Tải bản đầy đủ (.pdf) (80 trang)

Nghiên cứu đặc điểm cấu trúc và tính đa dạng loài thực vật của một số kiểu rừng tại khu bảo tồn thiên nhiên đakrông

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.03 MB, 80 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ
ĐÀO TẠO
BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT
-------------------------------------------

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LÂM NGHIỆP

LÊ VĂN HOÀI

NGHIÊN CỨU ĐẶC ĐIỂM CẤU TRÚC VÀ TÍNH ĐA DẠNG LỒI
THỰC VẬT CỦA MỘT SỐ KIỂU RỪNG TẠI KHU BẢO TỒN
THIÊN NHIÊN ĐAKRÔNG

Chuyên ngành: LÂM HỌC
Mã số: 60.62.60

TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC LÂM NGHIỆP

HÀ NỘI, 2011





1

ĐẶT VẤN ĐỀ
KBTTN Đakrơng là một địa điểm có tính chiến lược, quan trọng không
chỉ riêng của Huyện & Tỉnh mà còn của cả Quốc gia bởi các quần xã thực vật
rừng ở đây chủ yếu là rừng phòng hộ đầu nguồn, có tác dụng bảo vệ đất, điều
tiết nguồn nước, chống xói mịn đất, đặc biệt là để bảo vệ nguồn gene các loài


động thực vật..vv
Trong những năm qua cùng với công cuộc xây dựng và phát triển xã hội
của vùng, việc khai thác rừng bừa bãi, tập quán đốt nương làm rẫy, phương thức
sử dụng đất không hợp lý và săn bắt các loài động thực vật của cộng đồng dân
cư sống trong Khu BTTN Đakrông đã và đang làm cho HST rừng bị suy thối
nghiêm trọng. Chính điều đó đã gây ảnh hưởng xấu đến mơi trường và ảnh
hưởng trực tiếp đến đời sống cộng đồng người dân trong khu vực đó, đặc biệt là
sự suy thối nguồn gene các loài động thực vật..vv
Sự mất rừng sẽ làm suy giảm tính đa dạng sinh vật & suy giảm nguồn
nước, giảm hiệu lực phòng hộ trong mùa mưa, giảm khả năng cung cấp nước
tưới trong mùa khô. Sự mất rừng còn làm tăng nhiệt độ trong vùng, giảm năng
suất các quần xã và HST.
Hiện nay cũng đã có một số các cơng trình nghiên cứu về các lĩnh vực
như; quản lý bảo vệ và sử dụng các loại tài nguyên như TN động thực vật, TN
nước, TN đất v.v…, hiểu quả của QLBV rừng đặc dụng trọng bảo vệ và phát
triển lâm sản ngoài gỗ, trong phát triển KT-XH... tại khu vực Khu BTTN.Tuy
vậy, Nghiên cứu về kết cấu khơng gian và tính đa dạng lồi của một số quần xã
thực vật rừng tại khu vực này là hầu như chưa có.
Cho nên để bổ sung thêm các dự liệu cho khu vực và phần nào giải quyết
các tồn tại đã nêu trên, tôi chọn đề tài “Nghiên cứu đặc điểm cấu trúc và tính
đa dạng lồi thực vật của một số kiểu rừng tại Khu BTTN Đakrông ”.
Chương 1


2

TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Tinh hình nghiên cứu ở trên thế giới.
1.1.1. Nghiên cứu về phân loại quần xã thực vật rừng
(1) Khái niệm về kiểu rừng

“Kiểu rừng là một khu rừng hoặc là một tập hợp các mảnh rừng có đặc
điểm chung về điều kiện thực vật rừng (đất và khí hậu), thành phần lồi cây,
số tầng thứ, hệ động vật và có cùng yêu cầu các biện pháp kinh doanh như
nhau trong các điều kiện kinh tế xã hội giống nhau” V.N Sucasep, 1964.
(2). Khái niệm Kiểu thảm thực vật (kiểu rừng-vegetation type) là tập hợp
các cây cỏ lớn đem lại một hình dáng đặc biệt cho cảnh quan, bao gồm những
cây cỏ khác loài nhưng cùng chung một dạng sống ưu thế. Nó là những thực
thể sinh vật tồn tại khách quan và phổ biến trong tự nhiên. Định nghĩa này
được thông qua ở Hội nghi quốc tế thực vật học lần thứ VII tại Paris (1957).
(3) Tiến triển nghiên cứu về phân loại rừng
Vấn đề phân loại rừng là một ván đề còn rất nhiều tranh luận, đặc biệt là
đối với rừng nhiệt đới. Đối với Quốc gia và khu vực khác nhau sẽ có đối
tượng nghiên cứu khác nhau và phương pháp nghiên cứu đối với mỗi quần xã
cụ thể cũng không giống nhau, nguyên tắc và phương pháp phân loại QXTVR
cũng có sự sai khác tương đối lớn, thậm chí trở thành các học phái khác nhau
và có thể xuất hiện học phái rất quan trọng đặc sắc.
Các phương pháp phân loại quần xã hiện nay rất nhiều quan điểm
khác nhau và có thể phân thành hai hướng chính:
+ Thứ nhất là ở thời kỳ đầu có các nhà sinh thái học thực vật như ở Nga
có V.N Sucasep (1910,) nước Pháp có Braun – Blanquet (1913), Học giả
nước Mỹ F.E Clements (1916)… họ đã cho rằng quần xã là một đơn vị tự
nhiên, có sẵn biên giới rõ ràng và giữa các quần xã có vùng đêm, có thể phân
chia. Vì vậy, có thể dựa vào lồi cây giống nhau để tiến hành phân loại. Quan
điểm này được gọi là “Lý luận đơn vị quần hợp” (association unit theory).
(Ghi chú: Trong vùng đêm có hiện tượng hiệu ứng, nên số lồi sẽ nhiều hơn


