Tải bản đầy đủ (.pdf) (130 trang)

Phong trào đấu tranh chống thực dân Pháp ở tỉnh Thái Nguyên trong thời kỳ 1884 - 1918

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (4.87 MB, 130 trang )

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
1
MỞ ĐẦU

1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Sau 26 năm xâm lƣợc và bình định nƣớc ta, bằng các âm mƣu thâm độc
và chiến tranh xâm lƣợc tàn bạo, thực dân Pháp đã bắt triều đình nhà Nguyễn
ký điều ƣớc Hác - măng đầu hàng Pháp.
Để đặt cơ sở thống trị lâu dài trên toàn cõi Việt Nam, từ năm 1884 thực
dân Pháp xúc tiến xâm lƣợc các tỉnh trung du và thƣợng du Bắc Kỳ.
Thái Nguyên là tỉnh có nhiều tài nguyên, khoáng sản quí và phong phú
lại có địa bàn chiến lƣợc hết sức quan trọng nên sau khi đánh chiếm đƣợc
thành Bắc Ninh, tháng 3 năm 1884 thực dân Pháp từ Bắc Ninh mở cuộc tấn
công đánh chiếm tỉnh thành Thái Nguyên. Kể từ đó phong trào đấu tranh
chống thực dân Pháp xâm lƣợc của nhân dân Thái Nguyên đã nổ ra và ngày
càng mạnh mẽ.
Tuy nhiên thực dân Pháp phải mất hơn 10 năm chinh phục và bình định
phong trào kháng chiến chống Pháp của nhân dân các dân tộc Thái Nguyên
mới có thể xây dựng hoàn chỉnh bộ máy thống trị, bóc lột ở vùng này.
Dƣới ách thống trị của thực dân Pháp, chịu sự tác động của phong trào
yêu nƣớc, cách mạng của nhân dân, phong trào đấu tranh của binh lính Việt
Nam chống lại chính sách cai trị của Pháp đã nổ ra ngày càng mạnh.
Trong thời kỳ chiến tranh thế giới thứ nhất, chịu ảnh hƣởng của các hoạt
động của Việt Nam Quang phục hội, phát huy truyền thống yêu nƣớc đấu
tranh của binh lính Việt Nam đã làm bùng nổ cuộc khởi nghĩa Thái Nguyên
do Đội Cấn và Lƣơng Ngọc Quyến lãnh đạo. Đây là cuộc nổi dậy khởi nghĩa
của binh lính ngƣời Việt trong quân đội Pháp kéo dài nhất và có tiếng vang
nhất ở Việt Nam trong thời kỳ này.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
2
Phong trào đấu tranh chống thực dân Pháp ở Thái Nguyên thời kỳ 1884


- 1918 là một mốc lịch sử có ý nghĩa rất quan trọng. Nó quan trọng không chỉ
bởi đây là thời kỳ đấu tranh kiên cƣờng của nhân dân các dân tộc ở Thái
Nguyên chống thực dân Pháp xâm lƣợc, mà nó còn góp phần phát huy truyền
thống đấu tranh chống thực dân Pháp vì mục tiêu độc lập, tự do của dân tộc.
Đặc biệt cuộc khởi nghĩa của binh lính ngƣời Việt trong quân đội Pháp do
Đội Cấn và Lƣơng Ngọc Quyến lãnh đạo đã gây tiếng vang lớn trong cả nƣớc,
nó khiến cho thực dân Pháp hoang mang lo sợ, chính quyền Pháp ở Đông
Dƣơng bị chấn động, góp phần răn đe hệ thống cai trị của Pháp.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đánh giá cao cuộc khởi nghĩa Thái Nguyên, vai trò
của Lƣơng Ngọc Quyến và tinh thần anh dũng đấu tranh của binh sĩ yêu nƣớc
trong khởi nghĩa Thái Nguyên đối với sự nghiệp giải phóng dân tộc. Đồng chí
Trƣờng Chinh cũng đã ghi nhận khởi nghĩa Thái Nguyên là một trong những
sự kiện lớn xảy ra ở thị xã Thái Nguyên. Tác giả Trần Huy Liệu, trong cuốn
Lịch sử tám mƣơi năm chống Pháp cũng đã nhắc đến cuộc khởi nghĩa Thái
Nguyên nhƣ là một tấm gƣơng sáng cho các cuộc khởi nghĩa khác noi theo…
nhân dân Thái Nguyên với lòng tự hào của mình đã ghi nhớ công lao to lớn
của thủ lĩnh cuộc khởi nghĩa Thái Nguyên - lập đền thờ Đội Cấn… Tên tuổi
của những ngƣời lãnh đạo khởi nghĩa Thái Nguyên đã đi vào lịch sử của dân
tộc Việt Nam. Nhiều đƣờng phố, khu dân cƣ, trƣờng học, mang tên Lƣơng
Ngọc Quyến và Đội Cấn. Các cơ quan nghiên cứu và các nhà khoa học ở Việt
Nam trong các thập kỷ đã qua có nhiều công trình nghiên cứu và đánh giá cao
cuộc khởi nghĩa Thái Nguyên trong lịch sử.
Để hiểu thêm về phong trào đấu tranh chống Pháp của nhân dân Thái
Nguyên, nhất là cuộc khởi nghĩa Thái Nguyên, góp phần khẳng định những
trang sử vàng trong truyền thống đấu tranh dựng nƣớc và giữ nƣớc của nhân
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
3
dân các dân tộc trong tỉnh em mạnh dạn chọn đề tài: “Phong trào đấu tranh
chống thực dân Pháp ở tỉnh Thái Nguyên trong thời kỳ 1884 - 1918” làm luận
văn thạc sĩ của mình.

2. LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ
Liên quan tới đề tài “Phong trào đấu tranh chống thực dân Pháp ở tỉnh
Thái Nguyên trong thời kỳ 1884 - 1918” trên nhiều khía cạnh khác nhau đã có
một số cơ quan, cá nhân giới sử học trong nƣớc đề cập đến trong một số cuốn
sách đã đƣợc công bố.
Có lẽ tác phẩm ra đời sớm nhất tố cáo chính sách thống trị, bóc lột tàn bạo
của thực dân Pháp ở Đông Dƣơng và Thái Nguyên là một trong những
nguyên nhân quan trọng dẫn đến khởi nghĩa Thái Nguyên bùng nổ năm 1917
đó là : “Bản án chế độ thực dân Pháp ” của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc. Tác
phẩm đƣợc Ngƣời viết bằng tiếng Pháp trong khoảng những năm 1921 - 1925
và đƣợc xuất bản lần đầu tiên năm 1925 tại Pari - Thủ đô nƣớc Pháp
Cuốn “Lịch sử tám mươi năm chống Pháp ” của Trần Huy Liệu, tác giả
viết về cuộc chiến đấu của nhân dân cả nƣớc chống Pháp, trong đó có đề cập
đến hoàn cảnh, diễn biến cuộc khởi nghĩa Thái Nguyên năm 1917.
Nhân dịp kỷ niệm 80 năm khởi nghĩa Thái Nguyên ( 1917 - 1997 ), Sở
văn hóa thông tin tỉnh Thái Nguyên phối hợp với Viện sử học Việt Nam tổ
chức hội thảo khoa học về khởi nghĩa Thái Nguyên và cho xuất bản cuốn:
“Khởi nghĩa Thái Nguyên 80 năm nhìn lại ”. Cuốn sách mang tính chất kỷ
yếu, tập hợp các công trình khoa học và các tham luận khoa học của các nhà
nghiên cứu lịch sử về khởi nghĩa Thái Nguyên tại hội thảo. Ở góc độ và mức
độ khác nhau, các nhà khoa học đã đề cập xoay quanh các vấn đề: nguyên
nhân, hoàn cảnh lịch sử, diễn biến và tính chất khởi nghĩa Thái Nguyên trong
lịch sử.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
4
Cuốn “ Đội Cấn - Thái Nguyên ” do Việt Hải biên soạn nói về cuộc đời
của Đội Cấn, một số nét về nguyên nhân, diễn biến của cuộc khởi nghĩa Thái
Nguyên .
Năm 1917 Đào Trinh Nhất xuất bản cuốn “Lương Ngọc Quyến và cuộc
khởi nghĩa Thái Nguyên ” chủ yếu nói đến cuộc đời hoạt động cách mạng của

