Tải bản đầy đủ (.pdf) (72 trang)

Vận dụng tư tưởng hồ chí minh về người thầy vào việc phát triển đội ngũ giáo viên trung học phổ thông ở đà nẵng hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.04 MB, 72 trang )

ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
KHOA GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ

KHĨA LUẬN TỐT NGHIỆP
Đề tài:

VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ NGƯỜI THẦY VÀO
VIỆC PHÁT TRIỂN ĐỘI NGŨ GIÁO VIÊN TRUNG HỌC PHỔ
THÔNG Ở ĐÀ NẴNG HIỆN NAY

Giảng viên hướng dẫn : TS Trần Ngọc Ánh
Sinh viên thực hiện

: Nguyễn thị Hương

1


LỜI CẢM ƠN
Để có thể hồn thành tốt khóa luận này, em đã nhận được rất nhiều sự giúp đỡ
nhiệt tình của q thầy cơ. Đầu tiên, em xin chân thành gửi lời cảm ơn đến thầy Trần
Ngọc Ánh người hướng dẫn và giúp đỡ em rất nhiều trong quá trình thực hiện đề tài
khóa luận này. Em xin chân thành cảm ơn các thầy cơ khoa Giáo dục Chính trị trường
Đại học Sư phạm Đà Nẵng, khoa lý luận Chính trị và khoa kinh tế Chính trị của trường
Đại học kinh tế Đà Nẵng đã trang bị cho em những kiến thức sâu sắc để hoàn thành tốt
đề tài này.
Ngồi ra, trong q trình thực hiện khóa luận em còn nhận được rất nhiều sự
động viên và giúp đỡ từ phía gia đình, bạn bè, thầy giáo chủ nhiệm và các bạn trong
lớp. Do đó kết quả của đề tài này là lời cảm ơn sâu sắc nhất của em gửi đến mọi người,
là nguồn động lực để em có thể tự tin vào các kiến thức mình đã thu được sau khi tốt


nghiệp
Mặc dù đã nổ lực cố gắng nhưng đề tài của em vẫn không tránh khỏi những
thiếu sót, kính mong các thầy, cơ đóng góp ý kiến, bổ sung cho khóa luận được hồn
thiện hơn.

2


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ....................................................................................................... 3
1 Tính cấp thiết của đề tài ....................................................................................... 3
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn................................................. 4
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn ................................................. 4
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn .................................... 5
5. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn ........................................................... 5
6. Bố cục của luận văn ............................................................................................ 5
7. Tổng quan tài liệu................................................................................................ 5
NỘI DUNG .............................................................................................................. 10
Chương 1: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ NGƯỜI THẦY........................... 10
1.1.Những cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về người thầy ...................... 10
1.1.1. Cơ sở tư tưởng lý luận ............................................................................. 10
1.1.2. Cơ sở thực tiễn về giáo dục ..................................................................... 14
1.2.Những nội dung cơ bản về người thầy trong tư tưởng Hồ Chí Minh ............. 20
1.2.1. Quan điểm của Hồ Chí Minh về vai trò người thầy giáo ........................ 20
1.2.2. Quan điểm của Hồ Chí Minh về đạo đức người thầy giáo ...................... 23
1.2.3. Quan điểm của Hồ Chí Minh về chuyên môn và phương pháp giảng dạy
của người thầy giáo ......................................................................................... 288
1.2.4. Quan điểm của Hồ Chí Minh về trọng dụng tri thức, nhân tài ............... 33
Chương 2: PHÁT TRIỂN ĐỘI NGỦ GIÁO VIÊN TRUNG HỌC PHỔ THÔNG Ở
ĐÀ NẴNG HIỆN NAY THEO TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH ................................ 38

2.1.Thực trạng đội ngũ giáo viên trung học phổ thông ở Đà Nẵng hiện nay ....... 38
2.1.1 Quá trình hình thành và phát triển giáo dục ở đà nẵng ........................... 38
2.1.2 Tình hình đội ngũ giáo viên trung học phổ thơng ở Đà Nẵng hiện nay ... 40
2.2. Giải pháp xây dựng đội ngũ giáo viên trung học phổ thông theo tư tưởng Hồ
Chí Minh ở Đà Nẵng hiện nay .............................................................................. 45
2.2.1 Tăng cường công tác quy hoạch đào tạo đội ngũ giáo viên phù hợp với
nhu cầu thực tiễn ................................................................................................ 45

1


2.2.2 Đổi mới công tác bồi dưỡng giáo viên gắn với chuẩn mực người thầy theo
tư tưởng Hồ Chí Minh ........................................................................................ 47
2.2.3 Xây dựng hệ thống các chuẩn mực đạo đức người giáo viên nhân dân
theo tư tưởng Hồ Chí Minh ................................................................................ 55
2.2.4 Tiếp tục thực hiện có hiệu quả chính sách thu hút nhân tài ..................... 59
KẾT LUẬN ............................................................................................................. 66
TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................................................... 68

2


VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ NGƯỜI THẦY
VÀO VIỆC PHÁT TRIỂN ĐỘI NGŨ GIÁO VIÊN TRUNG HỌC
PHỔ THÔNG Ở ĐÀ NẴNG HIỆN NAY
PHẦN MỞ ĐẦU
1 Tính cấp thiết của đề tài
Sau 30 năm đổi mới, đất nước ta đã đạt được những thành tựu đáng ghi
nhận. Kinh tế phát triển; chính trị - xã hội, quốc phịng an ninh được giữ vững;
đời sống nhân dân không ngừng được cải thiện rõ rệt. Hòa chung nhịp điệu phát

triển, trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng, trong đó có hội
nhập về giáo dục. Trong những năm qua giáo dục nước ta có những bước tiến
vượt bậc trên cả ba mặt: nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực và bồi dưỡng nhân
tài. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng đã tiếp tục khẳng định: “Phát
triển giáo dục là quốc sách hàng đầu. Đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục
Việt Nam theo hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa, dân chủ hóa và hội
nhập quốc tế”. Trong đó, nhiệm vụ xây dựng đội ngũ nhà giáo là nịng cốt và có
vai trị quan trọng. Chủ Tịch Hồ Chí Minh cho rằng: đội ngũ giáo viên ln giữ
một vị trí, vai trị vơ cùng quan trọng, họ là người quyết định thành công công
cuộc xây dựng và đổi mới nền giáo dục.“Khơng có thầy giáo thì khơng có giáo
dục”, câu nói đó của Người khẳng định vai trị không thể thay thế của người
giáo viên trong sứ mệnh đào tạo thế hệ trẻ.
Trong những năm qua, chúng ta đã xây dựng được mơ hình giáo dục với
nhiều cấp bậc, từ mầm non cho đến đại học và sau đại học, nhiều hình thức đào
tạo từ chuyên tu, tại chức cho đến chính quy, phục vụ tốt cho yêu cầu xã hội hóa
giáo dục. Chúng ta đã xây dựng được đội ngũ giảng viên, giáo viên ngày càng
đông đảo, có trình độ lý luận, phẩm chất đạo đức và chuyên môn, nghiệp vụ
ngày càng được nâng cao. Tuy nhiên, trước những yêu cầu mới của sự nghiệp
phát triển giáo dục trong thời kỳ cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, chịu sự tác động
mạnh mẽ của yếu tố kinh tế thị trường và mặt trái của nó. Đội ngũ giảng viên,
giáo viên ở nước ta nói chung, đội ngũ giáo viên THPT ở Đà Nẵng nói riêng vẫn
3