3

so với các quần xã lân cận, nếu giống bên nào nhiều hơn thì thuộc về quần xã

đó).
+ Quan điểm thứ hai là quan điểm cá thể luận (individual theory), Họ cho
rằng quần xã có tính liên tục, khơng có biên giới rõ ràng, nó là một tổ hợp các
quần thể khác nhau, mà quần thể là độc lập. Họ cho rằng phân loại quần xã ở
thời kỳ đầu đều là lựa chọn các ƠTC điển hình có tính đại biểu cho quần xã,
nếu như khơng điển hình thì sẽ phát hiện đa số các quần xã là vùng đêm trung gian hay ở giai đoạn quá độ. Tình hình gián đoạn không liên tục gần
như phát sinh ở sinh cảnh khơng liên tục. Thí dụ như sự cải biến về điều kiện
địa hình, đá mẹ, thổ nhưỡng; sự can thiệp của con người; cháy rừng; sâu bệnh
động vật gây hại v.v…Cịn ở dưới điều kiện khác thì sinh cảnh và quần xã
đều liên tục. Ví thế họ cho rằng nên sử dụng phương pháp phân tích thang bậc
sinh cảnh, tức là theo thứ tự (ordination) để nghiên cứu sự biến đổi quần xã,
mà không nên sử dụng phương pháp phân loại. (Kiểu như vẽ bản đồ đất trên
thực địa).
Thực tế chứng minh, sự tồn tại của QXTVR có tính hai mặt: Một là có
tính liên tục, mặt khác là có tính gián đoạn- tính khơng liên tục,.Tuy nhiên
phương pháp nghiên cứu biến đổi dần theo thang bậc (tuần tự) thích hợp đối
với quần xã có tính liên tục; Cịn phân loại thì thích hợp đối với quần xã có
tính gián đoạn rõ ràng, nhưng nếu như kết quả của phương pháp tuần tự tạo
thành một số điểm tập trung thì cũng có thể đạt đến mục đích phân loại; Đồng
thời, nếu như phân loại trùng lặp, cũng có thể phản ảnh tính liên tục của quần
xã. Vì vậy 2 phương pháp của hai quan điểm trên gần giống nhau, đều có thể
phản ảnh tính liên tục và tính gián đoạn của quần xã, chỉ là nghiêng về 1 phía
nào đó, nếu như kết hợp sử dụng cả hai phương pháp trên thì hiệu quả sẽ càng
tốt hơn.
Cơng tác phân loại quần xã có thể phân chia theo điều kiện tự nhiên và
theo con người, Trong nghiên cứu sinh thái học thì phân loại theo điều kiện tự
nhiên, Trong hệ thống phân loại tự nhiên có nhiều học giả, họ phân loại trên


4


cơ sở khác nhau, có người lấy tổ thành khu hệ thực vật làm cơ sở phân loại,
có người lấy ngoại mạo sinh thái làm cơ sở, cũng có người dựa vào đặc trưng
động thái làm cơ sở, nhưng họ đều không không theo 1 hệ thông phân loại
nào cả, họ đều phải dựa vào đặc trưng của bản thân quần xã thực vật để làm
căn cứ phân loại, và họ cũng rất chú ý đến quan hệ sinh thái của quần xã, bởi
vì phân loại theo đặc trưng của bản thân đối tượng nghiên cứu so với các phân
loại khác nó càng có tính tự nhiên hơn.
Từ những năm 30 của thế kỷ 20 Ramenssky đã đề xuất khái niệm về thứ
tự sắp xếp và đã phát triển thành 1 loại phương pháp sắp xếp trật tự đơn giản.
Đến sau những năm 50 phương pháp này đã trở thành phương pháp sắp xếp
đa dạng phổ biến và phạm vi áp dụng rộng rãi hơn trong nghiên cứu thực bì,
như phương pháp bình qn gia quyền, phương pháp phân tích trực tiếp,
phương pháp bình quân tương hỗ v.v....
Theo Schmitthusen (1959), ở châu Âu có hệ thống phân loại thảm thực
vật chủ yếu là hệ thống phân loại các quần xã thực vật của Braun – Blanquet
(1928), được thực hiện chủ yếu bởi các nhà thực vật học theo trường phái của
Pháp và hệ thống phân loại các quần thể thực vật được thực hiện bởi những
nhà địa thực vật của Đức (ghi theo Nguyễn Nghĩa Thìn, 2004) [ 26 ]
Ở Phần Lan, Caiande A.K. chủ trương phân loại rừng dựa vào thực vật
thảm tươi. Ông cho rằng, trong lâm phần thành thục, tổ thành thảm tươi
không chỉ phụ thuộc vào hồn cảnh sinh thái mơi trường mà cịn phụ thuộc
vào cả tổ thành loài cây gỗ của lâm phần. Theo đó, thảm tươi là chỉ tiêu tốt
nhất để xem xét tính đồng nhất sinh học của mơi trường, kể cả tính đồng nhất
về hiệu quả của thực vật rừng. Tuy thế, điều này đã khơng hồn tồn đúng vì
thực tế thảm tươi có khả năng chỉ thị nhưng khơng có khả năng chỉ thị cho tất
cả các điều kịên lập địa. Ngoài ra các yếu tố bên ngoài như: lửa rừng, khai
thác… cũng ảnh hưởng lên thảm tươi (ghi theo Nguyễn Nghĩa Thìn, 2004)
[12 ]
Ở Hoa Kỳ, phân loại rừng chủ yếu theo học thuyết cực đỉnh (Climax) của



5

Colleman. Phân loại theo Climax tạo cho quần xã thực vật ổn định trong quá
trình phát triển lâu dài trên những vùng lãnh thổ rộng lớn với đất đai đã được
hình thành từ lâu. Khí hậu là nhân tố để xác định Climax. Ngoài khái niệm
Climax, các nhà lâm học Hoa kỳ còn đưa ra khái nịêm tiền đỉnh cực (á đỉnh
cực), đơn đỉnh cực, đa đỉnh cực (ghi theo Nguyễn Nghĩa Thìn, 2004) [ 29 ]
Ở vùng nhiệt đới, theo Thái Văn Trừng (1978), có lẽ Schimper (1918) là
người đầu tiên đưa ra hệ thống phân loại thảm thực vật rừng nhiệt đới (ghi
theo Thái Văn Trừng 1978) [ 14 ]. Trong hệ thống này Schimper đã phân chia
thảm thực vật thành quần hệ khí hậu, quần hệ thổ nhưỡng và quần hệ vùng
núi. Trong quần hệ khí hậu lại được phân chia thành 4 kiểu: Rừng thưa, rừng
gió mùa, rừng trảng, rừng gai; ngồi ra cịn có them 2 kiểu là: Thảo nguyên
nhiệt đới và hoang mạc nhiệt đới.
Rubel, Ilinski, Burt, Aubréville...chỉ căn cứ vào độ tán che trên mặt đất
của tầng ưu thế sinh thái để phân biệt các kiểu quần thể thưa thành: Rừng thưa
và trảng chuông (ghi theo Thái Văn Trừng 1978) [15 ]
Schmithusen (1959), thảm thực vật trái đất được chia thành 9 lớp quần hệ
là: Lớp quần hệ rừng, lớp quần hệ cây bụi, lớp quần hệ sa- van và đồng cỏ,
lớp quần hệ đồng cỏ và nửa cây bụi, lớp quần hệ thực vật sống 1 năm, lớp
quần hệ hoang mạc, lớp quần hệ thực vật hồ nước nội địa và lớp quần hệ thực
vật biển (ghi theo Thái Văn Trừng 1978) [ 15 ]
Gần đây, các nhà sinh thái và địa thực vật Đức đã phân chia thảm thực vật
thành 16 kiểu quần hệ: Rừng mưa nhiệt đới, rừng mưa Á nhiệt đới, rừng mưa
lạnh ôn đới, rừng xanh mưa mùa, rừng lá rộng xanh mùa hè, rừng lá kim rộng
ôn đới, kiểu quần hệ cây gỗ có gai, kiểu cây gỗ có lá rộng, kiểu thảo nguyên
rừng, kiểu trảng cỏ nhiệt đới, kiểu thảo nguyên ôn đới, kiểu đầm lầy, kiểu
hoang mạc nóng và kiểu hoang mạc khơ lạnh (ghi theo Thái Văn Trừng 1978)

