồn di tích,
nghiên cứu về kiến trúc Đình Làng Việt Nam [15], tác giả đề cập đến đặc điểm kiến
trúc, hình ảnh, hoa văn trang trí trên đình làng nổi tiếng Việt Nam thời kỳ Lý, Trần
cho đến ngày nay.
Tác giả Vũ Tam Lang, nghiên cứu về kiến Trúc Cổ Việt Nam [16], tác giả
giải thích hồn cảnh sản sinh và lược trình phát triển nền kiến trúc cổ truyền dân tộc
Việt Nam. Các loại hình, vật liệu, phương thức xây dựng, nghệ thuật trang trí, điêu
khắc và màu sắc trong kiến trúc cổ và dân gian Việt Nam. Nghệ thuật bố cục tạo
hình và những đặc trưng cơ bản của nền kiến trúc truyền thống Việt Nam.


10
Nhiều tác giả trong và ngồi nước, trong cơng trình nghiên cứu về kiến trúc
Phố cổ Hội An [17]. Tác giả nghiên cứu về lịch sử phố cổ Hội An, sách cũng tổng
kết nghiên cứu thực địa từ 264 ngôi nhà cổ, nhà thờ họ lớn Hội An, đình làng, hội
quán, đền thờ, miếu mạo. Tác giả đua ra đặc điểm kết cấu, vật liệu, hoa văn trang trí
trên cơng trình kiến trúc.
Nhìn chung, các nghiên cứu chỉ ra kiến trúc cổ Việt nam Chùa chiền, Đình
làng đặc điểm kiến trúc như sau:
- Theo cấu trúc chùa, người ta chia ra thành 04 kiểu cấu trúc: Chùa chữ Đinh,
chùa chữ Công, chùa chữ Tam, chùa kiểu Nội công ngoại quốc.
- Kiến trúc sử dụng phần lớn là kiến trúc gỗ. Tính hợp lý của kết cấu, tính
đơn giản, thốngnhất, tính điển hình và tính tiêu chuẩn thấy rõ trong bộ khung gỗ

chịu lực của cơng trình.
Kết cấu kiến trúc gỗ có các thành phần sau:
Cột là kết cấu đứng chịu nén, thường có các loại cột:
Cột cái: cột chính của nhà đặt ở hai đầu nhịp chính tạo chiều sâu cho gian
giữa. Nối hai cột cái là câu đầu
Cột quân hay cột con: cột phụ ngắn hơn cột cái, nằm ở đầu nhịp phụ hai bên
nhịp chính. Khác biệt chiều cao của cột cái và cột con tạo ra độ dốc của mái nhà. Xà
nách nối cột con với cột cái.
Cột hiên: nằm ở hiên nhà, phía trước, ngắn hơn cột con. Kẻ bảy nối cột con
và cột hiên.
Xà là các giằng ngang chịu kéo, liên kết các cột với nhau, gồm có các loại xà
nằm trong khung và các loại xà nằm ngồi khung vng góc với khung. Xà nằm
trong khung, thường đặt ở cao độ đỉnh các cột quân để liên kết được cả cột cái và
cột quân, gồm:
Xà lòng, tức câu đầu hay chếnh: liên kết các cột cái của khung;
Xà nách hay thuận: liên kết cột quân vào cột cái, trong khung.
Đấu củng: bao gồm hai bộ phận là "đấu" (đóng vai trị là bệ đỡ) và "củng"
(giống hình khủy tay, đóng vài trị là tay đỡ) được dùng đểđỡ kết cấu khác bên trên
là mái hiên.


