Tải bản đầy đủ (.docx) (37 trang)

SKKN người giáo viên chủ nhiệm trong việc hình thành nhân cách cho học sinh lớp 1

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (102.36 KB, 37 trang )

PHẦN I_ ĐẶT VẤN ĐỀ:
I/ LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
1/ Xuất phát từ mục tiêu giáo dục tồn diện:
Khi nói về mục tiêu giáo dục toàn diện, Bác Hồ đã chỉ rõ: “Bồi dưỡng cách
mạng cho thế hệ sau là một việc làm quan trọng và cần thiết”. Người nhiều lần
nhắc nhở: “Thế hệ trẻ là chủ nhân tương lai của đất nước. Nước nhà thịnh hay
suy, yếu hay mạnh một phần lớn là do thế hệ trẻ”. Như vậy, công tác đào tạo,
bồi dưỡng phải đạt cho được mục tiêu giáo dục toàn diện, để lực lượng thế hệ
trẻ sau này đủ sức phụng sự đất nước, phục vụ nhân dân. Để làm được điều này,
phải xác định mục tiêu cụ thể của từng bậc học, từng lĩnh vực như Bác đã căn
dặn:
“- Làm Mẫu giáo tức là làm thay mẹ dạy trẻ. Muốn làm được thế, trước hết phải
yêu trẻ. Các cháu nhỏ hay quấy khóc, phải bền bỉ chịu khó mới dạy được các
cháu. Dạy trẻ như trồng cây non. Trồng cây non tốt thì sau này cây sẽ lên tốt.
Dạy trẻ nhỏ tốt thì sau này các cháu sẽ thành người tốt.
– Tiểu học phải dạy các cháu thiếu nhi yêu Tổ quốc, yêu nhân dân, yêu lao
động, yêu khoa học, trọng của công. Cách dạy phải nhẹ nhàng và vui vẻ, chớ gị
ép vào khn khổ của người lớn, phải đặc biệt chú ý giữ gìn sức khỏe cho các
cháu.
– Trung học phải đảm bảo cho học trị những tri thức phổ thơng chắc chắn, thiết
thực, thích hợp với nhu cầu và tiền đồ xây dựng đất nước, bỏ nhứng phần mà
không cần thiết cho công cuộc xây dựng nước nhà.
– ………..”
Như vây, đối chiếu với những yêu cầu hiện nay, chúng ta thấy rằng Bác Hồ đã
rất quan tâm đến vấn đề giáo dục toàn diện. Bậc Tiểu học là bậc học nền tảng,
việc giảng dạy và giáo dục phải quan tâm tới việc giáo dục tồn diện cho học
sinh, trong đó việc hình thành và phát triển ở học sinh nhân cách và những thói
quen sống tích cực là vấn đề mỗi giáo viên phải thực sự quan tâm. Hay nói tóm


tắt: “thông qua dạy chữ mà dạy người, thông qua dạy học mà giáo dục; hay qua


giáo dục mà thúc đẩy dạy học, qua dạy người mà thúc đẩy dạy chữ”.
2/ Xuất phát từ yêu cầu giáo dục xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa
(XHCN).
Trong toàn bộ di sản tư tương Hồ Chí Minh, vấn đề được Bác Hồ đặc biệt quan
tâm là đào tạo con người Việt Nam thông qua các hoạt động giáo dục gắn chặt
với mục tiêu xây dựng đất nước. Người khảng định: “Muốn xây dựng chủ nghĩa
xã hội trước hết cần có con người xã hội chủ nghĩa”. Ngành giáo dục phải làm
thế nào để có con người xã hội chủ nghĩa. Bác đã chỉ ra đặc trưng cơ bản của
con người xã hội chủ nghĩa, hay nói cách khác, Bác đã giao nhiệm vụ cho các
nhà giáo dục về yêu cầu sản phẩm của quá trình giáo dục và đào tạo với các tiêu
trí cụ thể về con người Việt Nam là:
– Có ý thức và tinh thần làm chủ tập thể, co tư tưởng “mình vì mọi người và
mọi người vì mình”, có tinh thần dám nghĩ, dám làm khơng ngừng vươn lên.
– Có đạo đức lối sống tốt, trung với nước, hiếu với dân, yêu thương con người,
cần kiệm liên chính, chí cơng vơ tư, có tinh thần quốc tế trong sáng, có lối sống
lành mạnh và trong sạch.
– Là con người lao động có kế hoạch, có phương pháp, có quyết tâm; lao động
có tổ chức, có kỉ luật; có năng xuất chất lượng và hiệu quả, lao động qn mình
khơng sợ khó, sợ khổ; vì ích lợi của xã hội, của tập thể và của bản thân mình.
– Có năng lực làm chủ bản thân, gia đình và cơng việc mà mình đảm nhận với
tư cách là cơng dân tham gia làm chủ Nhà nước và xã hội; khơng ngừng nâng
cao trình độ chính trị, văn hóa, khoa học kỹ thuật, chuyên môn nghiệp vụ để làm
chủ.
Như vậy, để có sản phẩm con người mới XHCN như lời Bác đã chỉ ra. Trước
hết, bản thân mỗi nhà giáo vừa phải là con người mới XHCN với các tiêu chí
như Bác đã nêu, vừa là người thầy “thực thụ”, người có đủ năng lực, phẩm chất
đạo đức. Bác đã căn dặn: “Các thầy cơ giáo có nhiệm vụ rất nặng nề là đào tạo
cán bộ cho dân tộc. Vậy giáo dục cần nhằm vào mục đích, thật thà phục vụ nhân



dân. Trong các nhiệm vụ chung của giáo dục, có một nhiệm vụ cơ bản là phục
vụ thế hệ trẻ”.
3/ Xuất phát từ sự chỉ đạo của Ngành giáo dục thời kỳ hội nhập:
Trong công cuộc đổi mới đất nước, mọi mặt của đời sống kinh tế_ xã hội đang
có sự thay đổi hàng ngày, hàng giờ. Đòi hỏi phải có những con người tiên tiến
có tri thức vững vàng, có nhân cách và bản lĩnh, ln chủ động sáng tạo, dám
nghĩ dám làm ln thích ứng với sự thay đổi của thực tế xã hội, phù hợp với
tình hình đất nước thời kỳ hội nhập. Yêu cầu này, đòi hỏi ngành giáo dục nói
chung, những người làm cơng tác giáo dục nói riêng phải có sự đổi mới, sự
chuyển biến thực sự mang tính thiết thực phù hợp với công cuộc đổi mới đất
nước, để tạo ra lớp người mới toàn diện vừa hồng_ vừa chuyên. Và thực sự
ngành giáo dục đang có những bước thay đổi lớn, từ nghị quyết của Đảng,
cương lĩnh đất nước đến luật giáo dục và các hệ thống văn bản của ngành đều
chỉ rõ giáo dục đào tạo phải tạo ra lớp người mới tồn diện, năng động có nhân
cách hội tụ đầy đủ: đức_ trí_ thể_ mĩ. Đúng vậy, đức_ trí_ thể_ mĩ sẽ tạo nên cốt
cách một con người toàn vẹn vì: cái đức là gốc, tài năng là sự biểu hiện của đức
độ; đức độ, tài năng đầy đủ hơn, minh mẫn hơn, phụng sự tốt hơn thì cần có cơ
thể khỏe khoắn, có nhân cách, thẩm mĩ. Tất cả sẽ tạo lên một nhân cách lớn,
nhạy bén, thích ứng trong mọi việc, mọi hoàn cảnh…
Bậc tiểu học là bậc nền tảng, là nền móng trong hệ thống giáo dục quốc dân, đặt
cơ sở ban đầu cho sự hình thành và phát triển nhân cách của học sinh sau này.
Đối với học sinh tiểu học, hoạt động trong nhà trường là chủ đạo, nhà trường là
nơi tổ chức các hoạt động chuyên biệt, là nơi giáo dục trẻ theo mục tiêu giáo
dục của bậc học. Bởi vậy, nhà trường là nơi diễn ra cuộc sống của trẻ, là nơi trẻ
bộc lộ khả năng, năng lực, nhân cách một cách đầy đủ, rõ ràng nhất.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói: “Vì lợi ích mười năm trồng cây_Vì lợi ích
trăm năm trồng người”. Để đảm bảo được nhiệm vụ trồng người thì mỗi giáo
viên phải có nhiệm vụ đào tạo nên những con người có đức, có tài cho xã hội.
Bởi thế, nhiệm vụ của mỗi người không chỉ cung cấp cho học sinh những kiến