Lƣơng Ngọc Quyến, đồng thời tác giả cũng trình bày sơ lƣợc về cuộc khởi
nghĩa Thái Nguyên .
Từ sau khi tỉnh Thái Nguyên đƣợc tái thành lập (1 - 1 - 1997) thực hiện
chỉ đạo của Tỉnh ủy, năm 1999, Bộ chỉ huy quân sự tỉnh Thái Nguyên biên
soạn và phát hành cuốn “ Thái Nguyên lịch sử đấu tranh cách mạng và kháng
chiến chống Pháp (1941 - 1954)”; năm 2003, Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh
Thái Nguyên chỉ đạo biên soạn và xuất bản cuốn “Lịch sử Đảng bộ tỉnh Thái
Nguyên tập 1 (1936 - 1965)”. Hai cuốn sách nêu trên ở mức độ khác nhau đã
đề cập đến phong trào yêu nƣớc chống thực dân Pháp xâm lƣợc của nhân dân
các dân tộc tỉnh Thái Nguyên trƣớc khi có đảng cộng sản Việt Nam ra đời.
Từ năm 2002 trở lại đây, thực hiện chỉ thị số 15 - CT/TW ngày 28 - 8-
2002 của Ban bí thƣ trung ƣơng Đảng, chỉ thị số 17 - CT /TW ngày 31 - 12 -
2002 của Ban thƣờng vụ Tỉnh ủy Thái Nguyên về “Tăng cường và nâng cao
chất lượng nghiên cứu, biên soạn lịch sử Đảng bộ các cấp, lịch sử các ngành
trong tỉnh”, các đơn vị cấp huyện và cơ sở trong tỉnh đã tiến hành sƣu tầm
biên soạn lịch sử Đảng và lịch sử truyền thống. Đến nay, đã có 9/9 huyện,
thành, thị biên soạn lịch sử đảng bộ; lịch sử kháng chiến chống Pháp, chống
Mĩ, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; 7 xã biên soạn đƣợc lịch sử đảng bộ xã. Các
sách viết về lịch sử các ngành, các tổ chức xã hội ở trong tỉnh nhƣ: công an,
quân đội, thanh niên, phụ nữ… lần lƣợt đƣợc biên soạn, xuất bản. Nội dung
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
5
các công trình nghiên cứu này ít nhiều có liên quan đến phong trào đấu tranh
chống Pháp của nhân dân tỉnh Thái Nguyên từ 1884 - 1918.
Các tác phẩm của các nhà lãnh đạo cách mạng và những công trình nghiên
cứu của các cơ quan và các nhà khoa học nói trên là nguồn tài liệu quan trọng
giúp em hoàn thành nghiên cứu đề tài này.
3. ĐỐI TƢỢNG, PHẠM VI NGHIÊN CỨU VÀ NHIỆM VỤ CỦA ĐỀ TÀI
3.1. Đề tài nghiên cứu:
Phong trào đấu tranh chống thực dân Pháp ở tỉnh Thái Nguyên trong thời

kỳ 1884 - 1918.
3.2. Phạm vi của đề tài
- Đề tài đề cập tới địa bàn chiến lƣợc tỉnh Thái Nguyên và truyền thống
đấu tranh của nhân dân các dân tộc trong tỉnh.
- Nội dung chính của đề tài là nghiên cứu Phong trào đấu tranh chống thực
dân Pháp ở tỉnh Thái Nguyên trong thời kỳ 1884 - 1918.
3.3. Nhiệm vụ của đề tài
Thông qua các tƣ liệu lịch sử cụ thể, đề tài tái dựng lại bức tranh lịch sử
về phong trào kháng chiến chống Pháp ở tỉnh Thái Nguyên từ năm 1884 đến
năm 1918, làm nổi bật đƣợc hoàn cảnh lịch sử trong nƣớc dẫn đến phong
trào đấu tranh chống pháp của nhân dân Thái Nguyên, diễn biến của phong
trào qua các giai đoạn. Xác định vị trí, tính chất của cuộc khởi nghĩa Thái
Nguyên trong lịch sử.
4. NGUỒN TƢ LIỆU VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
4.1. Nguồn tƣ liệu
Trong quá trình thực hiện đề tài, chúng tôi đã sử dụng các tác phẩm của:
Các Mác, Enghen, Lênin; các Văn kiện Đảng, những bài viết và tác phẩm của
Chủ tịch Hồ Chí Minh; các bài viết của đồng chí Trƣờng Chinh, các công
trình nghiên cứu của các nhà khoa học đã đƣợc công bố, các bài viết đăng trên
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
6
tạp chí: Nghiên cứu lịch sử, Nghiên cứu lịch sử Đảng, Lịch sử quân sự …
giáo trình các trƣờng đại học, kỉ yếu hội thảo khoa học… viết về lịch sử liên
quan đến phong trào chống Pháp của nhân dân Thái Nguyên trong những năm
1884 - 1918 là nguồn tài liệu cơ bản để thực hiện đề tài này.
4.2. Phƣơng pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu chúng tôi sử dụng phƣơng pháp lịch sử kết
hợp phƣơng pháp lôgíc là chủ yếu. Ngoài ra chúng tôi còn sử dụng phƣơng
pháp phân tích, tổng hợp, so sánh để làm sáng tỏ nội dung của đề tài.
5. ĐÓNG GÓP CỦA LUẬN VĂN

- Luận văn góp phần làm rõ vị thế chiến lƣợc của tỉnh Thái Nguyên
trong đấu tranh chống xâm lƣợc, giành độc lập dân tộc.
- Luận văn trình bày một cách có hệ thống Phong trào đấu tranh chống
Pháp của tỉnh Thái Nguyên trong thời kỳ 1884 - 1918.
- Luận văn làm rõ vị trí, vai trò phong trào đấu tranh chống Pháp khi
thực dân Pháp tiến hành xâm lƣợc và bình định Thái Nguyên. Đặc biệt luận
văn làm rõ nguyên nhân bùng nổ, diễn biến, vị trí, vai trò cuộc khởi nghĩa
Thái Nguyên.
6. KẾT CẤU LUẬN VĂN
Ngoài phần mở đầu và kết luận, phụ lục và tài liệu tham khảo đề tài gồm
3 chƣơng:
Chương 1: Vị trí chiến lƣợc, con ngƣời và truyền thống đấu tranh
bất khuất của tỉnh Thái Nguyên
Chương 2: Phong trào đấu tranh chống thực dân Pháp xâm lƣợc ở
tỉnh Thái Nguyên (1884 - 1914).
Chương 3: Phong trào đấu tranh chống thực dân Pháp xâm lƣợc ở
tỉnh Thái Nguyên (1914 - 1918 ).
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
7



CHƢƠNG 1
VỊ TRÍ CHIẾN LƢỢC, CON NGƢỜI VÀ TRUYỀN THỐNG ĐẤU
TRANH CỦA TỈNH THÁI NGUYÊN

1.1 . VỊ TRÍ CHIẾN LƢỢC
1.1.1. Điều kiện tự nhiên
Thái Nguyên là một tỉnh miền núi và trung du, nằm ở vùng tiếp giáp giữa
đồng bằng châu thổ sông Hồng và vùng rừng núi thƣợng du Bắc Kỳ, ở tọa độ

