Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (349.78 KB, 65 trang )
<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>
<i></i>
—-****—-…Xin giới thiệu, bác Sơn Tùng là nhà văn mà nhiều người đã biết đến, qua các tác
phẩm của bác. Trong buổi nói chuyện hơm nay, bác sẽ cung cấp cho chúng ta những
thông tin rất bổ ích. Mặc dù bác đang mệt, nhưng rất nhiệt tình với chúng ta, bác vẫn
nhận lời nói chuyện với trường chúng ta hôm nay.
Bây giời tôi xin nhường lời cho bác Sơn Tùng.
Kính thưa thầy Hiệu Trưởng
Kính thưa các thầy, các cô giáo
Trường cán bộ quản lý giáo dục đào tạo của cơ quan giáo dục, bất luận thời nào đi
nữa, thì giáo dục vẫn là nền tảng quan trọng. Vì, khơng tơn sư thì khơng thể có Đạo
được. Dù phong kiến, đế quốc, tư bản, xã hội chủ nghĩa đi nữa…nếu không trọng
thầy, không yêu thầy học (muốn con hay chữ, phải yêu lấy thầy), là khơng phải đạo.
Vì vậy, nói đến giáo dục, đã khơng có thì đành vậy, cịn đã là có chữ thì phải biết ơn
thầy. Làm đến ông vương, ông tướng cũng phải qua thầy học, làm nhà văn đi nữa thì
trước hết phải yêu từ cơ giáo vỡ lịng dạy mình từ buổi thiếu niên đến thầy dạy tiểu
học, rồi phổ thông lại lên đại học…
Vừa qua thời tiết chuyển đổi đột ngột, ít khi nào sang tháng tư, qua tháng ba, thanh
minh rồi, mà Hà Nội thời tiết 16 độ, cái thời tiết nó rất găng, như ngày hơm qua tơi
tưởng khơng đến được nhưng vì đã nhận lời thầy Huấn từ mấy tuần trước. Sáng nay
thầy Huấn đến cũng biết tôi đang nằm ngoạ thiền chứ không tọa thiền thì sáng nào tơi
cũng làm, 2h sáng tơi ngồi thiền, 3h rưỡi sáng tắm nước nóng, dậy đọc sách, đến 5h
nằm thiền điều trị vết thương sọ não.
Hai hôm nay tôi không ăn, hôm qua, do thời tiết đã đành, lại nữa có mấy cái hội nghị
11, 11b, rồi 12… mới bế mạc hơm qua. Thế thì những vấn đề này nó gắn liền với sự
tồn tại, sự sống cịn của đất nước. Vì Đảng ta là Đảng lãnh đạo đất nước từ năm 1930,
làm nên những sự nghiệp rất lớn, trước hết là sự nghiệp cứu nước. Ba mươi năm chiến
tranh, không ai muốn điều ấy làm gì. Người ta muốn làm nhà khoa học, làm nhà
giáo… không ai muốn làm người anh hùng trong chiến tranh. Làm người anh hùng
trong chiến tranh thì hàng nghìn, hàng vạn người ngã xuống. Đó là cái bất đắc dĩ của
dân tộc.
Nhưng từ một phần tư thế kỷ nay, Đảng ta sa sút xuống đến mức không tưởng tượng
nổi so với trước đây, nhân cách nhiều người cộng sản khơng cịn. Nhân cách khơng
cịn, vì tham nhũng đến mức khơng thể chấp nhận.
nước Đông Nam Á, với khu vực của ta, là cao. Vì ngay bây giờ ở Đại học Tổng hợp
có cả đồn sinh viên do ba giáo sư nổi tiếng ở Washington dẫn đầu sang ta để nghiêm
cứu về Bác Hồ. Đoàn ở đây độ ba tháng, nay mới được tháng rưỡi, đã đi Tân Trào,
Pắc Bó về. Đồn gồm những sinh viên xuất sắc về sử Việt Nam và ba giáo sư đem
theo cả gia đình con cái. Họ có mời tơi cùng đi nhưng vì sức khoẻ tơi khơng đi được.
Vấn đề trong mấy hội nghị trên là phe phái, phe cánh, mất đoàn kết trong lãnh đạo cao
nhất. Như trước đây tơi có dịp nói được một phần sự hình thành nhân cách của Bác
Hồ. Nói đến cái đó là trong cái nội gia đình của Bác. Nhân cách của con người ra đời,
trước hết phải là gia đình, bước vào đời phát triển như thế nào bao giờ cũng bắt đầu từ
gia đình, trường học. Nói trường học là có cả xã hội, có làng xóm quê hương. Tơi cố
gắng nói một ý như vậy, ngắn hay dài tuỳ thuộc vào sức khoẻ. Nhưng trước hết tơi
dành một số thời gian để nói về Đại hội 9 sắp tới đây.
Ngày 19 tháng 4 nay, ra Đại hội chỉ để quay phim, chụp ảnh, chứ mọi việc nó đã như
bước một ở hội nghị Trung ương 12, hôm nay Trung ương nghỉ.
Tôi viết về đề tài Bác Hồ và danh nhân cách mạng rất quan tâm đến vấn đề từng con
Ít nhiều thì tơi vẫn nhớ đến cái đại hội Đảng IV cuối năm 1976, hôm nay nhắc đến
Đại hội IV năm 1976. Đại hội kết thúc chiến tranh 30 năm với nhiều hy vọng và chờ
đợi bao nhiêu năm sau khi đuổi được đế quốc rồi, nhân dân sẽ trở lại cuộc sống n
bình, dù đói cơm rách áo đi nữa, thì cái vinh quang là của những con người chiến đấu
vì dân tộc suốt bao nhiêu năm. Nhân dân có thể vẫn cịn đói vì phải khơi phục kinh tế,
khó mà no được, nhưng thể hiện được Nam, Bắc một nhà, hoà hợp dân tộc. Thắng là
thắng đế quốc thắng ngoại xâm, chứ không có chuyện Bắc thắng Nam, Nam thắng
Bắc. Một bà mẹ thờ cả hai sắc lính của hai con vì đất nước chia hai miền. Có cuộc
xung đột ấy thì bà mẹ miền Nam thờ con là lính giải phóng và thờ cả người con ngã
xuống nếu là lính quốc gia đi nữa, thì đó là cái nhất thời trong cái biến cố của dân tộc.
Còn lòng mẹ cụ thể trong nhà phải có như bất cứ người Việt Nam nào trong hồn
cảnh đó.
Ơng cha ta xưa đã có như vậy. Đánh xong giặc Ngun thì Trần Nhân Tông đốt tất cả
các văn bản là những gì có liên quan đến con người chia rẽ. Đốt để phục hồi lại cái
hoà hợp dân tộc. Ai đã từng ra gươm chống lại dân tộc đến giờ phút ấy bỏ …Trần
Hưng Đạo về Kiếp Bạc, vua Trần Nhân Tông lên núi Yên Tử đi tu, giao lại tất cả cho
lớp người trẻ. Đội quân vinh quang trong chống xâm lăng sự nghiệp đến đó xong chỉ
để lại người con rể của Hoàng triều là Phạm Ngũ Lão giúp vua giữ lấy cái truyền
thống nề nếp từ trước. Nếu để Trần Hưng Đạo lại, vậy Trần Quang Khải thì sao, để
ơng con rể nhà Trần thì tiệu hơn, khơng có con ơng này, con ơng kia. Ơng cha ta xưa
đã làm như thế.
những người chiến đấu ở miền Nam, tôi ngã xuống ở miền Đông Nam bộ, ở gần ông
Nguyễn Hữu Thọ.
Ông Nguyễn Hữu Thọ, Chủ tịch Mặt trận, đi dưới lá cờ nửa đỏ nửa xanh, lá cờ mặt
Năm 1960 kỷ niệm đảng ta 30 năm, Bác Hồ nói giữa nhà Hát lớn: Đảng ta là Đảng trí
tuệ, Đảng văn minh rồi. Nói như thế tức là Đảng đã thấy rất dễ đi vào “giai cấp” hẹp
hòi. Bây giờ họ sai lầm đến mức nói đi theo con đường Bác Hồ đã lựa chọn, có đi
theo Bác đâu, Bác Hồ là: Đảng lao động, lao động trí óc, lao động chân tay, Nước ta
là: nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hồ. Trước hết là Dân Chủ, cịn xã hội chủ nghĩa là
ước mơ, còn lâu lắm. Đức phật là: đưa con người trở về với sự công bằng, sự nhân ái
mà đến nay đã 2600 năm chưa thực hiện được. Vậy mà làm sao hôm nay bỗng chốc
trong vòng năm bảy chục năm đưa lại cái xã hội Cộng Sản có ngay được (?). Đó là lý
tưởng, là ước mơ…Loài người đi hàng vạn năm rồi, làm sao lại có một thể chế có thể
thay đổi tất cả chỉ trong vịng mấy chục năm thơi! Không phải.
Thế rồi, từ nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà lại đổi thành Cộng Hoà Xã Hội Chủ
Nghĩa, rồi Đảng Lao Động thành Đảng Cộng Sản…những cái mà Bác Hồ đã đặt ra thì
người ta xố bỏ. Và năm đó họ định sau Đại hội 5 sẽ rời thủ đơ vào Đắc Lắc. Dự kiến
đó là của ông Lê Duẩn đã nói ở Vũng Tàu trong cuộc họp các cán bộ mở rộng. Nếu
chuyện đó đã rồi thì ngày nay làm gì có kỉ niệm 1.000 năm Thăng Long sắp tới. Có
phải cứ muốn chọn chỗ cho đế đơ ở đâu thì chọn. Khơng phải ! Nó là cả bao nhiêu
yếu tố hợp thành, hội tụ lại. Từ trong hang động Hoa Lư chuyển ra giữa đồng bằng
sông Hồng này, đất Thăng Long này, là cả một hình thành, trưởng thành của dân tộc.
Từ chỗ vua ở hang động, vua Lý Thái Tổ chuyển ra giữa thanh thiên bạch nhật, trên
cái thế “Voi quỳ Hổ đứng”, cả cái Tam Đảo, cả cái Ba Vì chầu về đất thiêng, từ đơng
Bình là thế, mà Bác Hồ giao nhiệm vụ cho ông Nguyễn Bình vào Nam lúc đó chưa
phải là đảng viên, ơng Bình xúc động q nói:
- Thưa Bác, tơi chưa phải là đảng viên cộng sản, tôi vốn là đảng viên Quốc dân đảng,
đi ra Côn Đảo bị giam chung với Trần Huy Liệu rồi chuyển sang và đi theo đường lối
của Nguyễn Ái Quốc. Bác giao cho tơi vào phụ trách qn sự tồn miền Nam mà tơi
chưa phải là đảng viên.
Bác Hồ nói với Nguyễn Bình:
- Tổ quốc trên hết! đảng viên ư? Tổ quốc trên hết. Đất lửa miền Nam chỉ có chú vào
phụ trách quân sự toàn miền Nam mới tập hợp được các giáo phái.
Bấy giờ Nguyễn Bình vào Nam làm liên khu trưởng, Quân khu trưởng nhưng chưa
phải đảng viên. Cho đến ngày 28-5-1948 ông được phong Trung tướng.
Bác sử dụng người có tài vào địa hạt nào, cơng tác nào là phát huy được cái đó.
Nguyễn Bình tập hợp được nhiều giáo phái, thì đến hết năm 1947, Bác đánh một cái
điện cho Bảy Viễn, tướng Bình Xuyên. Thế là Bảy Viễn kéo tất cả quân của ơng ta ở
rừng Sác đi theo Nguyễn Bình, nhập vào đại quân. Sau đó “có người” phá, chia rẽ
Đầu tiên khi về Pắc Bó, Bác nói với ơng Đồng, ơng Giáp, ơng Lê Quảng Ba, ơng Chu
Văn Tấn, lúc đó, các ơng gần gũi Bác, và cả ông Trường Chinh nữa, là “Gác cái khẩu
hiệu giai cấp lại, bây giờ là vấn đề dân tộc, dân tộc khơng giải phóng được thì ngàn
đời khơng thể giải phóng được giai cấp. Nhân dân ta là một khi Tổ Quốc lâm nguy thì
ơng địa chủ đến người cố nơng, đều một lịng chống giặc, vì thế là vấn đề dân tộc giải
phóng”. Thế nhưng Đại hội 4 chúng ta, thì nó trật từ cái này. Nếu nói là làm theo di
chúc của Bác, khơng nói cái gì xa, Di chúc Bác để lại là phải chuẩn bị khi giải phóng
Miền Nam. Cho nên trong Di chúc của Bác có câu:
- Cuộc kháng chiến chỗng Mỹ có thể cịn kéo dài mấy năm nữa.
Các ông ấy lại đem bỏ cụm từ “mấy năm nữa” đi, cho là “còn kéo dài”. Lúc đó, trong
bộ chính trị tất nhiên có người đưa ra, nhưng được Bộ chính trị thơng qua: – Có khi
Bác chủ quan. “mấy năm nữa” chắc gì?
-“Cuộc kháng chiến chống Mỹ có thể cịn kéo dài mấy năm nữa”, và thực tiễn xảy ra
đúng là “mấy năm nữa”, nhưng lúc đó Bộ chính trị bỏ cụm từ: “mấy năm nữa”?!
Trong Nam thì phải lo kinh tế từ bây giờ, tức là lo công ăn việc làm, ngoài Bắc này
thế nào trong ấy cũng phải như thế. Trước hết, sau khi kết thúc chiến tranh, việc đầu
tiên là khôi phục kinh tế, tranh thủ sự viện trợ của bạn bè, nâng cao từng bước, chưa
Mà Bác Hồ đã dặn rồi:- Ta đánh Mỹ là cái thế phải đánh, bởi vì Mỹ khơng từ bỏ ý chí
xâm lược, ta phải đánh, đánh xong thì bắt tay với họ. Bác cố tránh để không xảy ra
cuộc chiến tranh với Mỹ. Bác cho người viết thư cho Ngơ Đinh Diệm. Lúc đó có hội
nghị ba nước Đơng Dương ở Phnơm Pênh, Bác định đến đó…có thể gặp Ngơ Đình
Diệm nhưng lúc đó Cabốtlốt thấy tình hình đó nó đảo chính ngay, diệt hai anh em
Ngơ Đình Diệm. Bây giờ nhiều đồng chí ở Miền Bắc cịn nhớ Bác nói: – ơng Diệm có
cách u nước của ơng ấy, đừng có gọi bằng thằng, người ta có tuổi rồi. Cách nhìn
của Bác như vậy, sau này có học trị của Bác lầm tưởng rằng Bác nho giáo dĩ hoà vi
q, đâu có phải! Truyền thống của dân tộc ta là như vậy.
Trong Đại Hội 4 hạ tên nước, thay tên Đảng, nêu lên trong 5 năm nữa thì có tivi, có tủ
lạnh cho nơng dân. Những năm đầu tiên thấy được đời sống có nâng lên nhưng khơng
…(đoạn này bị mất) 500 huyện là 500 pháo đài kinh tế, quân sự, dồn làng lại…Lúc đó
cũng có nhiều đồng chí kiến nghị, đề nghị gặp Tổng bí thư Lê Duẩn, nói:
- Thưa đồng chí, xóm làng Việt Nam hình thành những cái làng văn hố có từ hàng
nghìn năm, có làng ít thì 300, 500 năm mà nay xoá những cái làng văn hoá cổ như thế
thì mất hết. Văn hố Việt Nam là văn hố làng xã.
