Tải bản đầy đủ (.doc) (6 trang)

Kinh te Nhat Ban

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (295.23 KB, 6 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

<b>Tìm hiểu về nền k</b>

<b>inh tế Nhật Bản</b>



<b>Kinh tế Nhật Bản</b>


<b>Tiền tệ</b> <sub>Yên</sub>


<b>Năm tài chính</b> 1 tháng 4 – 31 tháng 3


<b>Các tổ chức thương mại</b> APEC, WTO và OECD


<b>Thông tin xung quanh</b>


<b>Xếp hạng GDP</b> Thứ 3 theo tổng GDP (PPP) (2005); Thứ 16 theo GDP (PPP) bình quân đầu
người (2005)


<b>GDP</b> 5,200 tỷ USD (ước 2006)


<b>Tốc độ tăng trưởng GDP</b> 2,8% (ước 2006)


<b>GDP bình quân đầu người (GDP thực)</b> 38.500 USD (ước 2006)


<b>GDP theo lĩnh vực</b> nông nghiệp: (1,6%) công nghiệp: (25,3%) dịch vụ: (73,1%) (2006 est.)


<b>Lạm phát</b> 0,3% (ước 2006)


<b>Dân số dưới mức nghèo khổ</b> 13,5% Sau khi trù thuế và các khoản chuyển giao.


<b>Lực lượng lao động</b> 66,44 triệu (ước 2006.)


<b>Lực lượng lao động theo nghề nghiệp</b> nông nghiệp (4,6%), công nghiệp (27,8%), dịch vụ (67,7%) (2004)



<b>Thất nghiệp</b> 4,1% (ước 2006)


<b>Các ngành chính</b> Sản xuất xe cộ, thiết bị cơng nghiệp và vận tải, điện tử, hóa chất, luyện thép,
máy cơng cụ, chế biến thực phẩm, kim loại màu


<b>Các bạn hàng </b>


<b>Xuất khẩu</b> 590,3 tỷ USD f.o.b. (ước 2006)


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

Loan 7,3%, Hong Kong 6,1% (2005)


<b>Nhập khẩu</b> 524,1 tỷ USD f.o.b. (2006 est.)


<b>Các bạn hàng</b> Trung Quốc 21%, Hoa Kỳ 12,7%, Saudi Arabia 5,5%, UAE 4,9%, Australia
4,7%, Hàn Quốc 4,7%, Indonesia 4% (2005)


<b>Tài chính cơng </b>


<b>Nợ cơng</b> Tương đương 176,2% GDP; bao gồm cả nợ trong nước. (2006)


<b>Nợ nước ngoài</b> 1547 tỷ USD (30 tháng 6 2006)


<b>Thu ngân sách nhà nước</b> 1,411 nghìn tỷ (2006)


<b>Chi ngân sách nhà nước</b> 1,639 nghìn tỷ; bao gồm cả chi đầu tư (cho các cơng trình cơng cộng) vào
khoảng 71 tỷ (ước 2006)


<b>Viện trợ kinh tế cho nước ngoài</b> ODA, 9,7 tỷ (2/2007), Nhật chủ yếu là viện trợ cho Indonesia, Cộng hòa
Nhân dân Trung Hoa, Philippines và Bangladesh



<b>Kinh tế Nhật Bản</b> là một nền kinh tế thị trường phát triển. Quy mô nền kinh tế này theo thước đo GDP với tỷ giá thị trường
lớn thứ hai trên thế giới sau Mỹ, còn theo thước đo GDP ngang giá sức mua lớn thứ ba sau Mỹ và Trung Quốc.


<b>1. Quá trình phát triển</b>


<b>a.Một số số liệu về kinh tế Nhật Bản</b>


 Tỷ lệ thất nghiệp năm 2005: 4,4%.


 Tỷ lệ lạm phát năm 2005: -1,3% (giảm phát)


 Tổng sản phẩm nội địa (GDP) năm 2005: khoảng 4,9 nghìn tỉ $. Tốc độ tăng trưởng GDP năm 2005 so với năm


trước: 2,6%.


 Cân đối ngân sách chính quyền trung ương năm 2005: tương đương -5,4% GDP (thâm hụt).


 Tổng số nợ trong dân của chính phủ Nhật chiếm 140% GDP (khoảng 6500 tỉ USD) cao nhất trên thế giới.
 Tổng số nợ xấu khó địi 375 tỉ $ (tính đến tháng 7 năm 2003).


 Dự trữ ngoại tệ tính đến tháng 3 năm 2004: 826,6 tỉ $, nhiều nhất thế giới.
o Xuất khẩu (3 năm 2004): 544,24 tỉ USD.


o Nhập khẩu (3 năm 2004): 431,78 tỉ USD.