11
Kẻlà các dầm đơn đặt theo phương chéo của mái nhà, gác lên các cột bằng
liên kết mộng, thường có các loại kẻ sau:
Kẻ ngồi loại kẻ gác từ cột cái sang cột quân, trong khung;
Kẻ hiên gác từ cột quân sang cột hiên, trong khung. Một phần kẻ hiên được
kéo dài đâm xuyên qua cột hiên để đỡ phần chân mái.
Bảy hay bảy hậu hoặc bảy hiên: là dầm nằm trong khung liên kết vào cột
quân phía sau nhà, đỡ phần mái vẩy phía sau. Đối với nhà ở thì tiền kẻ, hậu bảy.
Đối với các cơng trình cơng cộng như đình làng, thường bốn mặt xung quanh đều

có hiên thống khơng có cột hiên, nên thường dùng bảy hiên.
Câu đầu là dầm ngang chính đặt trên cùng, khố các đầu trên của các cột cái
trong khung (gác lên các cột cái).
Con rường hay chồng rường là các đoạn gối đỡ mái dạng dầm gỗ hộp để đỡ
hoành mái, được đặt chồng lên nhau. Chiều dài của chúng thu ngắn dần cân theo
chiều vát của mái, càng lên cao các con rường bên trên càng ngắn. Ở vì nóc các con
rường nằm chồng lên câu đầu.
Con lợn còn gọi là rường bụng lợn: là con rường trên cùng, gối lên con
rường bên dưới qua hai đoạn cột ngắn gọi là trụ trốn, và làm nhiệm vụ đỡ xà nóc
(thượng lương). Bên dưới rường bụng lợn (giữa hai trụ trốn) là ván lá đề thường
để điêu khắc trang trí. Con lợn có thể được thay bằng giá chiêng.
Rường cụt là loại rường nằm ở vì nách (giữa cột cái và cột quân), chúng nằm
chồng trên xà nách, chúng cũng đỡ hoành và vẫn thu dần chiều dài khi lên cao theo
độ dốc mái.
Các loại xà nằm ngồi khung gồm có:
Xà thượng liên kết đỉnh các cột cái; xà này song song với chiều dài của nhà.
Xà hạ hay xà đại, liên kết các cột cái tại cao độ đỉnh cột qn, gần sát vị trí
liên kết xà lịng, xà nách vào cột cái. Xà này cũng chạy song song với chiều dài của
nhà. Xà tử thượng (xà trên của cột con): liên kết các cột quân của các khung ở bên
trên. Xà tử hạ (xà dưới của cột con): liên kết các cột quân của các khung ở bên dưới,
tại mức độ cao ngay trên hệ cửa bức bàn.Xà ngưỡng nối các cột quân ở vị trí ngưỡng
cửa. Xà này đỡ hệ thống cửa bức bàn.Xà hiên liên kết các cột hiên của các khung.
Thượng lương, còn gọi là đòn dơng hay Xà nóc đặt trên đỉnh mái.


12
Các kết cấu mái
Hồnh là các dầm chính đỡ mái đặt nằm ngang theo chiều dài nhà, vng
góc với khung nhà.
Dui hay rui là các dầm phụ trung gian, đặt dọc theo chiều dốc mái (trực giao