Xin lỗi, ơng Lê Duẩn nói: Ngu, Ngu.
Thế là giáo sư Lê Văn Thiêm lủi thủi ra về. Còn giáo sư Trần Đức Thảo mắt thì cận,
cả đời ông không đi đâu. Ông là nhà triết học, cả nhà tồn sách là sách, ơng viết được
cái gì thì đưa cho cụ Đồng đưa ra đăng báo ở nước ngồi (ơng chỉ nói được thơi chứ
khơng viết được bằng tiếng Việt nên cơng trình của ơng là bằng tiếng Pháp). Ơng
Nói lại (những chuyện này) để các thầy các cô biết và nhắc lại cái bài học lịch sử khi
người đứng đầu mà sai lầm thì nguy lắm, sai một ly đi một dặm. Sai của ta nó ở trong
trường thơi; sai của người đứng đầu của dân tộc thì nó sẽ đẩy lùi phải mất mười năm.
Từ 1976 đến 1986. Đấy ! Phải đi đến Đại Hội đổi mới, bước đi phải thế nào, thế
nào… sau Đại hội 6 thì đổi mới đấy nhưng chưa giải quyết được vấn đề. Vấn đề là
con người lãnh đạo. Hơm nay thì nó như thế nào…xin thông tin cho các thầy các cô
biết, sau ngày 19,20, Đại hội 9 công khai rồi ta cũng biết thơi, nhưng biết thì ta cũng
chỉ biết vậy, cịn bên trong của nó thì chưa nói hết được.
Ở hội nghị 11a thì các cố vấn quyết định thi hành kỷ luật Tổng bí thư và kiên quyết
cách chức trước thềm Đại hội 9. Về phía Tổng bí thư thì kiên quyết phản cơng lại cố
vấn. Đó là nguy cơ chứ! Hơm nay thì giải toả được rồi, nhưng nay nó lại như thế thì
con cái nó sợ vơ cùng chứ!. Sợ vì đất nước đang đứng trong một tình thế bất ổn, trong
khi Tây Nguyên thì như vậy.
Nhưng trước hết ta “Tiên trách kỷ…”. Cửa ngõ Tây Nguyên như vậy, sau khi giải
phóng miền Nam thì ơng nào cũng trở về ở thành phố, thỉnh thoảng lên nói vài câu rồi
vội vàng về để tắm bình nước nóng lạnh, chứ có ai ở với đồng bào đóng khố, khổ…
nên khơng ai ở đó với họ. Rồi đi lấy đất đai của họ bán cho các nhà kinh doanh, mua
rẻ đất của họ, bán đắt cho các nhà kinh doanh lậpôtrang trại. Như vậy, họ thấy đất đai
của cha ông họ mất dần đi, không còn như thời chống Mỹ.
Vừa rồi ông Nguyên Ngọc, tác giả “Đất nước đứng lên”. Ơng có làm một cơng trình
điều tra cơ bản về Tây Nguyên, mà ông làm từ 1999, 16 trang, một tiếng kêu về Tây
Nguyên. Có những nhà văn họ nghiêm cứu đi thẳng vào một vấn đề lớn như vậy mà
không nghe. Bây giờ xảy ra rồi mới hỏi: -À, ơng Ngun Ngọc nói hay, thì cịn gì
Tổng bí thư mà để người ta “đánh” tôi, người ta bảo tôi là người xuyên tạc Bác Hồ.
Tôi xin với Trung ương cho tranh luận công khai trên báo Nhân Dân và các phương
tiện thông tin. Tôi đưa tư liệu của tơi, tơi nói Bác Hồ sinh ra trong một gia đình nhà
quan, tơi đưa tư liệu nhà quan. Cịn các nhà nghiêm cứu Hồ Chí Minh học thì nói Bác
Hồ sinh ra trong gia đình bần cố nơng, thì đưa tư liệu bần cố nơng ra, để người đọc
phân định. Nói tơi lợi dụng đề tài Bác Hồ để hạ thấp Bác Hồ, nói Bác Hồ có người
yêu là hạ thấp Bác Hồ, nói Bác Hồ thành phần bóc lột sinh trong nhà quan là hạ thấp
Bác Hồ, Bác Hồ là người của giai cấp…
Ví dụ như trong chúng ta đây này, bọn tham nhũng, bọn cơ hội thì Trung ương bợ đỡ,
cịn anh em trí thức, các nhà khoa học thì đồng lương thấp đến như thế này…đối xử
như thế này…Tơi có bảng thống kê đây, tơi là nhà văn, hiện nay những nhà văn cơ
hội thì được sống sướng thế này…cịn nhà văn này…nhà văn này…bốn thế hệ ở trong
một cái buồng 18m vuông, như là nhà văn Siêu Hải, nhà văn Mạc Phi, nhà văn Minh
Giang…hàng loạt, họ toàn tham gia đi trước cách mạng và kháng chiến cả, tồn trí
thức cả, học Albert Sarraut có, học trường Bưởi có mà bây giờ như thế này…bốn thế
hệ ở trong một cái nhà như thế…Nhưng sau đó, nói đáng tội thì nhà văn Siêu Hải,
được phân nhà. Ông năm nay cũng gần 80 tuổi rồi, ơng ở 66 Hàng Chiếu có 18m
vuông mà ở gác ba, 9 người, một ông đại tá pháo binh. Lúc đó ơng Đỗ Mười mới nói
với với ơng Lê Khả Phiêu (bấy giờ thường trực Bộ chính trị) giải quyết cho ơng cái
nhà ở Nghĩa Tân. Cịn ơng Mạc Phi, chun gia Tây Bắc, chưa kịp giải quyết cái nhà
cho ơng thì ông đã chết mất rồi. Ngày 19 tháng 5 này là giỗ 5 năm ơng Mạc Phi. Ơng
bị quy là “Nhân văn giai phẩm” bị đầy lên Tây Bắc rồi khơng về nữa, ở lại trên đó
Báo cáo lại tình hình ông Trường Chinh trao đổi với bên kia thế nào?
Ông Vũ Quang nói:
- Tơi là thành viên của đồn, đi phục vụ Tổng bí thư, báo cáo cái gì với ai phải được
Tổng bí thư cho phép. Đồng chí là Uỷ viên Bộ chính trị phụ trách tổ chức thì các đồng
chí làm việc với nhau, tơi là thành viên của đoàn, chỉ là uỷ viên Trung ương phụ trách
đối ngoại, báo cáo như thế này là phạm kỷ luật.
Ơng Thọ lại gọi đến Nguyễn Khánh, lúc đó Nguyễn Khánh là Chánh văn phòng trung
ương Đảng. Khi đồng chí Trường Chinh xem danh sách dự kiến bầu Trung ương thì
thấy gạt Vũ Quang ra. Ơng nói:
- Đảng chủ trương trẻ hoá lãnh đạo, tại sao Vũ Quang trẻ như thế này lại gạt ra?
Ơng Thọ nói: – Vũ Quang có vấn đề, người ta đang tố cáo!!!
tướng Võ Nguyên Giáp sẽ làm Thủ tướng. Ơng Thọ rất sợ lộ cả q trình của ông âm
Ai cũng biết ông Giáp, cử nhân luật kinh tế, năm kết thúc chiến tranh ông mới 64,65
tuổi thơi. Ơng đã từng chỉ huy trong chiến tranh, đã tổ chức lực lượng. Ông biết thế
nào là “mũi nhọn”, thì ơng bị bịt lại. Lúc bấygiờ ơng Tạ Quang Bửu cịn sống, ơng có
viết bài báo Tổ quốc “Những mũi nhọn là đồng chí Võ Nguyên Giáp, phó thủ tướng
phụ trách khoa học kỹ thuật. Viết bài đó là hơi sớm, thì tất nhiên cuối cùng ông Bửu
bị (ông Thọ) gạt đi. Thế là đồng chí Võ Nguyên Giáp, đồng chí Phạm Văn Đồng, các
ông làm sao mà biết được ý đồ của họ? Từ đó dẫn đến chuyện “cố vấn”. Trong điều lệ
Đảng chưa bao giờ có chuyện cố vấn. Đại hội 6 này, ông Thọ biết ông không được
nữa rồi, ông mới đặt ra chức cố vấn. Các đồng chí đọc cuốn “Những kỷ niệm về Lê
Đức Thọ”, mới xuất bản nhân dịp giỗ ơng ấy, đồng chí Nguyễn Đức Tâm viết bài
trong cuốn này. Ông tâm viết :- Tại sao trong Đại hội 6 lại chọn ông Nguyễn Văn
Linh lúc đó chưa là Uỷ viên Bộ chính trị (ơng là uỷ viên Bộ chính trị từ Đại hội 4
nhưng mà bị gạt ra), còn khi được chọn làm Tổng bí thư thì ơng chỉ là Uỷ viên Trung
ương. Ơng Nguyễn Đức Tâm nói cơng khai trong sách đó. Tức là Thọ biết mình
khơng được nữa thì chọn một người mà ai cũng chấp nhận được là ông Linh. Thế là
ông ấy đặt ra chức “cố vấn” để ông ấy cùng được ở trong với ông Trường Chinh và
ông Phạm Văn Đồng. Và họ đưa ra cái văn bản Võ Nguyên Giáp là con nuôi chánh
mật thám Pháp ở Đông Dương…ghê gớm quá!
Một ông Tổng tư lệnh đánh xong giặc rồi, hiện nay đất nước thanh bình lại tạo dựng
là con ni mật thám! Họ làm như thế thì lịng tin nào cịn? Ơng Giáp đâu có phải như
thế! Ơng thống sối tồn bộ tướng lĩnh, làm việc với tồn những người sống bằng
lương tâm, sống bằng danh dự chứ, sao lại con ni mật thám được. Đâu có phải cái
chức nhỏ, đây là Tổng tư lệnh đánh thắng ba tên đế quốc. Ông Maxim, một trong
những người trong toán “Con nai”, đội quân Việt – Mỹ năm 1945, ở với Bác Hồ, năm
nay ông đã 89 tuổi rồi. Ông xin trở lại Tân Trào trước khi chết. Đưa đoàn này đi là bà
Trần Thị Minh Châu, đại tá cựu chiến binh Kim Son, ông Giáp cũng trực tiếp cchỉ đạo
đội quân ấy. Đánh xong Nhật, rồi Pháp, rồi Mỹ, nay lại dựng lên chuyện ông Giáp là
- Con nuôi mật thám nên mới học trường Albert Sarraut, chứ con nhà nghèo ở tận
Quảng Bình làm sao vào được trường Albert Sarraut?
Ơng Giáp lúc đó học Albert Sarraut, nói chuẩn bị chọn ơng sang Pháp vì ơng học giỏi
quá. Nhưng ông đi làm cách mạng từ 14,15 tuổi. Vợ ông Giáp là tiến sỹ Nguyễn Thị
Quang Thái, bị tra tấn chết ở nhà tù Hoả Lò. Chị vợ là Nguyễn Thị Minh Khai, bị
chém ở Hóc Môn. Thân sinh Đại tướng Võ Nguyên Giáp là cụ Võ Quang Nghiêm bị
Pháp tra tấn chết ở nhà lao Phủ Thừa, thi hài cụ bị vứt ra ngoài, một ơng Hồng, cháu
nội vua Thành Thái là Mệ Hiền lượm thi hài cụ Võ Quang Nghiêm đi chôn, đánh dấu
lại để giữ mộ thân sinh Võ Nguyên Giáp, cho đến giải phóng miền Nam gia đình mới
đi tìm mộ được.
Mãi đến năm 1941, Bác Hồ về nước cho đến năm 1951 Đại hội 2 lại bị cái “thiểu số
phục tùng đa số”, lấy “tư tưởng Mao” vào điều lệ nên đến năm 1951 cụ Hồ lại bị
“khố”. Bởi vì Hồ Chủ tịch chỉ còn là Chủ tịch Ban chấp hành chứ khơng cịn là Chủ
tịch Đảng. Bác quyết điều gì khơng cịn nữa mà phải được Ban chấp hành thơng qua.
Quan điểm tư tưởng Hồ Chí Minh được mở ra từ năm 1941 khi cụ về Pắc Bó, thành
lập mặt trận Việt Minh, làm được cách mạng tháng Tám, tuyên bố giải tán Đảng ngày
ngày 11-10-1945, giải tán Đảng cộng sản Đông Dương , sau này thành lập Đảng lao
động thì Lào trả về Lào, Miên trả về Miên, khơng có liên bang gì ở chỗ này. Mỗi dân
tộc có q trình hình thành riêng của nó, cịn viện trợ quốc tế với nhau thì bình đẳng,
chứ để nước lớn trùm lên Lào, Miên là sinh chuyện. Ngay từ lúc đó, cụ Hồ đã nhìn
thấy vấn đề như thế, bây giờ nhìn vào tình hình nào là sắc tộc, nào là tơn giáo…cụ Hồ
khơng có đặt vấn đề liên bang, Miên là Miên, Lào là Lào, Ta là Ta. Đến năm 1951, cụ
Hồ chỉ còn là Chủ tịch ban chấp hành, mới nghe qua thì khơng thấy rõ, trước cụ Hồ là
chủ tịch Đảng, mà chủ tịch Đảng thì khác Chủ tịch Ban chấp hành. Ví dụ trong việc
Bác ký hiệp ước sơ bộ 6-3-1946 không cần triệu tập Ban chấp hành, Bác quyết định
ký. Lúc đó, Bác chỉ sửa đổi hai chữ. Một bên, Bác là “Việt Nam độc lập” một bên
Cho đến năm 1951 đưa “tư tưởng Mao” vào điều lệ, ghi là “Học thuyết Mác Lênin,
chiến lược Stalin, tư tưởng Mao Trạch Đơng, tác phong Hồ Chí Minh; thì bác Hồ nói:
-Thơi, các ơng ấy là đủ cả rồi, Mác – Lênin – Stalin – Mao Trạch Đông…là đủ rồi,
cịn cái “tác phong Hồ Chí Minh” thì miễn cho…
Chả lẽ lúc đó Bác lại nói “Tơi khơng có tư tưởng à”. Lúc đó cũng chưa có nói đạo
đức, mà chỉ nói Bác là “tác phong cần kiệm liêm chính”, giản dị thế thơi, chứ Bác
khơng có lý luận.
-Khơng phát động nơng dân thì nông dân cứ chịu ơn địa chủ suốt đời, phải cho nông
dân đấu tố để nông dân vùng lên. Khi ra biểu quyết thì Bác Hồ chỉ có 3 phiếu, nhưng
cũng là “thiểu số”. Cụ Vũ Đình Huỳnh kiên quyết bảo vệ quan điểm của Bác là hiến
điền trưng thu, trưng mua rộng đất chia cho nông dân…
Xin nói về một bài của một đồng chí ký là “HT”, viết về những nỗi đau của Hồ Chủ
Tịch, hiện nay lưu hành ở Hà Nội, cách đây mấy tháng rồi. Đầu bài ông đề là “10 nỗi
đau của Hồ Chủ Tịch” nhưng trong bài đó ơng (HT) giấu đi 2 cái đau, chỉ viết 8 cái
thơi. Ơng HT là trong Ban Bí thư trung ương Đảng, là nhà lý luận, là Trưởng ban
Tuyên huấn, là Tổng biên tập báo Nhân dân lâu nhất, Chủ tịch Hội nhà báo. Có một
Có thời ông chỉ thị các báo không được đăng ảnh Đại tướng Võ Nguyên Giáp, vì
“trên” chỉ thị như thế cho nên ơng nói “cắt cái mũ phớt đi”. Có lúc ơng cũng lầm,
nhưng lúc tỉnh ngộ ra thấy được sự thật thì ơng kể ra 10 nỗi đau của cụ Hồ, những chỉ
viết có 8 cái, cịn hai cái khơng thấy đưa ra. Dân ta thì khơng biết, nay ơng kể ra thì
ơng cũng ngồi 80 tuổi rồi. Ơng nào cũng viết để lại, khơng in được thì cũng để lại
cho các nhà nghiêm cứu lịch sử sau này làm tư liệu nghiên cứu về những sự thật được
nói ra từ trong tim người ta.