từ 21,20 đến 20,03 độ vĩ bắc, 105,28 đến 106,16 độ kinh đông, có diện tích tự
nhiên 3.541,5 km
2
, cách trung tâm thủ đô Hà Nội 80 km. Phía bắc giáp tỉnh
Bắc Cạn, phía nam giáp thành phố Hà Nội, phía Tây giáp tỉnh Tuyên Quang,
phía tây nam giáp tỉnh Vĩnh Phúc, phía đông bắc giáp tỉnh Lạng Sơn và đông
nam giáp tỉnh Bắc Giang. Đơn vị hành chính Thái Nguyên thời Pháp thuộc
gồm: 1 thị xã Thái Nguyên và 7 huyện: Định Hóa, Phú Lƣơng, Đại Từ, Võ
Nhai, Đồng Hỷ, Phú Bình, Phổ Yên; toàn tỉnh có 51 tổng, 237 xã, 15 khu phố,
16 trại [48, tr.4]. Thái Nguyên là cửa ngõ phía nam, một phần phía đông khu
Việt Bắc, các huyện phía bắc và tây bắc vùng núi hiểm trở, các huyện phía
nam bán sơn địa tiếp giáp với trung du và đồng bằng, gần Hà Nội. Bởi thế,
trong cách mạng và trong kháng chiến chống Pháp Thái Nguyên là căn cứ địa
“ Tiến khả dĩ công , thoái khả dĩ thủ”.
Địa hình Thái Nguyên chủ yếu là đồi núi thấp chạy theo hƣớng bắc nam
thấp dần từ bắc xuống nam. Bao quanh phía tây nam là dãy núi Tam Đảo và
phía bắc là cánh cung Ngân Sơn, phía đông bắc là sơn khối Bắc Sơn. Đƣợc
các dãy núi phía bắc và đông bắc này che chắn nên Thái Nguyên ít chịu ảnh
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
8
hƣởng của gió mùa đông bắc. Địa hình Thái Nguyên với nhiều đồi thấp thuận
lợi cho phát triển nông, lâm nghiệp và xây dựng các công trình công nghiệp.
Địa hình Thái Nguyên chia làm 3 vùng: Vùng phía tây và tây bắc của tỉnh bao
gồm các huyện: Đại Từ, Định Hoá và các xã phía tây của huyện Phú Lƣơng là
vùng rừng núi hiểm trở, địa hình chia cắt mạnh. Xen giữa các dải núi là các
khu ruộng nhỏ dốc, hẹp. Vùng phía Đông gồm 2 huyện Đồng Hỷ và Võ Nhai,
độ cao trung bình 500 đến 600m, địa hình phức tạp với những khối núi đá vôi
to lớn ở Thần Sa, Thƣợng Nung, Nghinh Tƣờng đặc biệt là khối núi đá vôi
Phƣơng Giao ở Đông Nam huyện Võ Nhai đồ sộ và hiểm trở, tạo ra nhiều
thung lũng hẹp và sâu.Trong lòng núi đá vôi ở các huyện Võ Nhai và Định

Hoá có nhiều hang động rộng, trong chiến tranh có thể làm kho chứa hàng
hoá, vũ khí hoặc làm nơi trú chân, che dấu lực lƣợng thuận tiện .
Vùng trung du gồm các xã phía Nam của huyện Phú Lƣơng, phía Tây
huyện Đồng Hỷ, thành phố Thái Nguyên, thị xã Sông Công và các huyện Phú
Bình, Phổ Yên, đồi núi thấp xen lẫn với đồng bằng.
Điều kiện tự nhiên của ba vùng trên đây đã tạo cho Thái Nguyên phát huy
thế mạnh địa hình, địa vật trong quân sự khi chiến tranh xảy ra, đồng thời núi
rừng hiểm trở lại có tác dụng hạn chế khả năng tác chiến hiện đại của quân
thù và trong hoà bình điều kiện tự nhiên cho phép Thái Nguyên tận dụng thế
mạnh phát triển kinh tế kết hợp giữa nông - lâm nghiệp.
Về khí hậu, Thái Nguyên hình thành 3 vùng: vùng phía tây nóng và mƣa
nhiều, vùng phía đông lạnh và mƣa ít, vùng phía nam có tính chất trung gian
chuyển tiếp giữa phía đông và phía tây. Lƣợng mƣa hàng năm ở Thái Nguyên
trung bình từ 1800-2500 mm. Chế độ mƣa chia làm 2 mùa rõ rệt: mùa nóng
và mùa lạnh.Vào mùa hè, hoạt động của hệ thống khí áp từ phía tây làm cho
thời tiết nóng và khô, nhiệt độ cao tuyệt đối lên đến 39.6
0
C. Vào mùa đông do
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
9
ảnh hƣởng của các đợt không khí lạnh từ phía bắc, thời tiết của Thái Nguyên
khá lạnh, sƣơng muối có khả năng xảy ra, nhất là phía Bắc nơi có địa thế và
độ cao địa hình thuận lợi cho hình thành sƣơng muối. Nhìn chung thời tiết khí
hậu Thái Nguyên không khắc nghiệt, sự phân hoá theo độ cao không lớn, mọi
địa hình trong tỉnh đều có hệ sinh thái đảm bảo cho con ngƣời sinh sống và
sản xuất.
Thái Nguyên có nhiều sông suối, phân bổ tƣơng đối đều trên địa bàn
tỉnh, trong đó lớn nhất là sông Cầu và sông Công. Thái Nguyên còn có nhiều
sông ngắn và nhỏ nhƣ: sông Đu, sông Nghinh Tƣờng, sông Dong, sông Chu,
sông Khe Mo, Huống Thƣợng và nhiều suối nhỏ khác. Các sông suối Thái

Nguyên hàng năm cung cấp cho đồng ruộng ven sông một khối lƣợng phù sa
rất lớn làm cho đất đai thêm phì nhiêu, màu mỡ, giữ đƣợc độ ẩm quanh năm,
thuận lợi cho việc gieo trồng các loại cây lƣơng thực và hoa màu.
Sông Cầu còn là tuyến giao thông đƣờng thủy quan trọng. Với vị trí nhƣ
vậy, Thái Nguyên là cầu nối giữa đồng bằng sông Hồng với các tỉnh miền núi
phía Bắc: Tuyên Quang, Bắc Cạn, Lạng Sơn. Thái Nguyên có hai đoạn quốc
lộ chạy qua: Quốc lộ số 3 chạy theo hƣớng bắc - nam, từ cầu Đa Phúc (Phổ
Yên) đến cầu Ổ Gà (Phú Lƣơng), giáp với tỉnh Bắc Cạn; quốc lộ 1B chạy
theo hƣớng tây nam- đông bắc từ cầu Gia Bẩy (thành phố Thái Nguyên) đến
cầu Mỏ Gà - (Phú Thƣợng - Võ Nhai). Ngoài ra Thái Nguyên còn có hai
tuyến đƣờng sắt: Thái Nguyên - Hà Nội; Thái Nguyên - Kép cùng nhiều tuyến
giao thông nội tỉnh và liên tỉnh nhƣ đƣờng qua Đại Từ lên Tuyên Quang; xuôi
Đồng Hỷ, Phú Bình về Bắc Ninh, Hà Nội … rất thuận lợi cho việc thông
thƣơng giữa các địa phƣơng trong tỉnh và với các tỉnh bạn. Theo sách Dƣ địa
chí của Nguyễn Trãi, Thái Nguyên là phên giậu thứ hai về phƣơng Bắc.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
10
Về giao thông, trƣớc kháng chiến chống Pháp, Thái Nguyên chỉ có
đƣờng thủy và đƣờng bộ. Về đƣờng thủy, từ thị xã Thái Nguyên theo sông
Cầu có thể đi tới Đáp Cầu, từ Đáp Cầu đi tiếp xà lan tới Phủ Lạng Thƣơng,
Phả Lại, Hải Phòng hoặc từ Đáp Cầu có thể đi ôtô, tàu hỏa về Hà Nội. Mùa
mƣa từ thị xã Thái Nguyên, tàu thuyền có trọng tải dƣới 60 tấn có thể đi lại dễ
dàng về Đáp Cầu, Phả Lại, Hải Phòng và ngƣợc lại. Dƣới thời Pháp thuộc đây
là con đƣờng giao thông chính đảm bảo cho việc vận chuyển hàng hóa, lƣơng
thực, thực phẩm, quân trang, quân dụng và binh lính đáp ứng cho các nhu cầu
về quân sự của thực dân Pháp. Về đƣờng bộ, từ tỉnh lỵ Thái Nguyên có các
con đƣờng đi Đáp Cầu, Chợ Chu, Sơn Tây và các trung tâm hành chính trực
thuộc tỉnh. Đầu thế kỷ XX, thực dân Pháp cho xây dựng con đƣờng từ Hà Nội
lên Phủ Lỗ, Đa Phúc qua tỉnh Thái Nguyên lên các tỉnh Bắc Cạn, Cao Bằng.
Hệ thống giao thông tỉnh Thái Nguyên từ trƣớc cách mạng tháng Tám

