Tải bản đầy đủ (.pdf) (91 trang)

Đánh giá một số mô hình rừng trồng phòng hộ đầu nguồn trong dự án 661 tại tỉnh phú thọ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (757 KB, 91 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LÂM NGHIỆP

TRẦN THỊ MAI DUNG

ĐÁNH GIÁ MỘT SỐ MƠ HÌNH RỪNG TRỒNG
PHỊNG HỘ ĐẦU NGUỒN TRONG DỰ ÁN 661
TẠI TỈNH PHÚ THỌ

LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC LÂM NGHIỆP

Hà Nội, 2011


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LÂM NGHIỆP

TRẦN THỊ MAI DUNG

ĐÁNH GIÁ MỘT SỐ MƠ HÌNH RỪNG TRỒNG
PHỊNG HỘ ĐẦU NGUỒN TRONG DỰ ÁN 661
TẠI TỈNH PHÚ THỌ

Chuyên ngành: Lâm học
Mã số: 60.62.60



LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC LÂM NGHIỆP

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS. TS. VÕ ĐẠI HẢI

Hà Nội, 2011


1

ĐẶT VẤN ĐỀ
Rừng phòng hô ̣ là mô ̣t trong 3 loa ̣i rừng ở nước ta. Trong những năm
gần đây rừng phòng hộ ở nước ta đã bi ̣suy thoái rất nghiêm trọng, đặc biệt là
ở vùng Tây Bắc, Đông Bắc, Tây Nguyên và đồ ng bằ ng sông Cửu Long… Mất
rừng phòng hô ̣ đã gây ảnh hưởng rất lớn tới môi trường và đời sống của người
dân vùng đầu nguồn ven biể n cũng như ảnh hưởng tới môi trường và cuộc
sống của hàng triệu người dân vùng hạ nguồn. Nhiều vấn đề không những chỉ
xảy ra ở riêng một nước mà đã trở thành mối quan tâm chung của các nước
trong khu vực… Do đó con người bắt đầu quan tâm hơn tới môi trường, rừng
phòng hô ̣ vì thế đã trở nên rấ t quan tro ̣ng đố i với loài người.
Ở nước ta đã có chủ trương phát triển kinh tế gắn với phát triển bền
vững là trọng tâm ưu tiên hàng đầu của quốc gia trong giai đoạn mới. Điều
này đã được khẳng định trong Nghị quyết Đại hội IX của Đảng Cộng sản Việt
Nam. Hai Chương trình được coi là ưu tiên số một của Chính phủ trong thời
gian qua là Dự án trồng mới 5 triệu ha rừng và Chương trình 135 đều gắn với
việc bảo vệ môi trường, hạn chế ảnh hưởng của thiên tai và cải thiện điều kiện
sống cho đồng bào vùng nông thôn, đặc biệt là ở miền núi.
Nhiệm vụ khôi phục, bảo vệ và phát triển rừng phòng hô ̣ ở nước ta
được đặc biệt quan tâm trong những năm gần đây, nhất là từ khi có nhu cầu

phải đảm bảo hoạt động an tồn lâu dài cho các cơng trình thuỷ lợi, thuỷ điện.
Hiện nay, hệ thống rừng chuyên phòng hộ được quy hoạch 5,68 triệu ha,
trong đó diện tích rừng phịng hộ đầu nguồn được quy hoạch chiếm 93,3%.
Thực tiễn này cho thấy rõ vị trí và tầm quan trọng của rừng phòng hơ ̣ trong
chiến lược môi trường ở nước ta.
Phú Thọ là tỉnh thuộc vùng trung du miền núi Bắc bộ, đây là vùng
chuyển tiếp giữa đồng bằng Sông Hồng và các tỉnh miền núi Tây Bắc. Do diện
tích đất lâm nghiệp chiếm tỷ trọng lớn đạt 195.618,8 ha, chiếm 55,4% tổng


2

diện tích tự nhiên, địa hình dốc kết hợp với hệ thống sông suối dày đặc nên vấn
đề xây dựng các khu rừng phòng hộ đầu nguồn đã và đang rất được quan tâm
trong thời gian qua. Năm 2000, Phú Thọ đã thực hiện quy hoạch phát triển lâm
nghiệp giai đoạn 2000 - 2010, tiến hành quy hoạch diện tích rừng phòng hộ
chiếm tới 43,6%. Năm 2006, thực hiện Chỉ thị 38 của Thủ tướng Chính phủ về
rà sốt quy hoạch lại 3 loại rừng, đã giảm diện tích rừng phòng hộ của tỉnh từ
86.147,7 ha xuống còn 33.631,8 ha. Năm 2007, đã hồn thành rà sốt quy
hoạch 3 loại rừng, theo đó diện tích chuyển đổi từ rừng phịng hộ sang rừng đặc
dụng là 779,5ha; từ rừng phòng hộ sang rừng sản xuất là 52.781,1 ha; từ rừng
sản xuất sang rừng đặc dụng là 251,3 ha; từ rừng sản xuất sang rừng phòng hộ
là 1.044,7 ha.
Những năm qua, tỉnh Phú Thọ đã triển khai và thực hiện nhiều chương
trình dự án phát triển lâm nghiệp: Chương trình PAM (3352), Chương trình
LNXH, Chương trình 327, Chương trình 135, Chương trình trồng rừng sản
xuất theo hướng thâm canh cao và đặc biệt là Dự án 661 đã thể hiện được sự
nỗ lực rất lớn trong vấn đề phục hồi và phát triển rừng của Nhà nước. Thông
qua kết quả bước đầu của các chương trình trồng rừng này đã góp phần nâng
độ che phủ của rừng từ 32,8% năm 1999 lên 49,6% vào năm 2010, độ che phủ

của rừng tăng bình qn hàng năm 1,4%. Thêm vào đó là diện tích rừng
phịng hộ cũng tăng lên đáng kể góp phần quan trọng vào việc nâng cao khả
năng phịng hộ mơi trường trên địa bàn tỉnh. Có thể khẳng định rằng, Dự án
661 đã đóng góp một phần quan trọng trong việc nâng cao tỷ lệ che phủ rừng
và khả năng phòng hộ mơi trường rừng trên địa bàn tỉnh, góp phần ổn định
cuộc sống, tạo công ăn việc làm và nâng cao thu nhập cho cộng đồng địa
phương. Tính tới năm 2010, Dự án trồng mới 5 triệu ha rừng trên phạm vi cả
nước nói chung và tỉnh Phú Thọ nói riêng đã đi vào giai đoạn kết thúc, chính
vì vậy địi hỏi phải có những nghiên cứu, đánh giá chi tiết các mơ hình, để đúc


3

rút ra những mơ hình thành cơng, thất bại và những vấn đề cần nghiên cứu
tiếp theo.
Xuất phát từ thực tiễn đó, đề tài "Đánh giá một số mơ hình rừng trồng
phòng hộ đầu nguồn trong dự án 661 tại tỉnh Phú Thọ" đặt ra là rất cần
thiết, có ý nghĩa khoa học và thực tiễn.