đang tồn tại nhiều hạn chế, bất cập; số lượng giáo viên vẫn còn thiếu, mất cân
đối về cơ cấu giáo viên giữa các bộ môn, chất lượng chuyên môn, nghiệp vụ
chưa đáp ứng được yêu cầu, một số nhà giáo tha hóa về đạo đức. Tình hình ấy
địi hỏi phải nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo, xây dựng đội ngũ nhà giáo
đáp ứng được yêu cầu trước mắt và lâu dài, thực hiện tốt nhiệm vụ và trách
nhiệm mà Đảng, Nhà nước giao phó cho Sở giáo dục thành phố Đà Nẵng. Với

những lý do trên, tôi chọn đề tài: “Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục
vào việc phát triển đội ngũ giáo viên THPT ở Đà Nẵng hiện nay” làm đề tài
khóa luận tốt nghiệp của mình.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
2.1. Mục đích nghiên cứu
Qua nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về người thầy, đề tài hướng đến
mục đích xây dựng các giải pháp nhằm tiếp tục xây dựng, phát triển đội ngũ
giáo viên THPT ở Đà nẵng hiện nay.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện được mục đích trên, luận văn đề ra những nhiệm vụ sau
đây:
- Làm rõ nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về người thầy.
- Phân tích những thực trạng công tác xây dựng đội ngũ giáo viên THPT
ở Đà Nẵng hiện nay.
- Xây dựng các giải pháp góp phần xây dựng đội ngũ giáo viên THPT ở
Đà Nẵng hiện nay
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Từ mục đích và nhiệm vụ của đề tài đã quy định phạm vi, đối tượng
nghiên cứu của đề tài. Đối tượng nghiên cứu của đề tài là những nội dung tư
tưởng Hồ Chí Minh về người thầy, thực trạng công tác xây dựng đội ngũ giáo
viên THPT ở Đà Nẵng hiện nay.

4


3.2. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài tập giới hạn phạm vi nghiên cứu của mình về tư tưởng Hồ Chí
Minh về người thầy và tập trung vào phân tích thực trạng đội ngũ giáo viên
THPT trong phạm vi Đà Nẵng

4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
4.1. Cơ sở lý luận
Luận văn dựa trên cơ sở lý luận và phương pháp luận của chủ nghĩa Mác
– Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam về
các vấn đề giáo dục và sự phát triển của giáo dục đào tạo.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở những quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ
nghĩa duy vật lịch sử, Luận văn sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu
khác nhau. Nhưng chủ yếu sử dụng các phương pháp chủ yếu sau: phương pháp
thống nhất giữa lôgic và lịch sử, phân tích và tổng hợp, so sánh, trừu tượng
hóa...
5. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Luận văn góp phần khẳng định những đóng góp to lớn của Chủ tịch Hồ
Chí Minh trong tư tưởng về người thầy.
- Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho sinh viên, học viên cao học
chuyên ngành triết học trong việc học tập và nghiên cứu các tác phẩm triết học
Hồ Chí Minh. Những giải pháp của luận văn có thể góp phần cho việc tham mưu
cho việc hoạch định chiến lược phát triển đội ngũ giáo viên THPT ở Đà Nẵng
nói riêng và nước ta nói chung.
6. Bố cục của luận văn
Ngồi phần mở đầu, phần kết luận và danh mục tài liệu tham khảo. Luận
văn được chia làm 2 chương (5 tiết).
7. Tổng quan tài liệu
Nghiên cứu và luận giải tư tưởng của Hồ Chí Minh nói chung, tư tưởng
về giáo dục và người thầy nói riêng đã và đang thu hút rất nhiều sự quan tâm của
5


các nhà nghiên cứu trong và ngoài nước. Hiện nay ở nước ta, có nhiều cơng
trình nghiên cứu dưới nhiều phương diện khác nhau về vấn đề này. Để tạo điều

kiện thuận lợi cho việc khảo cứu, có thể phân chia thành các nhóm vấn đề cơ
bản sau:
Thứ nhất: Nhóm các cơng trình nghiên cứu về tư tưởng Hồ Chí Minh,
trong đó có tư tưởng về giáo dục. Các cơng trình này thực hiện nghiên cứu và
luận giải tổng quát nhiều tư tưởng của Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng, về
độc lập dân tộc, về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam…Trong đó, các tác giả đã luận giải một số nội dung về tư tưởng của Hồ
Chí Minh về người thầy như: Về mục tiêu, phẩm chất đạo đức, vai trò, sứ mệnh
của người thầy …trong giáo dục hiện nay.
Trong nhóm này phải kể đến các cơng trình cơ bản sau: “Giáo trình tư
tưởng Hồ Chí Minh” do Bộ giáo dục và đào tạo và nhà xuất bản Chính trị Quốc
gia Hà Nội ấn hành và tái bản trong nhiều năm từ 1994 đến nay, phục vụ cho
giảng dạy ở các trường đại học và cao đẳng trong cả nước. Trong giáo trình, tư
tưởng của Hồ Chí Minh về nhiều vấn đề được trình bày có hệ thống và lơgic, từ
những điều kiện và q trình hình thành tư tưởng đến việc đi vào luận giải hệ
thống các tư tưởng của Người. Trong đó, tư tưởng giáo dục của Hồ Chí Minh
được trình bày ở tiết 3, mục I của chương VII.Trong phần này, nhóm tác giả đã
trình bày tư tưởng của Hồ Chí Minh về mục tiêu của giáo dục. Theo đó, nền
giáo dục hướng đến mục tiêu và nhiệm vụ mở mang dân trí, xây dựng nền giáo
dục toàn diện, nền giáo dục toàn dân, nền giáo dục tiên tiến, nền giáo dục đào
tạo ra những con người mới XHCN. Trong cuốn“Giáo trình giới thiệu một số tác
phẩm kinh điển tư tưởng Hồ Chí Minh”do Hồng Ngọc Vĩnh và Thái Ngọc Tăng
biên soạn, nhà xuất bản Đại học Huế ấn hành năm 2010. Ngoài lời mở đầu và kết
luận, tác phẩm gồm hai phần.Phần thứ nhất nêu về những bối cảnh ra đời tư tưởng
Hồ Chí Minh.Phần thứ hai tác giả tập trung giới thiệu một số tác phẩm kinh điển tiêu
biểu tư tưởng Hồ Chí Minh.Trong cơng trình nghiên cứu này, tác giả giới thiệu
những nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh thơng qua các tác phẩm mà
6