1945 đã có ý nghĩa chiến lƣợc rất quan trọng. Thái Nguyên có “sẵn đƣờng
giao thông với quốc tế, liền với trung châu tam giác, tức là có cái thế uy hiếp
Hà Nội. Phía đông có thể men theo rừng núi mà tiến đến lân cận Hải Phòng
và đi ra bể. Phía tây có thể men theo rừng núi mà tiến về Hà Đông hay liên lạc
với Thanh – Nghệ” [27]. Hệ thống giao thông tỉnh Thái Nguyên đã góp phần
quan trọng đảm bảo giao thông vận tải đi lại trong thời kỳ cách mạng. Tuy
nhiên, do địa hình tỉnh Thái Nguyên phức tạp, có nhiều sông suối nên các
tuyến giao thông phải đi qua nhiều cầu cống, hầm to, nhỏ khác nhau, trong
khi đó chất lƣợng đƣờng, cầu cống cũng chƣa thật cao nên vào mùa mƣa hoặc
khi địch đánh phá ác liệt thì việc đảm bảo giao thông có nhiều khó khăn.
Do đặc điểm địa hình tự nhiên tỉnh Thái Nguyên đan xen giữa miền núi
và trung du nên tiềm năng đất đai rất đa dạng kể cả đất nông nghiệp, đất công
nghiệp, đất rừng và tài nguyên khoáng sản.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
11
Đất Thái Nguyên chủ yếu thuộc loại Feralit, đất đá vôi và đất ruộng
thích hợp cho việc phát triển cây lƣơng thực, thực phẩm, cây công nghiệp và
chăn nuôi đại gia súc. Trong lòng đất có nhiều khoáng sản quý nhƣ than, sắt,
vàng, chì, kẽm … Sắt có ở các huyện Phổ Yên, Đồng Hỷ, Phú Lƣơng. Than
có ở huyện Phú Lƣơng, Đại Từ. Các mỏ ở Thái Nguyên từ lâu đã thu hút
nhiều nhà khai khoáng trong nƣớc và nƣớc ngoài đến khai thác. Dƣới 4 triều
vua Gia Long, Minh Mệnh, Thiệu Trị, Tự Đức cả nƣớc có 4 mỏ chì đƣợc khai
thác thì mỏ Chì ở Quan Triều (Thái Nguyên) là mỏ có trữ lƣợng lớn rất đƣợc
chú trọng. Đây là một trong những công trƣờng khai thác mỏ có quy mô lớn,
tập trung hàng trăm công nhân. Lực lƣợng lao động tại các hầm mỏ thời đó
gồm cả binh lính, công tƣợng và dân phu, sản xuất theo chế độ lao dịch,
cƣỡng bức với tiền công rất thấp.
1.1.2. Địa giới hành chính qua các thời kỳ lịch sử
Theo sách Dƣ địa chí của Nguyễn Trãi, đời các vua Hùng, nƣớc Văn
Lang chia làm 15 bộ. Thái Nguyên thuộc đất bộ Vũ Định, đông và bắc giáp

Cao, Lạng; tây và nam giáp Kinh - Bắc ; có 2 lộ phủ, 9 huyện , 2 châu và 336
làng xã [65, tr.48]. Thái Nguyên lúc đó nằm dƣới sự cai quản của chế độ lạc
tƣớng. Khoảng đầu công nguyên chế độ lạc tƣớng chấm dứt, bộ chuyển thành
huyện, Vũ Định vẫn giữ tên cũ. Dƣới thời đô hộ của nhà Triệu, Thái Nguyên
nằm trong quận Giao Chỉ. Đời nhà Hán, Thái Nguyên nằm trong huyện Long
Biên thuộc quận Giao Chỉ. Đến thời Đƣờng - thế kỷ VIII, IX, X - Thái
Nguyên là đất châu Long và châu Vũ Nga thuộc An Nam đô hộ phủ.
Dƣới triều Đinh - Tiền Lê (thế kỷ X) đất nƣớc đƣợc chia thành 10 đạo.
Khi Lý Thái Tổ lên ngôi (1010) rời kinh đô từ Hoa Lƣ ra Thăng Long, 10 đạo
đƣợc đổi thành 24 lộ, các vùng xa xôi hẻo lánh nhƣ Thái Nguyên nằm trong
các châu biên viễn. Đầu năm 1226, nhà Trần đổi châu thành lộ, vùng đất Thái
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
12
Nguyên thuộc Nhƣ Nguyệt Giang lộ. Năm 1397 nhà Trần đổi châu Thái
Nguyên thành trấn Thái Nguyên tƣơng đƣơng với tỉnh Thái Nguyên, Bắc Cạn
và nửa tỉnh Cao Bằng ngày nay [2, tr.19].
Thời thuộc Minh (1407 - 1427), vào năm Vĩnh Lạc thứ 5 (1407), trấn
Thái Nguyên đƣợc đổi thành phủ Thái Nguyên lệ thuộc vào ty Bố chính; năm
1426 phủ Thái Nguyên đổi thành Thái Nguyên Thừa Chính ty, gồm 3 phủ:
Thái Nguyên, Phú Bình, Thông Hóa.
Năm 1428, khi nhà Lê thành lập, Lê Thái Tổ chia đất nƣớc thành 5 đạo :
Tây Đạo, Đông Đạo, Bắc Đạo, Nam Đạo và Hải Tây Đạo. Thái Nguyên thuộc
Bắc Đạo. Dƣới đạo là trấn, lộ rồi đến phủ, huyện, châu và cuối cùng là xã.
Năm Quang Thuận thứ bẩy (1466), Lê Thánh Tông định lại bản đồ cả nƣớc,
từ 5 đạo đƣợc chia nhỏ thành 12 đạo Thừa Tuyên, Thái Nguyên là một trong
12 đạo Thừa Tuyên đƣợc gọi là Thái Nguyên Thừa Tuyên.
Vào năm Quang Thuận thứ 10 nhà Lê tiến hành điều tra địa hình, địa
giới của các Thừa Tuyên hoàn thành lập bản đồ quốc gia Đại Việt (1469)
khẳng định chặt chẽ hơn lãnh thổ và biên giới đất nƣớc đổi Thái Nguyên
Thừa Tuyên thành Ninh Sóc Thừa tuyên, gồm ba phủ Phú Bình, Thông Hóa,

Cao Bằng .Dƣới đời Hồng Đức (1483), Ninh Sóc Thừa Tuyên đƣợc đổi thành
sứ Thái Nguyên; năm 1533, xứ Thái Nguyên đƣợc đổi thành trấn Thái
Nguyên .
Từ thời Lê Trung Hƣng (1533 -1789) đến hết thời Nguyễn Gia Long,
Thái Nguyên vẫn gọi là trấn. Năm Vĩnh Trị thứ 2 (1677), phủ Cao Bằng đƣợc
tách khỏi trấn Thái Nguyên đặt tên riêng là trấn Cao Bằng.Từ đó trấn Thái
Nguyên còn hai phủ Phú Bình và Thông Hóa.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
13
Thủ phủ tỉnh Thái Nguyên lúc này đƣợc đặt tại xã Bình Kỳ, huyện Thiên
Phúc (thuộc Hà Nội ngày nay). Năm 1813 thủ phủ Thái Nguyên đƣợc chuyển
về thành Đồng Mỗ, huyện Đồng Hỷ.
Dƣới thời Nguyễn Gia Long, Thái Nguyên thuộc tổng trấn Bắc Thành.
Năm 1831,1832, Minh Mạng chia cả nƣớc thành 30 tỉnh và một phủ Thừa
Thiên.Dƣới tỉnh là phủ, huyện, châu, tổng và cuối cùng là làng xã. Trấn Thái
Nguyên đƣợc đổi thành tỉnh Thái Nguyên. Năm Minh Mạng thứ 16(1835) lập
phủ Tòng Hóa [5, tr.10] trên cơ sở một châu, 3 huyện ( châu Định, huyện Văn
Lãng, Đại Từ và Phú Lƣơng ), đƣa Thái Nguyên lên 3 phủ, 9 huyện và 2
châu.
Dƣới thời Pháp thuộc, từ năm 1890 để dễ bề cai trị và đàn áp những cuộc
nổi dậy của nhân dân ta, chúng tách huyện Bình Xuyên khỏi tỉnh Thái
Nguyên để lập tỉnh Vĩnh Yên và thực thi chế độ quân quản, chia nhỏ địa bàn
Thái Nguyên.Từ tháng 10-1890 đến tháng 9-1892, tỉnh Thái Nguyên bị xóa
bỏ, phân tán vào các địa bàn khác nhau đặt dƣới quyền quản lí của giới cầm
quyền quân sự Pháp. Ngày 11-4-1900, toàn quyền Đông Dƣơng ra Nghị định
thành lập tỉnh Bắc Cạn trên cơ sở toàn bộ phủ Thông Hóa của Thái Nguyên .
Trƣớc cách mạng tháng Tám năm 1945 Thái Nguyên là tỉnh nằm trong
căn cứ địa cách mạng Việt Bắc.Trong kháng chiến chống Pháp, Thái Nguyên
cùng với các tỉnh Tuyên Quang, Bắc Cạn trở thành trung tâm căn cứ địa
kháng chiến Việt Bắc - Thủ đô kháng chiến của toàn quốc.