 Tỉ trọng các ngành kinh tế chính:


o Nơng nghiệp: 2,1% Giao thông vận tải: 6,3%


o Công nghiệp: 26,8% Lưu thông: 12,5%



o Xây dựng: 10,3% Các ngành khác: 37,9%


Sau thời kì kinh tế "bong bóng" 1986-1990, từ năm 1991 kinh tế Nhật Bản
phát triển ì ạch. Trong những năm 1992-1995 tốc độ tăng trưởng hàng năm chỉ
đạt 1,4%, năm 1996 là 3,2%.


Hình ảnh về Tokyo, thành phố khơng ngủ đêm.


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

2002). Năm 1997, GDP thực chất - 0,7%, năm 1998 là -1,8%. Cuộc suy thoái kinh tế lần này của Nhật chủ yếu mang tính
chất cơ cấu liên quan đến mơ hình phát triển của Nhật đang bị thách thức với một môi trường đã thay đổi khác trước. Vấn
đề phục hồi kinh tế thông qua đẩy mạnh cải cách cơ cấu kinh tế, tài chính, ngân hàng đang là một vấn đề cấp bách đặt ra
trước mắt đối với chính phủ Nhật.


Nhật Bản đang xúc tiến 6 chương trình cải cách lớn trong đó có cải cách cơ cấu kinh tế, giảm thâm hụt ngân sách, cải cách
khu vực tài chính và sắp xếp lại cơ cấu chính phủ... Cải cách hành chính của Nhật được thực hiện từ tháng 1 năm 2001. Dù
diễn ra chậm chạp nhưng cải cách đang đi dần vào quỹ đạo, trở thành xu thế không thể đảo ngược ở Nhật Bản và gần đây
đã đem lại kết quả đáng khích lệ, nền kinh tế Nhật đã phục hồi và có bước tăng trưởng năm 2003 đạt trên 3%, quý I/2004
đạt 6%.


<b>2. Nông nghiệp</b>


Lúa, một loại cây trồng quan trọng của Nhật Bản.


Sườn núi ở Nhật Bản thường quá dốc để có thể canh tác trong khi phần lớn đồng bằng
giờ đây lại được sử dụng để phát triển đô thị hay cho mục đích cơng nghiệp. Với những
nơi đất đai có độ dốc vừa phải, người ta phải tạo thành ruộng bậc thang để trồng trọt.
Nhật Bản có lượng mưa lớn và thời tiết ở hầu hết các đảo ngoại trừ Hokkaido đều ấm
áp, thế nhưng đất nước này lại phải hứng chịu các trận bão vào đầu mùa thu và tuyết rơi
dày trong mùa đông. Ở miền duyên hải, các vùng đồng bằng có thể đương đầu với nguy


cơ sóng thần đơi lúc xảy ra và một vài vùng núi là nạn nhân của những đợt núi lửa phun
trào.


Dù trong hồn cảnh khó khăn như vậy, trồng trọt vẫn giữ vai trò rất quan trọng đối với
kinh tế Nhật Bản. Giữ vai trò chủ đạo trong ngành nông nghiệp là việc canh tác lúa nước.
Tuy nhiên, nhiều trang trại có quy mơ nhỏ. Hầu hết nơng dân làm việc bán thời gian và phần lớn việc đồng áng do phụ nữ
đảm nhận.


Hầu hết các ruộng lúa ở Nhật đều được gieo cấy và thu hoạch bằng máy móc hiện đại.


Lúa nước cần có những điều kiện đặc biết để sinh trưởng. Thóc thường được gieo trong nhà kính cho đến khi nảy mầm
thành mạ. Sau đó, mạ sẽ được cấy với điều kiện rễ mạ phải các mặt nước ít nhất 10cm. Ngồi ra cịn cần tới các cơng trình
thủy nơng để đáp ứng việc tưới tiêu cho các cánh đồng. Cuối cùng, sang thu lúa chín và trước khi được gặt về lúa ngả màu
nâu vàng như lúa mì. Lúa nước trồng được khắp nơi trên Nhật Bản. Tuy nhiên, lúa hầu hết được tròng ở miền cực nam và
tại đây có nhiều vùng chuyên canh tác lúa như Niigata.