thức về tự nhiên_ xã hội mà còn phải xây dựng và hình thành cho các em ý thức
tự chủ, tinh thần trách nhiệm cao ngay từ nhỏ… Nói cách khác, giáo viên vừa
dạy chữ, vừa dạy cách làm người cho các em khi còn ngồi trên ghế nhà trường.
Bậc tiểu học là giai đoạn đầu của chương trình giáo dục phổ thơng, có thể nói
học sinh tiểu học là giai đoạn tất yếu của quá trình học, là giai đoạn mở đầu cho
một con người đến với văn hoá, đến với tri thức. Cũng từ giai đoạn này nhân
cách của học sinh được hình thành và dần dần phát triển. Giai đoạn học sinh học
ở bậc tiểu học, nhất là giai đoạn lớp một, với mỗi học sinh là hết sức quan trọng.
Đây chính là giai đoạn nền móng của quá trình phát triển năng lực tư duy và đặc
biệt là quá trình phát triển nhân cách của học sinh sau này.
4/ Xuất phát từ đặc điểm tâm sinh lí lứa tuổi Tiểu học:
Học sinh lớp 1 rất ngây thơ, tâm hồn các em như một tờ giấy trắng, vẽ lên đó
đẹp hay xấu phần lớn là tác động của thầy, cô giáo_ đặc biệt là thầy cô chủ
nhiệm. Những năm gần đây, khi các trường có điều kiện tổ chức cho các em học
hai buổi/ ngày thì phần lớn thời gian trong ngày các em được sống và giao tiếp
với thầy cô chủ nhiệm, với bạn bè. Học sinh lớp 1 còn rất non nớt, các em sống
trong những gia đình có hồn cảnh khác nhau, nếp sống khác nhau nên nhận
thức và nếp sống cũng khác nhau. Đặc biệt tư duy trẻ lớp 1 cũng rất cụ thể cảm
tính. Các em rất ham hiểu biết, thích bắt chước, mà lại chưa có kinh nghiệm
sống nên các em rất dễ tiếp thu các tốt, cái xấu (không chọn lọc) nếu khơng có
định hướng của thầy cơ . Năm đầu tiên của đời học sinh, trẻ rất bỡ ngỡ với việc
chuyển hoạt động chủ đạo từ chơi sang hoạt động học tập, đặc biệt rất dễ xúc
động với các yêu cầu và quy tắc của trường học.
Học sinh lớp 1 cũng không phải là quá bé, với vốn ngôn ngữ, kinh nghiệm sống,
việc hình thành đạo đức và kiến thức đã thu được ở gia đình, ở nhà trẻ, ở các lớp
mẫu giáo, các em có thể tiếp thu các chuẩn mực đạo đức và kiến thức ban đầu ở
dạng hành vi cụ thể khơng khó khăn, từ đó làm nẩy nở những tình cảm, thói
quen đạo đức và những tư duy ban đầu của các em. Nếu trong qng thời gian
đó các em khơng may gặp phải “người thợ vẽ” tồi, người công nhân xây dựng



thiếu trách nhiệm (hình tượng hóa người thầy) thì suốt đời “trang nhân cách”
trong các em sẽ giữ lại vết hằn khó xố. Và nếu chúng ta khơng quan tâm giáo
dục chu đáo_ hình thành trong mỗi con người các em những nhân cách tích cực,
phù hợp thì điều chúng ta khơng ngờ sẽ đến và chính chúng ta là người đầu tiên
phải gánh chịu hậu quả.
5/ Sự cần thiết phải đúc kết sáng kiến kinh nghiệm:
Nhận thức được tầm quan trọng nêu trên, là một giáo viên chủ nhiệm đặc biệt là
chủ nhiệm lớp một, bản thân luôn tự nhủ, trước tiên mình phải là một tấm
gương của học sinh về cách ăn nói mẫu mực, cư xử đúng mực, nghiêm túc
nhưng phải thân thiện, thực sự có lịng yêu thương, thông cảm với các em, là
chỗ dựa vững chắc nhất mỗi khi các em đến trường, vào lớp học của mình.
Trong lĩnh vực giáo dục, người thầy khơng chỉ có lịng “u nghề mến trẻ” đem
hết nhiệt tình để truyền đạt kiến thức cho học sinh mà quan trọng hơn là chữ
“tâm” trong mỗi người thầy thể hiện qua những việc làm của công tác chủ
nhiệm.
Để học sinh tiếp thu được kiến thức và vận dụng được kiến thức đó trong thực
tiễn ngồi sự tận tụy, quyết tâm của người thầy trên bục giảng, người giáo viên
chủ nhiệm chính là nhịp cầu nối, là động lực giúp các em chủ động tiếp thu kiến
thức, hăng say và thi đua trong học tập.
Như chúng ta đã biết mục tiêu của công tác chủ nhiệm lớp ở Trường Tiểu học là
nhằm giúp học sinh có hiểu biết ban đầu về một số chuẩn mực hành vi đạo đức
và pháp luật phù hợp với lứa tuổi trong các mối quan hệ của các em với bản
thân, gia đình, nhà trường, cộng đồng, môi trường tự nhiên và ý nghĩa của việc
thực hiện theo chuẩn mực đạo đức đó.
Từng bước hình thành kỹ năng nhận xét, đánh giá hành vi của bản thân và
những người xung quanh theo chuẩn mực được giáo dục; kỹ năng lựa chọn và
thực hiện các hành vi ứng xử phù hợp với chuẩn mực trong các quan hệ và tình
huống đơn giản, cụ thể của cuộc sống, biết nhắc nhở bạn bè cùng thực hiện.

Từng bước hình thành thái độ tự trọng, tự tin; yêu thương, tôn trọng con người;


u cái thiện, cái đúng, cái tốt, khơng đồng tình với cái ác, cái sai, cái xấu.
Từng bước giúp học sinh khám phá và tìm hiểu kiến thức và kỹ năng cơ bản
phù hợp với trình độ, lứa tuổi của học sinh.
Bằng những kinh nghiệm thực tiễn, những tìm tịi nghiên cứu từ những khía
cạnh khác nhau, những đối tượng khác nhau, bản thân tôi đúc rút được những
biện pháp để làm tốt công tác chủ nhiệm lớp và thông qua công tác chủ nhiệm
mà thực hiện nhiệm vụ giáo dục, hình thành và phát triển nhân cách cũng như
nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện cho học sinh lớp 1. Từ suy nghĩ đến
những việc đã và đang làm trong công tác chủ nhiệm lớp, bản thân tôi thấy cần
thiết phải tích lũy và trình bày sáng kiến: “Người giáo viên chủ nhiệm trong
việc hình thành nhân cách cho học sinh lớp một”. Và thật vinh dự sáng kiến này
đã được Hội đồng khoa học nhà trường; và hơn nữa là Hội đồng khoa học
Phòng Giáo dục và đào tạo huyện Nam Trực đánh giá và đề cử tham dự Hội thi
Giáo viên chủ nhiệm giỏi toàn tỉnh Nam Định_ lần thứ nhất và đạt giải Nhì tại
hội thi. Và hôm nay, thực hiện công văn 313/SGDĐT-VP ngày 10/ 4/ 2015 của
Sở GD-ĐT Nam Định về việc hưởng ứng Hội thi viết SKKN dự thi cấp tỉnh
năm 2015; công văn số 73/PGDĐT ngày 14/ 4/ 2015 về việc chỉ đạo hưởng ứng
Hội thi viết SKKN dự thi cấp tỉnh năm 2015, sau khi điều chỉnh, bổ sung, tôi
mạnh dạn đăng kí dự thi SKKN tỉnh Nam Định năm học 2014- 2015.
II/ MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Từ thực trạng trên, Sáng kiến tìm ra những ngun nhân mà cơng tác chủ nhiệm
chưa đạt hiệu quả. Qua đó, đề xuất một số biện pháp để giáo viên làm công tác
chủ nhiệm kết hợp giảng dạy và giáo dục, đặc biệt là giáo dục nhân cách cho
học sinh lớp một, góp phần không ngừng nâng cao chất lượng giảng dạy và giáo
dục học sinh.
III/ GIỚI HẠN SÁNG KIẾN
Sáng kiến chỉ tập trung nghiên cứu về công tác chủ nhiệm lớp và việc hình

thành nhân cách cho học sinh lớp 1 ở cơ sở trường học đang công tác (Trường
Tiểu học Nam Minh_ Nam Trực_ Nam Định).