Thực hiện Nghị quyết ngày 21-4-1965 của Ủy ban thƣờng vụ Quốc hội
nƣớc Việt Nam dân chủ cộng hòa, từ ngày 1-7-1965, tỉnh Thái Nguyên hợp
nhất với tỉnh Bắc Cạn thành tỉnh Bắc Thái, gồm 13 đơn vị hành chính huyện,
thành thị trực thuộc.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
14
Sau kỳ họp thứ 10 Quốc hội khoá IX ra nghị quyết về phân định lại địa
giới hành chính một số tỉnh. Bắc Thái đƣợc tách thành hai tỉnh: Bắc Cạn và
Thái Nguyên. Tỉnh Thái Nguyên đƣợc tái lập gồm 1 thành phố trực thuộc tỉnh
(thành phố Thái Nguyên ), 1 thị xã (thị xã Sông Công) và 7 huyện : Phú
Lƣơng, Đại Từ, Định Hoá, Đồng Hỷ, Phú Bình, Phổ Yên và Võ Nhai với 177
phƣờng , xã thị trấn.
1.2. CON NGƢỜI VÀ TRUYỀN THỐNG
1.2.1. Dân tộc, phân bố dân cƣ và đặc điểm cƣ trú, sinh sống.
Thái Nguyên là tỉnh có nhiều thành phần dân tộc. Chiếm đông đảo nhất
là ngƣời Kinh, sau đó là các dân tộc Tày, Nùng, Sán Dìu, Dao, Cao Lan, Sán
Chí, Hoa và h’mông… sống rải rác khắp các địa phƣơng trong tỉnh.
Dân tộc Kinh chiếm 75,4% dân số. Đây là dân tộc mang nguồn gốc bản
địa, chiếm số lƣợng đông nhất. Cƣ dân Kinh gồm nhiều bộ phận hợp thành:
dân bản địa, dân tuyển mộ vào làm công trong các mỏ, đồn điền, có bộ phận
là ngƣời di cƣ từ các vùng đồng bằng lên. Địa bàn cƣ trú của ngƣời Kinh rộng
khắp các vùng trung du phía nam đến các vùng núi rừng hẻo lánh phía bắc,
trong đó tập trung nhiều ở các khu vực thị xã Thái Nguyên. Vốn cƣ trú ở vùng
thấp, ngƣời Kinh quen với nghề trồng lúa nƣớc, hoạt động nông nghiệp kết
hợp chặt chẽ với các nghề thủ công truyền thống. Ngƣời Kinh không chỉ có
tập quán, kinh nghiệm sản xuất mà còn có khả năng tiếp thu nhanh các tiến bộ
khoa học kỹ thuật và áp dụng chúng một cách linh hoạt.Tổ chức xã hội và
hình thái quần cƣ của ngƣời Kinh rất chặt chẽ từ thành thị đến nông thôn
trong đó tổ chức làng xã cổ truyền là rất tiêu biểu cho thiết chế làng xã Việt
Nam. Nó đƣợc hình thành trên cơ sở nền sản xuất tiểu nông, tự cấp tự túc là

chính.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
15
Dân tộc có số ngƣời đông thứ 2 ở Thái Nguyên là ngƣời Tày, chiếm
10,7% dân số. Cũng nhƣ ngƣời kinh, ngƣời Tày có mặt ở Thái Nguyên từ rất
lâu đời. Ngƣời Tày có quan hệ gần gũi với ngƣời Nùng bởi họ cùng nằm
trong nhóm tộc ngƣời ngôn ngữ Tày - Thái, họ có sự tƣơng đồng về ngôn
ngữ văn hoá. Địa bàn cƣ trú của ngƣời Tày rộng khắp trong phạm vi toàn tỉnh,
song chủ yếu ở các huyện miền núi, vùng cao nhƣ Định Hoá, Phú Lƣơng, Đại
Từ, Võ Nhai tạo thành các làng bản nhà sàn. Ngoài việc trồng lúa, ngƣời Tày
còn trồng ngô, khoai, sắn và các loại thực phẩm khác kết hợp với chăn nuôi
gia súc, gia cầm để cải thiện đời sống. Bên cạnh nghề trồng trọt và chăn nuôi
Ngƣời Tày có một số ngành thủ công truyền thống nhƣ đan lát, dệt vải, thổ
cẩm… và đạt trình độ kinh tế văn hóa, đời sống khá cao so với các tộc ngƣời
thiểu số khác.
Dân tộc Nùng ở Thái Nguyên chiếm 5,13% dân số toàn tỉnh. Ngƣời
Nùng có nhiều chi tộc: Nùng Phàn Sình, Nùng Cháo, Nùng Inh, Nùng
Giang.... Phạm vi cƣ trú của ngƣời Nùng gần nhƣ ngƣời Tày, họ quần cƣ
thành làng bản, phần nhiều ở nhà sàn, một số ít ở nhà đất, tƣờng trình. Ở tất
cả các huyện, thành, thị trong tỉnh đều có ngƣời Nùng, song tập trung đông
nhất ở Đồng Hỷ, Võ Nhai, Đại Từ. Đồng bào Nùng sinh sống chủ yếu bằng
nghề trồng trọt, chăn nuôi và làm các nghề thủ công nhƣ ngƣời Tày, một số
chi tộc Nùng nhƣ Nùng Cháo, Nùng Phàn Sình… còn giỏi các nghề thủ công:
đục đá, nghề rèn…
Dân tộc Dao ở Thái Nguyên có 4 nhóm chính: Dao Đỏ, Dao Tiền, Dao
Lô Gang, Dao Quần Chẹt. Ngƣời Dao sống chủ yếu trên các triền núi cao, địa
hình phức tạp, khó khăn cho việc giao lƣu. Họ có mặt ở nhiều địa bàn trong
tỉnh, tập trung nhất là các huyện Võ Nhai, Đồng Hỷ, Đại Từ, Phú Lƣơng.
Ngƣời Dao hầu hết ở nhà đất, xƣa kia phần lớn đồng bào phát nƣơng, du
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

16
canh, du cƣ. Ngoài lúa nƣơng, ngô đƣợc coi là cây lƣơng thực chính, đồng
bào còn trồng xen canh hoa màu kết hợp chăn nuôi và làm một số nghề thủ
công chủ yếu là dệt vải, làm giấy bản và đan lát. Ngày nay, đồng bào Dao căn
bản đã định canh, định cƣ, cuộc sống ổn định hơn.
Cao Lan và Sán Chí là các nhóm địa phƣơng của tộc ngƣời Sán Chay.
Đồng bào sinh sống tập trung ở 3 huyện: Phú Lƣơng, Định Hóa và Đại Từ.
Phần nhiều đồng bào ở nhà sàn, quần cƣ thành làng xóm nhƣ ngƣời Tày. Về
kinh tế, đồng bào làm ruộng lúa nƣớc, kết hợp trồng trọt chăn nuôi và làm
nghề thủ công gia đình: trồng bông dệt vải , đan lát…
Tộc ngƣời Sán Dìu, sinh sống chủ yếu ở các huyện Đồng Hỷ, Phú
Lƣơng, Đại Từ và Phú Bình. Đồng bào ở nhà nền đất (nhà trệt), tập trung
thành làng xóm. Về kinh tế, họ làm ruộng lúa nƣớc và khai thác các soi bãi
trồng màu kết hợp với chăn nuôi, làm nghề thủ công nhƣ dệt vải, làm giấy
bản, đan lát…
Dân tộc Hoa có mặt tại một số địa phƣơng trong tỉnh nhƣ: thị trấn Chợ
Chu, các xã: Phúc Chu, Kim Phƣợng, Bảo Cƣờng (Định Hóa); Độc Lập (Đại
Từ), Động Đạt (Phú Lƣơng); Dân chủ (Đồng Hỷ); Tân Kim (Phú Bình). Đồng
bào làm ruộng lúa nƣớc, kết hợp trồng màu, chăn nuôi và thủ công gia đình.
Đồng bào Hoa thông thạo làm nghề mật mía, đƣờng phên, làm miến, các loại
bánh kẹo…
Tộc ngƣời Mông mới vào Thái Nguyên khoảng 30 năm nay. Lúc còn
sinh sống ở Hà Giang, Cao Bằng họ phát nƣơng làm rẫy, vào Thái Nguyên (ở
Võ Nhai, Đồng Hỷ và Phú Lƣơng) ít đất rừng, đồng bào khai thác các thung
lũng trồng ngô, trồng sắn, đậu tƣơng… kết hợp chăn nuôi làm nghề thủ công
gia đình nhƣ dệt lanh, dệt vải.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
17
Thái Nguyên trong cội nguồn sâu xa của lịch sử còn là mảnh đất xuất
hiện nền văn hóa khảo cổ thời đá cũ cách nay vài vạn năm đƣợc phản ánh

