Tải bản đầy đủ (.pdf) (96 trang)

Nghiên cứu một số giải pháp góp phần quản lý bền vững tài nguyên rừng tại khu bảo tồn thiên nhiên đakrông tỉnh quảng trị

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.09 MB, 96 trang )

bộ giáo dục và đào tạo

bộ nông nghiệp và ptnt

trường đại học lâm nghiệp
--------------------------------

Lê thanh tuyền

nghiên cứu một số giải pháp góp phần quản
lý bền vững tài nguyên rừng tại khu bảo
tồn thiên nhiên đakrông - tỉnh quảng trị

Chuyên ngành: Lâm học
MÃ số: 60.62.60

luận văn thạc sĩ khoa học lâm nghiệp

Người hướng dẫn khoa học: TS. Võ Đại Hải

Hà Tây, năm 2007


1

Đặt vấn đề
Dự án Xây dựng Khu bảo tồn thiên nhiên ĐaKrông được UBND tỉnh
Quảng Trị ra Quyết định phê duyệt số 768/QĐ-UB ngày 9 tháng 4 năm 2001.
Tháng 7 năm 2002, UBND tỉnh Quảng Trị ra Quyết định số 4343/QĐ-UB
thành lập Ban quản lý Khu bảo tồn thiên nhiên ĐaKrông trực thuộc Chi cục
kiểm lâm Quảng Trị. Hiện tại, Ban quản lý có 29 cán bộ công chức, 3 trạm


bảo vệ rừng là Hải Phúc, Hồng Thuỷ và Tà Long.
Diện tích của Khu bảo tồn Thiên nhiên ĐaKrông hiện nay là 37.640 ha,
trong đó diện tích phân khu bảo vệ nghiêm ngặt là 23.590 ha, phân khu phục
hồi sinh thái 13.409 ha, phân khu hành chính dịch vụ quy hoạch là 641 ha.
Diện tích vùng đệm của Khu bảo tồn thiên nhiên là 56.175 ha với 23.172
người dân đang sinh sống, chủ yếu là dân tộc Vân Kiều, chiếm 42,9%.
Theo kết quả điều tra của tổ chức Birdlife International năm 2000, Trung
tâm Nghiên cứu Tài nguyên và Môi trường (CRES) - Đại học Quốc gia Hà
Nội năm 2004 và Viện Sinh thái và Tài nguyên sinh vật năm 2005, Khu bảo
tồn thiên nhiên ĐaKrông có 1.175 loài thực vật thc 528 chi vµ 130 hä; 67
loµi thó thc 25 hä vµ 10 bé; Chim cã 193 loµi thuéc 27 họ; 17 loài lưỡng cư;
32 loài bò sát; 71 loài cá thuộc 17 họ và 9 bộ; 279 loài côn trïng thc 12 hä
127 gièng 228 loµi thủ sinh vËt,... trong đó có nhiều loài có tên trong sách đỏ
Việt Nam nh­: Gơ lau, Gơ mËt, Thỉ phơc linh, Lan kim tuyến, Kim giao, Cá
chình hoa, Rắn hổ mang chúa, Gà lôi lam mào trắng, Gà lôi lam mào đen, Hổ,
Sao la, Bò tót,...
Khu bảo tồn thiên nhiên ĐaKrông điển hình với kiểu rừng thường xanh
mưa ẩm nhiệt đới vùng đồi núi thấp, trong đó có 8 kiểu trạng thái rừng chính
là: i) rừng kín thường xanh cây lá rộng ¸ nhiƯt ®íi nói thÊp; ii) rõng kÝn
th­êng xanh m­a Èm nhiƯt ®íi vïng thÊp; iii) rõng kÝn th­êng xanh phơc håi
sau khai th¸c; iv) rõng th­êng xanh m­a Èm nhiệt đới sau khai thác; v) rừng
hỗn giao tre nứa, gỗ phục hồi sau nương rẫy và khai thác; vi) trảng cỏ cây bụi