Trong bài viết của ông Vũ Kỳ mà ta đọc báo ta khơng để ý ơng viết kín đáo để đăng
báo Văn Nghệ, báo Tiền phong, báo Nghệ An số tết 1998, hồi đó ơng chủ trương đăng
trên ba tờ báo đó. Nội dung bài báo là: năm 1967 Bộ chính trị mời Bác Hồ đang chữa
bệnh ở Trung Quốc về để thông qua việc tổng tiến công 1968. Khi họp lần thứ nhất
Bác đã không đồng ý chủ trương tổng tiến công nổi dậy, Bác chỉ đồng ý tập kích
chiến lược rồi rút ngay. Đại tướng Võ Nguyên Giáp cũng chủ trương như vậy, nhưng
bị thiểu số nên đành đi chữa bệnh ở Hungari. Nhưng sắp đến tết (Mậu Thân) rồi nên
phải thơng qua chủ trương đó để đi vào cái tết, nên phải mời Bác về. Ông Vũ Kỳ viết
bài báo như sau:
Trên máy bay chỉ có Bác, ơng Vũ Kỳ và người lái máy bay chuyên cơ của Bác từ
Trung Quốc về. Lúc đó đã báo cho bộ đội phịng khơng từ giờ này…đến giờ này…
- Em là người lái mà, lái máy bay cho Bác thì em nhìn sai sao được, người lái nói.
Máy bay lượn 2 vịng không dám xuống, xăng hết rồi, giờ quy định cũng đã hết rồi,
phịng khơng họ bắn chết, mà xuống theo tín hiệu thì khơng an tồn…
Cuối cùng xuống theo trí nhớ (của người lái) chứ khơng xuống theo đèn tín hiệu, vì
trên máy bay báo đi báo lại nhưng, dưới sân bay vẫn khơng thay đổi, đèn “tín hiệu
chệch”, dưới vẫn cứ để thế, khơng sửa. Vịng một vịng và máy bay chạm đất an tồn,
thở đánh phào một cái, Bác vẫn ngồi tĩnh tại hút thuốc, ở dưới sân bay vẫn yên tĩnh.
An toàn rồi, anh ơi (Mừng quá – Nói to lắm nhưng Bác làm như không nghe thấy)
Ra khỏi máy bay (ông Vũ Kỳ tả) thì thấy đồng chí Lê Duẩn, Lê Đức Thọ ra đón, một
lúc thủ tướng Phạm Văn Đồng, chỉ có thế thơi, cịn khơng ai đón Bác cả.
Về tới nhà thì tết rồi, việc đầu tiên Bác gọi điện sang Bộ quốc phòng hỏi:
Tục lệ người Việt Nam ta ngày tết hay nhớ nhà, thế thì các đồng chí ở nhà đã gửi quà
chúc tết đồng chí Võ Nguyên Giáp đang chữa bệnh ở Hungari chưa?
Anh em mình thường trao đổi cái tin này đã đưa ra được chưa? Tôi cho rằng đưa
được, đến năm 98 rồi, nên đưa ra (tin này) vì sắp hết thế kỷ (20) rồi, ai hiểu thế nào
thì hiểu, cịn thì nên đưa ra nhưng đừng bình gì cả. Đừng đưa đăng một tờ báo mà
phải đưa tin trên ba tờ báo, vì một tờ sẽ bị “đánh chết” ngay. Đúng thế! Khi cả ba tờ
báo đăng bài đó, thì các ơng trong Bộ Chính trị mời ơng Vũ Kỳ lên hỏi:
Anh Kỳ nói: Tơi chỉ kể chuyện đi của Bác mà hồi ký của tôi viết về Bác.
Bác Hồ là người cô đơn, đây là cô đơn trên quan điểm. Tôi hiện nay đang viết cuốn
“Bác Hồ là người cô đơn nhưng không cô độc”. Năm 2001 tôi viết cuốn này, chủ yếu
là nói quan điểm của Bác bị “cô đơn” từ Quốc tế cho đến khi Bác qua đời, quan điểm
của Bác luôn luôn thiểu số. Diễn ra trong tình hình hiện nay là vấn đề dân tộc, vấn đề
tơn giáo. Quan điểm của Hồ Chí Minh từ đầu chí cuối là vấn đề dân tộc, chứ khơng
phải là đấu tranh giai cấp chun chính vô sản, cái “thiểu số” ấy đi suốt cuộc đời Bác.
Đến được ngày hơm nay quan điểm đó của Bác càng ngày càng rõ ra là rất mừng.
Điều đó nói rằng mọi khoa học nó ra đời khơng bao giờ dễ dàng dù là khoa học tự
nhiên hay khoa học xã hội. …(Đoạn này nghe không rõ) Nói ra như thế để thấy rằng
Bác Hồ càng ngày càng sáng ra, sáng cả con người cùng quá trình Bác cơ đơn. Nhưng
lúc nào “người ta” thấy “lợi” thì “người ta” nói là của Bác Hồ chứ “người ta” không
làm theo Bác Hồ.
thời đại. Trích câu của Phật, của Giêsu chứ khơng nói Mác. Khi ông Putin đến thăm
nơi Bác ở sinh thời thì người ta đem một chồng sách như thế, nhưng ơng Putin ghi sổ
(lưu niệm lại) khơng nói gì đến chuyện này, mà nói:
-Hồ Chí Minh, người thầy của dân tộc Việt Nam (mà khơng nói Chủ tịch nước).
Người đã để lại trong trí nhớ nhân loại, rất vinh dự cho tôi hôm nay được làm quen
với cuộc sống của người.
Tại sao ơng Putin lại nói “làm quen với cuộc sống cửa Người”? Vì trên vị trí (Tổng
thống) này nhìn tấm gương của Hồ Chí Minh lên đỉnh cao như vậy mà sống không xa
cách dân, sống giản dị, Mà chính ơng nói là khơi phục lại một nước Nga, một nước
Nga yêu nước, truyền thống văn hố. Ta nên nhớ rằng Liên Xơ ngày xưa những người
ấy khơng phải khơng có tấm lịng, nhưng đem xố sạch đi thì đó là người khơng có
đầu óc. Đáng lẽ ra làm cách khác, ta đưa sách khác, sách đích thực Bác đọc trước khi
lâm chung, đây lại làm một chồng sách “toàn Lênin”. Cụ nằm trên giường bệnh ốm
Ta đọc sách, ta đọc lịch sử, ta biết Bác Hồ sinh ở làng Chùa, quê ở làng Sen, sau vào
Huế học. Tôi nghiên cứu, tôi thấy thế này: nếu Bác Hồ không đi vào Huế từ thủa thiếu
thời thì con người ấy cũng bị hạn chế, hạn chế về mặt văn hoá cội nguồn và thanh lịch
ở đất kinh đơ.
Huế là trung tâm văn hố của cả nước ta vào thế kỷ 19, Bác Hồ vào Huế cuối thế kỷ
19, lúc đó Huế là trung tâm của cả nước. Ở Nam Bộ, cụ Phan Thanh Giản đi thi phải
ra Huế, còn khúc ruột miền Trung từ Bình Thuận trở ra đến Quảng Nam, thi hương là
phải ra Huế. Đầu thế kỷ 20 mới có trường thi hương ở Bình Định. Ở Bắc thì Lạng Sơn
trở vào cũng phải vào Huế để thi Hội. Diện mạo các nhà trí thức, các nhân sỹ, các ơng
quan (xin nói thực có một thời kỳ cực đoan, đã nói “quan” là phong kiến, quan là xấu,
ở Chí Linh tơi nói thế mà st bị bắt).
Nói các quan “xấu” như thế sao lại truyền giòng nối dõi văn hố Việt Nam mấy nghìn
năm được!? Cố nơng thì làm sao giữ được văn hoá vật chất của dân tộc? Chúng ta vô
cùng quý trọng cố nông, người thợ nhưng nói đến diện mạo văn hố là phải nói đến trí
thức. Các gia đình khoa bảng, gia đình nhà quan truyền từ đời này qua đời khác-các
ông quan tham nhũng thì cá biệt thơi. Tất cả tham nhũng thì cịn gì là văn hố Việt
Nam, bản lĩnh, bản sắc Việt Nam. Khơng có Nguyễn Trãi thì ta làm gì có văn hố thế
kỷ 17, thế kỷ 18 sang thế kỷ 19 cũng vâỵ. Ở nhà cái ơng giàu nhất nước, mà xưa nay
chưa có nhà nào mà cha con đồng triều là tể tướng, là thân sinh Nguyễn Du và
Bác đi làm cách mạng, Bác khai 1890, nhiều người chúng ta khi đi học, đi hoạt động
cũng khai bớt hoặc thêm tuổi như thế. Bác sinh năm 1891. 1895 Bác vào huế, tuổi ta
là 5 tuổi, tuổi bắt đầu có trí nhớ, tuổi mà người ta dễ nhớ nhất là tuổi này, tuổi lên 5
đến lên 10. Bác 5 tuổi đi theo cha mẹ vào Huế khi ông Nguyễn Sinh Khiêm đưa cho
tôicuốn “Tất Đạt tự ngơn” là tháng 6-1950. Sau đó ít tháng thì cụ qua đời. Trong “Tất
Đạt tự ngơn” thì cụ có ghi ba bài thơ về thời niên thiếu của em trai mình, tức Bác Hồ.
Ba bài thơ này cũng hấp dẫn tơi. Thời đó tơi là một anh thanh niên học sinh, mới đi
hoạt động Đoàn thanh niên cứu quốc (chưa phải Đồn thanh niên Hồ Chí Minh). Cụ
đưa cho tôi đọc bài thơ hay quá đi, thấy tơi ngỡ ngàng khơng tin, thì cụ nói thế này:
Cháu ạ, bây giờ nhớ gì ghi nấy. Bọn Tây nó “thuốc” bác bằng rượu khi bác đi tù. Bác
vào nhà tù 1914, sau bác chống lại thì 1918 nó đày vào cực Nam Trung Bộ. Bác vốn
không phải là người nghiện rượu, nhưng sau này thì khơng có rượu là bác khơng chịu
được và trí nhớ của bác mất dần đi. Bạn học của bác đi thi vào năm 1904 đỗ cử nhân,
đó là ơng Đào Nhữ Tuyên, con trai cụ Đào Tấn. Anh em bác học vào loại giỏi nhưng
không đi thi. Bây giờ bác khơng cịn được như xưa, nhớ cái gì thì bác ghi vào đây,
chứ khơng có hệ thống. Cháu là người có tấm lịng muốn tìm hiểu gia cảnh nhà bác thì
bác đưa cho cháu cuốn ghi chép này, thấy có ích thì cháu dùng, khai thác, khơng nữa
thì đốt, đừng giao..cho ai, vì trong này bác ghi nhiều cái khơng tiện nói ra. Trong đó
bác có ghi họ Hồ là thế nào…về họ Nguyễn thì thế nào…và ngày chú Thành mở nước
độc lập thì là Hồ Chí Minh, chứ khơng lấy họ Nguyễn là vì sao? Trong cuốn này cũng
nêu ra bài thơ đó là: Trên dèo ngang hai bài thơ 1895, còn bài nữa là “Ba ơng phỗng”
năm 1903.
Cụ Khiêm kể lại: Hơm đó cả nhà bác chuẩn bị đi vào Huế, bác ngủ với bà ngoại, em
Thành ngủ với mẹ, còn chị Thanh thì ngủ với dì An. Đêm đêm bác thấy bà khóc, ngày
bà vui, đêm nào cũng nghe thấy bà khóc. Sáng hơm sau thấy bà đi xin mo cau cả làng
(xưa dân ta lấy mo cau làm gàu múc nước). Bác với chú Thành mới lấy mo cau cắt
(Bây giờ mới thấy các cụ ta ngày xưa đi tìm cái chữ ở kinh đơ Huế, đi trên những
phương tiện như vậy, không dép săm bô như ta bây giờ, ngày ấy có đơi dép da bị đã
quý rồi)
Bác hỏi:- Mẹ, tại sao đêm bà lại khóc?
Như vậy cha mẹ bác quyết định vào Huế không phải là để làm ăn sinh sống trở thành
người Huế đâu, mà muốn cho anh em bác vào Huế để học. Cha bác vào đó để làm bạn
với các nhà khoa bảng ở kinh đô. Các ơng qua thời đó đều là Tiến sĩ, là Hồng giáp, là
Đình ngun, ít ra là Cử nhân. Đúng là cha bác vào trong Huế đã tạo ra được một cái
“chiếu văn”, các ông quản trong triều thường đến đó bình văn, bình thơ cùng với các
cụ đồ ở kinh đơ.
Ơng Khiêm kể tiếp: Khi đi dép mo cau, một lúc là rách phải thay cái khác, còn chú
Thành thì được cha cõng trên lưng. Trên cao chú quan sát hỏi hết chuyện này đến
chuyện khác: núi này là núi gì mà cao thế? Bà ngoại hay ví “trèo trng mới biết
trng cao” là nghĩa nó ra làm sao? Có được bao nhiêu nước để gọi là biển. Chú ấy
hỏi nhiều chuyện. Còn bác thì chân nó đau, đi mấy ngày liền, có khi bác khóc. Mẹ bác
lại động viên: “Em nó vui vẻ hỏi chuyện này chuyện khác con là anh mà chẳng vui
chi cả”. Chú thì được cha cõng, đến đường bằng thì chạy tung tăng, hỏi nhiều thứ, cịn
lạ mắt cho nên mẹ bác nói em thơng minh hơn anh. Rồi cụ Khiêm nói: mà chú ấy
thơng minh hơn bác thật…?
Lúc đến chân Đèo Ngang, đường lúc đó có đoạn sát với biển, không như đường ô tô
bây giờ. Đến chân Đèo Ngang, có bãi cỏ rất bằng, mẹ bác mới đặt gánh xuống, cha
bác xếp ô lại bảo: chỗ này phằng phiu, nghỉ lại đây ăn cơm nắm, để rồi leo đèo, Bác
-Thưa cha, cái gì ở trên kia mà đỏ, lại ngoằn ngèo như rứa? Cha bác nói:
Đó là con đường mịn vắt qua đèo, tí nữa ta phải đi leo trèo lên đó, lên cái đường mịn
đó.
Thế rồi chú Thành mới ứng khẩu luôn một bài thơ. Sau này bác ghi lại trong cuốn
sách “Tất Đại tự ngơn” này:
“Núi cõng con đường mịn
Cha thì cõng theo con
Núi nằm ì một chỗ
Cha đi cúi lom khom
Đường bám lì lưng núi
Con tập chạy lon ton
Cha siêng hơn hịn núi
Con đường lười hơn con”
Lúc đó, cha bác mới mở cái ví vải lấy lá số tử vi của con ra xem, bác mới biết cha đã
lấy tử vi cho các con. Cha bác nói với mẹ:
Với thiên tư này, thằng bé sẽ khó ni, có lẽ, quan Đào Tấn với ơng ngoại đã nói như
thế khơng nhầm.