IV/ ĐỐI TƯỢNG VÀ KHÁCH THỂ NGHIÊN CỨU
1/ Đối tượng nghiên cứu: Học sinh Trường Tiểu học Nam Minh nói chung, học
sinh lớp một chủ nhiệm nói riêng.
2/ Khách thể nghiên cứu: Tìm hiểu thực trạng cơng tác chủ nhiệm lớp và việc
giáo dục nhân cách cho học sinh của giáo viên trong Trường tiểu học
V/ GIẢ THUYẾT NGHIÊN CỨU
Nếu các lớp áp dụng đồng bộ các kinh nghiệm mà sáng kiến đã nêu ra thì cơng
tác chủ nhiệm lớp và việc giáo dục nhân cách cho học sinh sẽ đạt kết quả cao
trong những năm học tiếp theo, đặc biệt là cơ sở Trường Tiểu học đang công tác
(Trường Tiểu học Nam Minh_ Nam Trực_ Nam Định).
VI/ NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU
Để đạt được mục đích nêu trên, sáng kiến đã tự xác định cho mình những nhiệm
vụ nghiên cứu sau đây:
1/ Nghiên cứu cơ sở lí luận.
2/ Tìm hiểu thực trạng công tác chủ nhiệm ở Trường Tiểu học Nam Minh nói
chung và đúc rút từ thực tế lớp chủ nhiệm nói riêng.
3/ Đề xuất một số giải pháp về cơng tác chủ nhiệm lớp, việc hình thành và phát
triển nhân cách cho học sinh lớp một nhằm góp phần không ngừng nâng cao
chất lượng giảng dạy và giáo dục học sinh.
VII/ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
1/ Nhóm phương pháp nghiên cứu lý thuyết: Tìm đọc tài liệu;
2/ Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn: Phương pháp điều tra, phương
pháp trực quan, phương pháp quan sát, phương pháp thống kê, …
VII/ PHẠM VI NGHIÊN CỨU VÀ KHẢ NĂNG ÁP DỤNG:
1/ Phạm vi nghiên cứu: Người giáo viên chủ nhiệm trong việc hình thành nhân
cách cho học sinh lớp 1A.

2/ Khả năng áp dụng: Học sinh lớp 1A Trường Tiểu học Nam Minh nói riêng_
Học sinh Trường Tiểu học Nam Minh nói chung.


PHẦN II_ GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ:
I/ NHỮNG VẤN ĐỀ LÍ LUẬN CHUNG
Luật giáo dục ghi rõ : “Giáo dục Tiểu học nhằm giúp học sinh hình thành những
cơ sở ban đầu cho sự phát triển đúng đắn và lâu dài về đạo đức, trí tuệ, thể chất,
thẩm mĩ và các kĩ năng cơ bản để học sinh tiếp tục học trung học cơ sở”.
Như vậy, theo các nhà nghiên cứu giáo dục cần hiểu mục tiêu giáo dục tiểu học
ghi trong luật có mấy định hướng mới sau:
– Cần hiểu đúng khái niệm “giúp học sinh” chứ không phải “cung cấp” hay
“trang bị”. Giúp học sinh nghĩa là thầy cô giáo, các bậc cha mẹ học sinh không
áp đặt, phải coi học sinh là chủ thể của quá trình tiếp thu kinh nghiệm sống, tiếp
nhận tích cực những kiến thức và rèn luyện kỹ năng để phát triển nhân cách
dưới sự điều khiển của nhà sư phạm. Để làm tốt nhiệm vụ này, Bác Hồ đã từng
nhắc nhở: “Dạy trẻ phải giữ gìn “tồn vẹn cái tính vui vẻ hoạt bát, tự nhiên, tự
động, trẻ trung của chúng, chớ nên làm cho chúng hóa ra những người già
sớm”. Nghiên cứu về tư tưởng Hồ Chí Minh đối với vấn đề nhiệm vụ và mục
đích của giáo dục, chúng ta có thể nói rằng Bác đã giao nhiệm vụ cho ngành,
cho đội ngũ giáo viên. Công cuộc đổi mới nền giáo dục hiện nay, mà chúng ta
đang thực hiện, phải chăng là sự trở về với bản chất quá trình dạy học và giáo
dục mà Bác Hồ kính yêu của chúng ta_ người thầy vĩ đại của cả dân tộc đã chỉ
ra cách đây rất lâu. Yêu cầu về đội ngũ thời kì kháng chiến cứu quốc là thế thì
yêu cầu về người thầy của thời kì cơng nghiệp hóa_ hiện đại hóa đất nước hiện
nay càng phải địi hỏi, ngồi năng lực chun mơn và khả năng thích ứng cịn
phải có nhân cách với kĩ năng sống thực thụ thì chỉ có ở con người mới XHCN.
Mối quan hệ giữa nhà sư phạm (thầy cô, cha mẹ, các thế hệ lớn tuổi) với cá
nhân, tập thể học sinh Tiểu họclà mối quan hệ tương tác. Từ quan niệm đó,
trong nhà trường, mỗi thầy cơ giáo phải tơn trọng, ln có ý thức giúp đỡ, động

viên các em chủ động học tập, rèn luyện_ nhất là học sinh lớp 1.
– “Phát triển đúng đắn” là sự phát triển nhân cách của trẻ phù hợp với quy luật


tâm sinh lí lứa tuổi học sinh Tiểu học. Chẳng hạn, quy luật nhận thức ở lứa tuổi
Tiểu học là q trình nhận thức cảm tính là chủ yếu. Vì vậy, tổ chức dạy học,
hoạt động giáo dục cần dựa vào sự kiện, hiện tượng sinh động, dễ hiểu để trẻ có
thể sử dụng các giác quan trong q trình nhận thức cảm tính. Đặc điểm nhận
thức của trẻ là dựa trên trực quan sinh động, chưa phát triển tư duy trừu tượng.
Trẻ em tiểu học tư duy xúc cảm chiếm ưu thế. Vì vậy, cần sử dụng phương pháp
dạy học, phương pháp giáo dục tạo ra xúc cảm sẽ là cơ sở phát triển tư duy sáng
tạo và ý chí. Xúc cảm là nền tảng hình thành tình cảm trong sáng. Vì vậy, địi
hỏi thầy cơ giáo khi sử dụng các phương pháp dạy học và giáo dục cần tận dụng
các phương pháp gây cho trẻ những xúc cảm lành mạnh. Đồng thời, cần thay
đổi các phương pháp, hình thức hoạt động cho trẻ đỡ căng thẳng, mệt mỏi trong
hoạt động.
Cần sử dụng, tận dụng và kết hợp các phương pháp, hình thức dạy học, giáo
dục, các điều kiện, yếu tố, các sự kiện, hiện tượng tự nhiện và xã hội xảy ra
xung quanh các em; cần đưa các em vào thế giới thực hoặc sử dụng phương
pháp, hình thực giả định giàu hình ảnh, giàu cảm xúc như đóng vai, xem các vở
diễn, đọc truyện tranh… để các em phát triển óc tưởng tượng, rèn luyện các
hành vi, bộc lộ xúc cảm, tình cảm.
– Phát triển đúng đắn cịn có nghĩa là những kiến thức cung cấp cho trẻ phải
chính xác, khoa học, đơn giản, dễ hiểu. Những kĩ năng, thói quen hành vi giáo
dục cho trẻ phải chuẩn xác. Chẳng hạn khi học tiếng Việt phải dạy phát âm đúng
ngay từ đầu. Cũng như vậy phải hướng dẫn trẻ rèn luyện những hành vi, thói
quen, đúng mục tiêu giáo dục nhân cách. Giáo dục rèn luyện cho trẻ hiểu đúng,
làm đúng những quy định chung của truyền thơng đạo lí, biết tơn trọng ngun
tắc sống và quy định của pháp luật là nền tảng hình thành năng lực sau này.
Giáo dục trẻ theo đúng mục tiêu giáo dục tiểu học phù hợp với đặc điểm tâm lí

chính là đặt nền móng cho phát triển nhân cách sau này của các em.
– Phân tích mức độ của khái niệm “Hình thành cơ sở ban đầu của sự phát triển
nhân cách học sinh tiểu học”. Cần khảng định ngay: “Hình thành cơ sở ban