Người đã để lại. Trong các tác phẩm ấy đã chứa đựng nhiều tư tưởng giáo dục có giá
trị, tư tưởng về vai trò của giáo dục đào tạo cho cách mạng Việt Nam, giáo dục đạo
đức cách mạng, đào tạo và xây dựng đội ngũ trí thức…Đây là một trong những
nguồn tư liệu quý góp phần làm sáng tỏ những vấn đề mà đề tài đang nghiên cứu.
Thứ hai: Nhóm các cơng trình đi sâu nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh
về người thầy. Đây là nhóm các cơng trình thực hiện theo hướng nghiên cứu
chuyên sâu, nghiên cứu những nội dung cụ thể của tư tưởng Hồ Chí Minh về
người thầy. Trong nhóm này có cơng trình nghiên cứu của tiến sĩ Ngô Văn Hà
với “Tư tưởng Hồ Chí Minh về người thầy và việc xây dựng đội ngũ giảng viên
đại học hiện nay”. Cơng trình này do nhà xuất bản Chính trị Quốc gia xuất bản
năm 2013. Cơng trình đã đi sâu nghiên cứu các quan điểm của Hồ Chí Minh về
vai trị, đạo đức, trình độ chuyên môn và phương pháp giảng dạy của người thầy
giáo. Bên cạnh đó, cơng trình nghiên cứu cịn trình bày quan điểm của Hồ Chí
Minh về trọng dụng trí thức – nhân tài và yêu cầu cần có của một nhà giáo cách
mạng. Sau khi nghiên cứu các vấn đề về thực trạng đội ngũ giảng viên đại học ở
nước ta trong những năm đầu thế kỷ XXI, tác giả đã đưa ra một loạt các giải
pháp nhằm xây dựng đội ngũ giảng viên đại học ở nước ta hiện nay trên tinh
thần tư tưởng Hồ Chí Minh như: thực hiện đổi mới công tác bồi dưỡng cán bộ
giảng dạy, đẩy mạnh công tác đào tạo cán bộ giảng dạy hiện có, làm tốt cơng tác
quy hoạch cán bộ giảng viên… Đây không chỉ là những giải pháp cần thiết trong
xây dựng đội ngũ cán bộ giảng viên giảng dạy ở bậc đại học, cao đẳng mà việc
nghiên cứu này sẽ tạo điều kiện trong quá trình nghiên cứu xây dựng giải pháp
đối với xây dựng đội ngũ cán bộ giáo viên THPT.
Cơng trình “Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục và vận dụng vào đào tạo
đại học hiện nay”, do Hồng Anh (chủ biên), nhà xuất bản Chính trị Quốc gia,
2013. Cuốn sách đã trình bày quá trình hình thành và phát triển tư tưởng Hồ Chí
Minh về giáo dục theo từng thời kỳ gắn với cuộc đời hoạt động cách mạng của
Người. Cuốn sách phân tích tương đối tồn diện, có hệ thống nội dung tư tưởng
Hồ Chí Minh về người thầy và nêu bật tầm quan trọng của việc vận dụng tư
7



tưởng Hồ Chí Minh về người thầy vào nâng cao chất lượng đào tạo đại học hiện
nay. Từ việc phân tích một số vấn đề trong cơng tác đào tạo đại học hiện nay
như chất lượng sinh viên, đội ngũ giảng viên, nội dung, chương trình đào tạo,
phương pháp giảng dạy, các tác giả đã đề xuất một số giải pháp vận dụng tư
tưởng Hồ Chí Minh về người thầy vào nâng cao chất lượng đào tạo đại học hiện
nay.
Cuốn sách: “Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục” do Lê Văn Yên (chủ
biên), nhà xuất bản Lao động Hà Nội ấn hành năm 2006. Cuốn sách là một cơng
trình tập hợp khá đầy đủ các bài viết quan trọng của các nhà lãnh đạo cao cấp
của Đảng và Nhà nước, các nhà tư tưởng, nhà giáo dục, chuyên gia giáo
dục.Đây là một tập tư liệu quý để nghiên cứu, học tập và vận dụng tư tưởng Hồ
Chí Minh vào sự nghiệp cải cách, đổi mới và phát triển giáo dục nước ta hiện
nay. Sách có các bài viết quan trọng của các Tổng Bí thư: Lê Duẩn, Trường
Chinh, Nguyễn Văn Linh, Đỗ Mười, Lê Khả Phiêu, Nông Đức Mạnh; nguyên
Chủ tịch nước Trần Đức Lương, Đại tướng Võ Nguyên Giáp và nhất là loạt bài
sâu sắc của Thủ tướng - nhà văn hóa Phạm Văn Đồng về tư tưởng Hồ Chí
Minh đối với giáo dục, dân trí. Ngồi ra, cịn có bài của các giáo sư, tiến sĩ, nhà
giáo dục, nhà tư tưởng, như: Trần Văn Giàu, Đinh Xuân Lâm, Đỗ Nguyên
Phương, Nguyễn Phú Trọng, Phan Ngọc Liên... Đây là nguồn tài liệu quan trọng
cho việc nghiên cứu lý luận cho đề tài.
Thứ ba: Các bài báo viết về tư tưởng Hồ Chí Minh về người thầy và việc
vận dụng vào xây dựng đội ngũ giáo viên nói riêng và phát triển nền giáo dục
Việt Nam nói chung. Trong nhóm này có thể liệt kê một số bài viết tiêu biểu như
sau: “Tư tưởng Hồ Chí Minh về người thầy giáo”, đăng trên tạp chí Khoa học
và cơng nghệ, Đại học Đà Nẵng, Số 5(40).2010. Bài báo do hai tác giả: Ngô Văn
Hà và Đỗ Thị Hằng Nga viết, bài báo đã đề cập về những quan điểm của Hồ Chí
Minh về vai trị, nhiệm vụ, đạo đức, chun mơn, nghiệp vụ của người thầy
giáo. “Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục đào tạo”, do Đào Ngọc Đệ viết, đăng

trên báo Nhân dân, số ra ngày 17/05/2013.Bài báo đề cập đến các quan điểm của
8


Hồ Chí Minh về yêu cầu xây dựng một nền giáo dục toàn diện, một nền giáo dục
độc lập và tiến bộ. Ngồi ra cịn có nhiều bài viết khác như: Ngơ Văn Hà với
“Quan điểm của Hồ Chí Minh về đạo đức của người thầy giáo”, Tạp chí Giáo
dục, số 177, 2007. “Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục” của Trịnh Dỗn Chính,
Nguyễn Anh Quốc, đăng tại Tạp chí Triết học, số 3 (142), 2003. “Triết lý giáo
dục Hồ Chí Minh qua Bài nói chuyện tại Trường Đại học Sư phạm Hà Nội” của
Nguyễn Bá Cường, Bản tin Đại học Sư phạm Hà Nội, số 2/2011…
Thứ tư: Nhóm các bài viết về tình hình giáo dục đào tạo, thực trạng đội
ngũ giáo viên THPT ở Đà Nẵng được đăng tải trên các website của thành phố
Đà nẵng như: “Thực trạng đội ngũ giáo viên trung học phổ thông thành phố Đà
Nẵng”, “Phát triển đội ngũ giáo viên trung học phổ thông ở thành phố Đà
Nẵng”, “Quy hoạch, phát triển cán bộ nữ ngành giáo dục và đào tạo thành phố
Đà Nẵng từ 2007 đến nay” của tác giả Lê Trung Chinh, nguyên giám đốc sở
giáo dục và đào tạo thành phố Đà Nẵng . “Ngành giáo dục-đào tạo thành phố
Đà Nẵng đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong công tác quản lý, đổi
mới phương pháp dạy học”của tác giả Huỳnh Văn Hoa và các Báo cáo Quy
hoạch tổng thể kinh tế - xã hội, Quy hoạch phát triển giáo dục thành phố Đà
Nẵng… Đây là nguồn tài liệu quý tạo điều kiện thuận lợi để tác giả tiến hành
nghiên cứu, hoàn thiện luận văn này.

9


NỘI DUNG
Chương 1: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ NGƯỜI THẦY
1.1. Những cơ sở hình thành tư tưởng Hờ Chí Minh về người thầy.