[2]
UNESCO (1973) đã công bố một khung phân loại thảm thực vật thế giới
dựa trên nguyên tắc ngoại mạo cấu trúc và được thể hiện trên bản đồ 1:


6

2.000.000. Đây là khung phân loại hiện nay được sử dụng phổ biến phục vụ
cho công tác bảo tồn trên toàn thế giới và đã được Phan Kế Lộc (1985),
Nguyễn Nghĩa Thìn (1997, 2004, 2005) áp dụng (ghi theo Nguyễn Nghĩa
Thìn, 2005)
Năm 1980 Hill và Gauch đã đề xuất phương phá phân tích đối ứng xu thế
(Detrended Correspondence Analysis, DCA), đây là do phương pháp bình
quân tương hỗ (reciprocal averaging, RA) chỉnh sửa mà thành. Có thể dùng
DCA để phân tích hơi qui, kết hợp ứng dụng phương pháp phân tích tương
quan, đồng thời nó là phương pháp thơng dụng hơn làm cho phương pháp
DCA được áp dụng nhiều hơn trong nghiên cứu sinh thái rừng. Phương pháp
phân loại theo số lượng thực bì là 1 loại phương pháp phân loại được ứng
dụng trong phạm vi rộng, Bao gồm phương pháp phân tích mối quan hệ và
phân tích thơng tin. Sự phát triển của nó cùng với sự phát triển của máy vi
tính, phương pháp phân tích đa nguyên, phương pháp cá thể gần nhất, phương
pháp hình trịn, phương pháp tổ bình qn v.v...Trong đó họ cho rằng phương
pháp tổ bình quân được coi là phương pháp mãn nguyện nhất.
Năm 1975 Hill và các tác giả khác đã phân tích một số loại chỉ tiêu và
hình thành phương pháp phân tích chỉ thị hai chiều gọi là phương pháp
TWINSPAN, nó là cơ sở lý luận để phân loại thực vật. Kết quả phân loại cho
thấy phù hợp với qui luật phân bố tự nhiên của thực bì rừng, đồng thời nó có
trình tự thơng dụng của quốc tế. Vì vậy mà nó đã trở thành phương pháp phân
tích đa ngun thông dụng nhất hiện nay. Những năm gần đây vừa xuất hiện 1
số phương pháp phân loại mới, Nhưng phương pháp TWINSPAN vẫn gữi

được địa vị chính trong phân loại thực bì.
1.1.2. Về hệ thực vật.
Việc nghiên cứu các hệ thực vật trên thế giới đã có từ lâu, tuy nhiên những
cơng trình nghiên cứu có giá trị lại chủ yếu xuất hiện vào thế kỷ XIX – XX
như: Thực vật trí HongKong (1861), Thực vật chí Australia (1866), Thực vật
trí rừng Tây Bắc và trung tâm Ấn độ (1874), Thực vật trí Ấn độ 7 tập (1872 –


7

1897), Thực vật trí Miến Điện (1877), Thực vật trí Malaysia (1892 – 1925),
Thực vật trí Hải Nam (1972 – 1977), Thực vật trí Vân Nam (1977) ..
Ở Nga, từ 1928 đến 1932 được xem là thời kỳ mở đầu cho thời kỳ nghiên
cứu hệ thực vật cụ thể. Tolmachop A.I cho rằng “ Chỉ cần điều tra trên một
diện tích đủ lớn để có thể bao chùm được sự phong phú của nơi sống nhưng
khơng có sự phân hố mặt địa lý”. Ơng gọi đó là hệ thực vật cụ thể.
Tolmachop đã đưa ra một nhận định là số loài của một hệ thực vật cụ thể ở
vùng nhiệt đới ẩm thường là 1500 – 2000 loài.
Các nhà sinh vật học Nga tập chung các nghiên cứu vào việc xác định
diện tích biểu hiện tối thiểu để có thể kiểm kê được đầy đủ nhất số loài của
từng hệ thực vật cụ thể. Việc xác định diện tích biểu hiện gồm các giai đoạn
sau:
1. Kiểm kê số loài trên diện tích hạn chế nhất định.
2. Mở rộng dần ra vùng đồng nhất và điều kiện địa lý tự nhiên để thấy
mức độ tăng số lượng loài.
3. Khi số loài tăng khơng đáng kể thì xác định đó là diện tích biểu hiện tối
thiểu.
1.1.3. Tiến triển nghiên cứu về cấu trúc rừng
* Về cấu trúc tổ thành tầng cây cao
Sự phong phú của hệ thực vật rừng mưa nhiệt đới được nhiều nhà khoa

học ghi nhận. Theo Schimper (1935) ở rừng Bắc Mỹ, trên diện tích 0,5 ha có đến
25 ÷ 30 loài cây gỗ lớn; Brown (1941) cũng cho biết ở rừng mưa châu Âu hoặc
Bắc Mỹ trong trường hợp cực đoan, rừng có thể bao gồm 20 ÷ 25 loài cây gỗ.
Theo Richards P.W (1952) trong rừng mưa nhiệt đới trong mỗi hecta
khơng có mấy khi ít hơn 40 lồi cây gỗ lớn, mà có trường hợp cịn đến trên 100
loài. Nhiều loài cây gỗ lớn sinh trưởng hỗn hợp với nhau theo tỷ lệ khá bằng
nhau, nhưng cũng có khi chỉ có một hoặc hai lồi chiếm ưu thế.
Ở châu Á, trong rừng thứ sinh nhiệt đới vùng Shanxin - Trung Quốc,
Zeng và cộng sự (1998) đã thống kê khoảng 280 loài cây dược liệu, 80 loài


8

cây có dầu và 20 lồi cây có sợi cũng như một số lồi cây gỗ có giá trị khác
(dẫn theo Zaizhi Z).
* Nghiên cứu về tổ thành lớp cây tái sinh rừng
Theo quan điểm của các nhà lâm học, hiệu quả của tái sinh rừng được
xác định bởi mật độ, tổ thành loài cây, chất lượng cây con, đặc điểm phân bố.
Vai trò của tái sinh rừng hết sức quan trọng, nó quyết định sự tồn tại của thảm
thực vật, tái sinh rừng là tiền đề cho quá trình diễn thế rừng đảm bảo rừng
luôn trong kiểu vận động. Do vậy có thể nói những nghiên cứu về tái sinh
rừng đã góp phần làm sáng tỏ các quy luật tồn tại và phát triển của rừng cả
trong quá khứ, hiện tại và tương lai.
Quá trình tái sinh tự nhiên ở rừng nhiệt đới vơ cùng phức tạp và cịn ít
được nghiên cứu. Phần lớn tài liệu nghiên cứu về tái sinh tự nhiên của rừng mưa
thường chỉ tập trung vào một số lồi cây có giá trị kinh tế dưới điều kiện rừng đã
ít nhiều bị biến đổi. Van steenis (1956) đã nghiên cứu hai đặc điểm tái sinh phổ
biến của rừng mưa nhiệt đới là tái sinh phân tán liên tục của các lồi cây chịu
bóng và tái sinh vệt của các loài cây ưa sáng.
Trong nghiên cứu tái sinh rừng, người ta nhận thấy tầng cây và tầng cây