4

Chương 1
TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Trên thế giới
Kinh nghiệm nhiều năm về trồng rừng ở nhiều nước trên thế giới cho
thấy do rừng trồng thuần loài đã bộc lộ nhiều nhược điểm nên nhiều nước trên
thế giới đã quan tâm nghiên cứu tạo lập các lâm phần rừng trồng hỗn loài
bằng nhiều loài cây khác nhau nhằm kinh doanh rừng theo hướng bền vững.
Các cơng trình nghiên cứu về trồng rừng hỗn loài trên thế giới đã quan tâm

đến một số biện pháp kỹ thuật như việc chọn loài cây trồng, phương thức,
phương pháp trồng và mối quan hệ giữa qua lại giữa các lồi cây trong các
mơ hình rừng trồng hỗn lồi.
Tại Kasma Forest Technology Center (Nhật Bản) đã thiết lập hàng loạt
các mơ hình rừng nhiều tầng tán bao gồm nhiều loài cây, ở nhiều cấp tuổi và
trồng ở nhiều độ cao khác nhau, đặc biệt ở vùng Tsucuba có độ cao dưới
876m so với mực nước biển đã trồng loài cây Tuyết tùng (Japanese ceder) để
tạo ra những lâm phần bền vững và có giá trị phịng hộ cao, họ đã nhận thấy
có sự ảnh hưởng lẫn nhau giữa các loài cây khi trồng hỗn giao và ảnh hưởng
của môi trường đến từng cây.
Đặc điểm nổi bật của rừng hỗn lồi là có kết cấu nhiều tầng tán do đó
nó phát huy tác dụng bảo vệ và phịng hộ tốt hơn kiểu rừng thuần lồi. Vì thế
nghiên cứu tạo rừng hỗn lồi nhiều tầng đã được một số nước trên thế giới
quan tâm. Khi nghiên cứu về cấu trúc tầng tán của lâm phần hỗn loài, tác giả
Bernar Dupuy (1995) thấy rằng kết cấu tầng tán của rừng trồng hỗn lồi phụ
thuộc vào đặc tính sinh trưởng và tính hợp quần của các lồi cây trong lâm
phần [33]. Điều này cho thấy để tạo được các mơ hình rừng trồng hỗn lồi có
cấu trúc hợp lý, tận dụng được tối đa không gian dinh dưỡng và phát huy khả
năng phịng hộ của rừng thì cần phải dựa vào đặc tính sinh trưởng cũng như


5

phải quan tâm đến mối quan hệ qua lại giữa các loài cây để lựa chọn loài cây
trồng cho phù hợp. Đây là những cơ sở quan trọng quyết định đến sự thành
cơng hay thất bại của các mơ hình rừng trồng phịng hộ hỗn lồi.
Việc tạo lập các lồi cây hỗ trợ ban đầu cho cây trồng chính trước khi
xây dựng các mơ hình rừng trồng hỗn lồi và nhanh phát huy giá trị phòng hộ
là rất cần thiết. Nghiên cứu về lĩnh vực này điển hình có tác giả Matthew
(1995). Ơng đã nghiên cứu tạo lập mơ hình rừng trồng hỗn loài giữa cây thân

gỗ với cây họ đậu. Kết quả cho thấy cây họ đậu có tác dụng hỗ trợ rất tốt cho
cây trồng chính [36]. Như vậy, nghiên cứu này cho thấy sử dụng các loài cây
họ đậu làm cây phù trợ cho các loài cây trồng chính trong mơ hình rừng trồng
hỗn lồi là rất phù hợp. Ngoài việc xác định được loài cây phù trợ thích hợp
thì việc nghiên cứu về đặc điểm sinh thái của các loài cây cũng là vấn đề rất
quan trọng khi xây dựng mơ hình rừng trồng hỗn lồi. Trên thế giới đến nay
vẫn chưa có nhiều cơng trình nghiên cứu đầy đủ về vấn đề này. Do hiểu biết
về yêu cầu sinh thái của các loài cây rừng mưa còn nghèo nàn nên các tác giả
Rod Keenan, David Lamb, Gary Sexton khi xây dựng rừng trồng hỗn loài
(giai đoạn 1945 - 1995) đã gặp nhiều khó khăn trong việc bố trí và điều chỉnh
các mơ hình rừng trồng hỗn lồi theo q trình sinh trưởng của chúng. Vì vậy,
mơ hình rừng trồng hỗn lồi đã khơng được thành công như mong muốn [38].
Nghiên cứu về rừng trồng hỗn loài đã được các nước châu Âu tiến hành
từ những năm đầu thế kỷ 19. Điển hình là cơng trình nghiên cứu trồng hỗn
loài Quercus và Ulmus campestris với tên kiểu hỗn lồi Donsk của tác giả
Tikhanop (1872). Trong mơ hình này do đặc tính sinh vật học và mối quan hệ
qua lại giữa các loài cây chưa được nghiên cứu kỹ, do đó lồi Ulmus
campestris với đặc tính sinh trưởng nhanh hơn nên sau khi trồng vài năm đã
lấn át loài Quercus. Để giải quyết sự cạnh tranh này năm 1884 tác giả
Polianxki đã cải tiến kiểu hỗn loài Donsk song vẫn không thành công. Một số


6

tác giả khác như Kharitonovis (1950); Grixenco (1951); Timofeev (1951);
Encova (1960) và các cộng sự đã phân tích nguyên nhân thất bại của kiểu
Donsk và chỉ ra rằng các phitonxit của loài Ulmus campestris đã tác động xấu
tới loài cây Quercus. Nghiên cứu về ảnh hưởng tương hỗ giữa các loài, các
tác giả cho rằng sự cảm nhiễm tương hỗ là yếu tố quan trọng khi lý giải cơ
chế cạnh tranh sinh học của thực vật [37]. Trên cơ sở nghiên cứu tạo rừng hỗn

loài giữa Quercus và Fraxinus, tác giả JB. Ball, T.J Wormald (1994) cho thấy
sinh trưởng của Quercus trồng hỗn loài tốt hơn Quercus trồng thuần loài.
Ngoài ra, khi trồng Quercus hỗn loài với các loài cây khác theo băng hẹp (3 4 hàng) hoặc theo hàng cũng cho thấy sinh trưởng của Quercus tốt hơn [35].
Dự án xây dựng rừng nhiều tầng ở Malaysia (1999) đã nghiên cứu tạo
rừng hỗn loài nhiều tầng bằng các phương thức khác nhau. Tuỳ theo các đối
tượng khác nhau là rừng tự nhiên, rừng Keo tai tượng 10 - 15 tuổi hay rừng
Keo tai tượng 2 - 3 tuổi mà mở các băng chặt và chừa khác nhau. Chiều rộng
băng chặt và chừa từ 6m (chặt 1 hàng) đến 60m (chặt 20 hàng). Thời gian đưa
các loài cây bản địa vào trồng hỗn loài trong các băng chặt cũng rất khác
nhau, từ 1 - 7 năm sau khi mở băng chặt. Các loài cây bản địa đưa vào trồng
trong các băng chặt tương đối phong phú, từ 14 - 23 loài cây khác nhau với số
hàng từ 3 đến 16 hàng. Kết quả cho thấy trong các loài cây bản địa được trồng
trong các băng có 3 lồi cây có sinh trưởng chiều cao và đường kính tốt nhất
là S. roxburrghii; S. ovalis; S. leprosula. Sinh trưởng chiều cao của các loài
cây trồng trong băng 10m và 40m tốt hơn băng 20m. Khu trồng theo hàng có
sinh trưởng chiều cao tốt nhất ở công thức trồng 1 hàng Keo xen 1 hàng cây
bản địa. Dự án còn đưa ra kế hoạch điều chỉnh q trình sinh trưởng của các
mơ hình thí nghiệm theo 8 thời điểm từ 2 - 47 năm sau khi trồng [39]. Như
vậy, đây là một trong những cơng trình nghiên cứu tạo rừng trồng hỗn lồi
trên thế giới tương đối toàn diện về các biện pháp kỹ thuật, từ việc chọn loài