đầu…” không phải cung cấp kiến thức các lĩnh vực khoa học cho học sinh tiểu
học là chủ yếu, mà là hình thành nền móng đầu tiên cho sự phát triển toàn diện
nhân cách. Nghĩa là tổ chức hoạt động dạy học, hoạt động thể dục thể thao, vui
chơi giải trí, văn hóa văn nghệ, tăng cường giao lưu, giao tiếp của trẻ. Thông
qua các hoạt động đa dạng, phong phú đó, tạo cơ hội cho trẻ được hình thành
những phẩm chất tâm lí, tính cách, những hành vi, những kĩ năng ban đầu của
quá trình phát triển nhân cách, tạo tiềm năng, xây dựng nền móng cho sự phát
triển lâu dài, bền vững về sau.
II/ THỰC TRẠNG CỦA VẤN ĐỀ:
1/ Đặc điểm tình hình:
1.1/ Nghiên cứu tình hình địa phương (thuận lợi_ khó khăn):
– Đảng bộ, chính quyền và các ban ngành đoàn thể, đặc biệt là phụ huynh quan
tâm tạo điều kiện về mặt tinh thần; cơ sở vật chất phòng học tương đối đầy đủ,
100% phòng học những năm qua được lát gạch men, hệ thống chiếu sáng, quạt
mát được trang bị phục vụ hiệu quả công tác giảng dạy và giáo dục học sinh.
– Đội ngũ nhà trường được trẻ hóa và được đào tạo chính quy, cộng với sự tâm
huyết, nhiệt tình, lại được ban giám hiệu nhà trường bồi dưỡng thường xuyên,
quan tâm khích lệ trong các hoạt động giảng dạy và giáo dục, cũng như học tập
trau đồi nên những năm qua chất lượng giảng dạy và giáo dục luôn ổn định và
luôn đứng trong tốp đầu của huyện tạo được lòng tin đối với Đảng bộ, chính
quyền, đặc biệt là phụ huynh học sinh tin yêu.
– Nhà trường được công nhận đạt chuẩn mức độ 1 giai đoạn 2011- 2015, trường
Xanh_ Sạch_ Đẹp_ An tồn năm 2014. Và đang trong lộ trình xây dựng chuẩn
mức độ II nên được Đảng bộ, chính quyền, nhân dân và đặc biệt là sự quan tâm
tư vấn sát sao về chuyên môn, rồi việc đầu tư trang thiết bị giảng dạy và giáo

dục của Phòng giáo dục và đào tạo Nam Trực nên mọi hoạt động của nhà trường
khá thuận lợi.
– Tình hình học sinh ổn định, cơ bản được gia đình quan tâm đầu tư hiệu quả


phục vụ tốt công tác học tập, tu dưỡng của học sinh như: việc đi lại học tập, tu
dưỡng khá thuận lợi (trường nằm ở trung tâm khu dân cư), học sinh ở xa (34km) được gia đình đưa đón; trang thiết bị học tập, tu dưỡng của học sinh khá
đầy đủ…
– Sự nuông chiều, chăm chút thái quá, tùy tiện của một bộ phận không nhỏ phụ
huynh trong mọi sinh hoạt của trẻ: sinh hoạt, cách ăn nói…-> người giáo viên
chủ nhiệm lớp một phải mất nhiều thời gian, cơng sức uốn nắn, giáo dục hình
thành nhân cách cho học sinh.
1.2/ Nghiên cứu học sinh lớp chủ nhiệm: Lớp 1A năm học 2013_2014.
+ Số lượng phù hợp và thuận lợi cho giảng dạy và giáo dục: Năm học 2013_
2014: 30 em
+ Chất lượng học tập, ưu – nhược điểm chung: Số học sinh đi học mẫu giáo và
số học sinh đi học khơng đều qua tìm hiểu có: 27 em đi học cịn 3 em cũng có đi
học nhưng khơng đều. Khảo sát kiến thức có 9 em nhận diện rất tốt về chữ và
số; còn 15 em nhận dạng chữ và số còn nơ mơ; 6 em chưa biết gì về chữ và số.
+ Đặc điểm lứa tuổi: Tự động, chưa có nền nếp, thói quen và việc sinh hoạt tùy
tiện.
+ Đặc điểm cá biệt, hoàn cảnh gia đình: Nhìn chung tình hình phụ huynh dân trí
ở mức trung bình: cán bộ_viên chức 13%; cịn lại là làm nơng nghiệp 87%;
trong đó gia đình có hồn cảnh khó khăn chiếm 13% (=4HS: Vũ Tuấn Anh;
Nguyễn Thị Thanh Huyền; Nguyễn Thị Thơm; Nguyễn Minh Phượng).
+ Năng lực hoạt động của từng học sinh: nhút nhát, duy có một số học sinh hiếu
động.
2/ Phân tích nguyên nhân (khách quan_ chủ quan):
– Tình hình dân trí thuộc khu vực nơng thơn nên ở mức trung bình, cộng với
bình quân thu nhập theo gia đình khá thấp dẫn tới việc những lao động chính

trong gia đình (thường là cha mẹ học sinh) phải xa nhà đi làm ăn, buôn bán ở xa
mọi việc quan tâm cho con em mình học tập, tu dưỡng phó mặc vào ơng bà
(tuổi cao) nên chưa đáp ứng được yêu cầu của trường lớp học (mọi việc giao


phó cho nhà trường, cơ giáo) là những khó khăn lớn của lớp chủ nhiệm.
– Việc học tập ở trường Mầm non_ Mẫu giáo không chuyên cần do trẻ em nơng
thơn tuy tiện trong việc sinh hoạt ăn nghỉ, địi gì được đấy, rồi thích nghỉ là nghỉ
(do ơng bà chiều chuộng), cộng với tuổi nhỏ dễ ốm đau,.. là những nguyên nhân
đến việc hổng kiến thức ở trường mầm non, cộng với thói quen tùy tiện khi vào
lớp một phổ thông.
– Việc chậm đổi mới, chỉ quan tâm tới việc truyền thụ kiến thức mà chưa thật
sát sao trong việc giáo dục nhân cách_ kỹ năng sống cho học sinh của một bộ
phận nhỏ giáo viên.
III/ CÁC GIẢI PHÁP TIẾN HÀNH GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ:
1/ Tìm hiểu học sinh của lớp_ xây dựng đội ngũ tự quản:
a/ Tìm hiểu học sinh của lớp:
Để việc quản lý học sinh trong công tác chủ nhiệm lớp được tốt hơn, vào đầu
năm học tôi đã tiến hành khảo sát nhỏ trong lớp với các nội dung sau:
Một là: Tìm hiểu số học sinh đi học mẫu giáo và số học sinh không đi học mẫu
giáo hoặc đi học khơng đều, tìm hiểu lý do học sinh không đi học mẫu giáo
(Qua gia đình và giáo viên Mầm Non). Cụ thể qua tìm hiểu có 27 em đi học
mầm non cịn 3 em cũng có đi học nhưng thường xuyên nghỉ học.
Hai là: Kiểm tra khả năng nắm bắt, nhận diện chữ cái mà học sinh đã học trong
trường mầm non. Cụ thể qua kiểm tra có: 27 em đi học cịn 3 em cũng có đi học
nhưng khơng đều. Khảo sát kiến thức có 9 em nhận diện rất tốt về chữ và số;
còn 15 em nhận dạng chữ và số còn nơ mơ; 6 em chưa biết gì về chữ và số.
Ba là: Tìm hiểu tính cách của từng em qua việc cho các em tự mình trình bày
một bài múa, bài hát hay đọc thơ, kể chuyện để tự mỗi em bộc lộ tính cách
mạnh dạn hay nhút nhát của mình, cụ thể: có 12 em mạnh dạn, tự tin khi đứng

trước lớp, 14 em cũng chưa thật sự mạnh dạn, còn 4 em quá nhút nhát.
b/ Xây dựng hội đồng tự quản của lớp.
Hội đồng tự quản?: Hội đồng tự quản là một tổ chức của học sinh, do học sinh