Rồi bác Khiêm lại nói:- Lúc đó bác cũng chẳng có bụng dạ gì, vì chân phỏng rộp đau.
Ăn cơm nắm uống nước đựng trong quả bầu khô xong, cả nhà lại leo núi, chú Thành
lại được cha cõng trên lưng. Cụ Khiêm nói, anh em bác ở làng Sen chỉ biết ao, biết
sông, biết hồ, biết núi, chứ biển chưa thấy. Hơm đó, đến đỉnh đèo thì dừng lại nghỉ,
bác lại ngồi ơm chân, chú Thành lại chạy nhảy, rồi nói:
Cha ơi, cái ao ở đây sao lớn thế? Cha bác nói:
Khơng phải ao đâu con ơi, đó là biển đấy chứ.
Lúc đó, đứng trên đèo Ngang là nhìn thấy biển, ở đây thì xuống là đến Rịn tức là
Cảnh Dương của Quảng Bình. Lần đầu tiên thấy biển lại cứ gọi là ao, cha bác phải nói
là biển. Chú ấy lại hỏi:
Cha ơi, tại sao bị nó lại lội trên biển? Cha bác cười bảo:
Khơng phải bị đâu con ơi, đó là cánh buồm, thuyền nó chạy trên biển đó.
Chú ấy ứng khẩu đọc bài thơ.
“Biển là ao lớn
Thuyền là con bị
Bị ăn gió no
Lội trên mặt nước
Em nhìn thấy trước
Anh trông thấy sau
Ta lớn mau mau
Vượt qua ao lớn”
Cụ Khiêm nói với tơi điều đó năm 1950, sau này tôi công bố hai bài thơ ấy trên báo
Văn nghệ số Tết năm 1980, lúc đó là chuẩn bị Đại hội 5. “Búp sen xanh” chưa ra, tôi
mới đưa hai bài thơ này và viết lại cái đoạn gặp cụ Nguyễn Sinh Khiêm. Khi đó nhà
văn Nguyễn Văn Bổng là Tổng biên tập báo Văn nghệ trước khi đăng mới đến hỏi tơi:
Có chính xác không anh? Mới 5 tuổi mà làm hai bài thơ, trẻ con thì trẻ con thật nhưng
rất trí tuệ; – Tơi nói:
Anh cứ đăng đi, có chi tơi chịu trách nhiệm.
Đến khi báo ra thì người đến gặp tơi là bác Khương Hữu Dụng, nhà thơ nổi tiếng về
thơ Đường, bác rất giỏi, bác năm nay 95 tuổi đang sống (Tơi cho rằng ở Quảng Nam
ta có bác Khương Hữu Dụng, một nhân cách nhà thơ, nhà giáo, bác dạy học suốt thời
tuổi trẻ, sau cách mạng Tháng 8 bác mới thôi dạy học. Xưa bác viết báo Tiếng Dân
chủ cụ Hùnh Thúc Kháng). Cụ hỏi tôi:
Tôi mới được đọc hai bài thơ của Bác Hồ thời thơ ấu hay q mà mình cũng nghi q,
ơng có thêm chữ nào vào đây khơng?
- Chết, ai lại làm cái việc này thưa bác? – Tơi nói.
(Ta phạm sai lầm là khi viết cái điển hình chăn ni để phong anh hùng, chiến sĩ thi
đua thì thường mượn lợn hàng xóm thả vào chuồng, mời nhà báo đến, tồn “tạo” thêm
thành tích ba lăng nhăng. Cịn đây là viết về vĩ nhân, đây là viết về Bác Hồ, mình
thêm là mình có tội. Cịn nếu của tơi thì tơi thành tác giả, việc gì mà nói là của Cụ
Hồ). Cụ Dụng lại cười tươi, nói:
-Đọc xong mình sợ q. Trần Đăng Khoa nó giỏi nhưng thời nay nó khác, nó có thơng
tin báo chí tun truyền nhanh, có hệ thống, thời đó thì khơng có mấy, thời đó làm gì
có báo chí như vậy. Thông minh như Trần Đăng Khoa tưởng tượng “cành lá dừa như
cái lược chải trên trời”, “quả na chín là quả na mở mắt”, “gà gọi mặt trời lên”… Bên
này hai bài thơ Bác hồi nhỏ mà tầm tư tưởng lớn quá.
Sau này đưa vào cuốn “Búp Sen Xanh” thì Thủ tướng Phạm Văn Đồng có mời tơi lên
làm việc, Thủ tướng có hỏi về hai bài thơ. Thủ tướng mời tơi ngày 10-4-1982, lúc đó
đã kết thúc Đại hội 5, bác Phạm Văn Đồng nói như thế này:
Tơi có mấy điều để nói với đồng chí, có những điều Bác Hồ kể với tơi, vì tơi sống có
một mình… thỉnh thoảng ăn cơm với Bác, sau khi ăn xong hai người thường ngồi bên
-Cụ Khiên giao cho tơi tháng 6-1950 thì tháng 9 cụ qua đời. Cụ có ghi trong sách hai
bài thơ này, (tơi chìa ra thì bác Đồng bảo tơi), đồng chí đã lấy tư liệu chu đáo như thế
này, vì khơng ai hiểu Bác Hồ bằng anh chị ruột của Bác. Đồng chí lại có cái dun
may được gặp các anh chị Bác Hồ, lại được các cụ tin cậy giao cho cuốn sách ghi
chép của cụ cuối đời và kể lại thế này. Các cụ nhà nho khi về già thường kỹ tính lắm,
khơng dễ nói ra đâu.
Sau tơi phải nói thật với bác Đồng: ơng Bùi Xn Phong xưa là bạn của cụ Hoàng
Xuân Hành (chú ruột, mẹ Bác Hồ), cùng đi với cụ Hành, không phải tự nhiên các cụ
kể cho biết đâu. Cụ Bùi Xuân Phong hy sinh ở Nhã Nam thời cụ Hồng Hoa Thám
nay vẫn chưa tìm thấy mộ cụ tú Bùi. Nói điều đó là để bác (Đồng) tin được. Bác Đồng
lại nói:
- Tơi hỏi đồng chí như thế vì đọc trong cuốn sách có nhiều điều xúc động, nhưng có
hai bài thơ ở Đèo Ngang tơi cứ bâng khuâng, giá mà biết trước cái này thì Bác còn
sống mà nhắc lại chắc lý thú lắm. Nhưng Bác “đi mất rồi”! Có khi nào mà cái tuổi lên
5 mà cấu trúc được bài thơ ngắn, cấu trúc ấy lại tạo ra được giữa cái “tĩnh” với cái
“động”, tư duy này tư duy “Dịch lý”.
Bác Đồng là người giỏi Dịch lý, con quan mà. Các đồng chí để ý ngày bác Đồng mất,
họ chiếu cái phim về Thủ tướng Phạm Văn Đồng, có đoạn quay cái nhà thờ của gia
đình bác Đồng ở Quảng Ngãi, thì người ta quay xa xa, khơng quay cận cảnh bàn thờ
vì tồn là những ơng đội mũ cánh chuồn. Gia đình bác Đồng nhiều người làm quan,
Rõ ràng cái gì thuộc về thiên nhiên tạo đều “tĩnh”, cái gì thuộc về con người là
“động”. “Núi cõng con đường mịn”, Cha thì cõng theo con”, “Đường bám lỳ lưng
núi” là tĩnh, “con tập chạy lon ton” là động. Thơ có thể là chưa hay nhưng nó có cái
thần, cái lời ngộ nghĩnh của đứa trẻ, điều đó dễ hiểu, đó là vấn đề tư tưởng, tầm nhìn
này hơi lạ, Rồi còn bài lên đỉnh đèo, tại sao biển như thế vẫn gọi là cái ao, mặc dù cha
nói đó là biển, mà vẫn cứ: “Ta lớn mau mau, vượt qua ao lớn”. Thế thì có lý trí gì
khơng? Khơng chỉ là xúc cảm xuất thần của một đứa bé. Sau này Bác đi năm châu
bốn biển: Lịch sử nay đã cho thấy Bác Hồ đi bốn biển thì thấy, năm châu thì chưa
thấy. Đến bây giờ khơng biết Bác có thăm Úc khơng. Ta thường nói Bác Hồ đi năm
châu bốn biển, theo lịch sử ghi thì Bác mới chỉ đến bốn châu thơi. Tơi nói:
Thưa, Bác Hồ đến Sitnây tháng 11-1913, đi với cụ Đào Nhật Vinh, hiện nay cụ Vinh
ở số nhà 13 đường Nguyễn An Ninh, gần chợ Bến Thành.
thượng khách thăm chính thức nước Pháp (lúc đó cụ đang ở Pháp mở Hotel ở
Bcđơ).
Gặp cụ Vinh tơi mới cung cấp một số tư liệu với bác Đồng. Bởi vì viết về Bác Hồ,
chúng ta chẳng có mấy ai nghiên cứu về Bác đi đến tận nơi tận chốn Bác sống, hoạt
động để tìm tịi tra cứu cả, báo chí nước ngồi họ viết thế nào thì ta chép lại, Đảng ta
chưa bao giờ bỏ ra một số tiền cung cấp cho những người có tâm huyết thật sự đi lần
theo dấu viết Bác. Đã có ơng nhà báo Mạnh Việt ở báo Tiền Phong thành tâm xung
phong đi, nhà nước chỉ cấp cho một cái giấy phép thôi, cịn đi đến đâu ơng nhờ đồng
bào, mà đến nay vẫn chưa có chuyến đi nào cả. Ngay cả việc quan hệ giữa nhà nước
ta với nhà nước khác cũng chỉ trao đổi công văn đi lại, cũng chưa có người đến. Chỉ
đến khi anh Hồng Hà lúc đó là phóng viên Báo Nhân Dân đi sang hội nghị Pari với Lê
Hai bài thơ ấy giúp bác Đồng hiểu thêm về Bác Hồ, về sự manh nha của một thiên tài.
Thiên tài không phải tự nhiên xuất hiện, mà cả một quá trình, mà đây là giai đoạn
manh nha. Cuối buổi gặp bác Đồng mới nói về ý định của bác.
-Tơi nghe đồng chí bị thương ở mặt trận bề, khó khăn lắm!? Anh em xuống nhà (anh)
nói đồng chí ở chật chội lắm! Tơi có trao đổi với anh em để lo cho đồng chí một chỗ
ở, để đồng chí đỡ vất vả…
-Thưa Thủ tướng, cảm ơn Thủ tướng. Bây giờ Thủ tướng cho tôi căn hộ, Thủ tướng
mang tiếng, tôi cũng mang tiếng. Bởi lẽ tôi trẻ trung làm được công việc đột xuất mà
Thủ tướng thưởng thì khơng ai nói. Thủ tướng là người lãnh trọng trách lo cho cả đất
nước. Một người đột xuất như Đặng Thái Sơn chẳng hạn, làm cái việc được giải
thưởng Sôpanh, người châu Á đầu tiên được giải, thì Thủ tướng cho một căn hộ, để
Đặng Thái Sơn đón bố là Đặng Đình Hưng về ở, anh Hưng bị cái án “Nhân Vân Giai
phẩm”, bây giờ khổ quá, nay con ông làm được cái việc vinh quang đó. Thủ tướng
cho một căn nhà. Ai cũng quý cả, quý tấm lòng của Thủ tướng, quý lòng hiếu thảo
của người con đối với cha, như thế là đẹp.
Tôi là người tham gia cách mạng sớm, ra đi vào chiến trường B, trả lại căn hộ tiện
nghi ở số nhà 58 Nam Đồng cho phòng quản lý nhà đất quận Đống Đa. Nay trở về,
địi khơng được. Th một chỗ khác cũng khơng được. Tơi biết cái nhà đó…thì to tiền
lắm. Bây giờ họ bán đồ điện. Nhà tôi địi khơng được, giờ tơi lại lên đây, tơi khơng
xin (nhà) mà Thủ tướng cho một xuất ở thì tôi mang tiếng, Thủ tướng cũng mang
tiếng: Thủ tướng Phạm Văn Đồng thì mang tiếng “ban phát” cho cá nhân người này
người kia: cịn tơi thì mang tiếng: tưởng ơng này thế nào, hố ra đi nghiên cứu cụ Hồ,
viết sách cụ Hồ xong rồi “để xin nhà”. Dân ta thường nói “Ăn mày nhà quan khơng
nghĩ ghi lại để cung cấp cho đời sau, nhưng sau khi đã có cái “vốn” mới nghĩ đến
chuyện “đi buôn xa buôn gần” viết cái này cái khác.
Như thế là tuổi nhỏ Bác Hồ đã được khai tâm chữ nho rồi. Trong nhà bà ngoại và mẹ
khai tâm cho Bác lúc 3 tuổi; 5 tuổi thực sự học chữ nho. Có người nói Bác học ít là
ngộ nhận, không phải. Vào đến Huế, ông Nguyễn Sinh Sắc tạo ra một cái “chiếu” trí
thức, gọi là các văn nhân thời đó, từ Đào Tấn đến Nguyễn Thượng Hiền, Đặng
Nguyên Cẩn…đều đến nhà này. Sau này là Phan Văn San tức Phan Bội Châu, vào
Huế gặp cái “chiếu” của ông Nguyễn Sinh Sắc ở trong ngõ Đông Ba. Tại sao viết về
Bác người ta lại “ngại” viết về cái này lắm ? vì tồn là các gương mặt phong kiến,
quan lại cả. “Họ” tưởng rằng Bác Hồ sinh ra từ cái “chiếu Mác Lênin”, thực ra Bác
Hồ sinh ra từ cái “chiếu quan trường” như thế này thì “giảm” mất cái giá trị nháy
nháy của Bác đi. Cái này các giới nghiên cứu Việt Nam cần làm rõ Bác Hồ là con đẻ
của Việt Nam, còn Mác Lênin có đến với Bác là một cái vơ cùng quan trọng , nhưng
là một mảng cấu thành thứ hai, không thể nào là “nền tảng” được, nền tảng là “Văn
hoá Đại Việt”, văn hoá Việt Nam đi từ nàng Âu Cơ. Âu Cơ đẻ ra bọc trăm trứng, trăm
con, có miền ngược miền xi…Cịn Mác là sản phẩm của thế kỷ 18,19 dưới ánh sáng
của Châu Âu ông vĩ đại ở thời đó, nhưng vĩ đại đến mức nào đó…chứ cái này năm
1924 Bác đã viết rất rõ:
“Học thuyết Mác là học thuyết của Châu Âu mà Châu Âu chưa phải là cả thế giới. Vì
<i>Mác khơng có điều kiện để nghiên cứu văn hố phương Đơng và lịch sử phương </i>
<i>Đơng, chúng ta có quyền bổ sung cho học thuyết Mác bằng văn hoá và lịch sử </i>
<i>phương Đơng”</i>
Đây là tơi nói lại ý của Bác. Những điều ấy Bác viết từ năm 1924 lại cho là “hỗn”, là
Con người có tư tưởng như vậy thì cái nôi phải như thế nào? Hồi nhỏ Bác đã gặp và
chịu ảnh hưởng những gương sáng nào, diện mạo nào?