1.1.1. Cơ sở tư tưởng lý luận
- Quan điểm về người thầy trong Nho giáo
Khổng Tử, người sáng lập ra Nho Giáo, Ơng được người sau tơn vinh là
“Vạn thế sư biểu”, người thầy mẫu mực của mn đời. Ơng chính là người có
những đóng góp to lớn đối với nền giáo dục nhân loại, có thể nói những tư
tưởng giáo dục của Khổng Tử góp một phần trong q trình hình thành tư tưởng
Hồ Chí Minh về giáo dục, trong đó nổi bật là tư tưởng về người thầy. Trong hệ
thống triết học Nho giáo, quan điểm về người thầy được thể hiện cụ thể ở các
điểm sau:
Thứ nhất, thầy giáo là tấm gương sáng cho người học, đây là điều đặc
biệt quan trọng đối với người thầy xưa. Khổng Tử cho rằng, việc tu thân là khởi
điểm của việc hành chính, nếu khơng sửa mình thành nhân thì càng làm việc
chính càng vơ ích, khơng đem lại kết quả gì. Cái cần nhất trong việc tu thân
chính là tu dưỡng nhân cách người làm thầy, làm người bề trên:
“Người trên mà thích điều lễ thì dân khơng dám bất kính; người trên mà
thích điều nghĩa thì dân khơng ai dám khơng phục; người trên mà khơng thích
điều tín thì dân khơng ai dám khơng thực tình”. Ơng cũng ví đức của người qn
- người trị dân với gió, đức của kẻ tiểu nhân - chỉ thường dân với cỏ, gió thổi thì
cỏ ngỏ theo gió. Sửa mình để sửa người thì kết quả là khơng cần lệnh mà dân
cũng thực hành (bất lệnh nhi hành), thân mình mà khơng chính, dẫu có ra lệnh
dân tất đã tn theo (tuy lệnh bất tịng); khơng làm mà nước trị (vơ vi nhi trị),
chỉ trong vịng một năm là việc chính trị đã khá rồi, chỉ cần ba năm là thành
công [22, tr.254].
Thứ hai, Nho giáo đề cao cách thức truyền đạt tri thức, yêu cầu người
thầy sự linh hoạt trong việc vận dụng các phương pháp truyền giảng. Khổng Tử
cho rằng: Khi giảng dạy, người thầy tùy vào tư chất của từng người mà có cách
10


dạy thích hợp. Ví như khi giảng về đức nhân, ông giảng cho mỗi người một cách

khác nhau, vừa tìm cách sửa sở đoản cho mỗi người, vừa khuyến khích họ tuần
tự nhi tiến. Ơng bắt mơn đệ phải suy nghĩ, không nhắm mắt chấp nhận một chân
lý nào cả, khơng phải học theo lối tầm chương trích cú, mà khơng thấu khơng
hiểu gì cả. Khi gặp một vấn đề khúc mắc, ơng chỉ đưa ra ở một khía cạnh, kẻ
học phải tự tìm ra những khía cạnh cịn lại của vấn đề. Khơng những vậy ơng
cịn gợi ý để cho mơn đệ nêu ra những thắc mắc của mình trước, vì ơng cho rằng
nếu chưa có thắc mắc thì là óc chưa già dặn để hiểu vấn đề, có giảng cũng khơng
có lợi gì cho họ, và như thế môn đệ của ông sẽ luôn luôn phải vấn tâm, phải tự
hỏi làm gì và làm thế nào.
Tuy nhiên, bên cạnh những tư tưởng tiến bộ về giáo dục nói chung và
người thầy nói riêng thì trong quan niệm của Nho giáo vẫn tồn tại những hạn
chế nhất định. Trong tư tưởng của Khổng Tử có sự phân chia đối tượng giữa
“qn tử” và “tiểu nhân”, theo đó ơng chỉ chủ trương dạy cho người qn tử.
Nhưng khơng có tư tưởng phân chia đẳng cấp giữa người giàu và người nghèo.
Khổng Tử nói: “Kẻ nào đến ta xin nhập mơn, dâng lên ta (một xâu thịt khơ hay
một bó nem), ta chưa hề chê lễ mọn mà từ chối dạy” [46, tr.1220].Với tư tưởng
tiến bộ trong quan niệm về người nhân nghĩa, trung chính, hiểu được cái đạo của
người quân tử. Chính vì vậy, một trong những ngun tắc hàng đầu của nghề
giáo là phương pháp “ thân giáo” (gương mẫu). Với tư tưởng tiến bộ trên, Nho
Giáo xứng đáng là nguồn gốc lý luận hình thành nên tư tưởng Hồ Chí Minh về
giáo dục cũng như tư tưởng về người thầy ở Việt Nam.
- Quan điểm người thầy trong văn hóa truyền thống dân tộc
Từ ngàn đời nay, hiếu học đã trở thành một trong những truyền thống tốt
đẹp của dân tộc Việt Nam. Suốt chiều dài của lịch sử dựng nước và giữ nước,
lịch sử dân tộc đã ghi nhận nhiều tấm gương hiếu học tiêu biểu đã trở thành
những hiền nhân của dân tộc. Ý thức được giá trị của tri thức, các triều đình
phong kiến Việt Nam đã đề cao sự học.Với tinh thần cầu sự học, cầu tiến bộ, sẵn
sàng tiếp thu cái mới, cái tiến bộ. Qua đó đã hình thành truyền thống “Tơn sư
11



trọng đạo” tốt đẹp, xã hội đề cao vai trò của người thầy giáo, “không thầy đố
mày làm nên” hay “muốn sang phải bắt cầu kiều, muốn con hay chữ phải yêu
lấy thầy”
Chính truyền thống hiếu học ấy đã sản sinh ra những người thầy giáo để
lại tiếng thơm cho mn đời, nhân dân kính mến, u thương, tưởng nhớ hiền
nhân. Điển hình như Chu Văn An ( 1292 – 1370), Nguyễn Bỉnh Khiêm ( 1491 –
1585), Ngô Thế Vinh ( 1803- 1856), Nguyễn Đức Đạt ( 1825 – 1887), Nguyễn
Văn Siêu (1796-1869); Nguyễn Đình Chiểu (1822 – 1888), Hồ Chí Minh(18901969)...
Người thầy trong truyền thống đã dành trọn cơng sức và tâm huyết để
trao lại cho học trò của mình một tài sản vơ giá: “Đạo làm người”, thơng qua
dạy chữ để dạy làm người, dẫn dắt học trò trở thành người có đạo đức cao đẹp,
tâm hồn trong sáng và có trí tuệ sâu rộng sống có ích cho đời.
Họ là những người rất coi trọng tri thức, tôn vinh đạo thánh hiền, lấy dạy
người làm lẽ sống, vì con người mà cống hiến chứ khơng phải vì danh lợi. Họ là
những người coi trọng danh dự, lương tâm, giữ gìn khí tiết; được xã hội kính
trọng và tôn vinh bởi tài năng và đức độ, học vấn và những cống hiến của mình;
có cái tâm trong sáng, đạo đức mẫu mực, phẩm chất thanh cao, cuộc sống giản
dị, chân thành, độ lượng và khoan dung.
Như vậy người thầy trong văn hóa truyền thống dân tộc ln được cả xã
hội tơn vinh và người đời kính trọng, bởi ở họ hội đủ tài năng và đức độ. Không
chỉ là những người dạy chữ, mà còn dạy cho học trị của mình đạo làm người.
Bản thân những người thầy chính là những tấm gương sáng, mẫu mực để học
sinh noi theo. Người thầy thời xưa luôn ý thức được vai trị “khai tâm, mở trí”
của mình và họ ln tuân thủ những quy tắc đạo đức để có thể hồn thành tốt vai
trị của một nhà “mơ phạm”. Chính vì thế, trong lịch sử dân tộc, những người
thầy được tơn vinh như những vị thánh, họ có uy tín, có tiếng nói, có ảnh hưởng
trong xã hội, đó là một hình ảnh đẹp và thiêng liêng trong tâm thức của người
Việt Nam.
12