7

cây trồng đến nghiên cứu phương thức trồng, thời điểm trồng và sự điều chỉnh
mơ hình theo q trình sinh trưởng trong thời gian dài. Do đó, những mơ hình
thí nghiệm này hứa hẹn nhiều thành công trong tương lai.
Những nghiên cứu về các biện pháp kỹ thuật điều chỉnh các lâm phần
rừng trồng hỗn lồi theo q trình sinh trưởng các tác giả Ball, Wormald và
Russo (1994) đã tác động vào các lâm phần rừng trồng hỗn lồi thơng qua

việc giảm bớt sự cạnh tranh giữa các loài cây. Kết quả cho thấy sau khi tác
động các biện pháp tỉa cành, tỉa thưa, các lồi cây mục đích đã được tạo điều
kiện thuận lợi để sinh trưởng phát triển tốt hơn [35].
Ngoài các nghiên cứu về trồng rừng hỗn lồi nhằm phát huy tốt giá trị
phịng hộ của rừng thì việc nghiên cứu chọn lồi cây trồng lá rộng bản địa sao
cho có thể phát huy tốt các giá trị này đã được nhiều nước trên thế giới quan
tâm và đã có những kết quả nghiên cứu bước đầu.
Các nghiên cứu liên quan đến chọn loài cây trồng đã được thực hiện từ
khi loài người biết trồng rừng. Bắt đầu từ những thí nghiệm thăm dị đến khảo
nghiệm lồi và xuất xứ, các thí nghiệm được bố trí một cách nghiêm ngặt theo
các nguyên tắc khoa học để từ đó chọn được lồi thích hợp cho mỗi vùng sinh
thái. Tại nhiều nước đã có một số nghiên cứu dùng các mơ hình tốn để tối ưu
cơ cấu cây trồng cho từng vùng. Ở các nước vùng ôn đới số lồi cây chính
dùng trong trồng rừng thường rất ít, nên người ta đã tìm hiểu mối quan hệ
giữa cây và lập địa rất cụ thể, chi tiết cho từng loài [30].
Ở Liên Xô và Trung Quốc thường dùng công thức để xác định diện tích
rừng chống xói mịn ở đất dốc là: F =

A * K1  P * K 2
[dẫn theo 28].
h

Trong đó:
- F là diện tích rừng bảo vệ dốc (ha)


8

- A là diện tích bậc thang mà diện tích rừng bảo vệ dốc phải phịng
chống xói mịn (ha)

- P là diện tích đồng cỏ mà diện tích rừng bảo vệ dốc phải phòng chống (ha)
- K1 là độ dày tầng nước mặt lớn nhất của dòng nước mặt sản sinh ra
trên mỗi ha ruộng bậc thang (mm/phút)
- K2 là độ dầy tầng nước mặt lớn nhất của dòng nước mặt sản sinh ra
trên mỗi ha đồng cỏ (mm/phút)
- h là sức hút nước của đất rừng (mm/phút)
Đối với rừng phòng hộ đầu nguồn, một số nước trên thế giới đã áp
dụng phương pháp khoanh nuôi xúc tiến tái sinh, trồng bổ sung, bảo vệ ngăn
ngừa các tác động xấu tới rừng. Tại Malaysia đã xây dựng rừng nhiều tầng
với việc sử dụng 2 loài cây trồng khác nhau; Nhật Bản cũng đã tạo rừng nhiều
tầng bằng cách khai thác rừng theo băng rộng 4 - 5 m và sau đó trồng mới vào
các băng rừng đã chặt.
Biện pháp kỹ thuật xây dựng rừng phòng hộ ven biển cũng được quan
tâm nghiên cứu. Các cơng trình nghiên cứu của V.A Lômitcôsku (1809),
Dokuchaep (1982), X. A Timiriazep (1983, 1909, 1911) đều cho rằng trên các
hoang mạc muốn cải thiện tiểu khí hậu và cải tạo đất phải trồng rừng phòng
hộ thành hệ thống đai theo mạng lưới ơ vng, có kết cấu kín, có hỗn giao
nhiều tầng. Ở Trung Quốc và các nước Trung Đơng, miền Đơng và Tây Châu
Phi thì Phi lao được coi là loài cây chủ đạo trồng trên các vùng cát thành các
hệ thống đai có chiều rộng ít nhất 100 - 200 m. Sau đai rừng Phi lao là các đai
rừng hỗn giao hoặc thuần loài của Bạch đàn, Keo, Thơng nhựa, phía trong
cùng sau các đai rừng dùng để canh tác nông nghiệp.


9

1.2. Ở Việt Nam
Trong những năm qua đã có nhiều những cơng trình nghiên cứu về các
lồi cây bản địa nhằm phục vụ cơng tác trồng rừng phịng hộ ở nước ta điển
hình là các nghiên cứu sau:

Tổng kết các kết quả nghiên cứu từ trước đến nay Bộ NN&PTNT
(2005) đã đưa ra được danh mục các loài cây chủ yếu cho trồng rừng sản xuất
theo 9 vùng sinh thái lâm nghiệp, bao gồm cả các loài cây bản địa và cây nhập
nội, trong đó có nhiều lồi cây có thể trồng hỗn lồi với nhau [3]. Chương
trình 327 và 661 đã đưa ra một bảng danh mục với hơn 60 loài cây phục vụ
cho việc tạo lập các lâm phần rừng trồng trong cả nước. Trần Quang Việt và
cộng sự (1997) đã đánh giá tập đoàn cây trồng trong chương trình 327 trên
các vùng sinh thái trong cả nước và thống kê được 70 loài cây đã được sử
dụng trồng rừng trong Chương trình 327. Theo tác giả Hồng H và Trần
Xn Thiệp (1999) thì ở nước ta có khoảng 250 loài cây bản địa và nhập nội
đã và đang được sử dụng để trồng rừng [30]. Như vậy việc tạo lập các lâm
phần rừng trồng nói chung và các lâm phần rừng trồng hỗn lồi nói riêng ở
nước ta đã chọn ra được nhiều loài cây trồng phù hợp cho các vùng sinh thái
trong cả nước. Đó là cơ sở khoa học quan trọng cho việc xây dựng và nâng
cao năng xuất chất lượng rừng trồng ở nước ta.
Trong chương trình “Khơi phục rừng và phát triển lâm nghiệp” giai
đoạn 1991 - 1995, Vũ Văn Mễ đã nghiên cứu tuyển chọn tập đoàn cây lâm
nghiệp để phát triển trồng rừng ở lưu vực sơng Đà. Về lồi cây trồng, đã lựa
chọn đươ ̣c nhóm những loài cây mọc nhanh (Keo lá tràm, Keo mangium,
Trẩu, Keo lá sim, Tông dù) và nhóm những loài cây bản địa mọc châ ̣m, có giá
trị sử dụng gỗ hoặc quả (Lát hoa, Long não, Vối thuốc, Xoài). Về phương
thức trồng: những nơi đất trống đồi trọc, đất đang bị xói mịn, gần bờ sông
thuộc vùng rất xung yếu, cần thiết phải trồng các loài cây mọc nhanh để sớm