2

thứ sinh nhân tác; vii) thảm cây nông nghiệp; viii) thảm thực vật khu núi đá.
Ngoài ra, Khu Bảo tồn thiên nhiên ĐaKrông là một trong số 200 vùng sinh
thái träng u cđa thÕ giíi, mét trong 3 vïng chim đặc hữu của Việt Nam với
giá trị khoa học cao được thừa nhận. Khu BTTN ĐaKrông là một mắt xích

quan trọng trong chuỗi các Khu bảo tồn, tạo nên môi trường sống thích hợp
cho các loài có nguy cơ tuyệt chủng như; Gà lôi lam mào trắng, Sao la, bò tót,
hổ, vượn đen má trắng,...
Trong những năm qua, Khu bảo tồn thiên nhiên ĐaKrông đà thu được
nhiều kết quả trong công tác quản lý, bảo vệ rừng và bảo tồn đa dạng sinh học.
Tuy nhiên, do Khu bảo tồn tiếp giáp với nhiều khu dân cư vùng đệm (10 xÃ);
đời sống của người dân vùng đệm còn nhiều khó khăn, cc sèng cđa hä phơ
thc rÊt lín vµo rõng; nhu cầu về gỗ, củi và các lâm sản khác là rất lớn; hệ
thống đường Hồ Chí Minh (62 km) và đường sông Ba Lòng và sông ĐaKrông
(90km) đi qua Khu bảo tồn nên rất khó khăn trong việc quản lý bảo vệ. Vì
vậy, Khu bảo tồn vẫn chịu nhiều sức ép trong việc quản lý và bảo vệ tài
nguyên rừng như tệ nạn khai thác thực vật, săn bắt động vật rừng, xâm lấn
diện tích rừng; số lượng cán bộ, cơ sở vật chất cũng như nguồn kinh phí cho
hoạt động của Ban quản lý chưa đáp ứng được yêu cầu đặt ra,... Việc ngăn
chặn những tác động làm tổn hại đến bảo tồn đa dạng sinh học và quản lý
rừng bền vững tài nguyên rừng là nhiệm vụ khách quan và cấp bách của các
cấp, các ngành, địa phương và của Ban quản lý Khu bảo tồn. Để góp phần giải
quyết những vấn đề trên, đề tài Nghiên cứu một số giải pháp góp phần quản
lý rừng bền vững tài nguyên rừng tại Khu bảo tồn thiên nhiên ĐaKrông - Tỉnh
Quảng Trị đặt ra là rất cần thiết, vừa cã ý nghÜa khoa häc vµ thùc tiƠn.


3

Chương 1-Tổng quan vấn đề nghiên cứu
1.1. Khái niệm về quản lý rừng bền vững
Từ lâu việc quản lý rừng bền vững đà được các nhà lâm học xem là vấn
đề cơ bản của kinh doanh rừng. Phần lớn các Học thuyết về rừng đều hướng
vào phân tích những quy luật sinh trưởng, phát triển của cá thể và quần thể
rừng trong mối quan hệ với các điều kiện tự nhiên và những tác động kỹ thuật

của con người làm cơ sở để xây dựng những biện pháp quản lý thích hợp
nhằm nâng cao năng suất và tính ổn định của hệ sinh thái rừng. Những kiến
thức liên quan đến quản lý rừng bền vững được trình bày trong nhiều môn học
khác nhau như Lâm học, Trồng rừng, Quy hoạch rừng, Điều chế rừng,... Tuy
nhiên, trong những năm gần đây, do nhận thức được vai trò quan trọng của
rừng với môi trường và sự phát triển bền vững nói chung, vấn đề quản lý rừng
bền vững nói riêng được người ta quan tâm nhiều hơn trong đó có cả những
chuyên gia lâm nghiệp, chủ rừng, chính quyền và nhiều tổ chức kinh tế - xÃ
hội khác.
Theo Tổ chức gỗ nhiệt đới quốc tế (ITTO) thì QLRBV là quá trình
quản lý những diện tích rừng cố định, nhằm đạt được những mục tiêu là đảm
bảo sản xuất liên tục những sản phẩm và dịch vụ của rừng như mong muốn
mà không làm giảm đáng kể những giá trị di truyền và năng suất tương lai của
rừng, không gây ra những tác động tiêu cực của những môi trường vật lý và xÃ
hội [27].
Theo Tiến trình Helsinki thì QLRBV quản lý rừng và đất rừng một cách
hợp lý để duy trì tính ĐDSH, năng suất, khả năng tái sinh, sức sống của rừng,
đồng thời duy trì tiềm năng thực hiện các chức năng kinh tế, xà hội và sinh
thái của chúng trong hiện tại cũng như trong tương lai, ở cấp địa phương, cấp
quốc gia và toàn cầu, không gây ra những tác hại đối với các hệ sinh thái
khác [27].