Trên “chiếu văn” của Nguyễn Sinh Sắc nào là Đào Tấn, tổng đốc An Tĩnh sau về làm
thượng thư Bộ Cơng, rồi thượng thư Bộ Hình, rồi đến Nguyễn Thượng Hiền. Nếu
quên nói vị hiền tài này là tơi có lỗi với Bác, là khơng đầy đủ sự hình thành nhân cách
của Bác. Rồi cụ Cao Xuân Dục – một ân nhân của ông Sắc, cụ Đặng Nguyên Cẩn đốc
học, thân sinh cụ Đặng Thai Mai, cụ Ngô Đức Kế…Cái “chiếu” của Nguyễn Sinh Sắc
năm 1896, 1897, 1898, 1899…từng ấy năm là nơi hội tụ khá đầy đủ các nhà khoa
bảng lớn ở đất nước ta, trong đó có tiến sĩ Trần Đình Phong người n Mã, huyện
Yên Thành, Nghệ An (đỗ cùng khoa với Phan Đình Phùng)
——-(Tác giả chú thích cho đoạn trên)“Cụ nguyễn Thượng Hiền là hoàng giáp tiến sĩ,
người Liên Bạt, Hà Đông, đỗ đầu khoa 1895, vừa đỗ xong thì có chính biến: vua Hàm
Nghi “xuất bơn” đánh đồn Mang Cá thất bại thì Tơn Thất Thuyết đưa vua đi, sau đó
ơng Đồng Khánh lên khơng thừa nhận khoa thi này, tổ chức thi lại, ông lại đỗ hoàng
giáp tiến sĩ lần thứ hai. Lúc này cụ ở Quốc Tử Giám (trong Huế) là Biên tu Quốc sứ
qn.
Trần Đình Phong dạy học, học trị là những nhà khoa bảng như Nguyễn Sinh Sắc,
Phan Bội Châu, Đặng Nguyên Cần…khi ông vào nam làm đốc học ở xứ Quảng học
trị của ơng là Huỳnh Thúc Kháng, Phan Chu Trinh, Phạm Liệu, Trần Quý Cáp. Một
Phim làm xong rồi, trong giới điện ảnh họ “đánh nhau”, tôi ở giữa là người viết kịch
bản, tác giả kịch bản 4.558.000đ, đạo diễn chính 4 triệu, diễn viên chính Thu Hà đóng
vai út Huệ 2 triệu. Tiến Hợi đóng vai Bác Hồ 2 triệu, ơng Tuấn quay phim chính 2
triệu. Làm xong phim rồi, ký hợp đồng rồi, mỗi tỉnh mua mấy bản, bên Pháp mua mấy
bản, tính tốn cả rồi. Bộ chính trị duyệt rồi đưa lên FAFIM. Cục Điện ảnh “đánh
nhau”, “đánh” đến nỗi mà tiền tráng phim này ở Băng Cốc (lúc đó ta chưa tráng được
phim màu) chỉ lấy được mấy bản để chiếu, còn vẫn để ở bên Băng cốc. Nói thế để
thấy rằng phim Bác Hồ gian truân lắm. Diệp Minh Châu tạo một tượng Bác Hồ bằng
đá nguyên khối và đã tạc xong rồi, định dựng tượng Bác Hồ với mấy đứa trẻ nhỏ thế
thôi. Khơng hiểu nổi cơng trình làm về Bác tại sao lại khó đến thế.
——
Căn cứ vào lời kể của ơng Khiêm , bà Thanh, (tôi) tra lại cái gốc vấn đề. Biết bao
nhiêu người kể cho tôi nghe, sau khi vừa giải phóng xong, đi đến đâu …(mất một
<i>đoạn ngắn nghe không rõ) chỉ đưa cái thần của nó thơi:</i>
Nhân dân nơ lệ từng đàn
Vui chi bệ ngọc ngai vàng riêng ta?
Thế là các anh phê ngay:- Tại sao lại đề cao Thành Thái như thế này? Thành Thái
ngồi trên ngai vua làm chi có chuyện thương dân như thế này?
Khi chìa bản gốc ra, tơi nói: – Nếu thực sự yêu ông cha, quý trọng ông cha thì những
bài thơ này (cịn) phải đưa vào dạy trong trường nữa chứ!
Ông Khiêm kể tiếp: – Buổi sáng hơm đó cha bác ngồi trước linh sàng khói hương
nghi ngút khơng vào Đại nội để chầu. Mọi khi ăn sáng một bát cháo hoa rồi vào nhà
Tả Vu chầu vua, nhưng hơm đó đi ra đi vào không thấy cha chầu, chú Thành mới hỏi:
Thưa cha, hôm nay cha không vào tả Vu để chầu?
Lúc đó ơng Sắc làm thừa biên Bộ lễ, thì “người ta” nói: – Tại sao cha Bác Hồ lại làm
thừa biên Bộ Lễ của triều Nguyễn bán nước thế này (hồi đó khơng được nói, cịn bây
giờ thì nói thoải mái).
Nồi cháo, ba cha con ăn sáng, vẫn để đó, cha cứ ngồi thắp hương, hỏi thì cha nói:
- Vua đã bị bắt giam ở nhà Thái y rồi. Ơng Khiêm mới hỏi:
- Thế có biến trong triều hở cha? Cha nói:
- Khơng có biến chi cả, tồ Khâm sứ nó bắt vua:
—–
(Tác giả chú thích)“Ơng vua Thành Thái, con vua Dục Đức, lên ngôi mới có 10 tuổi.
Ơng lên ngơi 1889, khi ra Bắc Hà 1902 lúc đó mới vượt tuổi thiếu niên. Đi trên cái
long xa, lần đầu tiên rời khỏi kinh đô Huế ra Bắc Hà dự lễ khánh thánh cầu Doumer
(cầu Long Biên). Đi dọc đường thấy dân chết đói, ăn xin mà cảm xúc làm bài thơ ấy.
——
Thế thì bây giờ ta đọc lại bài thơ của vua Thành Thái làm khi ra Bắc mà bác Khiêm
thuộc từ đó được bác chép lại, chữ của Bác, Bác mất đi rồi thì cháu cịn bút tích. Bút
tích của cụ Khiêm chữ nho rất đẹp. Khi phát ngôn nhân của đoàn ta ở hội nghị Pari
nghe được bài thơ này thì giật mình: Mình là dịng dõi Tơn nhất mà khơng biết (đó là
ơng Nguyễn Minh Vỹ).
Hơm ở Câu lạc bộ Thăng Long, tơi nói vui: – Thưa các bác, đây toàn là “quan đại
Võ võ văn văn ý cẩm bào
Trẫm vi thiên tử độc gian lao
Tam bôi hồng tửu quần lê huyết
Sổ trản thanh trà bách tính cao
Một ông vua ngồi trong cung ăn ngon, mặc đẹp mà thấy đau xót vì dân cực khổ, nói
nơm na như vậy, thế thì ta khơng học vị vua yêu nước, thương dân này thì học ai?
Học cha ông học ngay đây này, thanh liêm thì học ở đây, ở thế kỷ 20 này.
Thiên lệ lạc thời dân lệ lạc
Ca thanh cao xứ khốc thanh cao
(Nước mưa trên trời kia phải chăng nước mắt của trời cũng như nước mắt của trăm họ
rơi xuống. Tiếng hát trong hồng cung cao bao nhiêu thì tiếng khóc ngoài đời càng
cao bấy nhiêu)…Ghê gớm quá! Thấy trời mưa mà như thấy nước mắt của dân đổ
xuống! Bây giờ bọn tham nhũng khơng cịn biết xấu hổ với cha ông.
Can qua thử hội hưu đàm luận
Lân tuất thương sinh phó nhỉ tào
(Cái việc mất nước nguyên nhân thế nào lúc này ta thôi bàn, phải bàn cái chỗ này: tìm
con người cứu nước thì ai đây, phó cho ai đây!)
Vậy Nguyễn Tất Thành không ảnh hưởng ở những người này thì ảnh hướng ở đâu?
Cha làm quan trong triều, buổi sáng đó khơng ăn sáng mà ngồi trước nén hương, vì
thấy vua bị bắt, chánh khâm sứ Trung kỳ nó bắt. Lệnh bên kia tố cáo đó là “có âm ưu
lật đổ” do Trương Như Cương là ông cậu, em mẹ vua, tố cáo. Nỗi đau như thế mà ta
Về điều này tơi nói với đồng chí Tố Hữu lúc đó là Trưởng ban tuyên giáo, Uỷ viên Bộ
chính trị…khi duyệt kịch bản phim của tôi ông bảo cái phim “Hẹn gặp lại Sài Gòn”
lúc bấy giờ lấy tên là “Con đường năm ấy” là để khẳng định con đường của Bác Hồ,
tơi nói:
- Bác Hồ là hệ quả của văn hố dân tộc, là truyền thống yêu nước, chứ không phải là
Mác Lênin. Mác Lênin nền tảng từ đầu, mà là một mảng phần sau. Ơng Tố Hữu nói:
- Khơng, khơng, giai đoạn này tơi khơng thích ca ngợi, giai đoạn Nguyễn Tất Thành
chẳng là cái gì cả, giai cấp vơ sản giác ngộ thì mới đến được chủ nghiã Mác Lênin, đó
là lượng thành chất…
Ơng Tố Hữu còn nhấn từng tiếng:
- Phải sang Pháp, giai đoạn ở Pháp, Nguyễn Ái Quốc nhờ giai cấp vô sản Pháp giáo
dục cho mới trưởng thành. Chỉ có Nguyễn Ái Quốc, chứ còn Phan Chu Trinh ở bên ấy
bao nhiêu năm có biết gì đâu? Rồi Phan Văn Trường cũng ở Pháp rất lâu mà có biết gì
đâu? Chỉ có giai cấp vơ sản Pháp giáo dục cho (Nguyễn Ái Quốc)…còn giai đoạn
Nguyễn Tất Thành chưa là cái gì cả!
- Kính thưa anh – tơi nói: – một thanh niên 20 tuổi đẹp trai như thế, con quan thừa
biện Bộ lễ, nho học có, tây học có, học troisieme annéc Quốc học Huế, học chữ nho
người ta gọi là “kiêm bị”, có thể đi thi được, nếu lấy cô vợ đẹp được quá đi chứ! Tại
sao Nguyễn Tất Thành bỏ tất cả để ra đi? Bài học ấy lớn quá. Ngay trong tâm hồn
Khó là như thế, bây giờ tìm hiểu Bác Hồ, lịch sử của Bác là con đẻ của dân tộc này,
kết hợp với mọi cái, tìm lượm được mọi cái hay ở bên ngồi. Ở bên Mỹ hiện nay có
mấy cuốn sách viết về Bác, nay người ta vẫn tiếp tục nghiên cứu, nhất là Lady Borton,
bà hiện đang ở Khách sạn La Thành, bà nói tiếng Việt như anh em mình, bà chuyên
nghiêm cứu Bác Hồ thời ở Mỹ.
Như vậy, Bác Hồ vào Huế là để học thêm được cái gì ở Huế ở tuổi thơ ấy? Đó là cái
nơi văn hố của dân tộc hội tụ ở Huế. Huế là văn hố bản địa của kinh đơ, đặc biệt các
diện mạo đại khoa vào trong Huế. Một con người như cụ Cao Xuân Dục, (đến nay hai
lần tôi đề nghị với Nghệ An mà chưa đặt cái tên đường cho cụ), tất cả các bộ sách Sử
và văn hố ở triều đình Huế có đến bây giờ được sắp thành văn bản là do ông. Cụ Cao
Xuân Dục là ông quan từng làm tổng đốc Sơn-Hưng-Tuyên, sau xuống dưới này,
cùng Hồng Cao Khải.
Dân ta cơng bằng lạ lùng, đây không phải là quy định trong sách đâu. Ơng Hồng Cao
Khải lúc đó phải điều cả cụ Cao Xuân Dục đi dẹp Bãi Sậy.
Cả hai ông cùng đi dẹp Bãi Sậy nhưng cụ Cao Xuân Dục không bị mang tiếng là Việt
gian mà Hoàng Cao Khải mang tiếng đại Việt gian. Làm quan nhân nghĩa rất khó,
nhất là ẩn tại triều.
Tất cả sách Sử từ xưa để lại đều là ở cụ Tổng tài Quốc sử quán, cụ đỗ cử nhân, đồng
khoa với cụ Phan Đình Phùng, nhưng đại khoa cụ không đỗ. Đầu thế kỷ (20) này cụ
vừa là Tổng tài Quốc sử Quán vừa là thượng thư Bộ Học, vừa là tế tửu Quốc tử giám,
——-(Tác giả chú thích)“Cụ Hồng cao Khải lúc đó là ơng quan lớn nhất nước ta, được
phong phó vương ở Bắc cụ Cao Xuân Dục làm tờ Thiên vô nhị thật, quốc vơ nhị
vương, trời chỉ có một mặt trời, nước chỉ có 1 vua, chứ sao lại hai vua. Sau khi áp Bãi
Sậy Hoàng Cao Khải được vương Quân công.”
——–
Nguyễn Sinh Sắc được học là nhờ hồi đó được hưởng một suất khuyến học. Cụ Cao
Xuân Dục để ra một số ruộng khá lớn để lấy hoa lợi giúp cho học sinh nghèo. Ông
Sắc được nhận số tiền khích lệ đó, đồng thời được vào Quốc Tử Giám cũng là nhờ cụ
Cao Xuân Dục. Nếu nghiên cứu Bác Hồ mà không nghiên cứu những khía cạnh này
thì nó mất cội nguồn nhân nghĩa. Cội nguồn nhân nghĩa ở gia đình Bác Hồ đứng được
ở Huế, sống được ở Huế và tiếp cận được những vấn đề văn hoá…đều là nhờ cụ Cao
Xuân Dục, cụ có những ân nghĩa đối với thân sinh Bác Hồ.
Như vậy (nghiên cứu) lịch sử phải công bằng, phải đi tìm những cái từ cội nguồn. Nói
như thế để các thầy các cô sau này nghiên cứu về Bác Hồ cần nghiên cứu bổ sung
thêm, hoàn chỉnh thêm. Con người anh hùng dân tộc được sự nuôi dưỡng qua nhiều
bước đường, qua nhiều thời kỳ mới nên con người đó, chứ khơng phải tự dưng nó
đến. Thế thì ơng Cao Xn Tiếu mua ngơi nhà của lính “khố vàng” cho ơng Nguyễn
Sinh Sắc để ông Sắc đưa vợ con vào ở. Đó là điều quan trọng thứ nhất. Thứ hai là: khi
bà Sắc chết rồi ông Sắc chưa đỗ đại khoa (đến 1901 khoa Tân Sửu ơng mới đỗ).
Trong khi cịn tang vợ vừa mới qua đời, con trai út vừa mới chết, ông Sắc cùng ông
——-(Tác giả chú thích)“Vào học Quốc Tử Giám là quan đại thần, mà ông Sắc chỉ là con
một người bình thường. Cụ Cao Xuân Dục phải nhận cho vì lúc đó cụ đang là thượng
thư Bộ Học và là Tế tửu Quốc Tử Giám.