bụi qua quá trình sinh trưởng, thu nhận ánh sáng, các chất dinh dưỡng sẽ ảnh
hưởng đến cây tái sinh. Những lâm phần thưa bị khai thác nhiều, tạo ra nhiều
khoảng trống lớn, tạo điều kiện cho cây bụi, thảm tươi phát triển mạnh. Trong
điều kiện đó chúng là nhân tố cản trở sự phát triển và khả năng sinh tồn của
các cây tái sinh. Nếu lâm phần kín, đất khô, nghèo dinh dưỡng cây bụi thảm
tươi phát triển chậm tạo điều kiện cho cây tái sinh vươn lên (Xannikow 1967;
Vipper 1973) ( dẫn theo Nguyễn Văn Thêm (1992) ) (3).
Về phương pháp điều tra tái sinh tự nhiên, nhiều tác giả đã sử dụng
cách lấy mẫu ô vuông theo hệ thống của Lowdermilk (1927), với diện tích ơ
đo đếm thơng thường từ 1 đến 4 m2. Diện tích ô đo đếm nhỏ nên thuận lợi
trong điều tra nhưng số lượng ô phải đủ lớn mới phản ánh trung thực tình hình
tái sinh rừng. Để giảm sai số trong khi thống kê tái sinh tự nhiên, Barnard


9

(1950) đã đề nghị một phương pháp "điều tra chẩn đốn" mà theo đó kích
thước ơ đo đếm có thể thay đổi tuỳ theo giai đoạn phát triển của cây tái sinh ở
các kiểu rừng khác nhau (7).
1.1.4. Nghiên cứu về tính đa dạng lồi trong các qxtv rừng
Lồi là do cơ thể sinh vật tiến hóa mà thành, do nó chiếm được 1 khơng
gian nhất định, quần thể lồi có sẵn số lượng cá thể nhất định trong thực tế hoặc
bị thay đổi khi cách ly.
Tính đa dạng lồi là hình thức biểu hiện của tính đa dạng sinh vật chung,
nó là độ lượng về tính phức tạp của cấu trúc và chức năng quần xã, no bao gồm
có mấy hàm ý như sau:
Tính đa dạng lồi của 1 khu vực địa lý nhất định là tính đa dạng lồi
nghiên cứu trong phạm vi khu vực đó; Là tổng số lồi trong khu vực, chủ yếu
theo góc độ phân loại học, hệ thống học và địa lý học đối với việc nghiên cứu
tình hình lồi động, thực vật trong 1 khu vực. Cũng cịn được gọi là tính đa dạng

lồi khu vực.
Tính đa dạng lồi động thực vật của quần xã - Là nghiên cứu cấu trúc theo
chiều nằm ngang – theo góc độ sinh thái học; Ở đây chú trọng ý nghĩa sinh thái
học của tính đa dạng lồi; Là chỉ trình độ đồng đều về sự phân bố các loài trên
phương diện sinh thái học. Thường được nghiên cứu trên một bộ phận diện tích
của quần xã hoặc trên các OTC, ODB...Tính đa dạng lồi cũng cịn được gọi là
tính đa dạng sinh thái hoặc tính đa dạng quần xã.
Từ năm 1943, Wilianms đã đề xuất khái niệm về “Tính đa dạng lồi
vật“ và Fisher đề xuất khái niệm về chỉ số tính đa dạng lồi, cho đến nay cũng đã
khơng ngừng được hồn thiện thêm về phương pháp xác định tính đa dạng lồi
của quần xã. Đối với phương pháp xác định khơng chỉ có phương pháp
Magurran – được đánh giá là tương đối tỷ mỉ và chính xác, mà cịn có phương
pháp của Whitaker - Xác định tính đa dạng lồi của quần xã hoặc tính đa dạng
HST,; Theo ơng ta thì nên phân ra tính đa dạng α-, tính đa dạng β- , tính đa dạng
γ và các chỉ số của nó.


10

Tính đa dạng lồi của 1 hệ tiến hóa hoặc của 1 khơng gian tiến hóa nhất
định, từ góc độ diễn hóa của sinh vật để xem xét thì qui luật biến hóa về tính đa
dạng lồi cũng tùy theo thời gian và khơng gian khác nhau mà có sự biến hóa
khơng giống nhau, khơng chỉ bản thân lồi vật, mà cịn có cả nguồn gốc, sự phát
triển, q trình thối hóa và tiêu vong....chính là qui luật diễn hóa của một chỉnh
thể tính đa dạng lồi vật và nó cũng có đặc thù riêng.
Xác định các chỉ số tính đa dạng lồi sinh vật cũng tùy theo tính chất mà
có thể phân thành 4 loại chỉ số sau:
Chỉ số độ phong phú lồi,
Chỉ số tính đa dạng lồi,
Chỉ số độ đồng đều

Chỉ số độ phong phú loài chủ yếu là xác định mức độ phong phú về loài
sinh vật được biển hiện về mặt số lượng loài vật trong một phạm vi khơng gian
nhất định. Thường sử dung có các chỉ số như: Chỉ số Patrick, Chỉ số Margalef và
Chỉ số Menhinick.
Chỉ số tính đa dạng lồi sẽ là hàm số của sự kết hợp giữa độ nhiều loài và
độ phong phú lồi sinh vật mà thành. Trong đó thường sử dụng Chỉ số ShannonWeinerr, Chỉ số Simpson và chỉ số Pielou.
Chỉ số độ đồng đều loài là sự kết hợp giữa độ phong phú và độ đồng đều
mà thành một lượng thơng kê đơn nhất. Số lồi trong quần xã nghiên cứu và
tổng số cá thể, khi số lượng cá thể bình qn của các lồi, quần xã có sẵn tính đa
dạng cao nhất – cực đại. Chỉ số độ đồng đều thường được dùng là: Chỉ số Hurlrrt,
chỉ số pielou E1, chỉ số Sheldon E2, chỏ số Heip E3, chỉ số Hill E4 và chỉ số Hill
E5) . Trong đó có chỉ số Pielous và chỉ số Âlatalo là ứng dụng có hiệu quả tương
đối tốt (theo Alatalo). Chỉ số độ ưu thế sinh thái là do ứng dụng kết hợp với chỉ
số khác mà thành, có người sử dụng bằng cách so sánh tương đối.
Hiện nay vấn đề ĐDSH và bảo tồn ĐDSH đã trở thành một chiến lược
tồn cầu, có nhiều tổ chức ra đời để giúp đỡ, hướng dẫn và tổ chức đánh giá, bảo
tồn, phát triển đa dạng sinh học trên phạm vi toàn thế giới: Hiệp hội tổ chức