- Quan điểm của chủ nghĩa C.Mác-Lênin về người thầy
Học thuyết giáo dục C.Mác- Lênin có liên quan đến tất cả các vấn đề
chính trị, xã hội, kinh tế, văn hóa, khoa học kĩ thuật. Với quan điểm của C.Mác,
giáo dục là một hình thái ý thức xã hội đặc trưng của xã hội lồi người, nó có
những quy luật phát triển riêng và bị chế ước bởi những quy luật xã hội và cả
những quy luật tự nhiên.
C.Mác cho rằng: giáo dục là một bộ phận của thượng tầng kiến trúc.
Cũng như tôn giáo, đạo đức, pháp quyền, trong xã hội có giai cấp, giáo dục bao
giờ cũng mang tính giai cấp, giáo dục ln ln là cơng cụ của giai cấp thống trị
xã hội. Chỉ có thể xây dựng một nền giáo dục của giai cấp vô sản khi giai cấp đó
giành được quyền thống trị xã hội.
Theo tinh thần của C.Mác, con người phát triển toàn diện sẽ là mục đích
của nền giáo dục cộng sản chủ nghĩa, và con người phát triển toàn diện là người
phát triển đầy đủ, tối đa năng lực sẵn có về tất cả mọi mặt đạo đức, trí tuệ, thể
chất, tình cảm, nhận thức, năng lực, óc thẩm mỹ và có khả năng cảm thụ được
tất cả những hiện tượng tự nhiên, xã hội xảy ra xung quanh, đồng thời có thể
sáng tạo ra những cái mới theo khả năng của bản thân. Chính vì thế, người thầy
trong quan niệm của chủ nghĩa C.Mác- Lênin, là người có nhiệm vụ truyền bá
giáo dục, khơng gì có thể thay thế vai trị và vị trí người thầy, họ chính là thành
đội quân chủ yếu của sự nghiệp giáo dục xã hội chủ nghĩa.
Kế thừa và phát triển quan điểm của C.Mác, nếu như C.Mác đã đề cập
sâu sắc tới tính tất yếu của con người phát triển toàn diện trong xã hội tương lai,
phác thảo những yêu cầu, chỉ ra những phẩm chất, năng lực chủ yếu của con
người trong tương lai, thì V.I. Lênin đã chỉ rõ quá trình đào tạo con người lí
tưởng chúng ta sẽ đào tạo. Nhà trường cần giáo dục đào tạo những thế hệ trẻ có
bản lĩnh chính trị, có tình cảm đồng chí, có lịng yêu nước, có tri thức cần thiết,
có tư duy sáng tạo, am hiểu thực tiễn và sẵn sàng tham gia có hiệu quả vào cơng
cuộc lao động xây dựng chủ nghĩa xã hội. Theo quan điểm của Lênin, con người

toàn diện ấy không phải từ trên trời rơi xuống mà đó là sản phẩm của tồn bộ
13


quá trình tác động xã hội, giáo dục của nhà trường, gia đình, đồn thể và tự rèn
luyện của thế hệ trẻ. “Học, học nữa, học mãi” đó là lời nhắc nhở của Lênin đối
với chúng ta. Người đòi hỏi trách nhiệm của người thầy phải dạy dỗ, đào tạo và
giáo dục như thế nào cho thật hiệu quả. Tránh việc đóng khung trong bốn bức
tường của nhà trường, sự học tập tách khỏi cuộc sống thực tiễn.
Từ đó Lênin khẳng định chế độ xã hội chủ nghĩa phải thay đổi vị trí xã
hội của người giáo viên, phải có trách nhiệm tạo mọi điều kiện thuận lợi cho
người thầy giáo thực hiện nhiệm vụ giáo dục của mình.
1.1.2. Cơ sở thực tiễn về giáo dục
Ngoài cơ sở lý luận nói trên thì ngồi ra cịn có cơ sở thực tiễn, đây là
nguồn gốc hình thành nên tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục cũng như tư tưởng
về người thầy nói riêng.
- Người thầy trong nền giáo dục phong kiến
Chính quan điểm về người thầy trong nho giáo, nó đã góp phần tạo nên
một hình mẫu người thầy giáo theo Khổng Tử. Để từ đó, nghề giáo ln là nghề
cao q, được xã hội tơn vinh, kính trọng. Nhất là trong xã hội phong kiến,
những ông đồ dạy học hay những người học hành đỗ đạt như những ông Nghè,
ông Cống được xã hội rất mực coi trọng. Họ là những người học chữ “thánh
hiền” nên họ ln có ý thức trau dồi tài năng và giữ gìn phẩm cách. Vì vậy, xã
hội ln gửi gắm ở họ niềm tin về nhân cách, tài năng, luôn coi họ là chuẩn
mực, là hình mẫu để vươn tới.
Những quan điểm, tư tưởng có tính nhân văn đó đã góp phần hình thành
nên những nếp nghĩ, nếp hành động rất kính trọng đối với người thầy, thậm chí
vị trí người thầy cịn được xác định cao hơn cả người cha trong gia đình, thể
hiện ở câu “Qn, sư, phụ”, mang tính thứ bậc trong xã hội. Trong xã hội phong
kiến rất coi trọng việc học “học là để làm người, biết điều hơn thiệt, biết lời thị

phi”. Dù nghèo đến đâu, cha ông ta cũng cố gắng lo cho con “kiếm năm ba chữ
để làm người”. Coi trọng đạo làm người, cha ông ta luôn biết ơn, trân trọng và

14


tôn vinh những người truyền dạy đạo làm người, “Công cha, áo mẹ, chữ thầy” là
ba nghĩa lớn thể hiện sự tơn vinh cơng lao to lớn đó của người thầy.
Mặc khác, trong xã hội phong kiến rất coi trọng và đề cao vai trị của
người thầy giáo. Chính sự coi trọng này đã tạo điều kiện cho người thầy giáo
phát huy hết khả năng của mình. Bởi lẽ, phẩm cách và trí tuệ của người thầy
trong xã hội phong kiến, họ chính là biểu tượng của bậc trí nhân, hội tụ đầy đủ
về kiến thức rộng, có phẩm chất đạo đức tốt, có lịng u nước nồng nàn, có lối
sống giản dị, gần gũi với nhân dân. Có thể nói, những phẩm chất tốt đẹp của dân
tộc ta về tư tưởng, tình cảm, về đạo đức đều tập trung ở thầy giáo. Người thầy
hầu hết đều có cái “Tâm”, cái tâm của người thầy chính là những hành động
theo giá trị “chân, thiện, mỹ”, bất luận trong hoàn cảnh nào lịng người thầy
cũng ln hướng về học trị, vì lợi ích của cộng đồng, vì lợi ích của dân tộc.
Người thầy trong xã hội phong kiến rất mực gương mẫu về đạo đức, bởi
đạo đức vừa là phương pháp vừa là phương tiện giáo dục của người thầy. Nó thể
hiện ở cách sống không vụ lợi, không chuộng hư danh, trong sáng, giản dị, luôn
ý thức trách nhiệm, khắc phục mọi khó khăn để vươn lên phía trước với mục
đích tất cả vì học trị. Người thầy khơng chỉ dạy cho học trò những tri thức giáo
dục truyền thống mà còn dạy cho học trò cách học, cách tự học, cách tìm tịi để
phát hiện ra cái mới, khơng ai khác chính người thầy ln là tấm gương sáng
cho học trị noi theo.
Xã hội phong kiến ghi nhận cơng lao của người thầy, đề cao sự học, đây
là nhân tố cốt yếu quan trọng giúp xã hội phát triển, bên cạnh đó cũng tạo nên
một nền giáo dục truyền thống rất hiệu quả, đã đào tạo được rất nhiều hiền tài,
nhân tài trị nước, cứu nước. Tạo nên những thời kỳ thịnh trị, những trang sử huy

hoàng của dân tộc, đây chính là những tiền đề để xây dựng xã hội hài hòa, ổn
định và phát triển. Phương pháp sư phạm truyền thống đó đã tạo nên kỷ cương
tuân phục tuyệt đối của trò đối với thầy và thể hiện sự trong sáng trong quan hệ
thầy trò, một nét đẹp văn hóa đã được hình thành và gìn giữ hàng ngàn năm qua.