trong các di tích khảo cổ: Phiêng Tung, mái đá Ngƣờm (Võ Nhai).
Là mảnh đất sinh sống của nhiều dân tộc, Thái Nguyên về mặt văn hóa
phi vật thể hết sức phong phú và đa dạng, đậm đà bản sắc văn hóa dân tộc. Đó
cũng chính là nhân tố quan trọng để Thái Nguyên góp phần dựng lên ngàn
năm văn hiến và truyền thống đấu tranh bất khuất của dân tộc.
"Thái Nguyên đẹp bởi cái đẹp của thiên nhiên và cái đẹp của truyền
thống. Trong quá trình dựng nước và giữ nước của dân tộc, có biết bao sự
kiện lịch sử đã ghi dấu ấn trên mảnh đất này”[55, tr.95].
1.2.2. Truyền thống đấu tranh
Là trung tâm của vùng chiến lƣợc phía Bắc Sông Hồng, sông núi hiểm
trở nên trong lịch sử Thái Nguyên thƣờng xuyên phải đối mặt với các thế lực
ngoại bang và các tầng lớp phản nghịch trong nƣớc luôn uy hiếp trật tự an
ninh. Từ xa xƣa, ông cha ta đã từng coi Thái Nguyên là phên giậu phía bắc
của kinh thành Thăng Long, là điểm xuất phát triển khai lực lƣợng chống giặc
ngoại xâm ở miền biên giới. Chính vì vậy, nhân dân các dân tộc Thái Nguyên
đã sớm xây dựng cho mình bản lĩnh bất khuất, kiên cƣờng trƣớc hoạ ngoại
xâm và bất công xã hội.
Ngay từ trƣớc Công nguyên, nhân dân Thái Nguyên đã tham gia vào
cuộc kháng chiến đầu tiên của dân tộc ta chống giặc Tần xâm lƣợc. Trong bản
sắc phong Đền Giá (Phổ Yên), một ngƣời dân làng Giá có công đánh giặc Tần
đã đƣợc các vƣơng triều sau này ghi công, phong là Mạch Điền Đại Vƣơng để
muôn đời sau thờ phụng.
Năm 40 sau công nguyên, dƣới ách thống trị của nhà Hán, cùng với nhân
dân cả nƣớc nhân dân Thái Nguyên đã tập hợp dƣới bóng cờ “đền nợ nƣớc ,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
18
trả thù nhà” của hai chị em Trƣng Trắc và Trƣng Nhị, nổi dậy khởi nghĩa giải
phóng toàn bộ lãnh thổ, khôi phục đƣợc chủ quyền dân tộc trong 3 năm. Sau
đó, trong hơn một ngàn năm dƣới ách thống trị của phong kiến phƣơng Bắc,
nhân dân Thái Nguyên đã nhiều lần nổi lên chống ách thống trị hà khắc và

chính sách đồng hóa dân tộc tàn bạo của thế lực phong kiến phƣơng Bắc để
giành độc lập tự do cho tổ quốc và bảo tồn bản sắc văn hóa của dân tộc.
Kể từ khi nhà Lý định đô ở Thăng Long, Thái Nguyên trở thành phên
giậu trực tiếp che trở Bắc kinh thành. Trong cuộc kháng chiến chống quân
xâm lƣợc Tống (1076 -1077), phần đất phía nam Thái Nguyên từng là địa đầu
của phòng tuyến Sông Cầu, nơi diễn ra những trận đánh ác liệt giữa quan
quân nhà Lý với Giặc Tống. Trên tấm bia ở Động Linh Sơn ( Đồng Hỷ ) còn
ghi sự kiện mấy ngàn quân Tống đã bỏ xác trên chiến địa Linh Sơn bên bờ
sông Cầu. Trong cuộc kháng chiến chống Tống, nổi lên vai trò của Dƣơng Tự
Minh - một võ quan triều đình nhà Lý, ông trực tiếp tham gia chiến đấu góp
phần đánh tan quân xâm lƣợc Tống trên phòng tuyến sông Cầu. Khi Đàm
Hữu Lƣợng cầm đầu giặc Tống sang cƣớp phá châu Quảng Nguyên, vâng
lệnh triều Đình. Dƣơng Tự Minh cùng Nguyễn Nhƣ Mai, Lý Nghĩa Vinh cầm
quân giết giặc. Chỉ trong một thời gian ngắn, ông đã chỉ huy đánh tan quân
giặc đem lại sự bình yên cho đất nƣớc. Cuộc đời và sự nghiệp của Dƣơng Tự
Minh là biểu tƣợng, tƣợng trƣng cho tinh thần đoàn kết gắn bó giữa các dân
tộc trong buổi đầu xây dựng quốc gia phong kiến Đại Việt. Với những đóng
góp của mình, Dƣơng Tự Minh đã đƣợc vua Lý gả hai Công Chúa Diên Bình
và Thiều Dung, đƣợc phong chức Phò Mã Lang, trông coi toàn bộ việc quân,
dân suốt một vùng khe động dọc biên giới phía Bắc và đƣợc sắc phong là
Thƣợng đẳng thần, đƣợc nhân dân ghi ơn, lập đền thờ cúng ở núi Đuổm, xã
Động Đạt, huyện Phú Lƣơng [20, tr.134]
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
19
Dƣơng Tự Minh là ngƣời con ƣu tú của đất Thái Nguyên, một tấm
gƣơng tiêu biểu cho tinh thần tận trung báo quốc, làm việc nghĩa, chống gian
tà. Cuộc đời và sự nghiệp của Dƣơng Tự Minh là biểu tƣợng tƣợng trƣng cho
tinh thần đoàn kết, gắn bó giữa các dân tộc trong buổi đầu xây dựng quốc gia
phong kiến Đại Việt .
Sau khi nhà Lý sụp đổ, nhà Trần lên thay ( năm 1226 ), mở ra một thời

kỳ phát triển mới của xã hội nƣớc ta. Trên nền tảng xây dựng từ triều Lý, nhà
Trần tiếp tục việc dựng nƣớc, trƣớc hết là củng cố quốc gia thống nhất, lo đối
phó chống giặc ngoại xâm. Dƣới triều Trần, nhân dân Thái Nguyên cùng nhân
dân cả nƣớc tích cực tham gia ba lần kháng chiến chống quân Nguyên Mông
bằng nhiều hình thức khác nhau, góp phần đem lại thắng lợi hiển hách. Cuộc
xâm lăng của quân Nguyên - Mông bị đẩy lùi.
Sau hơn 5 thế kỷ giành và giữ độc lập, thất bại của cuộc kháng chiến
chống quân Minh xâm lƣợc dƣới triều Hồ đã đƣa dân tộc ta đến thảm họa mất
nƣớc. Đầu thế kỷ thứ XV, Quốc gia phong kiến Đại Việt bị giày xéo dƣới gót
giày của giặc Minh. Tại Thái Nguyên, quân Minh đi đến đâu chúng đều tàn
phá, cƣớp bóc đến đấy. Chúng còn dùng thủ đoạn lừa bịp, phao tin trong dân
chúng cốt làm cho mọi ngƣời tƣởng rằng quân Minh sang nƣớc ta với mục
đích vô tƣ là giúp phục hồi nhà Trần. Chúng cho thả xuống sông Cầu và sông
Công những tấm thẻ viết lời tuyên bố “hòa bình” bịp bợm đó. Không cam
chịu kiếp sống nô lệ, cùng với nhân dân cả nƣớc Đại Việt lúc bấy giờ nhân
dân Thái Nguyên đã thổi bùng lên phong trào nổi dậy chống quân xâm lƣợc
nhà Minh. Mở đầu cho phong trào này là cuộc khởi nghĩa nổ ra năm 1408 do
Trần Nguyên Kháng và Nguyễn Đa Bí lãnh đạo. Tiếp đó là hàng loạt cuộc nổi
dậy lẻ tẻ của Chu Sƣ Nhan, Bùi Quý Thăng, Nguyễn Khắc Chẩn, Nguyễn Trà,
Dƣơng Khắc Chung, Dƣơng Thế Chân, Ông Lão, trong đó nghĩa quân Ông
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
20
Lão xây dựng căn cứ ở vùng Đồng Hỷ rồi lan nhanh xuống Bắc Phổ Yên,
đƣợc đông đảo nhân dân trong vùng hƣởng ứng. Nghĩa quân Ông Lão đã mở
rộng địa bàn hoạt động tập kích đánh địch ở các huyện Cổ Lũng (nay là Hữu
Lũng Lạng Sơn), Tƣ Nông (nay là Phú Bình) và Đồng Hỷ (Thái Nguyên ).
Trƣớc các hoạt động mạnh mẽ của nghĩa quân Ông Lão, nhà Minh buộc phải
ra lệnh cho tên nguỵ quân Mã Bá Hổ - giữ chức đồng tri phủ Thái Nguyên -
tuyển thêm nguỵ binh để đàn áp cuộc đấu tranh của nghĩa quân Ông Lão và
nhân dân trong vùng. Tháng 6 năm 1410, quân Mã Bá Hổ tấn công và căn cứ