thành lập ở từng lớp, dưới sự hướng dẫn của nhà trường thông qua giáo viên
chủ nhiệm và cha mẹ các em (hiểu đơn giản theo quan niệm cũ là Ban cán sự
lớp). Hội đồng tự quản và các Ban chuyên trách như Ban học tập, Ban văn
nghệ, Ban đối ngoại, Ban vệ sinh,… được thành lập theo quy trình dân chủ và
tự nguyện do các em học sinh tự đứng ra tổ chức, điều hành và phục vụ lợi ích
học tập, giáo dục cho chính các em. Hội đồng tự quản thành lập vì học sinh, bởi
học sinh và để đảm bảo cho các em tham gia một cách dân chủ, tích cực vào đời
sống học đường; khuyến kích các em có cơ hội tiếp cận một cách tồn diện vào
các hoạt động của nhà trường, phát triển tính tự chủ, sự tơn trọng, bình đẳng,
tinh thần hợp tác và đoàn kết của học sinh. Hội đồng tự quản là một biện pháp
giúp học sinh được phát huy quyền làm chủ trong quá trình học tập giáo dục.
Học sinh có điều kiện hiểu rõ quyền và trách nhiệm trong môi trường giáo dục,
được rèn các kĩ năng lãnh đạo, kĩ năng tham gia, hợp tác trong các hoạt động ở
lớp, trường học. Đồng thời, cũng chuẩn bị cho các em ý thức trách nhiệm khi
thực hiện những quyền và bổn phận của mình. Những đánh giá được tiến hành ở
những lớp có Hội đồng tự quản cho thấy: học sinh có những tiến bộ rõ rệt về
khả năng tự ý thức, lịng tự trọng, tính tự tin, các hành vi cư xử khác, biết tôn
trọng và thể hiện sự bình đẳng giữa các học sinh trong lớp, giữa nam và nữ.
Tổ chức cho Hội đồng tự quản hoạt động hiệu quả khi được quan tâm ở hai khía
cạnh:
∝ Quá trình chuẩn bị và tổ chức thành lập Hội động tự quản:
– Dành nhiều thời gian cho việc chuẩn bị nội dung, các tiêu chuẩn về nhân sự,
số lượng các Ban hoạt động và các vấn đề khác.
– Tổ chức cuộc họp nội bộ nhà trường với cha mẹ học sinh và họp học sinh
trong lớp. Nội dung các cuộc họp nhằm thống nhất các vấn đề có liên quan và

thay đổi nhận thức về Hội đồng tự quản học sinh.
– Quá trình thành lập, nhất là giai đoạn diễn ra tranh cử, cần tiến hành đúng quy
trình, dân chủ, tự nguyện và hấp dẫn như ngày hội.


∝ Hướng dẫn Hội đồng tự quản hoạt động hiệu quả:
– Bồi dưỡng các kĩ năng hoạt động cần thiết cho Hội đồng tự quản, các kĩ năng
cần có của Chủ tịch và các Trương ban trong hội đồng tự quản.
– Giáo viên vận dụng kinh nghiệm bản thân và đồng nghiệp để hướng dẫn tổ
chức các hoạt động cho Hội đồng tự quản học sinh.
– Thường xuyên rút kinh nghiệm về nội dung hoạt động của Hội đồng tự quản
với sự tham gia của giáo viên chủ nhiệm, cha mẹ học sinh và học sinh trong lớp.
– Giáo viên thường xuyên giám sát, hỗ trợ Hội đồng tự quản, đồng thời động
viện khích lệ học sinh mạnh dạn tham gia ứng cử vào HĐTQ. Giáo viện chủ
động trong các hoạt động ứng dụng để hướng dẫn các em làm quen và dễ dàng
thực hiện: cần kiên tri, hướng dẫn từng bước, trân trọng từng hoạt động nhỏ của
học sinh, đặc biệt là học sinh lớp 1.
– Luôn làm mới HĐTQ về nội dung và cơ cấu tổ chức nhân sự, mỗi năn học cần
kiện tồn tổ chức HĐTQ ít nhất 2 lần.
Theo dõi, đánh giá học sinh và ghi nhật kí đánh giá. Khen thưởng kịp thời cuối
học kì, cuối năm học và khen thưởng đột xuất những cá nhân có những đóng
góp tích cực, hiệu quả tốt cho HĐTQ.
Qua kiểm tra nắm bặt được tính cách của từng em. Cho học sinh lớp tự bầu ra
hội đồng tự quản. Đối với lớp 1 công việc này đối với các em con bỡ ngỡ, do
vậy giáo viên phần nào cũng phải gợi ý dẫn dắt các em bình chọn thật chính
xác. Có chọn đúng sau này giáo viên mới đỡ vất vả. Các em đã bình chọn được
1 bạn Chủ tịch Hội đồng tự quản, 2 bạn Phó chủ tịch Hội đồng tự quản, và 7 bạn
trong các Ban Vệ sinh, Chuyên cần, Học tập, Nề nếp, Thư viện, Văn nghệ…
Khi các em nhận nhiệm vụ giáo viên giao rõ trách nhiệm cho từng em để các em
nắm bắt, chỉ đạo từng hoạt động mà mình phụ trách. Trong tháng đầu tiên của

năm học mới giáo viên phải thật sát sao với các em, hướng dẫn các em từng
việc làm vì đây là việc làm thực sự mới mẻ với các em. Kết quả đến thời gian
này tự các em trong Hội đồng tự quản chỉ đạo mọi hoạt động trong lớp rất tốt,
học sinh của lớp mạnh dạn nhiều. Cụ thể: khi có khách vào lớp bạn Chủ tịch


Hội đồng tự quản đã cho lớp đứng dậy chào khách và tự giới thiệu với khách về
lớp mình…
2/ Xây dựng, hình thành và giáo dục nhân cách cho trẻ thông qua:
a/ Xây dựng không gian lớp học thân thiện_ học sinh tích cực:
Tiếp tục thực hiện sáng tạo các nội dung của hoạt động “Xây dựng trường học
thân thiện, học sinh tích cực”, chú trọng các hoạt động nhằm nâng cao chất
lượng giáo dục toàn diện, đặc biệt là giáo dục đạo đức, nhân cách và kĩ năng
sống cho học sinh. Muốn phong trào “xây dựng trường học thân thiện, học sinh
tích cực” ở mỗi trường đạt hiệu quả thì mỗi giáo viên phải “xây dựng lớp học
thân thiện, học sinh tích cực”. Từ đó, tạo ra mơi trường học tập thân thiện, an
toàn, gần gũi với học sinh, làm cho học sinh thực sự cảm nhận “mỗi ngày đến
trường là một ngày vui”. Công việc “xây dựng lớp học thân thiện, học sinh tích
cực” được tơi tiến hành từng bước như sau:
∝ Trang trí lớp học xanh_ sạch_ đẹp_ an tồn:
Lớp học thân thiện phải có hệ thống cây xanh, phải luôn sạch sẽ, ngăn nắp và
được trang trí đẹp, đảm bảo tính thẩm mĩ và tính giáo dục cao. Do vậy, tôi
hướng dẫn và cùng với học sinh thực hiện các công việc sau đây:
+/ Lựa chọn và trồng các loại cây phù hợp với điều kiện sống trong nhà như:
sống đời, ngũ gia bì, vạn niên thanh, bạch mã….để cắm vào các chai nhựa đựng
nước treo ở các cửa sổ; trồng các chậu cây nhỏ, phù hợp đặt ở góc mơi trường
(góc phía trên gần cửa lớp); tư vấn cho PHHS của lớp trang bị thêm các giị
“son mơi, địa lan,..” treo ở hành lang lớp, trồng một số chậu cây, hoa đặt ở hàng
lang phía trước lớp; Ngoài ra, ở phần vườn ươm mà nhà trường đã phân cho
mỗi lớp, tôi cùng các em chuẩn bị sẵn một số giò, chậu cây (các loại cây nêu

trên) để thực hiện hoán đối vào trong lớp khi cần. Hàng ngày, tôi giao cho Hội
đồng tự quản phân cơng các bạn tưới nước nhặt cỏ cho cây. Vì thế, môi trường
lớp tôi luôn xanh, sạch tạo được không khí trong lành cả năm.
+/ Phần tự trang trí tường, tơi và các em học sinh cịn dùng màu vẽ hoặc cắt xé
dán trang trí lên những mảng tường của lớp những bông hoa, những ý tưởng