với hoành), gối lên hệ thống hoành.
Mè là các dầm phụ nhỏ, đặt trực giao với dui, song song với hoành, gối lên
hệ dui.khoảng cách giữa các mè là nhỏ nhất, vừa đủ để lợp ngói. Việc sử dụng hệ
kết cấu hồnh - dui - mè, nhằm phân nhỏ nhịp của kết cấu đỡ mái thành hệ lưới vừa
đủ để lát lớp gạch màn và lợp ngói bên trên.
Gạch màn là một loại gạch lá nem đơn bằng đất nung, có tác dụng đỡ ngói
đồng thời tạo độ phẳng cho mái, chống thấm dột và chống nóng. Gạch màn ngồi
trực tiếp trên lớp mè.
- Trong trang trí Kiến trúc sử dụng điêu khắc, chạm khắc. Việc sử dụng màu
sắcnhư một yếu tố phụ trợ tích cực tăng tính nghệ thuậtcho cơng trình, mặt khác là
phương tiện diễn đạt ý nghĩa biểu trưng, cái thần của cơng trình, như sử dụng các
hoa văn (động vật quý, cây cối hoa lá…) đầy ý nghĩa tượng trưng
- Về ngoại hình của kiến trúc truyền thống Việt Nam là loại có mái dốc
thẳng – đấu dốc mái có loại uốn cong với các trang trí trên dốc mái, trên góc mái
phong phú có loại hai đầu hồi thẳng mái che cho thân nhà, thân nhà là hệ cột khung
với hang hiên.
1.2.2. Nghiên cứu về hoa văn trang trí trong cơng trình kiến trúc gỗ cổ Việt Nam
Trong cơng trình nghiên cứu về Tài liệu Bản rập họa tiết mỹ thuật cổ Việt
Nam của các nhà nghiên cứuTrường Đại học Mỹ thuật Hà Nội [18], các tác giả
nghiên cứu tiến trình phát triển hoạ tiết Mỹ thuật cổ Việt Nam, họa tiết thời Lý (thế
kỷ 11 - 12), hoạ tiết thời Trần (thế kỷ 13 - 14), hoạ tiết thời Lê Sơ (thế kỷ 15), hoạ
tiết thời Mạc (thế kỷ 16), hoạ tiết thời Lê Trung Hưng (thế kỷ 17), hoạ tiết thời Lê
Mạt (thế kỷ 18), hoạ tiết thời Nguyễn (thế kỷ 19).
Tác giả Nguyễn Du Chi, trong cơng trình nghiên cứu về Hoa văn Việt Nam
[19]. Tác giả đề cập đến hoa văn thời Tiền sử; hoa văn thời Sơ sử; hoa văn nửa đầu
thời phong kiến.
Tác giả Nguyễn Đỗ Cung, trong tài liệu nghiên cứu về Điêu Khắc dân gian
Việt Nam, Thế Kỷ XVI, XVII, XVIII [20]. Tác giả đề cập đến nghệ thuật điêu khắc
trên cơng trình chùa triền, đình làng, miếu mạo, chủ đề, phương pháp trang trí hoa văn.



13
Tác giả Nguyễn Đồng, trong cơng trình nghiên cứu về: Những nụ cười của
gỗ, vài đặc điểm nghệ thuật trong điêu khắc đình làng Việt Nam thế kỷ XVI, XVII,
XVIII. Thế Kỷ 21, số 23, 1991. Tác giả đề cập motips hoa văn cảnh sinh hoạt trang
trí trên cơng trình gỗ, đặc biệt đình làng.
Tác giả Phan Cẩm Thượng, nghiên cứu vềĐiêu khắc cổ Việt Nam [21]. Tác
giả đề cập đề cập nghệ thuật điêu khắc, hoa văn điêu khắc Việt Nam qua các thời
kỳ.Kết quả nghiên cứu cho thấy:
Điêu khắc thời Tiền sử: Thời Tiền sử Việt Nam được tính từ nền văn hố Núi
Đọ cách đây ba mươi vạn năm đến nền văn hố Đơng Sơn cách đây 2.500 năm.
Thời kỳ này hoạt động văn hoá chưa phân chia rõ ràng. Chưa có một nền điêu khắc
tiền sử, mà chỉ có những biểu hiện mang tính điêu khắc mà thơi. Đáng kể nhất là
những hình khắc trên hang Đồng Nội (Lạc Thuỷ, Hồ Bình) cách đây 10.000 năm,
khắc ba mặt người và một mặt thú một cách sơ lược, trên đầu có cắm sừng hay lơng
chim. Người Hồ Bình đã nhìn thấy hình khắc gương mặt, dù chưa rõ ràng nhưng
đã khôn ngoan đội lốt thú khi săn bắn một cách khái quát. Tượng gốm và đá nhỏ vài
cm xuất hiện trong các di chỉ Phùng Nguyên, Đồng Đậu, Gị Mun chỉ như những
hình thể trang trí gắn với các trang sức và công cụ lao động. Đến nền văn hố Đơng
Sơn nổi tiếng về các trống đồng, điêu khắc nhỏ gắn với đồ tế khí, gia dụng đẹp một
cách tinh tế trong thẩm mỹ mang tính bạo lực. Đó là các tượng người biến hình
thành cán dao găm, các tượng voi, cóc, hươu, rùa trên trống, thạp, ấm bằng đồng.
Đặc biệt là bốn cặp tượng nam nữ giao phối trên nắp thạp đồng Đào Thịnh với một
nhãn quan phồn thực. Thờ thần mặt trời, tế lễ cầu mùa hay tang ma là âm hưởng
chủ đạo qua các hình khắc trống đồng Đơng Sơn, cịn điêu khắc đóng vai trị nhấn
mạnh tính hình khối rõ ràng của nhạc khí, tế khí và đồ dùng. Điêu khắc Tiền Sử
hồn toàn thuần Việt trước khi các cuộc xâm lăng từ phương Bắc tràn xuống.
Điêu khắc nhà mồ Tây Nguyên: Năm tỉnh Gia Lai, Kon Tum, Đắk Lắk, Đăk
Nông, Lâm Đồng chiếm trọn cao nguyên phía tây Nam Trung Bộ, Hệ ngữ Mơn Khmer và Malayo - Polinesia đóng vai trị chính trong ngơn ngữ Tây Ngun cũng
như tập tục tang ma trọng thể thấy phổ biến ở dân hoang đảo quanh xích đạo địa cầu.