10

có lớp thảm che phủ mặt đất đáp ứng mục tiêu phịng hộ là chính. Đối tượng
thứ hai là đất còn tốt, rừng nghèo sau khai thác kiệt hoặc đất có cây bụi lúp
xúp khơng có khả năng phục hồi thành rừng, tại đây nhu cầu phịng hộ khơng

cấp thiết. Vì thế cần trồng những lồi cây mọc chậm có giá trị kinh tế và
phòng hộ cao, bền vững.
Với đặc tính của hầu hết các lồi cây lá rộng bản địa là thường ưa bóng
trong giai đoạn cịn nhỏ, do vậy việc tạo được lớp “áo che” cho các loài cây
bản địa trong giai đoạn đầu của quá trình sinh trưởng là việc làm đầu tiên và
rất cần thiết khi muốn tạo lập lâm phần hỗn loài, đặc biệt là trên đối tượng đất
trống, đồi trọc. Nghiên cứu lựa chọn cây phù trợ để xây dựng rừng trồng hỗn
loài đã được nhiều tác giả quan tâm. Điển hình là một số cơng trình sau:
- Năm 1931 tác giả Maurand đã sử dụng lớp cây bụi thảm tươi trong
rạch làm cây phù trợ để tạo rừng hỗn loài giữa Sao đen, Dầu rái và Vên vên ở
Trảng Bom Đồng Nai. Ban đầu tác giả đã áp dụng phương thức “trồng rừng
dưới tán che dày và thấp”, sau 2 năm phương thức này đã được cải tiến thành
phương thức "trồng dưới tàn che cao và nhẹ". Sau khi được cải tiến phương
thức trồng, các lồi cây trồng chính vẫn sinh trưởng phát triển kém nên tác giả
tiếp tục dùng thảm che nhân tạo với các loài cây họ đậu là Muồng đen và Đậu
tràm. Kết quả cho thấy rằng dùng cây che phủ ban đầu kết hợp cây che trung
gian là có hiệu quả [6]. Như vậy, trong cơng trình này tác giả đã sử dụng cả 2
loại thảm che tự nhiên và thảm che nhân tạo để làm cây phù trợ. Tuy nhiên,
sự kết hợp hai loại thảm che này không được tính đến từ đầu khi thiết kế rừng
trồng, do đó chưa đánh giá được tác dụng riêng rẽ của từng loại thảm che.
- Giai đoạn 1971 - 1976 tác giả Nguyễn Bá Chất và các cộng sự đã sử
dụng cây phù trợ là các lồi cây có khả năng cố định đạm như: Cốt khí, Ràng
ràng mít, Lim xẹt để tiến hành thí nghiệm trồng rừng hỗn lồi Bồ đề với Mỡ
và Xoan đào ở Tuyên Quang và Phú Thọ. Kết quả sau 5 năm cho thấy năng


11

xuất rừng Bồ đề trồng hỗn lồi có cây phù trợ tăng 15 - 20% so với rừng Bồ
đề trồng thuần lồi khơng có cây phù trợ. Lượng thảm mục dưới rừng trồng

hỗn loài cũng tăng lên 10 - 20%, đất đai dưới rừng trồng hỗn loài được cải
thiện hơn so với rừng trồng thuần loài [6].
- Năm 1985 các tác giả Nguyễn Minh Đường và Lê Đình Cẩm đã sử
dụng các loài cây Muồng đen, Keo lá tràm, Đậu tràm và Keo dậu làm cây phù
trợ để xây dựng rừng trồng hỗn loài Sao đen, Dầu rái, Gõ đỏ, Cẩm lai, Căm
xe cung cấp gỗ lớn ở lâm trường La Ngà (Đồng Nai). Các cơng thức được
trồng hỗn lồi theo hàng và theo băng với kích thước các băng chặt, chừa là
10m và 20m. Xen giữa 2 hàng cây trồng chính là các hàng cây phù trợ. Sau
một năm trồng cho thấy cây phù trợ mới chỉ có ảnh hưởng đến tỷ lệ sống của
các lồi cây trồng chính [13]. Nhìn chung, các thí nghiệm trồng Dầu rái, Sao
đen, Gõ đỏ trên các loại đất xám phù xa cổ thối hố ở Trảng Bom, đất ba
gian nơng màu đen ở Bàu Cạn, trên đất phiến thạch sét ở Mã Đà (Đồng Nai),
đất phù sa cổ sâu ẩm ở Dương Minh Châu cũng chỉ có nhận xét tương tự.
- Năm 1995 tác giả Phạm Đình Tam đã sử dụng cây Keo lai làm cây
phù trợ để tạo rừng trồng hỗn lồi giữa Trám trắng và Lim xẹt ở Bình Thanh Hồ Bình [28]. Đến năm thứ 4 Keo lai sinh trưởng nhanh đã bắt đầu che bóng
Lim xẹt và Trám trắng. Hiện tại mơ hình đang có sự cạnh tranh mạnh, các loài
Trám trắng và Lim xẹt đang bị Keo lai lấn át nên các lồi cây trồng chính
trong lâm phần đều không sinh trưởng phát triển tốt.
- Giai đoạn 1994 - 1998 Trần Nguyên Giảng đã nghiên cứu tạo rừng
trồng hỗn loài ở Vườn Quốc gia Cát Bà - Hải Phòng. Trên đối tượng đất
trống, đồi trọc, tác giả đã trồng Keo tai tượng và Keo lá tràm làm “áo che”
phủ. Khi rừng Keo bắt đầu khép tán tác giả đã đưa vào trồng dưới tán Keo 10
loài cây lá rộng bản địa khác nhau. Sau 4 năm thí nghiệm tác giả cho thấy
phương pháp trồng rừng ẩm dưới tàn che nhìn chung là thích hợp cho tất cả