Mặc dù lúa nước rõ ràng là cây trồng quan trọng nhất ở Nhật Bản, nhưng người Nhật canh tác cả các loại ngũ cốc khác, như
là lúa mạch để cung cấp rượu bia. Rất nhiều loại rau quả, như cà chua, dưa chuột, khoai lang, rau diếp, táo, củ cải và quả
anh đào cũng được gieo trồng. Chè cũng được trồng nhiều ở Nhật Bản, đặc biệt là ở các thửa ruộng bậc thanh trên sườn núi.
Sản phẩm chính từ chè là trà xanh hay <b>ocha</b>, được người dân khắp nơi trong nước sử dụng. Chè được trồng chủ yếu ở phía
nam đảo Honshu.


<b>3. Ngư nghiệp </b>


Đây là chợ cá Tsukiji ở Tokyo, Nhật Bản. Tại đây có các phiên đấu giá cá ngừ thu hút
rất đông khách du lịch. Để có thể xem được các phiên đấu giá, người ta phải có mặt từ 5
giờ sáng.


</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

Ngư nghiệp Nhật Bản tuột dốc do trữ năng lượng cá ở các vùng nước ven biển cạn kiệt và những quy định quốc tế về hạn
chế đánh bắt cá ở các vùng biển sâu. Hiện nay ngư nghiệp nước này chỉ còn xếp thứ ba trên thế giới. Để bù đắp sản lượng


cá thiếu hụt, Nhật Bản phát triển ngành nuôi trồng thuỷ sản. Nước này còn tăng số lượng hàng thuỷ hải sản nhập khẩu, năm
2002 đạt 3,88 triệu tấn. Cá vẫn đóng vai trò quan trọng trong bữa ăn và chiếm gần 40% lượng protein động vật được hấp
thụ của người Nhật – con số này cao hơn nhiều so với hầu hết các nước phương Tây.


<b>4. Cơng nghiệp</b>


Ơ tơ, một trong những sản phẩm chính trong cơng nghiệp của Nhật Bản.


Công nghiệp Nhật Bản bắt đầu phát triển từ thế kỷ 18. Với việc đất nước mở cửa thông
thương sau cuộc Phục hưng Minh Trị năm 1868, công nghiệp Nhật Bản đã phát triển
nhanh chóng. Sang thế kỷ 20, Nhật Bản đã có thể trang bị cho lực lượng qn đội hùng
hậu bằng chính tiềm lực cơng nghiệp của nước này về sắt thép, đóng tàu, sản xuất xe cộ, chế tạo máy bay và sản xuất vũ
khí.


Trong suốt những thập niên đầu thế kỷ 20, Nhật Bản bành trướng ra bên ngoài. Quân đội Nhật đã chiếm được những vùng
lãnh thổ rộng lớn, đáng chú ý nhất là Triều Tiên và Mãn Châu Lý của Trung Quốc. Đến tháng 12 năm 1941, Nhật Bản tấn
công căn cứ hải quân Mỹ ở Trân Châu cảng, Hawaii. Mỹ tham gia Chiến tranh Thế giới thứ hai, chống lại Nhật và Đức.
Ban đầu, ưu thế nghiêng vệ Nhật Bản, nhưng đến năm 1945, các thành phố của nước này đã ở trong tầm ném bom của đối
phương. Phần lớn các ngành công nghiệp Nhật Bản trở thành mục tiêu ném bom của quân Đồng Minh. Máy bay ném bom
của quân Đồng minh đã tàn phá các thành phố lớn như Tokyo, Niigata, Osaka, Fukuoka, Hiroshima và Nagasaki. Năm
1945, sau khi Nhật Bản bại trận, các nhà công nghiệp của nước này bắt đầu quá trình tái tiết các nhà máy.


Bước sang thế kỷ 21, công nghiệp Nhật Bản đang thay đổi. Sự phát triển ban đầu của công nghiệp Nhật Bản đã dựa vào
cơng nghiệp nặng như sắt thép, hố chất và đóng tàu. Các ngành này đã trải qua một cuộc phục hưng lớn lao trong hai thập
niên 1950 và 1960, và giữ vai trò quan trọng ở Nhật Bản cũng như các quốc gia khác. Kể từ đó, các ngành công nghiệp mới
trong các lĩnh vực hàng tiêu dùng (máy giặt và vô tuyến) và công nghệ cao (máy tính và đồ điện tử tân tiến) đã phát triển.
Các ngành này kết hợp cùng các công nghiệp truyền thống để hình thành nên một khu cơng nghiệp khổng lồ được gọi là
Vành đai Thái Bình Dương trải dài từ phía đơng Honshu cho tới Kyushu.