sáng tạo trong mỗi em để không gian lớp học trở nên đẹp sống động hơn. Thông
qua những việc như thế tạo tâm thế, sự phấn khởi.. giáo dục niềm vui, tự hào, sự
hăng say và biết trân trọng thành quả do chính bàn tay các em làm lên.
Do vậy, lớp tôi được sự đồng thuận, ủng hộ cao của các bậc phụ huynh, các em
học sinh, bộ mặt của lớp tôi đã được thay đổi rất nhiều. Lớp học trở nên xanh
hơn, đẹp hơn. Các em học sinh được phát huy khả năng của mình, được cùng
tham gia vào xây dựng lớp học và tích cực tham gia vào các hoạt động giáo dục
và học tập trong lớp nên các em mạnh dạn hơn, tự tin hơn và có ý thức học tập
tốt hơn.
∝ Xây dựng các góc học tập và thư viện lớp:
Để tạo ra các hoạt động hỗ trợ giúp GV và HS tìm kiếm các nhóm giải pháp và
các nguồn lực khác nhau giúp quá trình giảng dạy và học tập nhẹ nhàng và hiệu
quả hơn. Góc học tập giúp học sinh thu nhận tiếp cận, tổng hợp kiến thức thuận
lợi hơn, thông qua việc sử dụng đồ dùng, tài liệu học tập, thoả mãn các yêu cầu
của nhóm học tập (làm việc theo nhóm). Góc học tập của từng bộ môn sẽ tạo ra
môi trường học tập gần gũi có tính đặc thù bộ mơn, từ đó kích thích sự ham
muốn học tập và tìm tòi của học sinh, phát triển năng khiếu trong mỗi em.
Với lớp 1, tôi đã cùng các em tạo ra các góc học tập mơn Tốn, mơn tiếng Việt,
mơn Tự nhiên và xã hội, mơn Đạo đức,….. Ở mỗi góc học tập, tôi đã tận dụng
trưng bày các đồ dùng dụng cụ đã được cấp phát, các dụng cụ thí nghiệm, các
đồ dùng do bản thân tôi và các em học sinh tự làm, các sản phẩm sáng tạo của
học sinh….để trưng bày và phục vụ cho các hoạt động học tập hàng ngày. Trong
q trình giảng dạy, tơi hướng dẫn các em trang trí các góc học tập theo chủ đề,

chủ điểm,…nhằm khơi dậy trong mỗi em sự tìm tịi, lịng u thích,.. định
hướng và phát triển năng lực ở mỗi em.
Thư viện lớp là một công cụ quan trọng là nơi cung cấp các nguồn tài liệu khác
nhau (thư viện lớp tôi được đặt ở một cái giá góc dưới bên phải lớp học), trên đó
sách truyện và tài liệu tham khảo được huy động sự hỗ trợ của phụ huynh học
sinh. Do đó, thư viện lớp tơi ln có đầy đủ các loại sách, truyện, giúp học sinh


tự khám phá, cung cấp các thông tin cần thiết, phục vụ nhu cầu học tập và tự tìm
hiểu của học sinh. Thư viện lớp góp phần hình thành phát triển xây dựng thói
quen đọc cho HS. Để quản lí hiệu quả, tôi giao Hội đồng tự quản của lớp, phân
cơng cụ thể một em phụ trách thư viện, có trách nhiệm bảo quản theo dõi việc
cho các bạn trong lớp mượn trả sách truyện.
∝ Xây dựng nội quy lớp học:
Trên cơ sở việc học tập năm điều Bác Hồ dạy, nhiệm vụ của học sinh, các nội
quy, quy định của nhà trường, tôi cho học sinh trao đổi thảo luận và cụ thể hóa
góc nội quy của lớp theo nội dung là những việc “Nên và Không nên” bằng
những cụm từ dễ nhớ, dễ thuộc. Từ đó, hàng ngày các em nhớ để thực hiện cho
đúng và các em cũng dễ theo dõi nhắc nhở bạn mình thực hiện.
∝ Xây dựng góc sinh nhật:
Cùng với các em, tơi hướng dẫn các em trang trí, vẽ cắt dán hình bánh sinh nhật
và định hình 12 tháng trong năm lên một mảng tường ở vị trí trang trọng mà từ
cửa lớp nhìn vào là thấy. Các em lần lượt ghi ngày sinh của mình ứng với các
tháng đã định sẵn. Từ đó, hàng tháng lớp sẽ biết được tháng này là sinh nhật
những bạn nào và vào những buổi sinh hoạt lớp của tuần đầu tiên trong tháng
đó, lớp sẽ tổ chức mừng sinh nhật cho các bạn gắn với những món quà tuy nhỏ
nhưng thật ý nghĩa và vui. Từ việc làm đó, tơi đã giúp các en học sinh gần gũi
nhau hơn, hiểu nhau hơn và đặc biệt là các em thấy mình được quan tâm hơn.
Các em thấy đời sống trường lớp ý nghĩa hơn, thiết thực hơn, gần gũi hơn,
trường lớp là nhà của mình, bạn bè trong trường lớp là anh em mình.

b/ Xây dựng, hình thành và giáo dục nhân cách cho trẻ thông qua giờ học:
– “Học mà chơi_ chơi mà học”. Trong giờ học để các em tiếp thu bài được dễ
hơn, tôi thường tổ chức các trò chơi, tạo điều kiện để đơng đảo học sinh được
tham gia:
Ví dụ: Trị chơi “hái hoa dân chủ” trong giờ ơn tập mơn TNXH, trị chơi đóng
kịch phân vai trong giờ Đạo đức (luyện tập), chơi “ai nhanh hơn” trong giờ


Toán và luyện giọng đọc tốt trong giờ Tiếng việt qua “ai là phát thanh viên”..
Những kiến thức cơ bản học sinh được học dưới dạng trò chơi, học sinh thấy
hứng thu và tiếp thu kiến thức nhanh hơn; đồng thời, tơi nhận thấy thơng qua
các trị chơi tính cách các em được bộc lộ rõ ràng hơn. Qua đó, tơi dễ dàng nhận
ra tính cách của từng em để có biện pháp hỗ trợ học tập và giáo dục phù hợp.
Song song với việc tổ chức các tiết học vui, tạo khơng khí cho học sinh tơi quan
tâm:
– Đổi mới phương pháp và hình thức dạy học. Tăng cường hoạt động thực hành.
Chuẩn bị tốt, đầy đủ phương tiện đồ dùng dạy học của giáo viên và dụng cụ học
tập của học sinh, sử dụng hiệu quả và tăng cường việc cải tiến, tự làm đồ dùng
dạy học.
– Chú trọng bồi dưỡng kiến thức thực tế cho học sinh thơng qua việc mở rộng
khơng gian học tập. Tích hợp giáo dục kỉ luật tích cực, kĩ năng sống, giáo dục
mơi trường, an tồn giao thơng, tiết kiệm năng lượng, biển đảo,… thêm yêu quê
hương đất nước.
– Căn cứ tình hình thực tế của địa phương, của nhà trường, bản thân ln có sự
trao đổi, thống nhất có sự điều chỉnh nội dung dạy học cho phù hợp với thực tế
lớp học và điều kiện địa phương; Tuy nhiên, việc điều chỉnh phải đảm bảo đánh
giá chuẩn về kiến thức, kĩ năng theo quy định. Đối với lớp 1: Thực hiện nghiêm
túc qui trình dạy học (theo thiết kế), khơng được tự ý cắt xén nội dung; linh hoạt
trong khi dạy, điều chỉnh theo đối tượng, năng lực tiếp thu của học sinh; giáo
viên phải ghi nhật ký giảng dạy và thường xuyên trao đổi chuyên môn với đồng

nghiệp.
– Tổ chức xây dựng các nề nếp cho học sinh: Ngay từ đầu năm, tôi đã hướng
dẫn thật tỉ mỉ để các em thực hiện tốt các nề nếp mà nhà trường đã quy định như
nếp chào hỏi, xếp hàng ra vào lớp, nếp sinh hoạt và truy bài đầu giờ…Tôi
không phó mặc sự quản lý lớp cho HĐTQ mà chỉ thơng qua các em để nắm bắt
tình hình khi giáo viên khơng có trên lớp.
Đầu năm học, các em chưa biết đọc, biết viết nên tôi phát cho các em thời khoá


biểu hướng dẫn các em về dán ở góc học tập và nhờ bố mẹ hướng dẫn sắp xếp
sách vở trước khi đến lớp, tôi hướng dẫn kĩ về sách vở, đồ dùng học tập của
từng môn, giúp các em nhận biết mơn học qua bìa sách và nội dung của bài học.
Để dạy một tiết học đủ thời gian 35 phút thật khoa học, hiệu quả tôi đã đưa các
em vào nề nếp làm theo hiệu lệnh của mình.
Ví dụ: Tơi quy định với các em các kí hiệu khi sử dụng đồ dùng học tập: B:
Bảng; V: Vở; S: Sách…
Trong giờ tiếng Việt, khi đánh vần đọc trơn tôi chỉ từng chữ ghi âm hay cả tiếng
từ. Khi u cầu học sinh phân tích tơi đặt ngang thước dưới tiếng, từ cần phân
tích. Học sinh thực hành theo dãy, nhóm…
Trên thực tế, do gia đình khơng quan tâm nên nhiều em đến lớp còn thiếu hoặc
quên sách vở và đồ dùng học tập. Vì vậy trong giờ học các em không hoạt động
học tập làm ảnh hưởng đến các bạn xung quanh. Do đó, tơi đã hình thành, tạo
cho các em thói quen giờ nào việc ấy ngay từ đầu năm Trong mỗi giờ học để
dảm bảo không khí “học mà vui vui mà học” giáo viên cần hướng dẫn cho các
em có nếp giơ tay phát biểu ý kiến, nếp chăm chú nghe giảng hay ý thức tham
gia các trị chơi học tập, hoạt động nhóm…
Rèn nếp học tập ở nhà cũng là một việc rất quan trọng trong việc hình thành nề
nếp học tập cho học sinh lớp 1. Tuy các em đã được học 2buổi/ ngày, kiến thức
các mơn học đã được hồn thành ngay trên lớp nhưng chúng ta vẫn cần rèn cho
các em nếp tự học và soạn sách vở, đồ dùng học tập. Điều này tôi thống nhất