Tiêu biểu là lễ bỏ mả và làm nhà mồ của người Gia Rai và Ba Na. Trong đó, phần
tạc tượng rào quanh nhà mồ rất quan trọng. Những tượng nam - nữ giao hợp, tượng


14
bà chửa, tượng người ngồi khóc, tượng thú vật voi và chim cũng được đẽo phạt từ
tâm linh sâu thẳm đối với thế giới bên kia, nơi mà các linh hồn sẽ trở về với tổ tiên
và ông bà. Con thuyền tang lễ được gắn vào nóc nhà mồ. Cột Klao, cột Kút dẫn linh
hồn về trời được dựng lên trong tiếng nhạc cồng, chiêng trầm hùng và ai oán
Điêu khắc Champa: Vương quốc Champa hình thành ở Nam Trung Bộ, chia
thành một số khu vực tự nhiên ứng với các dải đồng bằng ven biển là Amaravati
(Quảng Nam), Vijaya (Bình Định), Kauthara (Nha Trang) và Paduranaga (Phan
Rang). Sự liên kết giữa hai thị tộc Can và Dừa dẫn đến một Nhà nước phong kiến
theo Ấn Độ giáo đầy mâu thuẫn và hiếu chiến. Người Champa ẩn chứa trong mình
năng lực sáng tạo dồi dào, cũng mạnh mẽ như khát vọng chiến tranh của họ. Từ thế
kỷ 2 là thời sơ khai của vương quốc mà người Trung Hoa gọi là Lâm Ấp. Nhưng
phải đợi đến thế kỷ 7 - 8 nghệ thuật kiến trúc và điêu khắc Champa mới trở nên rực
rỡ cùng phong trào Phật giáo hoá và Ấn Độ giáo lan rộng khắp Đông Nam Á. Tháp
Champa xây bằng gạch khơng vữa, thường có một cổng, một tháp phụ có mái hình
con thuyền, một tháp chính ở trung tâm khối vuốt lên cao nở ra ở nhiều góc và các
múi vịm. Trên đó thường gắn các phù điêu chạm khắc hình thần Siva hay các tiên
nữ Apsara. Cửa chính quay về phía Nam hoặc Đơng Nam.Trong lịng tháp đặt biểu
tượng thờ Linga và Yoni (dương vật và âm vật). Điêu khắc tượng trịn được bố trí
hài hồ với xung quanh kiến trúc và tuỳ theo chức năng tháp mà đục đẽo các tượng
thần. Người ta thường chia nghệ thuật Champa làm sáu giai đoạn chính: 1. Mỹ
Sơn E1 (nửa đầu thế kỷ 8); 2. Hoà Lai (nửa đầu thế kỷ 9); 3.Đồng Dương (cuối
thế kỷ 9); 4.Trà Kiệu (cuối thế kỷ 9 đầu thế kỷ 10); 5.Tháp Mẫm (thế kỷ 12 13); 6.Poklaung Gialai (cuối thế kỷ 13, 14 đến 16). Năm 1470 Lê Thánh Tông
dứt điểm bình định phương Nam, sau đó là cơng cuộc Nam tiến của các Chúa
Nguyễn, nền nghệ thuật Champa và Phù Nam - Chân Lạp chỉ còn lại các di sản
đặc sắc với một quá khứ huy hoàng.