12

các loài trung sinh trong giai đoạn 1 - 2 năm đầu. Biện pháp lột tán theo định
kỳ thích hợp cho lồi chịu bóng mọc chậm (Gội trắng, Giổi xanh, Re gừng)

nhưng lại cản trở cây ưa sáng mọc nhanh (Lát hoa, Sấu, Nhội, Muồng đỏ).
Kết quả cũng cho thấy dùng cây che phủ ban đầu Keo lá tràm là thích hợp
nhất [15]. Tuy nhiên, do thí nghiệm mới tiến hành trong giai đoạn ngắn nên
chưa thể biết được 10 lồi cây đó sẽ tồn tại như thế nào trong các giai đoạn
sau. Việc sử dụng các loài cây ưa sáng như Lát hoa và Muồng đỏ trồng duới
tán Keo hiện tại đã cho thấy khó khăn trong việc ni dưỡng mơ hình này.
Mặt khác phương pháp trồng hỗn lồi theo hàng dưới tán Keo tác giả chưa
cho thấy rừng hỗn lồi này sẽ có cấu trúc ra sao theo thời gian. Tuy vậy, có
thể nói rằng đây là mơ hình tương đối tồn diện về các biện pháp kỹ thuật
trồng rừng hỗn loài, từ việc tạo áo che, đến việc xác định thời điểm đưa các
loài cây bản địa vào trồng dưới tán và các biện pháp lột dần tán che để các
lồi cây trồng chính sinh trưởng, phát triển.
Nghiên cứu phương thức và phương pháp hỗn loài cũng đã được nhiều
tác giả quan tâm. Thực tế cho thấy các mơ hình rừng trồng hỗn lồi ở nước ta
đến nay chủ yếu là áp dụng theo phương thức trồng rừng hỗn lồi giữa cây cao
với cây cao. Điển hình là thí nghiệm trồng rừng hỗn lồi theo hàng giữa Mỡ
với các loài cây Lim xanh, Xà cừ, Tếch của Học viện Nông Lâm (1962) [14];
Nghiên cứu phương thức trồng rừng hỗn lồi giữa cây trồng chính, rụng lá mùa
khơ là Tếch với cây bạn thường xanh là Muồng đen và cây phù trợ là Đậu tràm
ở Tây Nguyên của Nguyễn Xuân Quát (1985 - 1990) [27]; Nghiên cứu tạo rừng
hỗn lồi giữa cây lá kim (Thơng đi ngựa) và cây lá rộng (Keo lá tràm, Bạch
đàn trắng) ở Núi Luốt Xuân Mai của Phùng Ngọc Lan (1986) [22]; Nghiên cứu
phương thức trồng hỗn loài Mỡ và Bồ đề của Ngô Quang Đê (1991) [12];
Nghiên cứu thiết lập rừng trồng hỗn loài giữa các loài cây ưa sáng Bạch đàn
trắng và Keo lá tràm của Nguyễn Hữu Vĩnh và các cộng tác viên (1991-1993)


13

[32]… Hầu hết các cơng trình nghiên cứu này đều áp dụng phương pháp trồng

hỗn loài theo theo hàng hoặc theo băng. Các kết quả nghiên cứu của các cơng
trình này cho thấy dù được xây dựng theo phương thức và phương pháp nào thì
rừng trồng hỗn lồi đều cho năng xuất, chất lượng cao hơn và cải thiện tốt hơn
điều kiện đất đai so với rừng trồng thuần loài.
Từ năm 1980 trở lại đây, việc phục hồi rừng thông qua tạo lập các lâm
phần rừng trồng hỗn loài bằng các loài cây lá rộng bản địa đã được nhiều tác
giả quan tâm nghiên cứu. Nổi bật là cơng trình “Nghiên cứu các phương thức
phục hồi rừng vùng Sông Hiếu” của Nguyễn Bá Chất. Tác giả đã trồng hỗn
loài cây Lát hoa với các loài cây lá rộng bản địa khác như Lim xẹt, Giổi xanh,
Thôi chanh, Lõi thọ, Ràng ràng nhằm tạo được một cấu trúc rừng hợp lý. Mơ
hình này được theo dõi đến năm thứ 10 và cho thấy sinh trưởng rừng Lát hoa
trồng hỗn loài tốt hơn rừng Lát hoa trồng thuần loài. Kiểu cấu trúc rừng Lát
hoa hỗn lồi sử dụng lớp thực bì phục hồi tự nhiên có ưu điểm hơn về sinh
trưởng của các lồi cây trồng và có dấu hiệu phục hồi đất tốt hơn [7].
Dự án RENFODA do JICA tài trợ đã nghiên cứu các biện pháp kỹ thuật
phục hồi rừng tự nhiên bị suy thối ở Cao Phong - Hồ Bình bằng cách tạo ra
rừng trồng hỗn lồi các lồi cây lá rộng bản địa theo phương thức hỗn loài giữa
các lồi cây cao ưa sáng và chịu bóng với nhau. Các loài cây lá rộng bản địa
được kết hợp để tạo rừng trồng hỗn loài là Giẻ đỏ, Lim xanh, Trám trắng và Sồi
phảng. Phương pháp hỗn loài là theo rạch và theo đám. Kết quả sau 4 năm thí
nghiệm (2004 - 2007) cho thấy các lồi cây trồng đều rất có triển vọng, tỷ lệ
sống của các lồi đều đạt trên 95%. So với phương pháp trồng hỗn lồi theo
đám thì sinh trưởng của các lồi cây trồng theo rạch đều tốt hơn [31].
Nghiên cứu tạo rừng trồng hỗn loài nhiều tầng, Trần Ngũ Phương
(2000) [26] đã đề xuất mơ hình thiết kế rừng hỗn lồi nhiều tầng cho mục
đích phịng hộ và sản xuất thơng qua các phương thức hỗn loài khác nhau như


14


hỗn loài giữa cây cao và cây bụi, hỗn loài giữa cây cao với cây cao. Căn cứ
trên cơng trình nghiên cứu các quy luật chủ yếu của rừng tự nhiên miền Bắc
Việt Nam tác giả đã chỉ ra rằng thảm thực vật rừng ở nước ta đều phân thành
nhiều tầng, từ 2 đến 3 tầng cây gỗ chưa kể tầng cây nhỡ và thảm tươi. Tính
chất này đã được xác nhận bởi kết quả điều tra rừng Việt Nam. Dựa trên quy
luật đó tác giả đã đề xuất mơ hình trồng rừng hỗn lồi đáp ứng mục tiêu
phịng hộ đầu nguồn cho các vùng xung yếu, trong đó có 2 mơ hình hỗn lồi
nổi bật là mơ hình rừng sản xuất khí hậu vĩnh viễn nhiều tầng và rừng sản
xuất thứ sinh tạm thời nhiều tầng.
Ngồi các cơng trình nghiên cứu đã nêu, mục tiêu hàng đầu của chương
trình trồng rừng 327 là phịng hộ mơi trường. Một trong những phương thức
trồng rừng của dự án là phương thức phục hồi rừng cây bản địa. Để bảo đảm giá
trị phịng hộ và duy trì tính đa dạng sinh học của rừng nhiệt đới, các dự án cần:
+ Hạn chế các giải pháp trồng rừng theo cách “cạo trắng” trồng rừng
thuần loại, nhất là cây nhập nội.
+ Tăng cường và khuyến khích phục hồi rừng theo hướng “làm giàu
bằng cây bản địa” như trồng bổ sung cây mới theo băng hay rạch hoặc các lỗ
trống với mật độ 300 - 500 cây/ha và duy trì tối đa thảm thực bì tự nhiên cũ,
dù chỉ là cây bụi nhỏ.
Dự án trồng rừng hỗn loài các loài cây gỗ giá trị cao để cung cấp gỗ và
tăng cường các dịch vụ cộng đồng ở Việt Nam cũng như Australia (20022006) đã thiết lập rừng trồng hỗn loài giữa các loài cây nhập nội và cây bản
địa với các thời điểm hỗn loài khác nhau tại 3 địa điểm: i) Tại Đoan Hùng Phú Thọ: trồng cùng thời điểm các loài Bạch đàn urophylla, Giổi xanh, Lát
hoa và Trám trắng; ii) Tại vườn quốc gia Tam Đảo: trồng hỗn loài Sấu, Xà cừ,
Lim xanh và Keo lai vào cùng một thời điểm; iii) Tại đèo Hải Vân - Huế tạo
rừng hỗn loài giữa Keo tai tượng với Sao đen, Dầu rái và Chò chỉ, trong đó