11

Quốc tế bảo vệ thiên nhiên (IUCN), chương trình mơi trường liên hợp quốc
(UNEP), Quỹ bảo tồn và bảo vệ thiên nhiên (WWF)…Nhu cầu cơ bản và sự
sống còn của chúng ta phụ thuộc vào tài nguyên của trái đất, nếu nguồn tài
ngun đó giảm sút thì cuộc sống của nhân loại sẽ bị đe doạ. Để tránh hiểm họa
đó chúng ta phải tôn trọng tài nguyên của trái đất, mọi sự phát triển đều phải
theo hướng phát triển bền vững. Theo hội nghị thưởng đỉnh bàn về vấn đề môi
trường và đa dạng sinh học tổ chức tại Rio de Janerio (Brazil - 1992), 150 nước
đã ký công ước về đa dạng và bảo vệ chúng. Năm 1990 WWF đã xuất bản quấn
sách nói về tầm quan trọng của ĐDSH, IUCN, UNEP và WWF đưa ra chiến

lược bảo tồn thế giới…tất cả các quấn sách đó đều nhằm hướng dẫn và đề ra các
phương pháp bảo tồn ĐDSH, làm nền tảng cho công tác bảo tồn và nền tảng
trong tương lai (dẫn theo Nguyễn Nghĩa Thìn).
Ở vùng nhiệt đới, có lẽ Schimper (1918) là người đầu tiên đưa ra hệ thống
phân loại thảm thực vật rừng nhiệt đới. Trong hệ thống này Schimper đã phân
chia thảm thực vật thành quần hệ khí hậu, quần hệ thổ nhưỡng và quần hệ
vùng núi. Trong quần hệ khí hậu lại được phân chia thành 4 kiểu: Rừng thưa,
rừng gió mùa, rừng trảng, rừng gai; ngồi ra cịn có thêm 2 kiểu là: Thảo
nguyên nhiệt đới và hoang mạc nhiệt đới (theo Thái Văn Trừng).
Rubel, Ilinski, Burt, Aubreville...chỉ căn cứ vào độ tán che trên mặt đất
của tầng ưu thế sinh thái để phân biệt các kiểu quần thể thưa thành: Rừng thưa
và trảng chuông (dẫn theo Thái Văn Trừng 1978).
Theo WWF(1989), đã định nghĩa về ĐDSH: “Đa dạng sinh học là sự phồn
thịnh của sự sống trên Trái đất, là hàng triệu loài thực vật, động vật và vi sinh vật,
là những gen chứa đựng trong các loài và là những hệ sinh thái vô cùng phức tạp
cùng tồn tại trong môi trường”。
Việc nghiên cứu các hệ thực vật và thảm thực vật trên thế giới với nhiều bộ
thực vật chí của các nước đã hồn thành, những cơng trình nghiên cứu có giá trị
xuất hiện vào đầu thế kỷ XIX - XX như: Thực vật chí Hồng Kơng (1981); Thực


12

vật chí Australia (1866); Thực vật chí Ấn Độ (1872-1897); Thực vật chí Miễn
Điện (1877); Thực vật chí Malayxia (1892-1925)... Đây là những đóng góp quan
trọng để đánh giá tính đa dạng sinh học của hệ thực vật trên thế giới.
Bên cạnh đó có nhiều cơng trình khoa học khác nhau ra đời và hàng ngàn
cuộc hội thảo được tổ chức nhằm thảo luận về quan điểm, phương pháp luận và
thông báo các kết quả đã đạt được ở khắp nơi trên tồn thế giới.
1.2. Tình hình nghiên cứu ở Việt Nam.

1.2.1. Nghiên cứu về phân loại rừng
Vấn đề phân loại rừng Việt Nam từ những năm đầu của thế kỷ 20 đã được
nhiều tác giả Việt Nam và nước ngồi nghiên cứu (A.Chevalie, 1918; P.Maurand,
1943, 1953; B. Rơlét, Lý Văn Hội và Neang Sam Oil, 1952; Dương Hàm My
(Trung Quốc) 1956; J. Vidal, 1958; B. Rôlét, 1960; Thái Văn Trừng, 1960, 1963,
1964, 1970; M. Schmid, 1962; Trần Ngũ Phương, 1970,...). Trong các hệ thống
phân loại nói trên, hệ thống Thái Văn Trừng đang được chú ý vì những nguyên
tắc, đơn vị và tiêu chuẩn phân loại được nêu lên với những căn cứ rõ ràng, khoa
học và được thừa nhận rộng rãi.
* Phương pháp phân loại rừng tự nhiên hỗn giao của Thái Văn Trừng
[1970,1978]
Căn cứ vào những tiêu chuẩn phân loại thảm thực vật rừng của
GS.TSKH.Thái Văn Trừng (1978) ⌠14⌡ để phân chia kiểu rừng tự nhiên hỗn
giao tại khu vực nghiên cứu:
a- Đơn vị phân loại: Dựa theo phương pháp của Thái Văn Trừng, tức là
dùng “Thảm thực vật’’ làm đơn vị phân loại. Kiểu thảm thực vật (kiểu rừng) là
tập hợp các cây cỏ lớn đem lại một hình dáng đặc biệt cho cảnh quan bao gồm
những cây cỏ khác loài nhưng cùng chung một dạng sống ưu thế. Nó là
những thực thể sinh vật tồn tại khách quan và phổ biến trong tự nhiên .
Trong một kiểu thảm thực vật, do tổ thành loài cây khác nhau sẽ xuất hiện
các Phức hợp (xã hợp) thực vật khác nhau.


13

Tuỳ theo mức độ ưu thế của các loài trong quần xá mà hình thành nên
quần hợp thực vật; ưu hợp thực vật và phức hợp thực vật.
Tại các vùng nhiệt đới khác, ở rừng hỗn giao tự nhiên không thấy xuất
hiện quần hợp và ưu hợp thực vật, mà chỉ thấy xuất hiện các phức hợp thực
vật khác nhau, tức là lồi ưu thế khơng rõ rệt.

b) Căn cứ phân loại:
- Dựa vào 5 nhóm nhân tố sinh thái phát sinh thảm thực vật rừng
- Dựa vào 4 tiêu chuẩn là:Dạng sống, độ tàn che, hình thái lá & trạng mùa
- Dựa vào các đặc trưng QXTVR để tiến hành phân loại thực bì rừng:
1- Tổ thành lồi thực vật của QXTVR.
2- Ngoại mạo và cấu trúc của QXTVR.
3- Đặc trưng địa lý sinh thái.
4- Đặc trưng động thái diễn thế của QXTVR ...
.