với cha mẹ học sinh qua buổi họp đầu năm. Việc giữ gìn sách vở, đồ dùng học
tập cũng ảnh hưởng tới chất lượng học tập của các em. Vì thế, ngay trong từng
tiết học tôi đã hướng dẫn cách đặt tay khi viết, cách để đồ dùng sách vở thật
khoa học để không bị nhàu nát, quăn góc hay hỏng hoặc mất.
– Thực hiện đánh giá học sinh theo hướng động viên, khuyến khích, ghi nhận sự
tiến bộ hàng ngày của từng học sinh, giúp học sinh cảm thấy tự tin và vui thích
với các hoạt động học tập. Tăng cường đánh giá thường xuyên bằng nhận xét,
trong đó chú trọng nhận xét cụ thể của giáo viên về những nội dung học sinh đã


thực hiện được và những nội dung chưa thực hiện được. Đặc biệt, đối với lớp 1,
khuyến khích giáo viên trên lớp chỉ nhận xét, không chấm điểm vào vở của học
sinh, không thông báo điểm số đến học sinh và gia đình học sinh; giáo viên
tuyệt đối khơng có biểu hiện so sánh giữa các học sinh, chê trách học sinh trong
bất kỳ hoàn cảnh nào, với bất kỳ động cơ nào.
c/ Xây dựng, hình thành và giáo dục nhân cách cho trẻ thông qua các giờ hoạt
động tập thể.
Sau những giờ học căng thẳng và mệt mỏi thì hoạt động ngoài giờ là giờ các em
được vui chơi thoải mái, sau khi các em tham gia bài thể dục giữa giờ và bài ca
múa hát tập thể của trường thì các em chơi tự do, lúc này các em chơi những gì
mà từng học sinh thích chơi. Chính vì vậy, mà đã nảy sinh bao nhiêu vấn đề làm
cho người làm công tác chủ nhiệm phải hết sức quan tâm, tìm ra những giải
pháp phù hợp để giờ chơi thực sự trở thành một giờ chơi lành mạnh và bổ ích.
Qua nhiều năm làm cơng tác chủ nhiệm tơi đã xây dựng cho mình kế hoạch để
hướng dẫn học sinh có giờ chơi thật thoải mái, lành mạnh bổ ích cụ thể như sau:
Ngay từ đầu năm, tơi đã kết hợp với nhà trường và ban phụ huynh của lớp
chuẩn bị cho các con một số vật dụng cần thiết phục vụ cho giờ chơi như: Cầu
lông, cờ vua, một mảnh vải nhỏ để các em chơi bịt mắt bắt dê, dây nhảy, quả
cầu, giấy vẽ, bút màu, phấn màu, bộ xếp hình, que tính, sách, báo, truyện,
những viên sỏi trắng để chơi …. Đến giờ chơi, tôi cho học sinh tự chọn các vật

dụng để phục vụ trị chơi mà con thích. Với trị chơi mà học sinh chưa biết cách
chơi, tôi đã hướng dẫn và chơi cùng học sinh. Thơng qua các trị chơi như vậy,
các em được thả tâm hồn mình vào các trị chơi, các em say sưa hứng thú, thỏa
sức sáng tạo, thư giãn đầu óc sau các giờ học. Qua đó, các em được giao lưu,
học hỏi và hiểu biết thêm nhiều điều mới lạ. Qua đó, từ nhận thức đến nhân
cách của học sinh được dần hình thành và phát triển theo một chiều hướng tốt
tích cực.
Ngồi ra, cho các em tham gia các hoạt động tập thể theo các chủ điểm của từng


tháng:
VD: Chủ điểm 5: Yêu quý mẹ và cô giáo (Thời gian thực hiện: Tháng 3).
a) Yêu cầu giáo dục
– Hiểu ý nghĩa ngày Quốc tế Phụ nữ 8 – 3.
– Giáo dục cho học sinh lịng kính trọng, q mến mẹ và cô giáo_ hai người mẹ
hiền, người phụ nữ Việt Nam.
– Biết cách thể hiện sự quý trọng người phụ nữ Việt Nam.
b) Các hình thức hoạt động
– Phát động phong trào thi đua lập thành tích mừng ngày Quốc tế Phụ nữ.
– Ca hát, múa, kể chuyện…. về mẹ và cô giáo.
– Tổ chức kỉ niệm ngày Quốc tế Phụ nữ : 8 – 3. Làm hoa tặng mẹ và cô trong
ngày 8/3. Nghe kể chuyện về ngày quốc tế phụ nữ 8/3.
3/ Tạo niềm vui đến với trẻ
a/ Thân thiết tình thầy trị
Tạo đựơc tâm thế cho học sinh trong buổi học là vô cùng cần thiết. Hiểu điều đó
nên tiết đầu tiên tơi khơng bao giờ quở trách, trách phạt bất cứ một học sinh
nào. Dù hơm đó học sinh đi muộn hay qn đồng phục hoặc quên sách, vở,
thiếu phần chuẩn bị … Nếu nặng lời mắng mỏ sẽ đem lại cho học sinh đó nỗi
buồn, cảm giác có tội sẽ đè nặng, phá tan sự tiếp thu của học sinh trong cả buổi
học hơm ấy. Chính bản thân giáo viên cũng bị ức chế, buồn bực, tức tối trong

suốt giờ giảng của mình. Để tránh tình trạng trên, sáng sáng khi bước chân vào
lớp tôi thường nghĩ ra một câu chào, một câu đùa hóm hỉnh hoặc sau lời chào là
một vài cử chỉ ân cần. Khi thì sửa lại tóc cho em này, lúc lại cài áo cho em kia
.v.v… Để sao cho học sinh cảm nhận được một ngày học mới bắt đầu hết sức
nhẹ nhàng và ấm áp. Đến cuối ngày học hơm ấy, tơi cho các em bình chọn ai
học ngoan và ai tiến bộ nhất trong ngày, lúc đó là lúc mà tơi nhắc nhở khuyết
điểm mà các cháu học sinh hồi sáng mắc phải. Nếu lỗi cháu đó mắc phải mà
nặng, cháu sẽ tự đứng trước lớp tìm xem mình sai ở chỗ nào rồi hứa với tập thể


lớp, với cơ giáo sẽ sửa những sai lầm đó.
Cả ngày học sinh ở trường, cô giáo trong thời gian đó thay vai trị người mẹ ở
nhà của các em. Gặp khi học sinh bị sốt, mệt hay đau bụng trong tiết học tôi
không làm ngơ mà ân cần hỏi han bình tĩnh xử lý: cần dùng dầu thì xoa cho các
em chút dầu, khi thì pha cho các em cốc nước, có em mệt q khơng đỡ tơi đưa
cháu xuống phịng y tế hoặc thơng báo cho gia đình cháu đến để trao đổi tư vấn
để phụ huynh có hướng giải quyết nhanh. Thực tế trong lớp tôi chủ nhiệm, thời
gian đầu năm học có một em học sinh suốt ngày chảy mũi tanh hôi, bản thân tôi
đã gặp gỡ, trao đổi với gia đình, lúc đầu gia đình họ tự ái khơng hài lịng vì họ
cho là giáo viên chê con họ. Song tơi vẫn kiên trì khun gia đình nên đưa con
đi khám, cuối cùng gia đình học sinh đó đã hiểu và đưa cháu đi khám ở bệnh
viện Bạch Mai_ Hà Nội. Kết quả bác sĩ đã lấy trong mũi học sinh ra một cục
kẹo cao su. Từ đó, em đã khỏi bệnh, gia đình rất phấn khởi tìm tới tơi cảm ơn và
chia sẻ: “Cơ thực sự là người mẹ hiền thứ hai của cháu”.
b/ Khen thưởng động viên
Cuối tuần trong tiết sinh hoạt lớp, học trị lớp tơi rất thích và háo hức chờ đón.
Học sinh được tự do bình bầu và được tơi ghi nhận. Những học sinh được cơ
khen vì tiến bộ từng mặt: học tập, kỷ luật hay chỉ là có chữ viết tiến bộ hơn tuần
trước đều được phát phần thưởng. Vào những ngày lễ tết hoặc sinh nhật của
từng em, học sinh cũng nhận được những món quà nhỏ nhưng nó đã thực sự