Khi vào Huế cụ Sắc túng thiếu. Con trai cụ Cao Xuân Dục là Cao Xuân Tiếu (đi thi
cùng khoa với cụ Sắc) đỗ cử nhân, sau đó đỗ phó bảng, cụ Sắc khơng đậu, khố sau
mới đỗ. Hai người là bạn học của nhau, cụ Cao Xuân Tiếu mới mua một ngơi nhà ở
ngõ Đơng ba của một lính “khố vàng” về hưu ở An cựu để ông Sắc đưa vợ con vào
đây. (Búp Sen Xanh tôi không đưa đoạn này vào, sợ mang ơn triều Nguyễn quá nặng,
chỉ cho tơi nói là nhà ơng lính “khố vàng” thơi)
——-Nói như thế thấy rằng cụ Cao Xn Dục có mối liên quan hệ tình cảm sâu sắc với gia
đình Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc, rất nhiều tình tiết như thế. Sau khi đỗ đại khoa thì
vua Thành Thái ban “ân tứ vinh quy”, ban áo mão để đi dự tiệc vườn Thượng uyển
được “kén vợ”, chọn một cơ nào thì tuỳ ý. Nguyễn Sinh Sắc được cụ Cao Xuân Dục
định gả con gái yêu của cụ là Cao Thị Trâm làm vợ kế để giúp cho các cháu đang thơ
như thế này, mà đứa nào cũng học giỏi, ngoan, nên cụ mời Nguyễn Sinh Sắc đến tư
dinh, ơng nói trước để khi ông Sắc chọn (vợ) sẽ lấy Cao Thị Trâm, con quan đại thần.
Cụ nói: – Tơi muốn giúp anh người hiền đức mà “thất nội trợ…”
Ông Sắc bèn phủ phục xuống nói: – Con xin tạ ơn Cụ lớn và xin Cụ lớn miễn cho con
Đó là nhân cách một quan đại thần, nhất phẩm triều đình muốn chọn người tài để gả
con gái cho, mà con gái thì mới 18 tuổi, trong khi ông tân khoa đã 3 con rồi, có tài, để
giúp “nâng khăn sửa túi” cho ông (Sắc) này, giúp ông nuôi con, dựng nghiệp. Tôi nói
phụ thêm về điều này. Cụ Cao Xuân Dục gả con gái cho vị Hoàng giáp Tiến sĩ Đặng
Văn Thuỵ (cụ Đặng Văn Thuỵ là thân phụ của hai phó bảng Đặng Văn Oánh, Đặng
Văn Hướng), gả con gái cho phó bảng Hồng Tăng Bí, thân sinh ơng Hồng Minh
Giám; gả con gái cho phó bảng Lê Xuân Mai làng Quỳnh Đôi, Quỳnh Lưu, Nghệ
An…
Tôi “đi tìm” Bác Hồ là tìm ở những khía cạnh này, khơng phải “tìm” Bác Hồ trên con
đường Mác Lê nin, cái đó là sau, đó là bước quan trọng nhưng là thứ hai. Cái cốt cách
con người sau trở thành diện mạo tiêu biểu cho nên văn hoá dân tộc là chính cái ấy, là
ở những khía cạnh này, trong gia đình, trong bạn bè của cha, của người thầy…tất cả
giai đoạn ở Huế này rất quan trọng. Và chính điều ấy lại biểu hiện một khía cạnh nữa
là sau khi ông Sắc trở về quê, chăm sóc mẹ vợ, thì có “trát” của Đơ sát viện (như Ban
tổ chức bây giờ, các quan được cử đi đâu là do Đô sát viên cử) mời Nguyễn Sinh Sắc
vào làm quan ở Bộ Lễ. Vì mẹ vợ khơng có con trai, ni con rể ăn học, nay ở một
mình, nên ơng xin ở lại chăm sóc mẹ vợ. Ơng Sắc đưa các con đi khắp nơi, các vùng
quê có dấu ấn sâu đậm vừa xẩy ra ở cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20, những nơi thực dân
Pháp tàn sát trong các cuộc khởi nghĩa Cần Vương, Văn Thân, Đông Du…Thế thì
Bác Hồ hồi nhỏ được cụ Sắc đưa đi khắp vùng Nghệ Tĩnh, ra đến tận Quỳnh Đôi, đất
gốc của họ Hồ.
Ông Khiêm kể chuyện như sau:
- Cha Bác ở xóm Du Đồng mấy tháng, gần dinh cụ Thượng, sau gọi là cụ Quận (tức
quận cơng Hồng Cao Khải, như ấp Thái Hà) và tơi có đến gặp cụ Lê Thước, hỏi thì
cụ Thước kể:
- Hơm đến dinh Hoàng Cao Khải để ăn mừng khánh thành cái dinh thự của cụ Quận
cơng, có mời các quan sở tại đầu tỉnh cho đến các quan huyện. Trên cái sân lớn, ngồi
có tường hoa, đám trẻ con cứ nhìn qua khe tường thấy các quan trong sân tồn uống
rượu tây, thì cái đám học trị, cái đám trẻ đó (như cụ Khiêm kể lại – trẻ nhưng tồn
học trị chữ nho, nào là Phạm Gia Cần, Lê Thước, Nguyễn Tất Thành, Nguyễn Sinh
Khiêm), thấy các quan trong đó đọc thơ, bình thơ để mừng quan Quận công mới xây
dựng xong dinh thự. Đặc biệt có một cái bể cạn rất lớn trong đó có núi non bộ, cây si
tính đến trăm tuổi, có ba ơng lão nho nhỏ. Các quan bình thơ trong sân, đám học trị
đứng ngồi nói to một câu “Các quan làm thơ dở q!”
Nghe thế, ơng Hồng Trọng Phu ra quát lũ trẻ, thì một số bỏ chạy (cụ Khiêm, cụ
Thước, cụ Cần đều kể như thế), chú Thành chạy nhưng chậm thơi. Lúc đó cụ Hồng
Cao Khải mới ra, nói:
- Thơi, đừng doạ nạt các cháu, nhà mình đang có chuyện vui lớn, các cháu đến mà
đuổi thì dân làng người ta cười. Các cháu nói gì thì nói, nhà mình có tiệc mà nạt các
cháu khơng được. Rồi cụ nói tiếp: – Cháu nào khi nãy chê thơ của các quan thì bây
giờ đọc cho các quan nghe một bài thơ, ơng thưởng.
(Ơng Hồng Trọng Phu trẻ thì nạt, cịn cụ Hồng Cao Khải già thì mời các cháu vào)
Đám trẻ độ chục đứa mới quay lại, Cụ Hoàng nói tiếp.
Cháu nào khi nãy chê thơ các quan, bây giờ vào đọc bài thơ, dù có dở ơng cũng
thưởng, vào đây.
Cụ Lê Thước đỗ giải nguyên Hán học khoa cuối cùng 1918, sau học Cao đẳng sư
phạm là thầy học của lớp người như Tôn Quang Phiệt là bạn học cùng tuổi với Bác
Hồ, sau cụ Thước về Viện Văn học.
Cụ Hoàng Cao Khải là tuần phủ Hưng Yên. Hoàng Trọng Phu là con Hồng Cao
Khải, lúc đó ở Tây mới về, cùng trường thuộc địa với Thân Trọng Huế, Lê Văn Miến,
ba người này là ba con quan đại thần được chọn đi học trường thuộc địa ở bên Pháp,
học xong thì Lê Văn Miến ở lại học thêm hội hoạ, còn Thâu Trọng Huế về. Sau này
H.T.Phu là tổng đốc Hà Đông (Đại sứ quán Trung Quốc hiện nay là nhà của ơng
Hồng Trọng Phu, cịn trường Tuyên giáo bây giờ là ấp cụ Hoàng Cao Khải).
–
Các quan thấy đám trẻ thì cũng chạy ra. Nguyễn Tất Thành nhìn thấy ba ơng phỗng ở
trên núi non bộ, nói:
Thưa cụ, cháu đọc bài thơ ứng khẩu này, nếu có sai thì cụ đừng phạt cháu.
Cụ Quận nói: Cháu cứ đọc đi, ơng khơng phạt cháu đâu
“Kìa ba ông lão bé con con”
(Mọi người cười, “ba ông lão” lại “bé con con” thế mới ngộ nghĩnh)
“Biết có tình gì với nước non”
(Các quan cũng chưa thấy gì cả, nghe xong hai câu thơ khơng ai nói với ai, tất cả đều
im lặng)
“Trương mắt làm chi ngồi mãi đó
<i>Hỏi xem non nước mất hay cịn ?”</i>
Ơng Hồng Trọng Phu nói: – Thằng này hỗn, con ai đấy?
Cụ Hoàng Cao Khải mới hỏi: – Thế cháu con ai?
Nguyễn Tất Thành chưa kịp trả lời, thì Lê Thước nói:
Bẩm Cụ Quận, đây là con thầy Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc bên Ngệ An sang đây.
Cụ Hoàng Cao Khải đỗ cử nhân, còn cụ Nguyễn Sinh Sắc đỗ đại khoa cùng với cụ
Nghè Ngô Đức Kế, cụ Khải mới nói: – “Hổ phụ sinh hổ tử”, rồi cụ chống gậy đi vào.
Cịn Hồng Trọng Phu thì nói: Cái tay này nó lớn lên nó sẽ làm loạn (chuyện này cụ
Khiêm kể cho tôi nghe năm 1950, sau ngày giải phóng miền Bắc, năm 1957 tơi đi gặp
cụ Lê Thước, cụ Phạm Gia Cần để đối chiếu).
thơ Nguyễn Khuyến nhiều để đi nói chuyện là nhà thơ Xn Diệu. Tơi đến hỏi thì
Xn Diệu nói cụ Nguyễn Khuyến có một bài thơ “ba ơng phỗng” nhưng hoàn toàn
khác. Cụ Nguyễn Khuyến đỗ tam nguyên nhưng cụ bất hợp tác với Pháp. Cụ chỉ nhận
làm quan Toản tu Quốc sứ quán rồi cáo quan về làng. Triều đình mời cụ ra làm Tổng
đốc Sơn-Hưng-Tuyên. Cụ từ chối. Nhưng sợ mang tiếng không hợp tác với Pháp nên
cụ nhận làm “gia sư” cho gia đình cụ Hồng Cao Khải ở ấp Thái Hà. Cụ Hồng Cao
Khải cũng muốn mời được ơng Tam nguyên về dạy học cho con cháu mình thì cũng
sang.
—–
(Tác giả chú thích) Cụ Lê Thước nói cái gậy mà cụ Hoàng Cao Khải chống, hội chợ
Pari có 3 cái thì tồn quyền Pasquier mua cái gậy tặng cho Hoàng Cao Khải sau khi
dẹp cuộc khởi nghĩa Bãi Sậy Nguyễn Thiện Thuật, trên đầu con rắn ở cái gậy có gắn
viên kim cương.
——
Cụ Nguyễn Khuyến ở trong nhà một thời gian thì cũng yên tâm, sau đó về cái đất
Bình Lục (Hà Nam) của mình cũng đỡ bị chúng theo dõi. Bấy giờ cụ Hồng Cao Khải
muốn có một bài thơ tức cảnh hoặc tự sự của cụ Nguyễn Khuyến để làm kỷ niệm và
cũng là cái sang được cụ Tam Nguyên tặng thơ.
“Ơng đứng là chi đó hỡi ơng
<i>Trơ trơ như đá vững như đồng</i>
<i>Đêm ngày gìn giữ cho ai vậy</i>
<i>Non nước đầy vơi có biết khơng”</i>
Cũng bốn câu, cũng ba ơng phỗng và cái núi non bộ ngoài này với trong kia là một
mẫu hình làm ra. Sau khi sưu tầm hai bài thơ đó, thì thấy đúng thơ là người, mà con
người của thời đại nào ra thời đại ấy, có khác. Đây ta nói về những nhân cách. Cụ
Tam Nguyên có cái nỗi đau buồn của cụ là mất nước, nhưng thế hệ của mình là bất
lực “trơ trơ như đá vững như đồng”, nhìn cái thế lực thực dân lúc đó như cái trụ đá rất
cao lớn, toàn đá tảng…sự tồn tại, sự bền vững xây trước dinh Hồng Cao Khải. Cịn
Nguyễn Tất Thành thì đặt ra câu hỏi:
“Kìa ba ơng lão bé con con
<i>Biết có tình gì với nước non</i>
<i>Trương mắt làm chi ngồi mãi đó </i>
<i>Hỏi xem non nước mất hay cịn ?”</i>
Tơi nói vui với các đồng chí lãnh đạo của ta, 65 tuổi là nên về đi thôi, anh sẽ bất lực
trước các hiện thực, sự sôi động của thời đại, cái tuổi 70, 60 khi suy nghĩ mạnh thì
huyết áp bốc lên có làm gì được nữa đâu, rồi ba cái thầy quân sư quạt mo nó nói dài
dài thì vâng, cứ gật… Thơi tuổi 70 thì lực bất tịng tâm, trừ trường hợp đặc biệt rèn
luyện lắm thì mới được như Đại tướng Võ Nguyên Giáp, năm nay 90 tuổi mà vẫn
thông minh đến thế, minh mẫn đến thế, cái kết luận trong buổi bế mạc hội nghị trung
“Kính thưa Bộ Chính trị, Trung ương Đảng và các đồng chí cố vấn.
Tơi bị dị ứng thời tiết cho nên phải vào Nam (chữa dị ứng theo tôi tự hiểu hai nghĩa,
một là dị ứng thời tiết bị rơm sảy, cịn “dị ứng” nữa ngồi này nó nhiều chuyện bầy
hầy; rồi người này người nọ chạy đến hỏi này khác rồi lợi dụng tiếng cụ nói nó sinh
phiền, cho nên cụ vào Sài Gòn cụ ở). Nhưng thấy tình hình khơng bình thường, vơ
cùng nguy hiểm là sự chia rẽ của cấp cao Trung ương ta. Sinh thời, Hồ Chí Minh,
Người ln ln nhắc một điều là phải đồn kết, muốn đồn kết thì phải phê bình tự
phê bình thật mạnh. Và đứng trước nguy cơ tham nhũng như thế này, tình hình bên
ngoài thế này mà mất đoàn kết, mỗi đồng chí có trách nhiệm khơng tự phê bình một
cách kiên quyết, trong sáng, mà phê bình trên tình anh em đồng chí…
Tết vừa rồi, đồng chí Đỗ Mười có đến thăm tơi. Đồng chí Đỗ Mười có nói tình hình
sức khoẻ, muốn nghỉ cố vấn. Tơi hồn tồn nhất trí vì Đảng ta đã trưởng thành và các
đồng chí lãnh đạo kế nghiệp đã trưởng thành khơng cần cố vấn, thì đồng chí Đỗ Mười
lại nói có đọc ở Lênin một vấn đề là Đảng nên có một Ban kiểm soát bên cạnh Ban
chấp hành trung ương do Đại hội bầu ra để giám sát. Tôi nói với đồng chí Đỗ Mười
thế này: Đảng ta không cần bầu ra một Ban giám sát như vậy. Nếu như thế, Đảng sẽ
có hai đầu thì nguy hiểm. Trung ương là cơ quan lãnh đạo cao nhất giữa hai kỳ Đại
hội, như thế là rất sáng suốt.
Đó là vấn đề thứ nhất. Vấn đề thứ hai tôi xem các hoạt động vừa đây như là khuynh
đảo của một cá nhân, hoạt động như là đảo chính trong Đảng, tơi đề nghị Trung ương
phải kiểm điểm thật nghiêm khắc và làm rõ vấn đề này.