15


Bên cạnh những đóng góp tích cực trong giáo dục nói chung và vai trị
của người thầy nói riêng, thì nền giáo dục phong kiến đã để lại những tồn tại hạn
chế:
Thứ nhất, nền giáo dục phong kiến là nền giáo dục kinh viện xa rời thực
tiễn, coi kinh sách của thánh hiền là đỉnh cao của tri thức. Giáo dục phong kiến
hướng tới kẻ sỹ, người quân tử, bậc trượng phu, phụ nữ bị tước quyền học hành.
Thứ hai, đề cao giáo dục đạo đức, lễ nghĩa là tốt nhưng ứng dụng một
cách máy móc ,khơng linh động.
Thứ ba, nội dung dạy học thiên về khoa học xã hội mà chưa chú trọng
đến khoa học tự nhiên và thực tiễn của đất nước.
Thứ tư, về phương pháp giảng dạy của người thầy, đó là phương pháp
một chiều. Nền giáo dục phong kiến vơ tình đã tạo lập một cách học thuộc lịng
chứ khơng theo cách học sáng tạo, đó là “kiểu học tầm chương trích cú”. Cách
học này chỉ giáo dục con người học theo cách thụ động, biến người học thành kẻ
chỉ biết nghĩ theo, nói theo, chứ khơng nghĩ và nói bằng chủ kiến của mình.
Hạn chế đó cịn thể hiện trong hình thức thi cử trong giáo dục phong
kiến. Thi thố là cách để kiểm tra người thi có thuộc lịng sách thánh hiền khơng,
có năng lực nhớ và viết lại cách giải thích, bình luận đã có sẵn trong các sách
kinh điển, điều này vơ tình đã bỏ qua những nhân tài xuất sắc, đó là một việc rất
đáng tiếc. Ví dụ như cụ Trần Tế Xương (Tú Xương, 1870-1907), nho sinh xuất
sắc này thi trầy trật mới có thể đỗ được, mà cũng chỉ đỗ đến bậc tú tài. Hay là
nhà nho ưu tú Cao Bá Quát (1808-1855) chỉ đỗ cử nhân, trượt thi Hội; hay nhà

chí sĩ yêu nước Phan Bội Châu (1867-1940) cũng chỉ đỗ đạt cao nhất đến bậc
Giải nguyên trường Nghệ [37, tr.245].
- Người thầy trong nền giáo dục thực dân
Từ cuối thế kỷ XIX và gần nửa thế kỷ XX, trong hơn 80 năm nước ta bị
thực dân Pháp xâm lược. Dưới chế độ thuộc địa, nền giáo dục Nho học được
thay thế dần bằng nền giáo dục Pháp - Việt, chủ yếu để đào tạo người phục vụ
cho bộ máy cai trị của thực dân. Chúng thực hiện chính sách ngu dân về giáo
16


dục và đầu độc về văn hoá là một trong những biện pháp hỗ trợ đắc lực cho công
cuộc khai thác ở Việt Nam. Ban đầu, thực dân Pháp thực hiện chính sách giáo
dục chỉ nhằm mục đích đào tạo đội ngũ thông dịch viên và những người phục vụ
trong bộ máy chính quyền thuộc địa, đồng thời từng bước truyền bá chữ Pháp và
chữ Quốc ngữ, hạn chế ảnh hưởng của chữ Hán. Các trường học được tổ chức
với ba bậc: bậc ấu học ở xã, bậc tiểu học ở phủ, huyện và bậc trung học ở tỉnh.
Học sinh theo học trong hệ thống các bậc học này, ngoài việc được trang bị các
kiến thức khoa học phổ thông còn phải học tiếng Pháp. Các bậc học càng cao thì
mơn tiếng Pháp và các kiến thức về văn hố Pháp càng trở thành bắt buộc. Các
khoa thi Hương, Hội, Đình vẫn được tổ chức như cũ.
Sang đầu thế kỷ XX, thực dân Pháp vừa ra sức xây dựng một nền giáo
dục mới, vừa tìm cách thủ tiêu vai trị của nền giáo dục cũ. Hệ thống các trường
tiểu học Pháp- Việt được mở rộng nhằm thay thế dần nền Hán học. Các khoa thi
Hương, Hội, Đình bị bãi bỏ với mục đích chấm dứt vai trị của các sỹ phu phong
kiến.
Hệ thống giáo dục lúc này đã thực sự trở thành “Pháp hố” gồm có ba
cấp: tiểu học, trung học, cao đẳng và đại học. Ở cấp tiểu học học sinh sẽ theo
học trong 5 năm. Nhưng với mục đích hạn chế việc đến trường của thanh thiếu
niên Việt Nam, học sinh sau khi học xong ba năm bậc sơ đẳng phải thi lấy bằng
“sơ học yếu lược” rồi mới được học tiếp hai năm còn lại của bậc tiểu học và thi

tốt nghiệp. Trong ba năm học đầu tiên đó, học sinh phải học bằng tiếng Pháp.
Hơn nữa, chính quyền thuộc địa lại quy định rất chặt chẽ về hạn tuổi vào học ở
các cấp học nên càng góp phần gạt bỏ khơng ít những học sinh muốn theo học.
Bên cạnh các trường tiểu học và trung học, chính quyền thuộc địa cũng
đã chú ý xây dựng các trường chuyên nghiệp và dạy nghề: các trường sư phạm ở
Hà Nội, Nam Định, Huế, Gia Định; các trường chuyên nghiệp và xưởng học
nghề; các trường kỹ thuật thực hành, mỹ thuật thực hành... Các trường cao đẳng,
đại học khác thuộc các ngành sư phạm, cơng chính, thương mại, nơng nghiệp, y

17


dược... cũng được thành lập nhằm đáp ứng nhu cầu cao hơn về nhân lực cho nền
thống trị thực dân.
Tuy nhiên, phần lớn học sinh và sinh viên đại học, cao đẳng đều là con
em các gia đình giàu có hoặc có địa vị nhất định trong xã hội lúc bấy giờ. Các
gia đình nơng dân, nhân dân lao động nghèo rất ít có khả năng cho con em theo
học. Số trẻ em thất học phổ biến trong xã hội và cùng với chính sách bình định,
khủng bố, cai trị, thực dân Pháp thực hiện chính sách ngu dân đã làm hơn 95%
dân số Việt Nam mù chữ. Hơn nữa, trong nội dung chương trình giảng dạy của
hệ thống giáo dục này, thực dân Pháp đã loại trừ những truyền thống tốt đẹp của
dân tộc Việt Nam, thay vào đó là chương trình truyền bá “văn minh đại Pháp”
nhằm đào tạo một thế hệ người Việt Nam “mất gốc”, không có tinh thần u
nước và khơng có ý thức về số phận của một người dân mất nước, biến họ thành
nơ lệ để từ đó phục vụ đắc lực cho cơng cuộc thống trị của thực dân.
Nhưng vượt ngồi mong đợi của chính quyền thực dân, từ trong nền giáo
dục đó vẫn xuất hiện một đội ngũ trí thức un thâm về học thuật, nồng nàn lịng
u nước, có những đóng góp rất to lớn vào cơng cuộc giành lại độc lập, bảo vệ
và xây dựng Tổ quốc. Họ đã cố gắng say mê, tận tụy với nghề, áp dụng những
kinh nghiệm sư phạm phương Tây vào công tác dạy học. Trong hoàn cảnh thực