15

Keo tai tượng được trồng trước 7 năm sau đó được chặt theo băng để đưa các

loài cây bản địa vào trồng dưới tán với mật độ 250 cây/ha. Kết quả sau 3 năm
cho thấy các loài cây trồng đều có tỷ lệ sống cao, sinh trưởng tốt và có nhiều
triển vọng. Tuy nhiên, đây mới chỉ là kết quả bước đầu. Mặt khác khi thiết kế
xây dựng mơ hình, việc nghiên cứu mối quan hệ giữa các loài cây chưa được
chú ý. Vì vậy, với các mơ hình này cần phải theo dõi để có biện pháp tác động
kịp thời, điều chỉnh sự cạnh tranh giữa các loài, đặc biệt là các loài cây mọc
nhanh như Bạch đàn và Keo lai, tạo điều kiện để mơ hình sinh trưởng, phát
triển bình thường.
Mơ hình làm giàu rừng bằng các lồi Lát hoa, Ràng ràng, Lim xẹt,
Xoan mộc, Giổi xanh, Re hương tại Đoan Hùng - Phú Thọ. Đối tượng làm
giàu rừng là trạng thái rừng IIIA1 có cấu trúc rừng bị phá vỡ hoàn toàn, tái
sinh tự nhiên cây mục đích khơng đảm bảo về số lượng (nhỏ hơn 1000
cây/ha). Biện pháp kỹ thuật: mở rạch, rạch phát rộng 2m, rạch chừa 3m, trồng
các loài Lát hoa, Ràng ràng, Lim xẹt, Xoan mộc (nhóm ưa sáng). Trên các
rạch 2m trồng các lồi Giổi xanh, Re hương (nhóm cây trung tính) kết quả
cây trồng tỷ lệ sống đạt trên 90%, các lồi cây làm giàu tỏ ra thích hợp Giổi
xanh, Re hương.
Trần Nguyên Giảng (1998), đã nghiên cứu trồng 10 loài cây bản địa
dưới tán rừng keo lá tràm (A. auriculiformics) và keo tai tượng (A. mangium)
tại vườn Quốc gia Cát Bà - Hải Phòng. Sau 1năm trồng, kết quả bước đầu cho
thấy cây bản địa có khả năng thích hợp và sinh trưởng tốt. Nhưng đến năm
1998 thì mơ hình này lại có những kết quả khác nhau. Cây bản địa trồng dưới
tán rừng keo lá tràm có tỷ lệ sống cao, sinh trưởng và phát triển tốt, trong khi
đó cây bản địa trồng dưới tán rừng keo tai tượng có tỷ lệ sống thấp, sinh
trưởng, phát triển kém khơng có triển vọng. Tác giả cho rằng có thể là do nhu


16

cầu nước của keo tai tượng giai đoạn này lớn làm cho đất luôn luôn khô cứng

nên cây bản địa dưới tán sinh trưởng kém [15].
Vi Hồng Khánh (2003), khi đánh giá sinh trưởng của một số loài cây
bản địa phục vụ công tác bảo tồn và phát triển rừng tại trung tâm nghiên cứu
thực nghiệm Lâm sinh Cầu Hai trên cơ sở nghiên cứu 34 loài cây bản địa ở
vườn thực vật với các chỉ số sinh trưởng của nó đã đưa ra kết luận. Những
lồi có sức sống tốt, có khả năng nhân rộng và phát triển cho các điều kiện lập
địa tương tự là Lim xanh, Re gừng, Xoan đào, Sồi phảng, Chiêu liêu, Giổi
xanh, đó là những cây thích ứng và phát triển tốt, phù hợp với công tác làm
giàu, cải tạo và phục hồi rừng [21].
Đỗ Thị Quế Lâm (2003), khi thực hiện nghiên cứu đặc điểm sinh lý,
sinh thái học của một số loài cây bản địa trồng dưới tán rừng thông đuôi ngựa
và keo lá tràm tại núi Luốt - Trường Đại học Lâm nghiệp, đề tài đã đưa ra
khuyến cáo loài Đinh thối trồng dưới tán rừng Keo lá tràm tốt hơn trồng dưới
tán rừng Thơng đi ngựa. Điều này có thể là do Keo lá tràm là lồi có khả
năng cố định đạm, cải thiện được đất, nên nó là cây phù trợ tốt hơn Thơng
đi ngựa [23].
Theo Lại Hữu Hồn (2004), vùng Trung trung bộ có diện tích rừng
trồng cây lá rộng bản địa đến năm 2003 là 34.940ha chiếm 16% diện tích
rừng trồng trong vùng. Trong đó, diện tích các mơ hình trồng thử nghiệm
dưới tán rừng là 5.621ha. Qua một năm điều tra, tác giả cũng đã đưa ra đề
xuất lựa chọn 18 loài cây cho trồng rừng phịng hộ và đặc dụng, trong đó 7
lồi có thể đáp ứng được cho nhu cầu trồng rừng kinh tế [19].
Phạm Thanh Hùng (2006) khi nghiên cứu ảnh hưởng của một số nhân
tố đến sinh trưởng và hình thái của cây bản địa trồng dưới tán Keo lá tràm ở
Bắc Hải Vân, kết quả nghiên cứu sinh trưởng cây bản địa cho thấy các loài
cây bản địa sinh trưởng khá tốt. Ở địa hình chân, Chị chỉ, Dầu rái là hai loài


17


cây sinh trưởng nhanh nhất trong các loài nghiên cứu, tiếp đến là Huỷnh, cuối
cùng là Sao đen; Ở địa hình sườn, Chị chỉ sinh trưởng nhanh nhất, sau đó là
Sao đen, Dầu rái, Huỷnh; Ở địa hình đỉnh, sinh trưởng của các loài cây bản
địa chưa thể hiện rõ quy luật. Do đó cần quan tâm đến việc gây trồng các lồi
cây này để nhanh chóng chuyển hố rừng Keo lá tràm thành rừng hỗn giao
cây bản địa ở khu vực nghiên cứu [20].
Lê Minh Cường (2007), đã thực hiện đánh giá khả năng sinh trưởng
của một số loài cây lá rộng bản địa trồng dưới tán rừng thông Mã vĩ ở Đại
Lải-Vĩnh Phúc làm cơ sở để chuyển hố rừng thơng thuần lồi thành rừng hỗn
lồi. Đề tài đã đề xuất 3 loài cây bản địa là: Lim xanh, Re hương, Sao đen để
gây trồng dưới tán rừng thông Mã vĩ tại Đại lải hoặc những khu vực có điều
kiện tương tự [10].
Vấn đề khoanh ni phục hồi rừng ở nước ta đã được đặt ra từ rất sớm,
vào khoảng những năm 1950 sau khi miền Bắc được giải phóng, vấn đề này
được đề cập đến trong thuật ngữ “khoanh núi nuôi rừng”. Tuy nhiên, trong một
thời gian rất dài sau đó người ta chỉ chú ý đến khai thác rừng tự nhiên là chính.
Mãi đến những năm 1990, người ta mới hiểu chính xác về cụm từ này, và phát
triển theo cụm thuật ngữ “phục hồi rừng bằng khoanh nuôi xúc tiến tái sinh”
và được thể hiện trong 2 quy phạm ngành QPN 14 - 92 và QPN 21 - 98.
Trồng rừng phòng hộ là giải pháp duy nhất để khôi phục rừng trên
những vùng đất trống, đồi núi trọc, đất rừng đã bị thoái hoá. Trong đó việc lựa
chọn lồi cây trồng là một khâu quyết định đến khả năng phòng hộ của rừng.
Sau nhiều năm tiến hành nghiên cứu, tuyển chọn, danh sách gồm 34 lồi cây
trồng rừng phịng hộ đã được đề xuất.
Võ Đại Hải, Nguyễn Xuân Quát và Đào Công Khanh (1997) đã nghiên
cứu xác định chủng loại cây bản địa phục vụ cho trồng rừng phòng hộ ở một
số vùng trọng điểm. Trên cơ sở tiêu chuẩn cây bản địa đưa vào trồng rừng