Xuống đoạn dưới viết: “Đại hội 9 này là Đại hội gì? Đề nghị Trung ương “Dân chủ”
là trên hết, “trí tuệ” thứ hai, “đổi mới” thứ ba, “đồn kết” thứ tư, bốn điểm…
Hôm nay thấy thông báo bế mạc hội nghị lấy bốn điểm này.
mang lại vinh quang cho đất nước, nước mình đi vào tin học muộn màng như vậy mà
các em nó giỏi như thế thì khơng ai nói đến. Bộ giáo dục khơng nói, Tổng bí thư
khơng nói, bóng đá thì rùm beng lên, bóng đá vinh quang, đón tiếp đề cao… nhưng tại
sao tin học các cháu nó đem vinh quang về như thế mà…gọi điện thoại cho Tổng bí
thư Lê Khả Phiêu, cho cái xe đón 5 cháu… Thời nay khơng có trí tuệ thì làm gì được.
Bây giờ phải biết nhiều sinh ngữ tiếp nhận được cái bên ngồi, họ có nói bằng tiếng
Việt đâu mà nghe? Vậy là Dân chủ, trí tuệ, Đổi mới, Đoàn kết…90 tuổi mà sáng suốt
như thế. Nay cụ ra đây rồi, vì đại hội sắp khai mạc, ra rồi nhưng cụ nằm ở viện, ở nhà
thì người ta đến, đến thì sinh chuyện. Thế mà “người ta” đã tung đồng chi Võ Nguyên
Giáp đã tổ chức một cuộc họp Quân uỷ Trung ương phê phán cái này cái khác.
Khơng! Ơng có cịn làm việc gì ở Quân uỷ Trung ương đâu! Quân uỷ trung ương có
phải của Ông (Giáp) như trước nữa đâu, nhưng họ lấy đó làm cái cớ, để làm cái bảo
chứng, cái độ tin cậy. Ông đã bị người ta dựng ra bao nhiêu chuyện rồi, ở Đại hội VII
người ta dựng ra cả một bộ hồ sơ mà đồng chí Nguyễn Đức Tâm đọc trên 30 trang
“đồng chí Giáp hoạt động lật đổ…
Như vậy, là thấy chuyện đấu tranh trong Đảng ta mấy chục năm qua là như vậy. Bác
Hồ chúng ta đi trên con đường từ thuỷ chung là Nước được độc lập. Dân thì ai cũng
có cơm ăn áo mặc, được no ấm, cịn tất cả mọi thứ chỉ là phương tiện, chứ còn mục
đích của Bác Hồ là nước độc lập, Dân thì hạnh phúc ấm no, cho nên trong Di chúc
Bác nói mong muốn suốt đời tơi ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành,
như vậy là suốt đời khơng có gì q hơn Độc lập tự do. Nước độc lập mà Dân khơng
có cơm ăn áo mặc thì Độc lập ấy cũng là vô nghĩa.
Đọc 10 nỗi đau của Bác Hồ, trong đó đồng chí Hồng Tùng viết về cải cách ruộng đất
bắn bà Nguyễn Thị Năm như thể bắn vào quan điểm Cụ Hồ, vì Cụ Hồ khơng chủ
trương cải cách ruộng đất bằng lối đó. Mỗi nước có cái đặc thù thì đánh như thế nào?
chứ khơng thể đánh như Tàu được. Vì khi cách mạng mới thành cơng, cả Trung đồn
ăn cơm trong nhà bà Nguyễn Thị Năm. Con trai bà là chỉ huy Trung đồn. Thế mà
ơng cán bộ của ta đi Trung Quốc mang “tư tưởng Mao” về, chủ trương bắn ngay bà
Nguyễn Thị Năm. Bác Hồ nói: Cách mạng này nó bạc bẽo q, gia đình này đã bỏ
thóc gạo ni hàng Trung đồn từ thời cách mạng còn hàn vi. Nay cách mạng đã lớn
mạnh lại bắn người ta thì bạc bẽo quá. Bát cơm siếu mẫu ở đâu? Sau đó cịn nghe cố
vấn nước bạn lập ra một danh sách 200 cán bộ cấp cao trong quân đội gồm phần lớn
trí thức tiểu tư sản trong đó có hàng tướng lĩnh để chỉnh đốn tổ chức.
Bác Hồ bảo: phải đốt ngay. Đem xử trí chừng này cán bộ thì cịn đâu để lên Điện Biên
bây giờ. Lúc đó CCRD như thế, đưa ra xử chừng ấy cán bộ trong quân đội thì trời đất
nào? Nói như thế để ta thấy nỗi đau của Bác Hồ. Ta phải thấy trong cái bể sản xuất
nhỏ, trong một nước chủ yếu là sản xuất nơng nghiệp thì nó dễ cực đoan lắm. Khơng
lấy cái văn hoá dân tộc, tinh thần đân tộc làm nhãn quan mà lấy giai cấp, lấy cái thù
hận làm nhãn quan để đánh đổ người này, người kia thì nguy. Ơng Hồng Tùng viết,
kể lại có lúc Bác Hồ khóc vì lúc bấy giờ ơng phụ trách tuyên huấn, phụ trách báo
Nhân dân nên rất gần Bác Hồ, ông H.T kể lại Bác Hồ hỏi sao CCRD lại bắn vào
người đàn bà? Người đàn bà Việt Nam khác với đàn bà Trung Quốc. Người đàn bà
Việt Nam thì cứu nước như Bà Trưng, Bà Triệu, nuôi chồng nuôi con để tham gia
kháng chiến cứu nước. Có người lại nói: Hổ cái hay hổ đực cũng là hổ ăn người. Cho
nông dân đấu tố để vùng lên, nếu khơng thì nơng dân hàm ơn địa chủ suốt đời! Cho
nên nghiên cứu về Bác Hồ thì thấy Bác Hồ có nỗi cơ đơn về quan điểm “dĩ bất biến
ứng vạn biến”. Trước mặt mình đang có kẻ thù xâm lược như thế này. Độc lập dân tộc
là cái bất biến, cho nên phải ứng biến. Kẻ thù chính bây giờ là đế quốc xâm lược cho
nên có những vấn đề phải lùi một chút. Trong Di chúc Bác có nói khi kết thúc chiến
tranh việc đầu tiên là phải chỉnh đốn lại Đảng chứ không phải để đến 30 năm mới
làm. Trước khi viết Di chúc, Bác xuống Côn Sơn, đọc bia Nguyễn Trãi, Người
ông Khổng Tử 1965. Di chúc Bác trích một mẫu đăng báo 1969 khi Người ra đi, thì
đến năm 1989 tức là 20 năm sau thấy khơng ai đả động gì đến Di chúc của Bác cả.
Đồng chí Vũ Kỳ mới chép ra trong hồi ký: “Bác Hồ viết Di chúc”. Đặc biệt là Bác
dặn vấn đề chỉnh đốn Đảng, miễn thuế cho nông dân và vấn đề hoả táng cho Bác để
giải thoát cho Người về với trời đất chứ giữ lại trong lăng là ngoài ý nghĩ của Bác.
Việt Nam ta không để lăng tẩm lại đế đô, vua băng hà thì đưa về quê như 8 vua Lý thì
về Bắc Ninh, các vua Lê thì về Lam Kinh, vua Trần về Tức Mạc và Đông Bắc Tổ
Quốc. Bác Hồ khơng dặn để lại ở Ba Đình. Bác khai sinh VNDCCH tại Ba Đình, Bác
hố thân cũng đúng vào cái ngày ấy nhưng Di chúc thì hoả táng, sau này có nhiều
điện thì điện táng để giữ vệ sinh, tiết kiệm đất cho nơng dân. Cịn tro cốt phân chia ra
làm 3 cho Bắc, Trung, Nam bà con để một nơi nào đó để tiện việc trồng cây lưu niệm,
Bác đã xem mộ cho Bác rồi, tức là Đá Chông, dưới chân núi Tản Viên. Núi Tản Viên
Năm 1947, Bác Hồ vào Thanh Hố có gặp cụ Lê Thước, GS. Cao Xuân Huy, G S.
Nguyễn Mạnh Tường, GS. Đào Duy Anh lúc đó tản cư theo trường về Thanh Hố.
Bác vào Thanh Hố ngày 20/2/1947, phê bình Tỉnh uỷ Thanh Hố mất đồn kết, cách
mạng chưa gì đã tranh công tranh phần. Họp Tỉnh uỷ, Uỷ ban xong thì tiếp đó Bác
gặp các trí thức. Cụ Lê Thước thay mặt anh em đứng dậy nói: Thưa Bác…Bác Hồ nói
ngay: Chúng ta đồng lứa, Bác để cho thanh niên gọi. Giáo sư Lê Thước đồng tuổi, lại
cùng quê với Bác, bèn nói: Thưa cụ, anh em chúng tơi đây xin Cụ giải thích cho một
điều: Chế độ CHDC, XHCN, Dân chủ mới, vậy chế độ gọi là gì cho đúng?
Bác Hồ suốt đời chỉ muốn cho dân tộc độc lập, nhân dân no ấm. Khi giành được độc
lập rồi thì Bác chỉ mơ ước làm sao cho đất nước hồ bình, thống nhất, độc lập, dân
chủ và giàu mạnh. Và khi chết rồi (Bác) vẫn để câu này ở trong Di chúc. Nếu đi theo
Hơm nay nói với các thầy các cơ thì tin rằng Đại hội 9 sẽ mở ra mới hơn, dân chủ
trong Đảng, nó đã chỉ ra những con người cơ hội chui vào Đảng khuynh đảo một thời,
làm cho Đảng ta lung lạc đi chệch hướng. Từ thời Bác Hồ thành lập Đảng, cũng như
bao lớp người đi tìm con đường độc lập cho dân tộc, no ấm cho nhân dân, nước phải
độc lập , dân phải no ấm, no ấm rồi thì được học, học ít rồi học nhiều nữa, cả dân tộc
đều trí tuệ. Đã có nền văn hố rồi thì dân tộc phải được học những vấn đề của thời đại.
Đến Đại hội 9 này mới thấy, còn các Đại hội trước chưa thấy, bế tắc. Lần đầu tiên dân
ta được tham gia ý kiến, dù là thực hiện hay khơng thực hiện nhưng trên đài, trên báo
có đưa ý kiến của dân, của người này người khác, tuy chưa dám đưa hết.
Bên cạnh phòng họp (Đại hội) có phịng tập hợp thư từ tố cáo của đảng viên, cán bộ,
nhân viên. Có đồng chí nhận thư tố cáo ôm một ôm không hết. Bây giờ các đồng chí
làm chắc chắn là phiên bản ra ngay, của ơng nào giao cho ơng ấy, cịn bản gốc thì lưu
lại. Sai đúng thế nào chưa biết, ơng này ơng nọ có từng cái thư tố cáo thì nhận lấy.
Một trăm ông uỷ viên trung ương là được phát cả, cịn có phát cho đại biểu Đại hội thì
khơng biết. Trong những thư đó thì chỉ có mấy ơng khơng có tố cáo, có cả danh sách
gửi tiền nước ngồi, sợ q! Cịn làm ăn thì phải có nhà một tầng, hai ba tầng khang
trang, bằng đồng tiền lao động, bằng trí tuệ làm ra nó khác, bây giờ cứ ăn chặn cái
này, ăn chặn cái kia…
Hơm họp Trung ương; một đồng chí cố vấn đứng dậy, bước ra nói: Tơi cũng khơng
ngờ cuộc đời hoạt động đến hơm nay nó lại xảy ra đến mức thảm hại như thế này…
(tức là người ta đấu cho). Một trong ba ông cố vấn than vãn như thế. Anh nhận ra
thảm hại thì bây giờ đã hơn 80 tuổi rồi. Lời nói tự nó vơ nghĩa, nhưng ít ra thì anh
Trịnh Công Sơn khơng có chức tước gì cả, nằm xuống…một nghìn năm trăm vịng
hoa trắng (ơng khơng có vợ) cái đó làm ta suy nghĩ chứ. Đến khi bà Khánh Ly, một ca
sĩ, vừa khóc vừa nói qua sóng đài BBC:
Ơng Trịnh Cơng Sơn là nửa cuộc đời tơi. Tơi là một ca sĩ không tên tuổi nhưng nhờ
nhạc Trịnh Cơng Sơn mà cả Sài Gịn biết đến tơi và sau này bao nhiêu người biết đến
tôi là Khánh Ly.
Trịnh Công Sơn không đi với tôi, người ta cứ tưởng tơi là người u, có thể là vợ,
nhưng khơng! Ơng Trịnh Cơng Sơn khơng của riêng ai cả. Ông là người của quê
hương, sinh ra ở quê hương, làm nhạc cho quê hương, hát cho quê hương, và khi đất
nước có biến cố người ta nghĩ Trịnh Công Sơn sẽ đi với tôi, nhưng không, Trịnh Công
Sơn người của quê hương và ở với quê hương. Có người lầm tưởng ơng theo cộng sản
sau năm 75. Không, ông không theo ai, ông theo dân tộc, theo q hương. Vì vậy, khi
ơng sang Pháp, ơng không dám đi đâu cả, ông ở trong một quán Việt Nam ở Pari, vì
Và hôm nay ông nằm xuống trên mảnh đất quê hương, đó là Trịnh Cơng Sơn của q
hương, ơng khơng có riêng tư gì hết. Một nghệ sĩ, chỉ đi hát mà để niềm thương tiếc
trong lòng nhiều người. Nhạc sĩ Trần Long Ẩn đọc điếu văn trước mộ Trịnh Công
Sơn.
Nhắc lại 1.500 vòng hoa trắng, người đi tiễn biệt Trịnh Cơng Sơn tồn đi bằng xe gắn
máy, nườm nượp suốt từ thành phố đến nghĩa trang và rất đặc biệt trong đám tang này
có Đại tướng Võ Nguyên Giáp tiễn đưa nhạc sĩ Trịnh Cơng Sơn.
Tơi thấm thía một bài học: “Chức tước nó làm lợi ích cho nhân dân người ta quý. Làm
người thày thuốc chữa được bệnh cho nhân dân đó là hạnh phúc. Người thầy giáo
truyền kiến thức, học vấn cho học trò, người cán bộ hoạt động trên địa hạt công tác
của mình…làm được việc có ích, nhà văn viết những trang sách khơng xu thời, khơng
bóp méo sự thật, khơng dây bẩn vào tâm hồn người đọc. Những trang sách đó người
đời ghi nhận.
Lời cảm ơn của nhà trường:
Thưa nhà văn Sơn Tùng.
Hôm nay là buổi học cuối cùng của khoá 40 lớp “Đào tạo cán bộ quản lý ngành giáo
dục” và là buổi sinh hoạt cuối cùng khố học trên hội trường.
Hơm nay, để có món q chia tay các đồng chí trước khi ra về, nhà văn Sơn Tùng,
chuyên gia nghiêm cứu về Chủ Tịch Hồ Chí Minh, được mệnh danh “Nhà Hồ Chí
Minh Học” đến nói chuyện với chúng ta về “Chân Dung Một Người” mà tên tuổi của
Người gắn liền với tinh hoa và khí phách dân tộc. Sự nghiệp của người gắn liền với
quá khứ đau thương và lịch sử oai hùng của dân tộc Việt Nam. Đó là Chủ tịch Hồ Chí
Minh mn vàn kính u, và thực tế ý tưởng của tơi được nhà văn đáp lại bằng những
mẩu chuyện của nhà văn hôm nay, tôi xin đưa ra một suy nghĩ:
Đã đến lúc sự thật phải trả về cho Sự Thật, Lịch Sử trả về cho Lịch Sử với giá trị
nguyên bản đích thực của nó, dẫu có biết rằng Sự Thật nói ra có sù sì…nhưng vẫn có
giá trị hơn rất nhiều so với lời nói nhận định sai lạc, giả dối, giá lạnh, khơng có hồn,
nhưng sự thật đó quang minh chính đại phù hợp lý tưởng con người và đặc biệt Sự
Thật do phù hợp với Lương Tâm của chúng ta.