dân Pháp muốn học sinh Việt Nam qn mình, qn dân tộc mình, chính những
người thầy của thời kỳ này đã góp phần làm cho học sinh hiểu được cái hay, cái
đẹp của tiếng mẹ đẻ, của nền văn chương Việt Nam, nuôi dưỡng tinh thần tự hào
dân tộc, giữ gìn được lương tri của người dân mất nước. Họ cũng nêu tấm gương
sáng về học lực uyên bác, về phương pháp sư phạm xuất sắc và lòng nhân hậu
đối với học sinh. Những thầy giáo tiêu biểu như: Dương Quảng Hàm, Nguyễn
Hữu Tảo, Đặng Thai Mai.... Cũng trong hồn cảnh đất nước bị đơ hộ, nhiều nhà
giáo dục đã đứng lên tranh đấu, trở thành những tấm gương của ý chí tự cường,
tinh thần độc lập tự do, yêu nước, căm thù giặc ngoại xâm như Phan Bội Châu,
Phan Chu Trinh... Một số thầy giáo đã trở thành những chiến sĩ cách mạng đấu

18


tranh không mệt mỏi cho độc lập dân tộc và bình đẳng xã hội, tiêu biểu nhất là
thầy giáo Nguyễn Tất Thành - Chủ tịch Hồ Chí Minh...
Mặc dù chế độ giáo dục của Pháp có nhiều mặt tiêu cực nhưng cũng
khơng thể phủ nhận tác động của nó đối với nền giáo dục Việt Nam. Tiêu biểu
chính là khơi gợi lịng u nước, niềm tự tơn của dân tộc trong mỗi người Việt
Nam. Và từ đây chúng ta có thể khẳng định rằng, trên thế giới này, ít có một
quốc gia dân tộc nào mà hầu hết những con người có vai trị quan trọng trong
lịch sử đều trải qua nghề giáo và có khá nhiều người thầy khơng có chức tước,
học vị gì cao, nhưng lại có cơng lớn. Điều này nói lên rằng, trong bất kỳ giai
đoạn lịch sử nào, người thầy giáo vẫn được coi là cầu nối, nối liền quá khứ, hiện
tại, tương lai.
- Người thầy trong thực tiễn nền giáo dục mới
Ngày nay khi nhân loại bước vào nền văn minh hậu công nghiệp, bối
cảnh xã hội Việt Nam có nhiều thay đổi và điều này cũng đặt ra các yêu cầu đối
với người thầy trong thực tiễn nền giáo dục mới.
Dù trong bất cứ xã hội nào thì người thầy ln là lực lượng chủ đạo

trong công tác giáo dục học sinh và có thể khẳng định rằng, giáo viên giữ vai trị
quyết định trong quá trình nhận biết học – dạy và có vai trị quan trọng trong
việc định hướng giáo dục. Sự thành công của một nền giáo dục phụ thuộc rất lớn
vào “ý chí muốn thay đổi” cũng như chất lượng giáo viên. Đặc biệt ngày nay,
những ứng dụng khoa học cơng nghệ vào q trình dạy học ngày càng nhiều,
các phương tiện kỹ thuật dạy học ngày càng phát triển hiện đại... nhưng chỉ có
tác dụng giảm nhẹ sức lao động của người thầy, tăng thêm năng lực dạy học,
giáo dục cho người thầy chứ hồn tồn khơng thể thay thế vai trị của người
thầy. Điều đó có thể lý giải rằng, người thầy không chỉ dạy tri thức khoa học,
dạy kỹ năng, kỹ xảo; phát triển trí tuệ học sinh mà còn truyền bá cho họ thế giới
quan khoa học, lý tưởng, niềm tin đúng đắn, khơi dậy và bồi dưỡng cho họ
những phẩm chất đạo đức tốt đẹp, năng lực sáng tạo của một người cơng dân.
Ngồi ra trong nền giáo dục mới, người thầy cần phải giáo dục hơn nữa cho học
19


sinh, về đạo lý, công lý, về cái chân, thiện, mỹ trong cuộc sống, phải thông qua
“dạy chữ” mà “dạy người”. Giáo viên phải giáo dục nhân cách học sinh bằng
chính nhân cách của mình, cho nên khơng có máy móc nào hiểu được con
người, tác động đến con người sâu sắc bằng chính con người.
Ngày nay, những đặc điểm và xu thế phát triển của thời đại đang đặt ra
những yêu cầu cao đối với chất lượng nguồn nhân lực, địi hỏi phải đổi mới giáo
dục một cách tồn diện. Xu hướng đổi mới cơ bản là chuyển từ kiểu dạy học
“lấy giáo viên làm trung tâm” sang kiểu “dạy học lấy học sinh làm trung tâm”.
Từ đó phát huy được vai trị chủ động, tích cực, sáng tạo của học sinh.
Trước yêu cầu của thực tiễn giáo dục trong xã hội mới, người thầy giáo
có vị trí, vai trị vơ cùng quan trọng. Chủ tịch Hồ Chí Minh ln ln đánh giá
cao vai trị của đội ngũ giáo viên trong xã hội mới, coi họ là lớp người vẻ vang
của đất nước, vì nếu khơng có thầy giáo thì khơng có giáo dục. Từ đó Người
cũng chỉ rõ: vấn đề then chốt, quyết định chất lượng giáo dục là phải xây dựng

được một đội ngũ đông đảo những người làm công tác giáo dục yêu nghề, yêu
trường, hết lịng thương u, chăm sóc, giáo dục học sinh… Cố tổng bí thư Lê
Duẩn cũng từng nói: “Đảng và nhân dân ta giao phó việc dạy dỗ con em mình
cho các giáo viên, cũng là phó thác cho họ sứ mệnh đào tạo thế hệ tương lai cho
cả dân tộc ta. Chính vì vậy, chẳng những học trị gọi thầy giáo, cô giáo bằng
thầy – cô, mà mọi người cũng đều gọi những người làm công tác dạy học bằng
thầy giáo cô giáo. Họ xứng đáng được tôn vinh là nhà giáo nhân dân” [18, tr.9].
1.2. .Những nội dung cơ bản về người thầy trong tư tưởng Hờ Chí Minh
1.2.1. Quan điểm của Hồ Chí Minh về vai trị người thầy giáo
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục nổi lên vấn đề được Người đặc
biệt quan tâm là vai trò của người thầy giáo.
Theo Người, người thầy giáo ln giữ vị trí đặc biệt quan trọng trong
tồn bộ sự nghiệp giáo dục và quá trình hình thành phát triển nhân cách con
người. Chính vì vậy, bên cạnh dạy chữ thì việc quan trọng nữa của người thầy