4

Hai khái niệm này đà nêu lên được mục tiêu chung của QLRBV là đạt
được sự ổn định về diện tích, bền vững về tính ĐDSH, về năng suất kinh tế và
đảm bảo hiệu quả về môi trường sinh thái của rừng. Tuy nhiên, vấn đề
QLRBV cũng phải đảm bảo tính linh hoạt khi áp dụng các biện pháp quản lý
rừng cho phù hợp với điều kiện cụ thể của từng địa phương được quốc gia và

quốc tế chấp nhận.
Như vậy, QLRBV được hiểu là hoạt động nhằm ngăn chặn được tình
trạng mất rừng, mà trong đó việc khai thác lợi dụng rừng không mâu thuẫn với
việc duy trì diện tích và chất lượng của rừng, đồng thời duy trì và phát huy
được chức năng bảo vệ môi trường sinh thái lâu bền đối với con người và thiên
nhiên. Quản lý rừng bền vững nhằm phát huy đồng thời những giá trị về các
mặt kinh tế, xà hội và môi trường của rừng. Hệ thống những biện pháp kinh tế,
xà hội và khoa học công nghệ phục vụ quản lý rừng bền vững thường được
xây dựng trên cơ sở những kết quả nghiên cứu cụ thể về điều kiện tự nhiên,
kinh tế và xà hội của mỗi địa phương.
Mục tiêu cơ bản của QLRBV là đồng thời đạt được bền vững về kinh tế,
bền vững về xà hội và bền vững về môi trường [7]. Nội dung cơ bản của những
thuật ngữ này như sau:
- Bền vững về kinh tế: Lợi ích mang lại lớn hơn chi phí đầu tư và được
truyền lại từ thế hệ này sang thế hệ khác.
- Bền vững về xà hội: Phản ánh sự liên hệ giữa sự phát triển tài nguyên
rừng và tiêu chuẩn xà hội, không diễn ra ngoài sự chấp thuận của cộng đồng.
- Bền vững về môi trường: Đảm bảo hệ sinh thái ổn định, giữ gìn bảo
toàn sản phẩm của rừng, đáp ứng khả năng phục hồi rừng trên quá trình tự
nhiên.
Trên quan điểm kinh tế sinh thái thì hiệu quả về mặt môi trường của
rừng hoàn toàn có thể xác định được bằng giá trị kinh tế. Thực chất việc nâng
cao giá trị về môi trường sinh thái của rừng sẽ góp phần giảm những chi phí


5

cần thiết để góp phần phục hồi và ổn định môi trường sống. Với ý nghĩa này,
quản lý sử dụng rừng bền vững đà trở thành một nhiệm vụ cấp bách, một giải
pháp quan trọng cho sự tồn tại lâu dài của con người và thiên nhiên.