Điêu khắc thời Lý (1010 - 1225): Đại Việt trở thành quốc gia độc lập, hùng
cường sau khi Lý Công Uẩn lên ngôi và dời đô từ Hoa Lư về Thăng Long. Phật
giáo trở thành quốc đạo phát triển tới mức, nhà sử gia Lê Văn Hưu nói: "nhân dân
quá nửa là sư sãi, trong nước chỗ nào cũng có chùa chiền". Các trung tâm Phật giáo
ở Quảng Ninh, Hà Nam Ninh và đặc biệt ở Bắc Ninh, quê hương Nhà Lý được xây
dựng đồ sộ theo kiểu thức kiến trúc Đông Nam Á, kéo theo một nền điêu khắc Phật


15
giáo. Các chùa thời Lý thường có 4 cấp, ăn sâu và cao dần theo triền núi, hoặc có
mặt bằng hình vng, hình trịn, trung tâm là tháp cao có tượng Phật đặt trong.
Tượng A Di Đà chùa Phật Tích làm năm 1057 là tác phẩm đầu tiên của thế giới
Phật giáo vĩnh hằng ở Bắc Bộ. Các tượng Kim Cương chùa Long Đọi, tượng đầu
người mình chim, chạm khắc chùa Bà Tấm, chùa Chương Sơn đều thống nhất một
tinh thần viên mãn, cá tính bị tan biến sau lớp đăng ten trang trí hoa văn dầy đặc
trên bề mặt. Cột biểu chùa Dạm (1086) vay mượn từ biểu tượng Linga - Yoni
Champa, là tác phẩm đồ sộ cao 5,4m có tính hồnh tráng. Tinh thần Thiền Nhà Lý
đã chi phối tính ơn hồ và mạnh mẽ bên trong của các tác phẩm điêu khắc vừa khái
quát về tổng thể, kỹ lưỡng về chi tiết ở các cơng trình kiến trúc kỳ vỹ mà từ đó các
bậc Thiền sư có thể "Hú lên một tiếng lạnh cả trời" (Đạo Hạnh)
Điêu khắc thời Trần (1225 - 1400): Nhà Trần thay thế nhà Lý suy tàn trong sự phát
triển đi lên của phong kiến Việt Nam. Ba lần chống quân Ngyên - Mông thắng lợi,
bảo tồn giang sơn đã tạo nên một hào khí oai hùng cho dân tộc và thấm đẫm trong
văn học nghệ thuật; mặt khác chiến tranh nhiều lần tàn phá đất nước, hoạt động
nghệ thuật bị hạn chế, cuối cùng chế độ điền trang thái ấp cũng tan vỡ trong cuộc
cải cách của Hồ Quý Ly vào cuối thế kỷ 14. Dù chùa chiền không được đồ sộ
nhưng đạo Phật vẫn thịnh hành. Điêu khắc Phật giáo hiện chưa tìm được pho tượng
nào nhưng cịn lại rất nhiều bệ tượng đá hoa sen hình hộp trên đặt tượng Tam Thế
(Quá khứ - Hiện tại - Vị lai) ở chùa Thầy, chùa Bối Khê, chùa Dương Liễu. Chạm
khắc gỗ trang trí kiến trúc thấy ở chùa Phổ Minh (Nam Định), chùa Thái Lạc (Hưng