Giờ chia tay với nhà văn SơnTùng đã đến , xin thay mặt anh em thành tâm chúc nhà
văn và gia đình mạnh khoẻ, hạnh phúc, sống thanh thản với một cuộc sống vật chất
cịn nghèo khó.
Mong nhà văn ghi nhận cho một điều, đối với anh em chúng tôi những giá trị tinh
thần mà nhà văn đã đem đến cho chúng tơi trong khóa học này ln khắc sâu trong
tâm trí chúng tơi.
Trước khi ra về, một lần nữa xin cảm ơn.
(Thời điểm Đại hội IX sắp khai mạc)
PHẦN PHỤ LỤC
Nói chuyện với đồng chí đại tá Cao Nham:
1. Đầu năm 2001 tơi có dịp gặp và nói chuyện với Đại tá CCB Cao Nham tại Nam
Đồng. Trong câu chuyện có một chi tiết tơi khơng thể qun, theo lời kể của đ/c Cao
2. Về chủ trương Tổng tiến công và nổi dậy, Bác Hồ và ông Giáp không tán thành,
nhưng thiểu số phải phục tùng, phải chấp hành, nhưng vì lợi ích của cách mạng không
để tổn thất cho lực lượng ta nên Bác đặt vấn đề hỏi ơng Giáp: – Có cách nào làm giảm
nhẹ thiệt hại? Ơng Giáp nói:- Chỉ cịn cách đánh các căn cứ gần giới tuyến để kéo bớt
lực lượng địch ra ngồi này.
Vì thế ta mới thấy có các trận đánh ác liệt dọc đường 9: Côn Tiên, Dốc Miếu, Khe
Sanh, A Sẩu, A Lưới…Địch phải kéo ra 4 sư đồn đối phó ở ngồi này, và tổng thống
Giơn xơn đã có một câu tun bố phải tử thủ với Khe Sanh, chính vào lúc đó.
3. Vậy căn cứ vào đâu mà ông Duẩn dám đề nghị với Bác sự tự khẳng định: Nếu
khơng thắng thì (tơi) xin từ chức?
Câu hỏi này có thể được giải đáp với mẩu chuyện của ông Mười Hương như sau:
Năm 1968, khi tơi cịn cơng tác ở K.68 (Bộ CA) (tôi về Bộ CA tháng 8/1966, sau khi
tốt nghiệp Đại học ngoại giao). Ông Mười Hương là Cục trưởng (thay ơng Nguyễn
Thế Tùng về hưu). Lúc đó cơ quan còn đang ở Quan Nhân, sơ tán cách Hà Nội 30Km,
ơng Mười Hương nói chuyện với cán bộ P.5 (K.68) có tổ cơng tác của tơi, ơng nói: –
ý định của ta trong cuộc TTC-ND Tết Mậu Thân (1968) là: chiếm đài phát thanh Sài
Nhưng trận đánh diễn ra khơng sn sẻ như ý muốn của ơng (Duẩn), vì đại sứ Matin
khi đó ở cách sứ qn 200m, cịn tổng thống Thiệu thì về Cần thơ ăn tết, do khơng
nắm sát tình hình đó nên khơng bắt được chúng (theo lời kể của ơng Mười Hương). Vì
thế nên mới có đợt 1, đợt 2, rồi đợt 3 là bởi vì sau khi chiếm được đài phát thanh Sài
Gịn từ đợt 1 rồi, nhưng lực lượng ta cứ phải giữ nó đấy chờ bắt hai tên kia nên mới
sinh ra có đợt 2 nhưng cũng khơng tóm được Matin và Thiệu, nên lực lượng chiếm đài
phát thanh vẫn cứ phải cố thủ để chờ tiếp đợt 3 (xem sao). Và kết quả thì ai cũng đã
biết.
Ơng Mười Hương nói tiếp: Năm 1967 Bác có ý vào Nam bằng đi bộ, Bộ chính trị
khơng đồng ý vì tuổi tác sức khoẻ của Bác (có lẽ chỗ này trùng với câu truyện ơng
Sơn Tùng nói về hội nghị 3 nước Đông Dương họp ở Phnom Pênh lúc bấy giờ). Nên
ta cố ý giành thắng lợi trong đợt Mậu Thân 68, chấm dứt chiến tranh để đưa Bác vào
Nam theo nguyện vọng của Bác. (Câu chuyện này chính xác đến đâu thì tơi khơng rõ,
nhưng đấy là câu chuyện của ơng Mười Hương nói ở P.5 chúng tơi năm đó).
Đến đợt 3 cũng khơng bắt được Matin và Thiệu thì cơ hội “bất ngờ” khơng cịn nữa và
địch phản cơng lại, thế là chủ trương TTC và ND nhằm mục đích tối thượng khơng
đạt được, tuy nhiên sau đó Mỹ buộc phải chấp nhận đàm phán với ta ở Paris.
4. Về cuộc đàm phán Mỹ – Việt ở Paris ta đã chuẩn bị từ năm 1963, khi tơi cịn đang
học khố 3 Khoa đối ngoại của trường Kinh Tài.
còn về đàm phán thì cũng vì thế mà ta đã xác định thế này, rồi ông đọc hai câu thơ
(ông Xuân Thuỷ, Bộ trưởng Ngoại giao, là nhà báo, và cũng là nhà thơ):
“Đàm đàm đánh đánh đàm đánh đánh
Rồi ơng giải thích cuộc đàm phán với Mỹ sẽ diễn ra cù nhầy kiểu như thế, mà đúng là
thế thật. Hội nghị Pari kéo dài suốt từ năm sau tết Mậu Thân 1968 cho đến đầu năm
1973 (5 năm).
Để chuẩn bị cho cuộc đàm phán đó, ơng Xn Thuỷ được rút khỏi chức Bộ trưởng
ngoại giao để làm trưởng đoàn đàm phán ở Pari. Ông Nguyễn Duy Trinh lên làm Bộ
trưởng ngoại giao từ đó.
Dưới đây là mẩu chuyện nhỏ về ông Hà Văn Lâu. Bác Hồ mời ông Hà Văn Lâu đến
giao nhiệm vụ. Ông Hà Văn Lâu hỏi Bác về cơng tác sắp được giao, thì Bác nói:
Tên chú thế nào thì cơng tác của chú cũng thế.
Đó chính là Hội nghị Pari là nơi ơng Hà Văn Lâu cơng tác lâu năm ở đồn đàm phán
của ông Xuân Thuỷ suốt 5 năm.
Câu chuyện tôi được nghe kể lại:
Sau cách mạng tháng 8 năm 1945, Nguyễn Huy Tưởng có hỏi Cụ Hồ:
Bây giờ đạo đức dạy (học) cái gì?
Cụ Hồ nói:
Cần – Kiệm – Liêm – Chính.
Chắc là ơng Tưởng nghĩ rằng cách mạng là đổi mới tất cả vì khi đó cũng đang có
phong trào vận động xây dựng đời sống mới thì dạy đạo đức cũng phải là “đạo đức
mới” (Lúc đó chưa có khái niệm đạo đức xã hội chủ nghĩa như bây giờ), nên ơng
Tưởng mới nói:
Cái (đạo đức) đó cổ q.
Thì Cụ Hồ trả lời như thế này với ơng Tưởng:
-“Thế thì ngơ, lúa có từ bao giờ?”
(mất một đoạn) …có từ cổ xưa rồi, mà đạo đức “Cần – Kiệm – Liêm – Chính” là 4
đức tính thuộc về đạo đức nhân văn đã đưa xã hội tiến bộ và phát triển không ngừng
đến ngày nay, và như vậy thì nó cũng khơng bao giờ cũ, không bao giờ cổ, cũng như
ngô, lúa chúng ta ăn có từ thượng cổ đến nay nó đang ni chúng ta.
Đó là ý nghĩa của một trong những câu thành ngữ cổ xưa “còn giá trị với thời đại”
như nhà văn Tùng Sơn nói ở trường đào tạo cán bộ quản lý của ngành giáo dục ngày
11 tháng 4 năm 2001.
<i>Trích một số thư mới đây của CCB Trần Nhật Độ, nguyên Chính uỷ Bộ Tư lệnh Binh </i>
<i>chủng Đặc công (Khu tập thể Nam Đồng – Đống Đa – Hà Nội).</i>
Sau khi nhận xét đánh giá công lao cống hiến vào sự nghiệp giải phóng dân tộc thống
nhất đất nước nhà của một số đồng chí lãnh đạo kể cả khuyết diểm thiếu sót, thư đã
viết.
+ Mậu Thân 1968, mọi người khơng đồng tình đánh đợt 2,3. Vốn khơng phải thời cơ
phút huy vai trò của chủ lực, lại khơng cịn điều kiện phát triển tiến cơng mà tổng
khởi nghĩa thì ngay từ đầu đã khơng khuấy lên được.
+ Việc thành lập Quân đoàn, cuối 1970 anh Văn đã đề ra, nhưng bị bác; bị thiểu số.
Năm 1971 trong chiến dịch Trị Thiên cũng vậy. Đến năm 1973 (tháng 10) mới có
Qn đồn 1, sau đó là Quân đoàn 2 ở Trị Thiên. Nên nhớ cụm sư đoàn là cấp số
cộng, mà Quân đoàn là cấp số nhân.
+ Chiến dịch Trị Thiên năm 1972, nếu giữ nguyên ý kiến anh Văn lấy lại Trị Thiên
làm hướng chủ yếu thì sẽ có cánh vu hồi vào Thừa Thiên Huế. Hiệu quả chiến dịch sẽ
khác xa…
+ Đánh CPC, anh Văn cho rằng chỉ nên đánh đến Sông Mê Kông, dừng lại và kéo
Sihanuk về để cách mạng bạn tự phát triển, tự giải phóng. Ta không mang tiếng,
không sa lầy, không bị cô lập…
+ Trong các cuộc nói chuyện với đồng bào, cán bộ, khơng ít lần đồng chí Lê Duẩn đã
có lời phê phán, phản bác Bác Hồ và có ý vượt trội lên. Ví dụ như nói:
<i>“Giáp thì sợ Mỹ. Bác thì sợ Trung Quốc. Bác khơng sát thực tế, Bác khơng có điều </i>
<i>kiện nghiên cứu lý luận cơ bản. Tôi đây, tôi nghiên cứu rất nhiều lý luận cơ bản. Bác </i>
<i>chịu ảnh hưởng nho giáo, Khổng Tử… thậm chí có những lần Bác đã đến hồi lẩm </i>
<i>cẩm”. </i>
(mất một đoạn) … “Thời thắng Mỹ” dưới bút danh Thép Mới. Quy hoạch 36 bài sẽ
đưa ra kết luận “Thời thắng Mỹ” là thời đại gì? Đã đăng được 16 bài trên báo Nhân
dân. Do làn sóng phản ứng của đảng viên, cán bộ nhân dân, buộc phải đình chỉ khơng
được đăng tiếp nữa. Song với 16 bài đã đăng, tác giả và Báo Nhân dân đã kịp chấm
dứt và cắt ngang thời đại Hồ Chí Minh vào năm 1954 và hạ bệ Hồ Chí Minh ở đây với
hai sai lầm chết người trên hai mục tiêu cơ bản của cách mạng dân tộc dân chủ. Đó là
chống phong kiến thì chậm tiến hành cải cách ruộng đất. Đối với chế độ xâm lược thì
hiệp định Giơ-ne-vơ là thoả hiệp với địch, là ảo tưởng, là ngăn cản nhân dân Việt
Nam, Lào, Camphuchia giành thắng lợi hoàn toàn…
Giáp. Hồ Chí Minh là linh hồn của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, là đại biểu
cho ý chí và khí phách của tồn dân tộc, là người thiết kế đường lối đánh Mỹ đã được
manh nha từ chiến thắng Điện Biên Phủ, từ Hộinghị Giơ-ne-vơ. Võ Nguyên Giáp là
+ Sau khi nước nhà thống nhất, nếu chấp nhận ý kiến của ông (Đại tướng Võ Nguyên
Giáp) về xây dựng kinh tế là: trước hết phải để thời gian khôi phục rồi mới tính đến
phát triển, và phải đặt nơng nghiệp là mặt trận hàng đầu; thì chắc chắn là hạn chế
được những mất cân đối nghiêm trọng trong nền kinh tế quốc dân lúc bấy giờ, dẫn đến
khủng hoảng đời sống.
(Một số chuyện kể trong phụ lục này (tuy chưa đầy đủ) để minh chứng rằng nhà văn
Sơn Tùng đã nói đúng).
BÀI NĨI CỦA NHÀ VĂN SƠN TÙNG VỀ BÁC
Đăng ngày: 15:56 22-04-2010
Thư mục: HỒ CHÍ MINH
<i>sử học Việt Nam ngày nay mới mong lục bới lại tư liệu ít ỏi và phiến diện để</i>
<i>tìm câu trả lời.</i>
<i>Thế nhưng, cũng có những người không phải trong giới sử học, lại đã làm</i>
<i>những việc mà giới sử phải đáng nể. Một trong số họ là nhà văn Sơn Tùng,</i>
<i>tác giả cuốn "Búp Sen Xanh" viết về thời thơ ấu của Chủ tịch Hồ Chí Minh.</i>
<i>Có lẽ ơng cũng là một trong vài người hiếm hoi hiện còn sống nắm được</i>
<i>nhiều tư liệu (chưa được cơng bố) về Hồ Chí Minh nhất.</i>
<i>Dưới đây là một trong nhiều tài liệu được cho là từ những bài nói chuyện của</i>
<i>nhà văn Sơn Tùng quanh tư liệu về Chủ tịch Hồ Chí Minh. Đáng tiếc là từ</i>
<i>những tìm tịi của ơng, cho tới cuốn truyện "Búp sen xanh" đều khơng được</i>
<i>sự "ủng hộ chính thức" của các cơ quan chức năng, thậm chí cịn gặp phải</i>
<i>những phiền tối. Ngược lại, vẫn có những ủng hộ "khơng chính thức" từ</i>
<i>nhiều nhà lãnh đạo Việt Nam. Như Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết, khi còn</i>
<i>là Trưởng ban Dân vận Trung ương, đã từng có nhận xét thân mật " Đối với</i>
<i>tôi, anh Sơn Tùng là đại sư phụ".</i>
<i>Từ hồn cảnh đó, khơng thể tránh khỏi tình trạng những thơng tin mà nhà văn</i>
<i>đưa ra có thể khơng chính xác, hoặc chưa được kiểm chứng khoa học, những</i>
<i>nhận định có thể chủ quan, suy diễn. Song để góp phần đi tìm những tư liệu</i>
<i>lịch sử quý giá, tránh những đồn đốn, xun tạc, bóp méo lịch sử mà cho tới</i>
<i>nay, sau hơn 30 năm chiến tranh vẫn không thay đổi mấy, xin được đăng một</i>
<i>phần trong những bài nói chuyện này với sự thận trọng nhất định.</i>
BÀI NÓI CỦA NHÀ VĂN SƠN TÙNG Ở TRƯỜNG CƠ KHÍ CHÍ LINH THUỘC BỘ
NĂNG LƯỢNG THÁNG 11 NĂM 1990