mang đến cho các cháu niềm vui khi đến trường:
Ví dụ: Tết Ngun đán tơi mừng tuổi cho các cháu một quyển vở kèm theo
những lời chúc: Em gặp may mắn.
Ngày 8 tháng 3 để các học sinh gái có ý thức về giới tính của mình, tơi hướng
dẫn các học sinh nam làm một món q tặng cho các bạn gái cùng bàn. Ngồi
ra, tơi cịn cho cả lớp vẽ, cắt thành hoa có ghi điểm 9, điểm 10 về tặng bà, tặng
mẹ.
Những món quà tuy nhỏ nhưng đã thu được những giá trị tinh thần lớn bởi tôi
đọc thấy trên gương mặt của các em sáng lên niềm hân hoan với những nụ cười


hồn nhiên của con trẻ.
Mang niềm vui đến cho con trẻ từ những việc làm bình thường như vậy nhưng
cũng khiến cho học sinh cảm thấy tình thương yêu và sự quan tâm săn sóc của
giáo viên với các em. Từ sự cảm nhận này khiến cả phụ huynh lẫn học sinh đều
cảm thấy tin tưởng ở trường lớp, đặc biệt là cơng giáo chủ nhiệm. Từ đó, phụ
huynh gửi gắm các em cho nhà trường, cho giáo viên chủ nhiệm mà hoàn toàn
yên tâm vững dạ.
4/ Giáo viên chủ nhiệm cần xây dựng tốt mối quan hệ khăng khít, phối hợp chặt
chẽ giữa các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nhà trường:
Xây dựng tốt mối quan hệ chuẩn mực khăng khít, phối hợp chặt chẽ giữa các tổ
chức, cá nhân trong và ngồi nhà trường làm tốt cơng tác giáo dục, hình thành
và phát triển nhân cách cho học sinh lớp chủ nhiệm:
∝ Quan hệ với Ban giám hiệu:
– Tiếp nhận chủ trương, kế hoạch và những định hướng cho từng hoạt động cụ
thể của BGH và HĐGD nhà trường.
– Xây dựng kế hoạch và chỉ đạo triển khai thực hiện kế hoạch cho phù hợp với
tình hình của lớp chủ nhiệm
– Đề đạt nguyện vọng chính đáng của học sinh lớp chủ nhiệm với BGH và
HĐGD nhà trường, đề xuất các phương án giải quyết .

– Phản ánh những ý kiến nguyện vọng của gia đình học sinh về sự đồng tình
hay phản bác đối với những chủ trương, quy định của trường để cấp trên có sự
xem xét, giải đáp hoặc sửa đổi cho phù hợp với thực tế.
– Báo cáo theo định kì hoặc đột xuất (nếu có) với BGH và HĐGD.
∝ Quan hệ với giáo viên khác:
– Bàn bạc, thống nhất với những thành viên thuộc tổ về nội dung, kế hoạch,
cách thức, tiến độ các hoạt động.
– Thông báo hoạt động của lớp chủ nhiệm và đề xuất sự giúp đỡ, phối hợp đối
với một số công việc nhằm tạo phong trào, phát huy sức mạnh của cộng đồng


khối lớp.
– Chia sẻ kinh nghiệm, giúp đỡ lẫn nhau tạo môi trường đồng cảm, đồng trách
nhiệm đối với thế hệ trẻ
∝ Quan hệ với giáo viên bộ môn:
– Liên hệ mật thiết với giáo viên bộ môn để nắm bắt được tình hình học tập của
mỗi học sinh.
– Thơng báo cho giáo viên bộ mơn tình hình của lớp, những học sinh có năng
lực học tập tốt, những học sinh có năng lực học tập yếu kém, những học sinh có
phẩm chất đạo đức cần phải uốn nắn.
– Phối hợp với giáo viên bộ môn tổ chức các hoạt động ngoại khóa phục vụ hoạt
động dạy và học.
– Tổ chức học sinh trong lớp thăm hỏi, động viên các thầy cô giáo dạy tại lớp
nhân các ngày lễ hoặc những thầy cơ giáo có hồn cảnh khó khăn.
∝ Với các đoàn thể trong trường:
Ngoài việc các em học tập kiến thức văn hố thì việc các em tham gia các hoạt
động của Sao Đội là điều tất nhiên. Thông qua những hoạt động của Sao Đội,
các em sẽ rèn luyện thêm nhiều phẩm chất của người học sinh cần có như là:
tình đồn kết, lịng nhân ái, tinh thần cầu tiến….phối hợp với Đội thiếu niên tiền
phong là giáo viên chủ nhiệm, hiểu biết về hoạt động Sao Đội của các em, luôn

động viên nhắc nhở uốn nắn các em trong các hoạt động của Sao Đội.
Không chỉ thế, Đội cịn có biểu điểm thi đua hàng tuần giữa các lớp. Tôi luôn
nắm chắc biếu điểm này làm cơ sở đưa ra biểu điểm thi đua cho phù hợp với
trách nhiệm của mình. Trong biểu điểm thi đua có mức khen thưởng và kỉ luật.
Để làm tốt được điều này cần có sự kết hợp theo dõi của các tổ trưởng, lớp
trưởng, lớp phó, căn cứ vào sổ theo dõi tuần. Mỗi tuần tổng kết, một lần tôi luôn
dành những lời khen tặng học sinh tích cực, cho học sinh tự nhìn nhận những vi
phạm để các em ghi nhớ và có hướng khắc phục, phấn đấu; tuy nhiên việc
khuyến khích, động viên để các em có hướng phấn đấu vươn lên là chủ yếu.


∝ Quan hệ với Phụ huynh học sinh:
– Liên lạc với phụ huynh ngay khi năm học bắt đầu, lập hồ sơ học sinh.
– Lập danh sách số điện thoại chung của các gia đình học sinh gửi cho các giáo
viên của lớp.
– Đưa ra danh sách những đồ dùng, sách vở và dụng cụ cần thiết mà các em
phải mang theo vào mỗi ngày đến lớp.
– Họp phụ huynh theo định kì. Ngồi ra, Tơi thường xun liên hệ, trao đổi với
phụ huynh để cùng phối hợp giáo dục, động viên giúp đỡ kịp thời từng học sinh
qua điện thoại, “Sổ tự theo dõi hàng ngày” hoặc qua sổ liên lạc nhất là đối với
những học sinh chậm phát triển để nâng cao chất lượng học tập, rèn luyện phát
triển trí tuệ, năng lực và phẩm chất cho các em. Cụ thể là:
+/ Trong mỗi năm học, tôi thực hiện định kỳ để thông báo cho phụ huynh biết
kết quả học tập, rèn luyện của các em qua sổ liên lạc, điện thoại, qua trao đổi
trực tiếp phản ánh những tiến bộ, những nhược điểm cơ bản của từng học sinh.
Tôi yêu cầu phụ huynh sau khi xem phiếu liên lạc…. cần ghi rõ ý kiến của mình
về kết quả phấn đấu của con em, về những lời nhận xét đánh giá của giáo viên
chủ nhiệm. Bên cạnh đó, phụ huynh cần thơng báo thêm tình hình học tập, tu
dưỡng rèn luyện của học sinh ở gia đình.
+/ Ngồi ra, tơi cịn thường xun liên hệ với phụ huynh học sinh thông qua

điện thoại liên lạc. Khi thấy bất kỳ một học sinh nào có hiện tượng bất thường
về học tập cũng như hành vi, ý thức, tôi dành thời gian gọi điện về gia đình để
tìm hiểu nguyên nhân, để từ đó thống nhất, phối hợp với phụ huynh học sinh để
có biện pháp kịp thời.
+/ Tổ chức họp phụ huynh đình kỳ 3lần/năm theo kế hoạch cụ thê của nhà
trường. Thông qua các lần họp phụ huynh tơi lại có cơ hội bày tỏ cách làm việc
của mình trên lớp, thơng báo cụ thể tình hình của từng em về mọi mặt để phụ
huynh thấy ưu điểm và tồn tại của con em mình đồng thời tơi cũng lắng nghe để
hiểu những tâm tư nguyện vọng của họ cùng nhau bàn bạc thống nhất cách giáo
dục con em mình cho phù hợp.


×