Yên) với các đề tài "Rồng chầu lá đề", "Tiên nữ dâng hoa", "Tiên nữ tấu nhạc",
"Tiên nữ dâng hương". Phong cách hài hoà Lý đã biến đổi, phong cách Trần mạnh
mẽ, khái quát và quan tâm đến tính biến động của cấu trúc tổng thể hơn là hình mơ
tả. Trong các lăng mộ đời Trần, điêu khắc đá chủ yếu là tượng người, tượng thú
chầu và làm thần canh giữ cho thế giới vĩnh viễn của ơng vua có vẻ đẹp trầm mặc
và sinh động. Tượng hổ ở lăng Trần Thủ Độ, tượng trâu và chó ở lăng Trần Hiển
Tơng, tượng quan hầu ở lăng Trần Anh Tông là lối điêu khắc lăng mộ đầu tiên ở
Việt Nam, mà cách tạo hình ln gắn với sự xác định trong không gian quần thể
kiến trúc lộ thiên.
Điêu khắc thời Lê Sơ (1428 - 1527): Trong trăm năm của triều đại Lê Sơ,
Phật giáo đã bị đẩy lùi về các làng xã, Nho giáo lên ngôi và kinh tế nông nghiệp với


16
quan hệ địa chủ - nông dân cũng phát đạt. Ngoài ba pho tượng đá chùa Ngọc Khám
(Bắc Ninh) đến nay hình ảnh điêu khắc Phật giáo thời Lê Sơ rất mờ nhạt. Thay vào
đó là nền điêu khắc lăng mộ của các vua Lê ở Lam Sơn (Thanh Hoá). Tám lăng vua
Lê và hai bà Hoàng hậu đều theo hình thức của lăng vua Lê Thái Tổ làm năm 1433,
mặt bằng hình vng, chính giữa là đường thần đạo dẫn đến mộ phần ở đáy lăng,
hai bên có hai dãy tượng chầu gồm quan hầu, lân, tê giác, ngựa, hổ. Bên ngoài lăng
là nhà bia. Các lăng khác đều tương tự, tuy các con vật chầu có chút ít thay đổi. Sau
20 năm chiến tranh với nhà Minh (1407 - 1427), đất nước trở nên hoang tàn, sản vật
bị vơ vét, sách vở bị đốt, đền chùa bị phá, thợ giỏi bị đưa về Tàu. Vua Lê đành phải
dùng những nơng dân lân cận tạc tượng, xây lăng. Tính thơ mộc, giản dị, sự cần
kiệm của một chính thể mới lên đã dẫn đến một nền điêu khắc đơn điệu, nghèo nàn,
dù con mắt kiến trúc tổng thể khá đặc sắc.
Điêu khắc thời Lê - Trịnh - Tây Sơn: Nhà Mạc thay thế Nhà Lê Sơ 1528 đến

1598. Nông thôn Việt Nam tạm yên ổn và phát triển một phong cách điêu khắc đình
làng, từ chối tính tơn giáo và phong kiến trước đó.Nội chiến bắt đầu giữa Nhà Mạc

