Tải bản đầy đủ (.doc) (2 trang)

Che Lan Vien

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (48.16 KB, 2 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

<b>CHE LAN VIEN</b>


- Chế Lan Viên tên thật là Phan Ngọc Hoan


- Sinh ngày: 23-10-1920 (tức ngày 12 tháng 9 năm Canh Thân)


- Quê gốc ở Cam Lộ, Quảng Trị, song thuở nhỏ sống, học, và làm những bài thơ đầu
tiên ở Bình Định, nên nơi này cũng được xem như quê hương thứ hai của ông.


- Chế Lan Viên đã từng có thơ được in trên báo chí từ những năm 1935-1936. Năm


1937, khi tập thơ Điêu tàn được in ra (lúc ông mới 17 tuổi và là học sinh năm thứ 3
trường Trung học Quy Nhơn), ngay lập tức được dư luận đặc biệt chú ý - và được xem


là một trong những nhà thơ nổi tiếng của phong trào thơ mới. Thời gian ở Bình Định
ơng cùng nhóm thơ với Hàn Mặc Tử, Yến Lan, Quách Tấn được gọi là Bàn thành tứ


hữu (bốn người bạn thơ đất Bình Định).


- Năm 1939 ơng ra học tại Hà Nội, sau vào Sài Gòn làm báo, rồi ra Thanh Hóa dạy học.
Năm 1942 ơng cho ra đời tập văn Vàng Sao, thơ triết luận về đời với màu sắc siêu hình,


huyền bí.


- Cách mạng Tháng Tám năm 1945, ông tham gia tại Quy Nhơn rồi ra Huế tham gia
Đoàn xây dựng cùng với Hoài Thanh, Lưu Trọng Lư, Đào Duy Anh, viết bài cho báo


Quyết Thắng của Việt Minh Trung bộ.


- Trong kháng chiến chống Pháp, ôn glàm công tác báochí ở Liên khu 4 cũ.
- Tháng 7-1949 trong chiến dịch ở Tà Cơn, Đường 9 (Quảng Trị) Chế Lan Viên được



kết nạp vào Đảng.


- Hòa bình lập lại, ơng về Hà Nội. Từ đấy cho đến suốt cuộc kháng chiến chống Mỹ, ông
cho ra đời hàng loạt tập thơ như: ánh sáng và phù sa (1960); Hoa ngày thường - chim
báo cáo (1967); Những bài thơ đánh giặc (1972); Đối thoại mới (1973); và một loạt tác
phẩm lý luận, phê bình, văn xi như Phê bình văn học (1962); Suy nghĩ và bình luận


(1972); Những ngày nổi giận (1966).


- Trong thời kháng chiến chống Mỹ, ông tham gia trong Ban lãnh đạo Hội nhà văn Việt
Nam, nhiều lần là sứ giả của văn hóa Việt Nam tham dự trên các diễn đàn văn hóa
Quốc tế ở Liên Xô (cũ), Pháp, Nam Tư, ấn Độ, Na Uy, Thụy Điển ... Ông cũng từng là


đại biểu Quốc Hội bốn khóa liền (từ khóa IV đến khóa VII).


- Sau ngày đất nước thống nhất ông chuyển hẳn vào sống ở Thành phố Hồ Chí Minh.
Và ơng vẫn cho ra đời nhiều tập thơ, trong đó có tập Hát theo mùa (1977), Hoa trên đá


(1984); nhiều tập văn xuôi trong đó có Từ gác Khuê văn đến quán Trung tâm (1981),
Ngoại vi thơ (1987).


- Ông mất ngày 19-6-1989 tại bệnh viện Thống Nhất thành phố Hồ Chí Minh.
<b>Tác phẩm chọn lọc </b>


<b>* Thơ:</b>


- Điêu tàn (1937)


- Gửi các anh (Hội nhà văn, 1955)


- ánh sáng và phù sa (Văn học, 1960)


- Hoa ngày thường, chim báo bão (Vănhọc, 1967)
- Những bài thơ đánh giặc (Thanh niên, 1972)
- Đối thoại mới (Văn học, 1973)


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

- Hái theo mùa (Tác phẩm mới, 1977)
- Hoa trên đá (Văn học, 1984)


- Ta gửi cho mình (Tác phẩm mới, 1986)
- Di cảo thơ Chế Lan Viên (1992)


<b>* Văn xuôi:</b>


- Vàng sao (1942)


- Thăm Trung Quốc (bút ký, Văn học, 1963)
- Những ngày nổi giận (bút ký, Văn học, 1966)
- Bác về quê ta (tập văn, Nghệ An, 1972)


- Bay theo đường dân tộc đang bay (Văn Nghệ Giải phóng, 1976)
- Giờ của số thành (bút ký, Lao Động, 1977)


- Những nàng tiên trên mặt đất (Kim Đồng, 1985)
<b>* Tiểu luận - phê bình:</b>


- Kinh nghiệm tổ chức sáng tác (Thép Mới, 1952)
- Phê bình văn học (Văn học, 1962)


- Suy nghĩ và bình luận (Văn học, 1971)


- Nghĩ cạnh dịng thơ (Vănhọc, 1981)


- Từ gác Khuê Văn đến quán Trung Tân (Tác phẩm Mới, 1981)
- Nói chuyện thơ văn (Chàng Văn, Văn học, 1960)


</div>

<!--links-->

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×