Giữa các đặc trưng này có liên hệ mật thiết và có quan hệ tương quan với

các đặc trưng mơi trường của quần xã. Vì vậy, nguyên tắc lấy đặc trưng tổng
hợp của QXTV làm cơ sở, đồng thời đã chú ý đến quan hệ sinh thái của quần
xã để tiến hành phân loại họp lý.
Căn cứ vào nguyên tắc trên để phân loại QXTVR thành hệ thống 3 cấp vị
sau:
Cấp 1 - Cấp cao: Kiểu thảm thực bì rừng - Kiểu rừng (Vegetation).
Cấp 2 - Cấp trung: Kiểu phụ rừng (Subvegetation).
Cấp 3 - Cấp cơ bản: Phức hợp (hay xã hợp) - Association).
1. Kiểu rừng- Là đơn vị phân loại cấp cao trong hệ thống phân loại của
Thái Văn Trừng: Là liên hợp những quần xã thực vật có dạng sống của nhóm
lồi lập quần (hay nhóm lồi ưu thế) giống nhau, mà chúng có quan hệ sinh
thái thống nhất với điều kiện nhiệt ẩm, như “Rừng kín lá rộng thường xanh
mưa mùa nhiệt đới núi tháp”, “Rừng kín lá rộng rụng lá mưa mùa nhiệt đới
núi trung bình”. Kiểu rừng có kết cấu, tính chất sinh thái và có q trình phát
sinh và phát triển giống nhau. Do đó mà nó có sẵn quá trinh trao đổi năng


14


lượng và vật chất giống nhau.
2. Kiểu phụ (vegetation Subtype): Là đơn vị Cấp trung: Là trong kiểu rừng
có sự khác nhau về kết cấu tầng phiến ưu thế hoặc tầng phiến chỉ thị, Sự khác
nhau về tổ thành loài cây ưu thế, nó là do sự khác nhau về đá mẹ thổ
nhưỡng, địa hình, về mức độ tác động... dẫn đến hình thành các kiểu phụ, như
kiểu phụ thổ nhưỡng hoặc kiểu phụ nhân tác....
Nhưng nếu căn cứ vào kết cấu quần xã thì có thể thấy rừng ở khu vực
này là Rừng hỗn giao nhiều loài cây, tổ thành lồi tương đối phức tạp, lồi ưu
thế khơng rõ ràng, tức là còn tồn tại các xã hợp hay phức hợp trong các kiểu
phụ. Cho nên chúng tôi thấy cần thiết phải phân chia thêm các cấp vị phân
loại nhỏ hơn để tiện cho việc bảo tồn – Đó là các phức hợp.
3- Phức hợp hay xã hợp - Cấp thấp, là đơn vị cơ bản của hệ thống phân loại
rừng. Là trong mỗi kiểu phụ có sự khác nhau về nhóm lồi cây ưu thế.
1.2.2. Nghiên cứu về cấu trúc rừng
1.2.2.1. Cấu trúc tổ thành tầng cây cao
Nghiên cứu cấu trúc rừng tự nhiên ở Việt Nam trên quan điểm hệ sinh thái,
Thái Văn Trừng (1963, 1978, 1999)⌠14⌡ đã dựa trên số lượng và sinh khối
nhóm lồi ưu thế trong rừng nhiệt đới ẩm Việt Nam để phân tích các “ưu hợp”
và “phức hợp”. Nhóm lồi ưu thế trong các ưu hợp đề nghị khơng q 10 lồi, tỷ
lệ cá thể của mỗi loài ưu thế chiếm 5 % và tổng số cá thể của 10 loài ưu thế đó
phải chiếm 40 ÷ 50 % tổng số cá thể cây của các tầng lập quần trong quần thể
trên đơn vị diện tích điều tra. Trường hợp độ ưu thế của các lồi cây khơng rõ
ràng gọi là các phức hợp (9).
Trong rừng tự nhiên hỗn loài ở Việt Nam, hiếm khi chỉ có một lồi ưu thế
duy nhất tạo thành các quần hợp như vùng ôn đới. Theo Nguyễn Hồng Quân
(1982), trong rừng loại IVB ở Kon Hà Nừng, trên diện tích một ha có khoảng 60
lồi, nhưng các lồi có tổ thành lớn nhất cũng khơng vượt quá 10%. Nguyễn Văn
Tương (1983), cho rằng trong rừng tự nhiên hỗn lồi, chỉ tính lồi cây gỗ từ kiểu
sào trở lên cũng có đến ba bốn chục lồi trên một ha, nhưng trong đó lồi cây gỗ



15

lớn có thể vươn đến chiều cao 30 m chỉ từ 10÷20 %. Nguyễn Ngọc Lung (1991),
qua điều tra các dạng rừng khí hậu ở Hương Sơn, Kon Hà Nừng và một số địa
phương khác, cũng cho biết trên ô tiêu chuẩn diện tích một ha thường có từ 23÷
25 loài, với số cây thấp nhất cũng đạt 317 cây và cao nhất đến 859 cây trên một
ha.
1.2.2.2. Về cấu trúc tổ thành cây tái sinh rừng
Thái Văn Trừng (1963, 1978) đã nêu hai cách TSTN của các xã hợp thực vật
rừng nhiệt đới nguyên sinh hay thứ sinh là tái sinh liên tục dưới tán kín rậm của
những lồi chịu bóng và tái sinh theo vệt để hàn gắn các lỗ trống đầu tiên với các
loài cây tiên phong. Qua đó tác giả cũng khẳng định ánh sáng là nhân tố sinh thái
đã khống chế và điều khiển quá trình TSTN.
Về ảnh hưởng của nhân tố ánh sáng đến quá trình tái sinh, theo Nguyễn
Hồng Quân (1984) do những cây có đường kính 12 ÷ 30 cm với chiều cao
khoảng 11 ÷ 20 m, tạo nên tầng tán chính của rừng, tầng này không bị tác động
qua khai thác, gây nên sự ứ đọng tán, không cho ánh sáng lọt xuống gây ảnh
hưởng đến tái sinh của loài cây ưa sáng.
Theo Vũ Tiến Hinh (1991) trong rừng tự nhiên thứ sinh hỗn loài khác tuổi ở
lâm trường Hoành Bồ - Quảng Ninh, cây rừng tái sinh liên tục và càng ở tuổi
nhỏ số cây càng nhiều; hệ số tổ thành của tầng tái sinh và tầng cây cao có mối
liên hệ chặt chẽ. Vũ Văn Nhâm (1992) qua nghiên cứu tái sinh rừng tự nhiên ở
vùng Đông Bắc thấy rằng trên các lâm phần có diễn thế rừng ổn định, hệ số tổ
thành tầng cây cao và tầng cây tái sinh thống nhất, cịn ở lâm phần có diễn thế
khơng ổn định thì có sự sai khác rõ rệt.
Nguyễn Vạn Thường (1991) đã tổng kết và đưa ra kết luận về tình hình tái
sinh tự nhiên ở một số khu rừng miền Bắc Việt Nam như sau: Hiện tượng tái
sinh dưới tán rừng của những loài cây gỗ đã tiếp diễn liên tục, khơng mang tính

chu kỳ. Sự phân bố cây tái sinh rất không đồng đều, số cây mạ chiếm ưu thế rõ
rệt so với số cây ở cấp tuổi khác.