<b>5. Thương mại và dịch vụ</b>


<b>a. Thương mại</b>


Nhật Bản là một trong những quốc gia thương mại lớn nhất trên thế giới. Từ năm 1945, thương mại xuất khẩu tăng trưởng
đáng kể và đến năm 2003 đạt giá trị 54,55 nghìn tỷ yên. Hiện nay lợi nhuận mà Nhật Bản thu được từ xuất khẩu đã lớn hơn
chi tiêu cho nhập kẩu và thặng dư thương mại vào năm 2003 đạt 10,19 nghìn tỷ yên. Sự mất cân bằng trong cán cân thương
mại với Nhật đã khiến nhiều nước lo ngại. Các nước này cho rằng Nhật Bản đã dựng lên các rào cản đối với hàng hoá nhập
khẩu từ các quốc gia khác. Nhật Bản đã có một số động thái tích cực để giải quyết vấn đề này, ví dụ như trong vịng 20 năm
qua hỗ trợ tài chính của chính phủ cho nơng dân đã giảm xuống. Điều này đồng nghĩa với việc người nông dân trồng lúa ở
các nước khác có thể bán được sản phẩm của họ ở Nhật.


<b>b Dịch vụ</b>


Một khu trung tâm mua sắm ở Yokohama.


</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

nhu cầu về các dịch vụ hỗ trợ như giao thông, viễn thông và những ngành dịch vụ công cộng. Ngành giải trí và du lịch tăng
trưởng mạnh mẽ.


<b>c. Mua sắm</b>


Số lượng lớn những người làm việc trong các ngành dịch vụ là sự phản ánh về xã hội tiêu dùng của Nhật Bản. Người Nhật
rất thích mua sắm; trên thực tế, việc mua sắm đang được xem như một thứ tôn giáo hiện đại của nước này. Vào mỗi Chủ
nhật, tại nhiều đại lộ, ô tô không được lưu thơng để những đồn người mua sắm có thể đi lại dễ dàng hơn. Dù vậy, vào giờ
nghỉ trưa của các ngày chủ nhật, việc mua bán tại siêu thị có thể bị chậm lại.


Nỗi ám ảnh mua sắm kể trên là kết quả từ sự thịnh vượng của Nhật Bản – khi đất nước trở nên phồn vinh hơn thì người dân
có nhiều tiền để tiêu xài hơn. Trong thập niên 1960, ba thứ tài sản q giá, tính trên bình qn số hộ là máy giặt, tủ lạnh và
ti vi. Đến thập niên 1980, ba thứ này nhường chỗ cho xe hơi, máy điều hồ và ti vi màu. Những hàng hố khác như piano,
giường kiểu phương Tây, điện thoại di động và máy tính xách tay đã trở nên phổ biến. Mặc dù trang phục truyền thống như
áo kimono đã thông dụng trở lại nhưng người Nhật bây giờ hầu hết là mặc trang phục phương Tây như quần jeans, áo
khoác và áo thun.



<b>d. Ngành du lịch</b>


Người Nhật là một trong những dân tộc ưa thích du lịch nhất trên thế giới và dành một phần đáng kể trong thu nhập khả
dụng của họ cho các kỳ nghỉ ở nước ngoài. Thế nhưng ngành du lịch trong nước của Nhật Bản lại khơng mấy thu hút khách
nước ngồi. Năm 2003, có đến 13,30 triệu lượt người Nhật đi du lịch nước ngồi trong khi chỉ có 5,21 triệu du khách đến
Nhật Bản. Năm 2002, nước này xếp thứ 32 trên thế giới về du lịch nội địa, thấp hơn so với nhiều quốc gia láng giềng ở
Đông Nam Á như Singapore và Malaysia. Hiện nay, hầu hết khách du lịch tới Nhật Bản là người Đài Loan, Mỹ, Hàn Quốc
và Anh.


<b>6.</b> <b>Giao thông vận tải và thơng tin liên lạc</b>


Tàu shinkansen của Nhật Bản có thể chạy với vận tốc trên 300km/h.


Cảnh quan địa lý của Nhật Bản, cùng với nhiều
hiểm hoạ thiên nhiên của nước này là một thách
thức đáng kế đối với sự phát triển của mạng lưới
thông tin liên lạc. Mặc dù vậy, người Nhật đã đầu tư rất nhiều tiền của để cải thiện
cơ sở hạ tầng về giao thông vận tải. Hệt thống vận tải nổi tiếng nhất của Nhật Bản là
mạng lưới tàu cao tốc, được gọi là <b>shinkansen</b>.


Đây là bản đồ mạng lưới shinkansen dày đặc ở Nhật Bản.