18


phòng hộ là phải phù hợp với tiểu vùng sinh thái, có tác dụng phù trợ lẫn
nhau, điều tiết nguồn nước, chống xói mịn, sống lâu năm, tán lá dày, thường
xanh, bộ rễ phát triển sâu... các tác giả đã đưa ra mơ hình trồng rừng phịng hộ
dự tuyển cho 7 vùng sinh thái lâm nghiệp trên cả nước. Trong đó, vùng Tây
Bắc có 2 mơ hình là:
+ Thơng 3 lá + Táo mèo: 1 hàng (3 x 2m) + 1 hàng (3 x 2m)
+ Long não + Trẩu ta: Rạch 1 hàng (9 x 2m) + băng 2 hàng (3 x 2m)
Võ Đại Hải (2000) [16] trong khi nghiên cứu những giải pháp cho quản
lý và xây dựng rừng phòng hộ đầu nguồn ở Tây Nguyên đã đưa ra một số mơ
hình phục hồi rừng phịng hộ đầu nguồn khá thành cơng là các mơ hình tại
Kbang - Sơ Pai tiểu vùng Kon Hà Nừng; mơ hình trên quốc lộ 22 gần huyện
Kông - Plông miền Đông Kon Tum; Mơ hình ở Tỉnh Lộ 674 Phú Thiệu Kơng cho vùng Đơng Nam Pleiku; mơ hình gần quốc lộ 20 vùng hồ Thuỷ
Tiên - Đà Lạt. Đây đều là các đối tượng rừng sau khai thác kiệt và rừng phục
hồi sau nương rẫy. Sau khi áp dụng khoanh ni có trồng bổ sung các đối
tượng rừng trên đều phục hồi tốt.
Việc nghiên cứu và xác định cấu trúc hợp lý của rừng phòng hộ làm cơ
sở cho việc xây dựng các khu rừng phịng hộ có chất lượng cao cũng được
quan tâm. Năm 1996, Nguyễn Ngọc Lung và Võ Đại Hải đã cơng bố cơng trình
“Kết quả bước đầu nghiên cứu tác dụng phòng hộ nguồn nước của một số
thảm thực vật chính và các nguyên tắc xây dựng rừng phịng hộ nguồn nước”,
trong đó các tác giả đã đánh giá được năng lực phòng hộ của một số dạng cấu
trúc thảm thực vật rừng về mặt chống xói mịn và điều tiết nguồn nước. Cụ thể
lượng nước mưa bị tán rừng ngăn cản dao động từ 5,75 - 11,6% tùy thuộc vào
từng loại rừng; lượng nước tạo thành dòng chảy ngầm và các dạng khác từ
88,2% - 92,5% tổng lượng nước mưa; lượng nước tạo thành dòng chảy bề mặt
ở những nơi có rừng rất thấp, qua đó hạn chế khả năng hình thành lũ và lũ quét.


19


Các tác giả cũng đã thành công trong việc xây dựng phương pháp đo lượng
nước mưa lọt qua tán rừng. Theo đó thì phải dùng ít nhất 9 ống đo mưa bố trí
hệ thống trên diện tích 3600 m2 sẽ cho kết quả tin cậy với sai số luôn nhỏ hơn
10%. Một thành quả nữa được thể hiện rõ nét qua cơng trình nghiên cứu này là
việc xác định cấu trúc hợp lý của thảm thực vật rừng chống xói mòn đất. Hai
tác giả đã xây dựng được bảng tra hệ số thảm thực vật (hệ số C) tương ứng với
đặc điểm và cấu trúc của một số thảm rừng [24].
Theo Hoàng Liên Sơn và các cộng sự (2005) [25] cho biết Dự án 661
giai đoạn 1998 - 2004 đã xây dựng được khá nhiều mơ hình rừng trồng phịng
hộ đầu nguồn. Kết quả tổng hợp số liệu báo cáo của các tỉnh có trồng rừng
phịng hộ đầu có tới 188 mơ hình trồng rừng phịng hộ đầu nguồn. Căn cứ vào
các lồi cây trồng rừng phịng hộ đầu nguồn chia thành 4 nhóm chính là: Cây
bản địa trồng hỗn giao với nhau và cây bản địa hỗn giao với cây phù trợ; Các
lồi Thơng trồng thuần lồi và Thơng trồng hỗn giao với các loài cây khác;
Các loài Keo trồng thuần loài và Keo trồng hỗn giao với các loài cây khác;
Các loài Tre, luồng trồng thuần loài. Trong những năm gần đây, các mơ hình
này đang được phát triển rộng hơn ở nhiều tỉnh trên cả nước.
Tóm lại, có thể thấy rằng rừng phịng hộ, đặc biệt là rừng phòng hộ đầu
nguồn được quan tâm chú ý ở nhiều nước trên thế giới. Ở Việt Nam, việc
nghiên cứu xây dựng và phát triển rừng phòng hộ, rừng phòng hộ đầu nguồn
được Nhà nước đặc biệt quan tâm, rất nhiều các cơng trình nghiên cứu, các
Dự án quy hoạch vùng phòng hộ đầu nguồn được phê duyệt và triển khai. Các
văn bản pháp luật được ban hành đã tạo hành lang pháp lý quan trọng cho
việc xây dựng và phát triển rừng phòng hộ ở nước ta. Đánh giá các mơ hình
rừng trồng phịng hộ được một số tác giả quan tâm nhưng nói chung cịn ít
hoặc nếu có thì mới chỉ thực hiện trên diện rộng, thiếu những nghiên cứu cụ
thể cho từng vùng, đặc biệt ở Phú Thọ.