16

Trần Ngũ Phương (1970) khi nghiên cứu về kiểu rừng nhiệt đới mưa mùa
lá rộng thường xanh đã có nhận xét: “Rừng tự nhiên dưới tác động của con
người khai thác hoặc làm nương rẫy, lặp đi lặp lại nhiều lần thì kết quả cuối
cùng là sự hình thành đất trống, đồi núi trọc. Nếu chúng ta để thảm thực vật
hoang dã tự nó phát triển lại thì sau một thời gian dài trảng cây bụi, trảng cỏ
sẽ chuyển dần lên những dạng thực bì cao hơn thơng qua q trình tái sinh tự
nhiên và cuối cùng rừng khí hậu sẽ có thể phục hồi dưới dạng gần giống rừng
khí hậu ban đầu”.
1.2.2.3. Về tính đa dạng thực vật rừng
1. Về thảm thực vật.
Thảm thực vật (Vegetation) là lớp phủ trên toàn bộ bề mặt trái đất (mặt đất,
trong nước) hay một điểm cụ thể nào đó với nhiều quần thể khác nhau. Mỗi
quần thể thực vật có hình dạng, cấu trúc, thành phần, ranh giới, trạng mùa,
động thái, vùng phân bố,…khác nhau. Thảm thực vật thường được chia thành
các kiểu chính và kiểu phụ thảm thực vật.
Thảm thực vật rừng hay lớp phủ cây cỏ trên mặt đất, gồm các quần thể
thực vật than gỗ. Chẳng những cung cấp lâm sản phục vụ đời sống con người
mà còn là hiện tượng tự nhiên trong Thiên Nhiên, có tác dụng bảo vệ môi
trường sinh thái, hạn chế tác hại của thiên tai như hạn hán, lũ lụt, bão, lốc...[ ]
Từ lâu người ta đã biết phân biệt loài cây, loài cỏ này với loài cây, loài
cỏ khác, nhận thức được khu hệ thực vật gồm các loài cây, cỏ phân bố ở một
địa phương và sắp xếp chúng trong một hệ thống phân loại tự nhiên, khái
niệm Thảm thực bì hay thảm thực vật bao gồm các quần thể thực vật ...[ ]
.2. Về đa dạng sinh học.

Đối với Việt Nam nói riêng và các nước trên thế giới nói chung, vấn đề
nghiên cứu bảo tồn đa dạng sinh học đang được quan tâm hàng đầu. Trước
đây, những quan niện về đa dạng sinh học cũng có những điểm chưa thống
nhất, chưa đầy đủ hoặc chưa rõ rang.
Trong chương trình hành động đa dạng sinh học Việt Nam cũng nêu ra


17

một khái niệm về đa dạng sinh học “Là tập hợp tất cả các nguồn sinh vật sống
trên hành tinh bao gồm tổng số các loài động vật và thực vật; tính đa dạng và
sự phong phú trong từng lồi, tính đa dạng hệ sinh thái của các cộng đồng
sinh thái khác nhau; hoặc tập hợp các loài sống ở các vùng khác nhau trên thế
giới với các hoàn cảnh khác nhau”. Định nghĩa này là chưa đầy đủ, bởi nó
mới chỉ đề cập đến động vật và thực vật, cịn các sinh vật khác thì khơng thấy
nói đến.
Một định nghĩa khác do Quỹ Quốc tế và Bảo tồn thiên nhiên WWF (1989)
đề xuất như sau: “Đa dạng sinh học là sự phồn thịnh của sự sống trên trái đất,
là hàng triệu loài thực vật, động vật và vi sinh vật, là những gen chứa đựng
trong các loài và là những hệ sinh thái vô cùng phức tạp cùng tồn tại trong
mơi trường”. Định nghiã này có phần đầy đủ hơn ở chỗ: đã nêu ra được sự tồn
tại của cả động vật, thực vật và vi sinh vật trong cùng một môi trường sống,
định nghĩa cũng đã chỉ ra được đa dạng sinh học là những gen chứa đựng
trong các lồi và là những hệ sinh thái vơ cùng phức tạp.
Tuy nhiên, trong thời gian gần đây (tháng 6 năm 1992): Công ước về bảo
tồn đa dạng sinh học được thơng qua tại hội nghị thượng đỉnh tồn cầu ở Rio
de Janeiro (Braxin) đã đi đến một thống nhất chung về đa dạng sinh học như
sau: “ Đa dạng sinh học là sự biến đổi giữa các sinh vật ở tất cả mọi nguồn,
bao gồm hệ sinh thái trên đất liền, trên biển và các hệ sinh thái nước khác, sự
đa dạng thể hiện trong từng loài, giữa các loài và các hệ sinh thái”

Như vậy, đa dạng sinh học phải được tính đến theo ba mức độ: Đa dạng
sinh học ở cấp loài bao gồm toàn bộ sinh vật sống trên trái đất (từ vi khuẩn
đến các loài động, thực vật và các loài nấm). Ở mức độ tinh tế hơn, đa dạng
sinh học bao gồm cả sự khác biệt giữa các loài, khác biệt về gen giữa các
quần thể sống cách ly nhau về địa lý cũng như khác biệt giữa các cá thể cùng
chung sống trong một quần thể. Đa dạng sinh học còn bao gồm cả sự khác
biệt giữa các quần xã, mà trong đó các loài sinh sống, các hệ sinh thái nơi mà
các loài cũng như các quần xã sinh vật tồn tại và cả sự khác biệt của các mối


18

tương tác với nhau.
Tính đa dạng sinh học (biodiversity): Tính đa dạng sinh học là thể phức
hợp sinh thái và tổng hồ các loại q trình sinh thái có tương quan do sinh vật
và mơi trường hình thành nên. Chúng bao gồm con số hàng triệu loài động vật,
thực vật, vi sinh vật và các chất di truyền của chúng. Chúng và mơi trường sinh
tồn hình thành nên một hệ sinh thái phức hợp. Gồm 4 tầng thứ:
(1). Tính đa dạng di truyền: Là sự biến hoá di truyền trong loài,Bao gồm
biến dị di truyền trong cùng 1 quần thể và giữa các quần thể của cùng lồi.
Xác định nó bao gồm 3 mặt: Nhiễm sắc thể tính đa thái, Chất protein tính đa
thái và DNA tính đa thái (nhiều kiểu hình)
(2). Tính đa dạng lồi: Chỉ tính đa dạng lồi sinh vật, tức là đa dạng hố
các lồi sinh vật trong 1 khu vực chủ yếu là từ góc độ phân loại học, hệ thống
học và địa lý sinh vật học để tiến hành nghiên cứu tình hình đối với các lồi vật
trong 1 khu vực nhất định
(3). Tính đa dạng HST: Chỉ đa dạng hoá về sinh cảnh, quần xã sinh vật và
các quá trình sinh thái trong khu vực và tính đa dạng vê sự sai khác sinh cảnh,
sự biến đổi quá trình sinh thái trọng HST
(4). Tính đa dạng cảnh quan: Là chỉ sự đa dạng hố hoặc tính biến dị về

các yếu tố cảnh quan của các loại hình khác nhau hoặc cảnh quan cấu thành
HST về các mặt kết cấu không gian, cơ chế chức năng và động thái theo thời
gian.
Từ các định nghĩa trên ta có thể rút ra nhận thức chung về các nội dung
của đa dạng sinh học là: Đa dạng di truyền (tức là đa dạng về gen và nhiễm
sắc thể); Đa dạng về Loài; Đa dạng về hệ sinh thái và cảnh quan;