Đồng Hỷ, đánh nghĩa quân Ông Lão, thủ lĩnh Ông Lão vƣợt vòng vây tiếp tục
củng cố, xây dựng lực lƣợng và tƣ tháng 11 năm 1411 tiếp tục hoạt động trở
lại địa bàn rộng lớn hơn, gây cho giặc Minh nhiều thiệt hại nặng nề. Cuộc
khởi nghĩa của nghĩa quân Ông Lão kéo dài đến tháng 3 năm 1412 mới bị dập
tắt. Tiêu biểu cho tinh thần chiến đấu kiên cƣờng, dũng cảm của nhân dân các
dân tộc Thái Nguyên trong thời kỳ này là những hoạt động của nghĩa quân “
áo đỏ ” (Hồng Y) ở Đại Từ vào cuối năm 1410, buộc nhà Minh phải điều
quân từ nhiều nơi về ứng cứu, buộc tên Mã Bá Hổ (tri phủ Thái Nguyên) phải
trực tiếp đƣa quân đàn áp. Nghĩa quân “ áo đỏ ” đã chiến đấu rất anh dũng,
phát triển phong trào ra khắp vùng Việt Bắc, gây cho giặc Minh nhiều tổn thất
nặng nề, “ làm cho chúng không thể nào đặt vững được chính quyền đô hộ
trên miền rừng núi bao la của ta” [42, tr.293]
Tháng 2 năm 1416, từ quê hƣơng ở xã Văn Yên, huyện Đại Từ, tỉnh
Thái Nguyên, hai cha con Lƣu Trung, Lƣu Nhân Chú đến Lũng Nhài (Thuộc
vùng núi Lam Sơn, huyện Thọ Xuân, Tỉnh Thanh Hoá) cùng với Lê Lợi và 16
ngƣời thân cận khác của Lê Lợi làm lễ tế cáo trời đất, kết nghĩa anh em quyết
tâm đánh giặc Minh, cứu nƣớc. Sau đó, theo kế sách của Lê Lợi, Lƣu Nhân
Chú đã cùng với em rể là Phạm Cuông về quê Đại Từ (Thái Nguyên) phát
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
21
động phong trào đấu tranh chống giặc Minh, xây dựng và huấn luyện lực
lƣợng Vũ Trang, dự trữ lƣơng thực, chuẩn bị khởi nghĩa.
Ngày 7-2-1428 từ Lam Sơn (Thanh Hoá), Lê Lợi cùng toàn thể nghĩa
quân phất cờ khởi nghĩa.
Năm 1419, Lƣu Nhân Chú chỉ huy nghĩa quân đánh trận Nga Nhạc, truy
kích địch đến tận sào huyệt của chúng. Năm 1422, Lƣu Nhân Chú chỉ huy
nghĩa quân phá tan kế hoạch bao vây của giặc Minh, truy kích chúng đến tận
Đông Quan, tiêu diệt tên chỉ huy Phùng Quý. Năm 1425. Lƣu Nhân Chú chỉ
huy nghĩa quân tiêu diệt địch ở Thái Nguyên, đánh úp Tây Đô thu toàn bộ
thuyền, lƣơng thực, quân trang, quân dụng. Tháng 9 năm 1426 từ vùng núi

Lam Sơn (Thanh Hoá), nghĩa quân Lê Lợi mở cuộc tấn công ra Bắc. Lƣu
Nhân Chú cùng các tƣớng Bùi Bị, Lê Trƣơng, Lê Ninh tham gia các cuộc tấn
công chặn địch ở Thái Bình, Khoái Châu ( Hƣng Yên), Bắc giang… sau các
chiến thắng Tốt Động, Chúc Động, quân minh phải rút về Đông Quan, chuyển
từ thế chủ động sang thế phòng ngự, lo củng cố lực lƣợng, cố thủ thành Đông
Quan. Tháng 1 năm 1427, triều đình nhà Minh quyết định điều động 15 vạn
quân, 3 vạn ngựa sang nƣớc ta cứu nguy cho quân Minh. Ngày 10-10-1427
Lƣu Nhân Chú cùng các tƣớng Lê Sát, Lê Ninh, Lê Thụ, Đinh Liệt chỉ huy
nghĩa quân phục kích địch ở ải Chi Lăng (Lạng Sơn) tiêu diệt toàn bộ toán
quân kỵ binh do Liễu Thăng cầm đầu, giết Liễu Thăng ngay tại trận. Tiếp đó
ngày 3-11-1427, Lƣu Nhân Chú cùng các tƣớng khác lại chỉ huy nghĩa quân
đánh thắng oanh liệt trận Xƣơng Giang (Bắc Giang), tiêu diệt và bắt làm tù
binh gần 5 vạn quân Minh. Nghe tin đạo quân của Liễu Thăng bị bại trận,
cánh quân của Mộc Thạnh vội vã rút về nƣớc, bố của Lƣu Nhân Chú là Lƣu
Trung đã cùng với các tƣớng Nguyễn Trích, Phạm Văn Xảo, Trịnh Khả chỉ
huy nghĩa quân truy kích đánh địch ở Lãnh Câu, Đan Xá, tiêu diệt hơn 1 vạn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
22
tên, bắt sống khoảng 1000 tên, thu khoảng 1000 con ngựa và nhiều chiến lợi
phẩm.
Chiến thắng Chi Lăng (Lạng Sơn), Xƣơng Giang (Bắc Giang) và Lãnh
Câu, Đan Xá của nghĩa quân Lê Lợi đã đập tan ý chí xâm lƣợc nƣớc ta của
nhà Minh. Ngày 29-12-1427, quân Minh ở nƣớc ta phải rút về nƣớc. Ngày 13-
1-1428 đội Binh cuối cùng của quân Minh đã rút khỏi nƣớc ta. Đất nƣớc ta
đƣợc hoàn toàn giải phóng.
Khởi nghĩa Lam Sơn thắng lợi kết thúc 20 năm đô hộ tàn bạo của phong
kiến nhà Minh, mở ra một thời kỳ phát triển mới của xã hội nƣớc ta - Thời Lê
Sơ.
Do những đóng góp to lớn của mình vào thắng lợi của dân tộc, nên trong
đợt ban thƣởng đầu tiên sau khi đất nƣớc sạch bóng quân xâm lƣợc, hai cha