20

Chương 2
MỤC TIÊU, ĐỐI TƯỢNG, GIỚI HẠN, NỘI DUNG
VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Mục tiêu nghiên cứu
- Tổng kết và đánh giá được các mơ hình rừng trồng phịng hộ đầu
nguồn, các biện pháp kỹ thuật áp dụng trong dự án 661 tại tỉnh Phú Thọ.
- Phân tích được các khoảng trống, sự thiếu hụt trong hướng dẫn kỹ
thuật trồng rừng phòng hộ dự án 661 tại tỉnh Phú Thọ.
- Đề xuất được một số khuyến nghị về loài cây, mơ hình và biện pháp
kỹ thuật rừng trồng phịng hộ đầu nguồn có triển vọng tại tỉnh Phú Thọ.
2.2. Đối tượng và giới hạn địa bàn nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Các mơ hình rừng trồng phịng hộ tại tỉnh Phú
Thọ trong dự án 661 giai đoạn 1999 - 2010.
- Giới hạn địa bàn nghiên cứu: Các mơ hình đánh giá được giới hạn
trong 5 huyện (huyện Phù Ninh, huyện Yên Lập, huyện Cẩm khê, huyện
Thanh Sơn, huyện Thanh Ba) của tỉnh Phú Thọ.
2.3. Nội dung nghiên cứu
Để đạt được các mục tiêu nghiên cứu đề ra, luận văn tập trung vào các
nội dung nghiên cứu sau:
- Tổng kết các mơ hình và biện pháp kỹ thuật rừng trồng phòng hộ đầu
nguồn đã xây dựng trong dự án 661 tại tỉnh Phú Thọ.
- Đánh giá một số mơ hình rừng trồng phòng hộ đầu nguồn trong dự án
661 tại tỉnh Phú Thọ.
- Phân tích những ngun nhân thành cơng và những khoảng trống
trong xây dựng rừng phòng hộ đầu nguồn tại tỉnh Phú Thọ.
- Đề xuất một số khuyến nghị về lồi cây, kỹ thuật trồng rừng phịng hộ
đầu nguồn tại tỉnh Phú Thọ.



21

2.4. Phương pháp nghiên cứu
2.4.1. Quan điểm và cách tiếp cận trong nghiên cứu
Dự án 661 là một chủ trương lớn trong nỗ lực khôi phục và phát triển tài
nguyên rừng của Đảng và Nhà nước ta. Dự án được triển khai trên phạm vi quy
mơ tồn quốc và cho tới nay cũng đã có một số cơng trình nghiên cứu đánh giá
về các vấn đề có liên quan tới loài cây trồng, biện pháp kỹ thuật cũng như suất
đầu tư đối với các hoạt động trồng rừng sản xuất, rừng phòng hộ tại nhiều vùng
trên cả nước. Tới nay, dự án đã kết thúc vì vậy địi hỏi cần có những nghiên cứu
tổng hợp hơn, chi tiết hơn nhằm đánh giá được những thành công, thất bại của
dự án, đặc biệt là các mơ hình rừng trồng phịng hộ, loài cây và biện pháp kỹ
thuật đã áp dụng thành công nhằm đề xuất mở rộng.
Xuất phát từ những lý do đó, quan điểm của đề tài đưa ra trong q trình
thực hiện là kế thừa có chọn lọc những kết quả nghiên cứu, đánh giá đã được
thực hiện trong hơn 10 năm qua và trên cơ sở đó tiến hành điều tra, phân tích bổ
sung theo chiều sâu, rộng và chi tiết hơn đối với kết quả thực hiện trồng rừng
phòng hộ đầu nguồn trong dự án 661 thực hiện tại tỉnh Phú Thọ. Các mơ hình
rừng trồng đã xây dựng khá đa dạng nên trong quá trình đánh giá đề tài sẽ tiếp
cận theo mơ hình, lồi cây gắn với kỹ thuật. Sự thành công của các mô hình rừng
trồng phịng hộ dự án 661 khơng chỉ do các yếu tố kỹ thuật, do vậy tiếp cận hệ
thống sẽ được áp dụng để nghiên cứu trong đề tài, cụ thể là đánh giá cả yếu tố kỹ
thuật gắn với các chính sách.
Phương pháp tiếp cận của đề tài là theo hướng tổng hợp thông tin, số liệu
đa chiều từ nhiều nguồn khác nhau, từ những nghiên cứu tổng kết đánh giá kết
quả thực hiện trồng rừng phòng hộ đầu nguồn của dự án ở các cấp xã tới cấp
huyện và cuối cùng là cấp tỉnh. Phương hướng và cách giải quyết vấn đề của đề
tài được mơ hình hố theo sơ đồ hình 01.



22

Khảo sát khu vực,
lựa chọn đối tượng
điều tra

Thu thập các thơng
tin, số liệu đã có

Tổng kết các mơ hình và biện pháp
kỹ thuật rừng trồng phòng hộ đầu
nguồn trong dự án 661
tại tỉnh Phú Thọ

Đánh giá mơ hình
trồng rừng phịng
hộ đã xây dựng

Lồi
cây,

hình

Biện
pháp
kỹ
thuật

Phân tích ngun

nhân thành cơng,
tồn tại

Phân tích những
khoảng trống

Sinh
trưởng
của mơ
hình

Đề xuất giải pháp

Hình 01: Phương hướng giải quyết vấn đề của đề tài


23

2.4.2. Các phương pháp nghiên cứu cụ thể
2.4.2.1. Thu thập các thông tin, số liệu, kết quả nghiên cứu đã có
- Thu thập các văn bản hướng dẫn kỹ thuật, các quyết định, chỉ thị của
Chính phủ, Bộ Nơng nghiệp và Phát triển nông thôn, Tổng Cục Lâm nghiệp,
các thông tư hướng dẫn liên bộ và của Bộ Nông nghiệp và phát triển nông
thôn, liên quan đến kỹ thuật trồng rừng phịng hộ và chính sách trong Dự án
661; Các thơng tin chung về tình hình thực hiện, triển khai dự án và những
vấn đề có liên quan từ Ban quản lý dự án 661 Trung ương và các ban quản lý
dự án 661 cơ sở.
- Thu thập các báo cáo khoa học, các kết quả nghiên cứu về kỹ thuật
trồng rừng phòng hộ, các báo cáo tổng kết Dự án 661 giai đoạn 1999 - 2010
và các báo cáo hàng năm; Các mơ hình rừng trồng phịng hộ trong thời gian

qua trên địa bàn tỉnh.
- Thu thập các hướng dẫn kỹ thuật, cơ chế chính sách, lồi cây và các
mơ hình áp dụng trong Dự án 661 của tỉnh Phú Thọ. Các thơng tin, số liệu về
tình hình, tiến độ thực hiện dự án tại Ban quản lý Dự án 661 tỉnh, các Ban
quản lý dự án cơ sở.
2.4.2.2. Phương pháp khảo sát, đánh giá trên thực địa
Phương pháp đánh giá chung được áp dụng là lập ô tiêu chuẩn, kết hợp
với điều tra sơ thám và phỏng vấn cán bộ kỹ thuật, người dân tham gia trồng
rừng phòng hộ, những người tham gia quản lý, điều hành và thực hiện dự án
661 tại tỉnh Phú Thọ. Các bước của quá trình khảo sát, đánh giá như sau:
- Làm việc với lãnh đạo Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Chi
cục Lâm nghiệp, Ban quản lý Dự án 661 của tỉnh và các Ban quản lý Dự án
cơ sở trực thuộc để nắm được tình hình chung về việc triển khai thực hiện dự
án, các hướng dẫn kỹ thuật, các cơ chế chính sách và các mơ hình lâm sinh đã
áp dụng, các loài cây trồng rừng, biện pháp kỹ thuật (lập địa, xử lý thực bì,


×