19

Rừng là nguồn tài nguyên thiên nhiên vô cùng quý giá
3. Về Khu hệ thực vật.
Một trong những cơng trình nổi tiếng, đó là bộ “Thực vật trí Đơng
Dương” do H. Lecomte chủ biên (1907 – 1952). Trong cơng trình này, các tác
giả người Pháp đã thu mẫu và định tên, lập khố mơ tả các lồi thực vật có
mạch trên tồn bộ lãnh thổ Đơng Dương. Thái Văn Trừng (1978) cũng đã dựa
vào cơng trình này để thống kê hệ thực vật Việt Nam và biết được có 7.004
lồi, 1.850 chi, 289 họ. Riêng miền Bắc Pócs Tamás (1965) thống kê được
5.190 loài, Phan Kế Lộc (1969) thống kê và bổ xung, nâng số loài ở miền Bắc
lên 1.660 chi và 140 họ. Trong đó có 5.069 lồi thực vật hạt kín và 540 lồi
thuộc các ngành cịn lại.
Gần đây, Aubréville khởi xướng và chủ biên bộ “ Thực vật chí Campuchia,
Lào, Việt Nam” (1960 – 1997) cùng với nhiều tác giả khác đến nay đã công
bố 29 tập nhỏ, gồm 74 họ cây có mạch ( chưa đầy 20% tổng số họ đã có ).
Ngồi ra cịn có cơng trình “ Cây cỏ thường thấy ở Việt Nam ” gồm 6 tập do
Lê Khả Kế chủ biên từ năm 1969 – 1976 , “Cây cỏ miền Nam Việt Nam” của
phạm Hồng Hộ giới thiệu 5.326 lồi, trong đó có 60 lồi thực vật bậc thấp và
20 lồi Rêu, cịn lại 5.246 lồi thực vật có mạch (ghi theo Nguyễn Nghĩa Thìn



20

– Nguyễn Thanh Nhàn, 2004)
Viện Điều tra Quy hoạch rừng Việt Nam (1971 – 1988) đã công bố 7 tập
“ Cây gỗ rừng Việt Nam” giới thiệu khá chi tiết cùng với tranh vẽ minh hoạ
nhằm phục vụ cho việc khai thác tài nguyên rừng.
Trong thời gian gần đây, các nhà thực vật Nga và Việt Nam đã hệ thống
lại hệ thực vật Việt Nam đăng trên Kỷ yếu “Cây có mạch của thực vật Việt
Nam” (tập 1 – 2, 1996) ( ghi theo Nguyễn Nghĩa Thìn, Nguyễn Thanh Nhàn,
2004 ).
Đáng chú ý nhất phải kể đến bộ “Cây cỏ Việt nam” của Phạm Hoàng Hộ
(1991 – 1993) [24] xuất bản tại Canada và đã được tái bản có bổ sung tại Việt
Nam hai năm (1999 – 2000) [ ], đây là bộ sách khá đầy đủ và dễ sử dụng, góp
phần đáng kể cho khoa học thực vật ở Việt Nam, và là những tài liệu quan
trọng làm cơ sở cho việc đánh giá về đa dạng phân loại thực vật Việt Nam.
Từ năm 1995 – 2003, Nguyễn Nghĩa Thìn cùng một số tác giả khác đã
cơng bố một số bài báo về đa dạng sinh học của các Vườn Quốc gia, Vùng núi
đá vơi Hồ Bình, Quảng Trị, vùng núi cao Sa Pa..., cùng với cuốn “Cẩm nang
nghiên cứu đa dạng sinh vật” nhằm hướng dẫn cách đánh giá tính đa dạng
thực vật của vùng nghiên cứu cho các VQG và khu bảo tồn thiên nhiên...
1.2.3.3. Nghiên cứu về tính đa dạng thực vật trong các QXTVR
Cơng trình đầu tiên, hoàn chỉnh nhất trong nghiên cứu thực vật ở Việt
Nam là cơng trình “Thảm thực vật rừng Việt Nam” của cố GS.TS Thái Văn
Trừng (1963-1978). Dựa trên các cơng trình đã có trước đây kết hợp với nghiên
cứu riêng của mình, tác giả đã thống kê được ở Việt Nam có 7004 lồi thực vật
bậc cao có mạch thuộc 1850 chi và 189 họ. Đồng thời, tác giả cũng đã khẳng
định ưu thế ngành hạt kín trong hệ thực vật Việt Nam với 6336 loài (90,9%),
1727 chi (93,4%), và 239 họ (82,7%) trong tổng số các taxon mỗi bậc (1).
Theo Nguyễn Nghĩa Thìn (2004) vấn đề nghiên cứu đa dạng sinh học ở
Việt Nam cũng như trên thế giới được bắt đầu từ những cơng trình phân loại

về động vật, thực vật, nấm đã được bắt đầu từ rất sớm (8).


21

Nguyễn Nghĩa Thìn cùng các tác giả khác đã cơng bố nhiều bài báo về
đa dạng sinh học của KBTTN Cúc Phương, vùng núi đá vơi Hịa Bình, KBT
Na Hang, vùng núi Sapa, vùng ven biển Nam Trung Bộ, vùng núi Quảng
Ninh, lưu vực Sông Đà và các vườn khác như Cát Bà, Bến En, Cát Tiên, Pù
Mát, Phong Nha, Ba Bể, k Đơn, VQG Hồng Liên Sơn. Qua q trình
nghiên cứu tác giả đã cơng bố cuốn cẩm nang nghiên cứu đa dạng sinh học
nhằm hướng dẫn cách đánh giá tính đa dạng thực vật của vùng nghiên cứu
cho các KBTTN và KBT trong cả nước.
Viện điều tra quy hoạch rừng Việt Nam (1971-1988) đã công bố 7 tập
“Cây gỗ rừng Việt Nam” giới thiệu khá chi tiết cùng với tranh vẽ minh họa
nhằm phục vụ cho khai thác tài ngun rừng.
Như vậy, có thể thấy các cơng trình nghiên cứu về hệ thực vật và thảm
thực vật ở Việt Nam giai đoạn nửa đầu và cuối thế kỷ 20 chỉ dừng lại ở việc
thống kê thành phần loài trên phạm vi một vùng, khu vực nào đó. Việc nghiên
cứu ĐDSH, nhất là đa dạng thực vật bằng phương pháp định lượng còn là vấn
đề rất mới mẻ ở nước ta, tới nay chưa có cơng trình nào nổi bật. Một phần bởi
đây là vấn đề phức tạp, hơn nữa lại chưa có hệ thống lý luận hồn chỉnh được
đưa ra.


×