con Lƣu Trung, Lƣu Nhân Chú đã đƣợc vua Lê Thái Tổ ban Quốc tính (cho
đổi từ họ Lƣu sang họ vua) và xếp hạng công thần khai quốc. Lƣu Trung đƣợc
phong tƣớc Quốc công; Lƣu Nhân Chú đƣợc ban tƣớc Đình Thƣợng hầu [17,
tr.86]. Sau đó cả hai cha con Lƣu Trung và Lƣu Nhân Chú đều trở thành
những vị quan thanh liêm, góp phần to lớn cùng nhân dân cả nƣớc khôi phục
và xây dựng đất nƣớc sau chiến tranh.
Năm 1527, tập đoàn phong kiến do Mạc Đăng Dung cầm đầu thắng thế
gây sức ép phế truất triều Lê, lập ra triều Mạc. Tình hình đó làm gay gắt thêm
các mối xung đột giữa các phe phái, dẫn đến tình trạng cát cứ và chia rẽ lâu
dài. Đất nƣớc ta bị chia thành hai miền: Bắc Triều và Nam Triều. Tƣớng nhà
Mạc chia nhau chiếm đóng vùng đất Thái Nguyên. Nhân cơ hội này các cựu
thần nhà Lê nổi quân chống lại, Đại Việt lâm vào tình trạng chiến tranh nội
bộ, nhà Minh một lần nữa tìm cách đe dọa, khống chế ta.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
23
Trƣớc tình hình đó, nhà Mạc không có lập trƣờng tƣ tƣởng đối phó
vững vàng mà tỏ ra hèn hạ trƣớc sự đe dọa của giặc Minh. Chiến tranh liên
tiếp xảy ra giữa Lê - Trịnh - Mạc rồi Trịnh - Nguyễn suốt thế kỷ XVI, XVII,
và XVIII. Các tập đoàn phong kiến đối lập dùng chiến tranh để tiêu diệt lẫn
nhau, dẫn đến tình trạng chia cắt đất nƣớc, làm cho đời sống nhân dân vô
cùng cực khổ. Nhân dân khắp mọi nơi liên tiếp nổi dậy khởi nghĩa chống lại
triều đình. Thái Nguyên là một trong những địa bàn hoạt động của nghĩa
quân Nguyễn Danh Phƣơng trong suốt 10 năm dòng (1740 - 1750) .
Theo ghi chép của Đại nam nhất thống chí thì nghĩa quân của Nguyễn
Danh Phƣơng đã xây dựng căn cứ, đắp thành lũy ở núi Độc Tôn (cách huyện
Phổ Yên 66 dặm về phía nam) và núi Ngọc Bội (cách huyện Bình Xuyên 29
dặm về phía Nam ) để chống nhau với quân triều đình.
Năm 1803, các dân tộc thiểu số miền núi phía Bắc, nhất là trấn Thái
Nguyên nhiều lần nổi dậy khởi nghĩa. Tại Thái Nguyên, tiêu biểu có cuộc
khởi nghĩa do Dƣơng Đình Cúc lãnh đạo, diễn ra suốt 18 năm (1806 -1824)

làm cho triều Nguyễn thêm lúng túng.
Trong cuộc khởi nghĩa của Nông Văn Vân chống lại triều đình nhà
Nguyễn (1833 - 1835) nhân dân Thái Nguyên đã tham gia rất tích cực. Thái
Nguyên vừa là địa bàn hoạt động của nghĩa quân vừa là tấm lá chắn ở phía
Nam bảo vệ cho căn cứ địa của cuộc khởi nghĩa ở Vân Trung, Ngọc Mạo
(Bảo Lạc, Cao Bằng).
Cuộc khởi nghĩa của Nông Văn Vân nổ ra ngày 2-7 năm Quý Tỵ (1833).
Từ châu Bảo lạc (Cao Bằng) cuộc khởi nghĩa đã nhanh chóng mở rộng ra các
tỉnh Tuyên Quang, Cao Bằng, Lạng Sơn, Thái Nguyên. Tại Bắc Cạn và Thái
Nguyên nghĩa quân hoạt động ở nhiều nơi: đánh chiếm Bắc Kạn, vây tỉnh
thành Thái Nguyên, chiến đấu nhiều trận với quân Nhà Nguyễn ở chợ Đồn,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
24
chợ Chu, Đại Từ, Ngân Sơn, Đình cả… Triều đình nhà Nguyễn đã 3 lần đƣa
quân đến đàn áp, nhƣng không thu đƣợc kết quả gì. Trong lần đàn áp thứ 3,
nghĩa quân đã đánh một trận lớn trong thung lũng Bắc Phấn. Bằng những bẫy
đá và mƣa tên, nghĩa quân đã tiêu diệt vô số quân triều đình. Nhà Nguyễn
mặc dù tập trung tới hơn 3000 quân nhƣng không tiêu diệt đƣợc phong trào,
trái lại phải tháo chạy. Tới năm 1835 cuộc khởi nghĩa mới bị dập tắt.
Truyền thống yêu nƣớc đấu tranh bất khuất chống xâm lƣợc của nhân dân
các dân tộc Thái Nguyên còn tiếp tục bùng lên trong những năm cuối thế kỷ
XIX, đầu thế kỷ XX.
Tiểu kết chƣơng 1
Với một địa hình phong phú và đa dạng có thể nói rằng Thái Nguyên là
một tỉnh có vị trí chiến lƣợc hết sức cơ động, địa hình Thái Nguyên có thể
chia làm hai vùng rõ rệt: vùng núi và vùng bán sơn địa tiếp giáp với các tỉnh
phía bắc và Hà Nội. Trong lịch sử chống giặc ngoại xâm Thái Nguyên từng
đƣợc mệnh danh là phên giậu phía bắc của kinh thành Thăng Long - Đông Đô
- Hà Nội.
Là một tỉnh có nhiều thành phần dân tộc sinh sống với nhiều nét đặc

trƣng văn hóa khác nhau, đã từ lâu nhân dân các dân tộc ở Thái Nguyên đã có
truyền thống đấu tranh kiên cƣờng, bất khuất trƣớc họa ngoại xâm và bất công
xã hội.
Ngày 17- 03-1884 từ Bắc Ninh thực dân Pháp đem quân đánh chiếm
Thái Nguyên. Từ đó phong trào đấu tranh chống thực dân Pháp của nhân dân
Thái Nguyên bùng nổ. Mặc dù những cuộc đấu tranh ở giai đoạn này còn lẻ tẻ
và mang tính tự phát song nó chính là tiền đề cho các cuộc đấu tranh của thời
kỳ sau này nhất là cuộc đấu tranh chống Pháp của nhân dân ta từ 1884 - 1918
và các giai đoạn tiếp theo.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
25
CHƢƠNG 2
PHONG TRÀO ĐẤU TRANH CHỐNG THỰC DÂN PHÁP XÂM
LƢỢC Ở TỈNH THÁI NGUYÊN (1884 - 1914)

2.1. CÁC CUỘC ĐẤU TRANH CHỐNG THỰC DÂN PHÁP XÂM LƢỢC TỈNH
THÀNH THÁI NGUYÊN NĂM 1884.
2.1.1. Hoàn cảnh lịch sử
Sau 26 năm chinh phục Việt Nam, với điều ƣớc Hác - Măng (1883) thực
dân Pháp đã bắt nhà Nguyễn phải đầu hàng dâng toàn bộ đất nƣớc ta cho thực
dân Pháp.Tuy nhiên để đi đến thiết lập nền thống trị trên đất nƣớc ta, thực dân
pháp còn phải lo đối phó với phong trào kháng chiến chống Pháp mạnh mẽ
của nhân dân ta, nhất là vùng thƣợng du Bắc Kỳ.
Ở nƣớc ta, từ năm 1867, Ngô Côn (thủ lĩnh của một đạo quân "Thái bình
thiên quốc") sau khi cuộc khởi nghĩa bị thất bại đã kéo hơn 2000 tàn quân
vƣợt biên giới Việt - Trung tràn qua các tỉnh vùng núi phía Bắc xuống Thái
Nguyên làm thổ phỉ. Để tranh giành ảnh hƣởng với thực dân Pháp ở Bắc Kỳ
và đáp ứng yêu cầu chi viện của triều đình Huế, năm 1882 quân Thanh bắt
đầu xâm nhập Bắc Kỳ, đóng rải rác trên một tuyến kéo dài từ Thái Nguyên,
Tuyên Quang, Hƣng Hóa, sang đến Cao Bằng, Lạng Sơn và xuống đến Bắc

Ninh [44, tr.51].
Nhân dân Thái Nguyên nói riêng, các tỉnh vùng núi phía bắc nói chung
vừa phải chống sự cƣớp bóc của giặc Ngô Côn vừa phải lo đối phó với quân
Thanh. Năm 1870, Ngô Côn chết, khoảng 1000 quân theo Lƣờng Tam Kỳ đến
huyện vùng núi Định Hoá ( tỉnh Thái Nguyên) đuổi dân, cƣớp ruộng, xây
dựng căn cứ, trở thành quân "cờ vàng"; hơn 1000 quân theo Lƣu Vĩnh Phúc
sang Lào Cai xây dựng căn cứ, trở thành quân "cờ đen".

×