với các quan lại họ Trịnh và Nguyễn ủng hộ con cháu nhà Lê, còn gọi là chiến tranh
Nam - Bắc triều.Nhà Mạc thất bại.Thế kỷ 17 họ Trịnh nắm binh quyền ở Bắc Bộ chi
phối vua Lê.Họ Nguyễn cát cứ Nam Bộ. Chiến tranh Trịnh - Nguyễn xảy ra tới bảy
lần trong suốt thế kỷ 17.Nhân tâm náo loạn. Phật giáo phục hưng như một cứu cánh
tinh thần. Thế kỷ 17 - 18 cũng là giai đoạn phát đạt nhất của văn hoá nghệ
thuật.Điêu khắc đạt số lượng và loại hình đáng kể chi phối tồn bộ tinh thần thẩm
mỹ người Việt. Gồm các bộ phận sau: điêu khắc Phật giáo trong các chùa làng, điêu
khắc lăng mộ của vua quan Lê - Trịnh, điêu khắc trong các đền thờ với tín ngưỡng
bản địa. Tượng Phật là Quan Âm "nghìn mắt nghìn tay" chùa Hạ (Vĩnh n), cao
3,7m có 42 tay là tác phẩm đồ sộ của thế kỷ 16. Tượng Phật Bà Quan Âm "nghìn
mắt nghìn tay" chùa Bút Tháp (Bắc Ninh) cao 3,7m; 42 tay lớn; 952 tay nhỏ kết
thành quầng mắt và ánh sáng rực rỡ tiêu biểu cho nghệ thuật thế kỷ 17. Kết thúc thế
kỷ 18 là nhóm điêu khắc các vị tổ chùa Tây Phương được làm năm 1794 thời Tây
Sơn. Điêu khắc đình làng như các đình Phù Lão, Chu Quyến, Thổ Tang, Liên Hiệp,
Hương Lộc... mang đến một nguồn sinh khí mới với nét chạm tự do, cấu trúc đồ sộ


17
như nghệ thuật Baroque. Cá tính và phong cách cá nhân chìm lẫn trong các hình
tượng Thần Phật và được dung dưỡng bởi đời sống làng xã vừa khép kín vừa đa
dạng như những tế bào gộp nên nền văn hố nơng nghiệp Việt Nam.
Điêu khắc thời Nguyễn (1802 - 1945): Nhà Nguyễn rời đô vào Huế, xây
dựng kinh thành Huế và quần thể lăng mộ cho các bậc đế vương ở phía tây kinh
thành, điêu khắc lăng mộ phong kiến Huế nghèo nàn về ngôn ngữ và cứng nhắc về
quy phạm. Các lăng Gia Long, Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức, Đồng Khánh, Khải
Định tuy khác nhau về kiến trúc nhưng tương đối thống nhất về điêu khắc. Tượng
quan hầu, lính hầu, voi và ngựa nghiêm trang hai bên thần đạo, kích thước gần
nguyên mẫu nhưng rất thiếu sinh khí. Ở Bắc Bộ, điêu khắc Phật giáo tiếp tục phát
triển với một tinh thần chung của xã hội phong kiến cuối mùa. Tượng thì to ra,
nhưng vẻ sinh động giảm thiểu. Tác phẩm Quan Âm 112 tay chùa Tây Phương,

tượng Phật chùa Bà Đá, chùa Hồng Phúc là những ánh sáng loé lên cuối cùng khi
một thời đại mới bắt đầu. Năm 1925, trường cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương ra
đời.Mỹ thuật Việt Nam có bước ngoặt mới, hội hoạ với các nghệ sỹ có tên tuổi bắt
đầu thay thế địa vị độc tôn của nghệ thuật điêu khắc cổ.
Tóm lại:
Qua tổng quan cho thấy nghiên cứu tập trung về kiến trúc cổ Việt Nam, loại
hình kiến trúc cổ là Chùa, đình làng, đền thờ miếu mạo, nhà ở. Cơng trình kiến trúc
cổ được làm bằng vật liệu tự nhiên chính như gỗ, đá. Hình thức trang trí chủ yếu là
điêu khắc. Motips hoa văn trang trí phong phú vừa mang đậm bản sắc văn hóa dân
tộc, văn hóa, hoa văn có sự giao thoa với văn hóa Trung quốc, văn hóa phương Tây.
Từ nghiên cứu tổng quan trên cho thấy sự phân loại hoa văn trang trí trên
cơng trình kiến trúc gỗ cổ, phân bố trang chưa được đề cập đến. Từ đó chúng tơi
tiến hành nghiên cứu hoa văn trang trí trên cơng trình kiến trúc gỗ cổ, từ đó làm cơ
sở cho xây dựng cơng trình kiến trúc gỗ mới vẫn đảm bảo được đặc điểm truyền
thống Việt Nam.


×