Chính phủ Nhật thấy phải có một hệ thống tàu cao tốc. Những đường ray mới được
thiết kế để cho phép có thêm nhiều tuyến chạy thẳng trong cả nước và những
đoàn tàu tốc hành được sản xuất dựa trên công nghệ tiên tiến nhất thời bấy giờ. Các con tàu này hội đủ các yếu tố về tốc độ,
đúng giờ, đáng tin cậy và thoải mái. Tàu shinkansen vẫn là một trong những đoàn tàu nhanh nhất thế giới và mới đây mới bị
tàu TGV của Pháp vượt qua.


Tuy nhiên, những loại tàu cao tốc khác không phải là shinkansen vẫn được đầu tư đáng kể, chẳng hạn như tàu siêu tốc


Sonic chạy trên tuyến đường ngoằn nghoèo ở đông Kyushu, nối Hakata và Oita. Hệ thống vận tải đô thị cũng được cải
thiện. Mỗi thành phố lại có các hệ thống vận tải khác nhau – xe điện ở Okayama và Hiroshima, tàu điện ngầm ở Kyoto và
xe lửa chạy trên một đường ray ở Kita-Kyushu.


<b>7.Những thách thức về kinh tế</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(6)</span><div class='page_container' data-page=6>

nhân viên trung thành, hợp tác với người chủ và làm việc chăm chỉ. Năng suất nhờ đó được nâng cao, khiến cho Nhật Bản
có thể cạnh tranh với các nước có chi phí lao động thấp hơn.


Tuy nhiên, nền kinh tế đã trì tệ trong suốt thập niên 1990. Kể từ năm 1996, GNP của Nhật sụt giảm và đến nay vẫn chưa
hồi phục. Trái lại, các vụ phá sản và gánh nặng nợ nần của các tập đồn lại tăng lên. Tình trạng đó buộc các cơng ty phải cắt
giảm chi phí. Song, sa thải lao động không phải là biện pháp ứng phó truyền thống của Nhật Bản mỗi khi khó khăn về kinh
tế.


Những chỉ số vệ tỷ lệ thất nghiệp ở Nhật Bản.


<b>a.Tác động của nạn thất nghiệp</b>


Hình ảnh những người vô gia cư ở quận San’ya, Tokyo.


Kể từ năm 1990, số người thất nghiệp đã tăng gấp đôi. Con số này vẫn thấp hơn nhiều
nếu đem so với các tiêu chuẩn phương Tây, nhưng nếu xét theo các tiêu chuẩn của Nhật
Bản, tình trạng thất nghiệp gia tăng đã gây ra một số hậu quả nghiêm trọng. Số vụ tự tử
tăng lên rõ rệt. Tổng chi phí phúc lợi xã hội tăng từ 47.220 tỷ yên lên tới 81.400 tỷ yên
vào năm 2001. Các vụ phạm pháp cũng tăng khá nhanh, từ 1.637.000 vụ vào năm 1990
lên đến 2.790.000 vụ vào năm 2003.


Những cái lều tạm, trong đó có hàng chục người vơ gia cư với số phận hẩm hiu của họ.


<b>b. Những người vô gia cư</b>



Thất nghiệp là thảm hoạ đối với một số người ở Nhật Bản. Trong một xã hội coi trọng
tính hữu ích và tỷ lệ thất nghiệp rất thấp, một số người đã không thể bày tỏ với gia đình
về số phận bi đát của họ. Để giữ được sự tôn trọng của mọi người, họ tiếp tục rời nhà vào
mỗi sáng và trở về khi trời tối mịt, cho đến khi tiền tiết kiệm của họ hết nhẵn và họ buộc
phải giãi bày tình cảnh của mình với những người thân. Những người khác lại gia nhập
vào đội ngũ “những kẻ sa cơ lỡ vận” ở những khu như Airin ở khu thương mại của
Osaka, tại đó họ sống dựa vào sự bố thí của các tổ chức từ thiện. Một số người ngủ trên
đường phố hoặc trong công viên ở các thành phố lớn như Tokyo chẳng hạn. Công viên
Hibaya ở Tokyo là một ví dụ. Những nơi trú ngụ khác là các cây cầu ở Kyoto, các bến tàu và các ga điện ngầm ở các thành
phố lớn. Một vài kẻ kém may mắn đó chỉ có một vài dụng cụ thiết yếu, song một số người vô gia cư lại được sống trong
ngôi nhà tạm dựng bằng vải bạt với khá nhiều dụng cụ gia dụng – một số trong số đó cịn có cả điện. Thế nhưng cịn có
những số phận bi đát hơn nhiều. Nghiện ngập, hoặc thậm chí là tự tử là những hậu quả khi người ta mất đi kế sinh nhai, tài
sản và sự tôn trọng của mọi người.


</div>

<!--links-->
<a href=' /><a href=' />





Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×