20


giáo được gia đình và xã hội tin cậy giao cho trực tiếp gánh vác công việc nặng
nề và vẻ vang là trồng người. Người cho rằng :
“Nhiệm vụ giáo dục là rất quan trọng và vẻ vang vì khơng có người thầy
giáo thì khơng có giáo dục” [32, tr.184]. Người cịn nhấn mạnh: “Nếu khơng có
thầy giáo dạy dỗ cho con em nhân dân, thì làm sao mà xây dựng chủ nghĩa xã
hội được? Vì vậy, nghề thầy giáo là rất quan trọng, rất vẻ vang” [28, tr.689].
“Có gì vẻ vang hơn là đào tạo những thế hệ sau này, tích cực góp phần xây dựng
chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản” [28, tr.529].
Vì vậy, muốn có những người học trị giỏi tuyệt nhiên khơng thể thiếu
những người thầy giỏi, vì thầy giáo được xem là gốc rễ của sự nghiệp trồng
người, ươm mầm xanh cho đất nước ta sau này.
Theo Người, các thầy giáo có vai trò quan trọng là đào tạo cán bộ cho

nước nhà; truyền bá cho thế hệ trẻ lý tưởng đạo đức chân chính, hệ thống các giá
trị, tinh hoa văn hóa của dân tộc và nhân loại, bồi dưỡng cho họ những phẩm
chất cao quý và năng lực sáng tạo phù hợp với sự phát triển và tiến bộ của xã
hội.
Vai trò của người thầy giáo còn thể hiện ở việc xây dựng nội dung,
chương trình đào tạo phù hợp để thực hiện tốt mục tiêu và nhiệm vụ của giáo
dục đào tạo. Theo Hồ Chí Minh, trong q trình xây dựng nội dung, chương
trình đào tạo cần tuân thủ các nguyên tắc:
Thứ nhất, xây dựng nội dung, chương trình đào tạo cần phải bảo đảm
tính tồn diện cả về văn hóa, chính trị, khoa học kỹ thuật.
Thứ hai, các nội dung trong chương trình giáo dục phải có mối quan hệ
mật thiết với nhau, cấu tạo hợp lý và phù hợp với từng giai đoạn.
Thứ ba, xây dựng nội dung, chương trình đào tạo phải mang tính thiết
thực, tiếp cận được với những tiến bộ của khoa học kỹ thuật tiên tiến của thế
giới và gắn với thực tiễn cách mạng ở Việt Nam.
Thứ tư, xây dựng nội dung, chương trình giáo dục phải phù hợp với từng
cấp học.
21


Qua đây chúng ta nhận thấy rằng, Bác đánh giá rất cao vai trò của người
thầy giáo, gọi thầy giáo là “người anh hùng vơ danh”,
“Có gì vẻ vang hơn là nghề đào tạo những thế hệ sau này tích cực góp
phần xây dựng chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản? Người thầy giáo tốt thầy giáo xứng đáng là thầy giáo – là người vẻ vang nhất. Dù là tên tuổi không
đăng trên báo, không được thưởng huân chương, song những người thầy giáo tốt
là những người anh hùng vô danh. Đây là một điều rất vẻ vang. Nếu khơng có
thầy giáo dạy dỗ con em nhân dân, thì làm sao mà xây dựng chủ nghĩa xã hội
được? Vì vậy nghề thầy giáo rất là quan trọng, rất là vẻ vang” [28, tr.529].
Hơn 50 năm qua, kể từ ngày Chủ tịch Hồ Chí Minh chính thức khởi đầu
sự nghiệp giáo dục nhân dân ta, dù phải trải qua bao thăng trầm của lịch sử, nền

giáo dục của nước nhà đã làm nên một sự chuyển biến đáng kể, toàn dân tộc
được học hành, được đào tạo và bước đầu đã đáp ứng được nhu cầu xây dựng và
phát triển đất nước. Thành quả đó là sự nỗ lực lớn lao của tồn thể nhân dân
trong đó có sự góp phần khơng nhỏ của đội ngũ các thầy, cơ giáo. Tổng Bí thư
Nơng Đức Mạnh đã đánh giá về đội ngũ thầy, cô giáo tại buổi làm việc với Bộ
Giáo dục và Đào tạo ngày 26 tháng 04 năm 2002 như sau:
“Trong suốt thời gian dài, đội ngũ giáo viên của chúng ta đã tích cực thực
hiện đường lối giáo dục của Đảng và Nhà nước, rất nhiều nhà giáo đã cống hiến
trọn đời cho sự nghiệp giáo dục thế hệ trẻ, được nhân dân tin yêu. Ngày nay,
nhiều thầy giáo, cơ giáo cũng đang kiên trì bám trụ tại những địa bàn kinh tế - xã
hội đặc biệt khó khăn, tận tụy dìu dắt con em đồng bào miền núi, vùng sâu, hải
đảo, giúp các em học tập, rèn luyện… đất nước phải có những người thầy giỏi
và có lương tâm mới có thể có học trị giỏi và đạo đức” [31, tr.501].
Hiện nay, sự nghiệp giáo dục của nước ta vẫn tiếp tục vận dụng những tư
tưởng của Bác, Đảng ta luôn coi giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu.
Trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội
(Bổ sung và phát triển năm 2011), Đảng ta xác định: “Giáo dục và đào tạo có sứ
mệnh nâng cao dân trí, phát triển nguồn nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, góp phần
22


quan trọng phát triển đất nước, xây dựng nền văn hóa và con người Việt Nam”
[10, tr.77]. Từ đó, có thể nhận thấy vai trò và nhiệm vụ của đội ngũ làm công tác
giáo dục và đào tạo là hết sức nặng nề và đầy thách thức.
1.2.2. Quan điểm của Hồ Chí Minh về đạo đức người thầy giáo
Để hồn thành được nhiệm vụ vẻ vang của mình, Hồ Chí Minh đặc biệt
quan tâm căn dặn, người thầy giáo phải rèn đức luyện tài. Trong đó người xem
đức là gốc và đặc biệt đề cao vai trò của đạo đức. Người khẳng định đạo đức là
yếu tố nền tảng của người cách mạng. Người ví đạo đức cách mạng như gốc của
cây, như nguồn của sông và là cuội nguồn của sức mạnh con người. Người nói:

“Cũng như sơng thì có nguồn mới có nước, khơng có nguồn thì sơng
cạn.Cây phải có gốc, khơng có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo
đức, khơng có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân
dân”[29, tr.252].
Đặc biệt đối với người làm thầy, Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt đề cao
vai trị đạo đức, coi đạo đức là linh hồn người thầy giáo. Người nói: Chính trị là
đức, chun mơn là tài, có tài mà khơng có đức là hỏng, hay “chính trị là linh
hồn, chun mơn là xác. Có chun mơn mà khơng có chính trị thì chỉ là cái xác
khơng hồn” [36, tr.269]. Nhiệm vụ của người thầy giáo là đào tạo một thế hệ sau
này là chủ nhân tương lai của đất nước. Phẩm chất đạo đức của thế hệ tương lai
phụ thuộc rất lớn vào đạo đức của người thầy. Người nhắc nhở: “các thầy, cô
giáo phải trở thành tấm gương sáng, thành kiểu mẫu cho các em noi theo”, “phải
là kiểu mẫu về mọi mặt, tư tưởng, đạo đức, lối làm việc”. Tấm gương của người
thầy đối với học sinh là vơ cùng quan trọng, Người nói:
“Ĩc những người tuổi trẻ trong sạch như một tấm lụa trắng, nhuộm xanh
thì nó sẽ xanh, nhuộm đỏ thì nó sẽ đỏ, vì vậy sự học tập ở nhà trường có ảnh
hưởng rất lớn cho tương lai của thanh niên và tương lai của thanh niên là tương
lai của nước nhà” [28, tr.102].
Do đó: “Thầy tốt thì ảnh hưởng tốt, thầy xấu thì ảnh hưởng xấu” [33,
tr.492]. Từ đó Người khẳng định, “ ta là cán bộ chun mơn, có chun mơn mà
23


×