1.2. Trên thế giới
Tài nguyên rừng có vai trò quan trọng trong cuộc sống của hầu hết
người dân vùng núi. ở đây, rừng mang lại cho họ nhiều loại sản phẩm khác
nhau như: gỗ, củi, lương thực, thực phẩm, dược liệu,... Quan trọng hơn nữa là
rừng đảm bảo những điều kiện sinh thái cần thiết để duy trì các hoạt động sản
xuất và đời sống của người dân. Những cố gắng trong việc quản lý bảo vệ các
khu rừng cấm quốc gia thường gây nên những mâu thuẫn lợi ích giữa cá nhân,
cộng đồng dân cư địa phương với quốc gia. Từ đây, người ta nhận thức được
rằng công tác QLRBV phải hướng đến phục vụ các nhu cầu xà hội. Việc đáp
ứng các nhu cầu đó phải được thực hiện thường xuyên, liên tục và ổn định lâu
dài. Theo tài liệu của FAO, công cụ để QLRBV phải bao gồm các quy trình
công nghệ, cả các chính sách kinh tế xà hội. Nó đảm bảo các hoạt động quản
lý rừng thoả mÃn đồng thời những nguyên lý về kinh tế, xà hội và môi trường
[33]. Có thể nói quản lý sử dụng tài nguyên rừng bền vững là phương thức
quản lý được xà hội chấp nhận, có cơ sở về mặt khoa học, có tính khả thi về
mặt kỹ thuật và hiệu quả về mặt kinh tế.
Trong giai đoạn đầu của thế kỷ 20, hệ thống quản lý tài nguyên rừng
tập trung đà thực hiện ở nhiều quốc gia, đặc biệt là ở những quốc gia phát
triển [18]. Trong giai đoạn này, vai trò của cộng đồng trong quản lý rừng ít
được quan tâm. Vì vậy, họ chỉ biết khai thác tài nguyên rừng lấy lâm sản và
đất đai để canh tác nông nghiệp, nhu cầu lâm sản ngày càng tăng đà dẫn đến
tình trạng khai thác quá mức tài nguyên rừng và làm cho tài nguyên rừng ngày
càng bị suy thoái nghiêm trọng.
Nhằm khắc phục tình trạng khai thác rừng quá mức, các nhà khoa học
cũng đà nghiên cứu và đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý rừng


6

như: Các nhà lâm học Đức (G.L.Hartig - 1840; Heyer - 1883; Hundeshagen 1926) đà đề xuất nguyên tắc lợi dụng lâu bền đối với rừng thuần loại đều tuổi;

Các nhà lâm học Pháp (Gournand - 1922) và Thuỵ Sỹ (H.Biolley - 1922) đà đề
ra phương pháp kiểm tra điều chỉnh sản lượng với rừng khai thác chọn khác
tuổi, vv...
Vào cuối thế kỷ 20, khi tài nguyên rừng đà bị suy thoái nghiêm trọng
thì con người mới nhận thức được rằng tài nguyên rừng là có hạn và đang bị
suy giảm nhanh chóng, nhất là tài nguyên rừng nhiệt đới. Nếu theo đà mất
rừng mỗi năm khoảng 15 triệu ha như số liệu thống kê của FAO thì chỉ hơn
100 năm nữa rừng nhiệt đới hoàn toàn bị biến mất, loài người sẽ chịu những
thảm hoạ khôn lường về kinh tế, xà hội và môi trường [13].
Để ngăn chặn tình trạng mất rừng, bảo vệ và phát triển vốn rừng, bảo
tồn ĐDSH trên phạm vi toàn thế giới, cộng đồng quốc tế đà thành lập nhiều tổ
chức, tiến hành nhiều hội nghị, đề xuất và cam kết nhiều công ước về bảo vệ
và phát triển rừng trong đó có Chiến lược bảo tồn (năm 1980 và điều chỉnh
năm 1991), Tổ chức Gỗ nhiệt đới quốc tế (ITTO năm 1983), Chương trình
hành động rừng nhiệt đới (TFAP năm 1985), Hội nghị quốc tế về môi trường
và phát triển (UNCED tại Rio de Janeiro năm 1992), Công ước quốc tế về
buôn bán các loài động thực vật quý hiếm (CITES), Công ước về Đa dạng sinh
học (CBD, 1992), Công ước về thay đổi khí hậu toàn cầu (CGCC, 1994), Công
ước về chống sa mạc hoá (CCD, 1996), Hiệp định quốc tế về gỗ nhiệt đới
(ITTA, 1997). Những năm gần đây, nhiều hội nghị, hội thảo quốc tế và quốc
gia về QLRBV đà liên tục được tổ chức [13]. Phân tích khái niệm về quản
rừng bền vững của Tổ chức gỗ quốc tế thì QLRBV là cách thức quản lý vừa
đảm bảo được các mục tiêu sản xuất, vừa đảm bảo giữ được các giá trị kinh tế,
môi trường và xà hội của tài nguyên rừng.
Là tổ chức đầu tiên áp dụng vấn đề quản lý rừng bền vững ở nhiệt đới,
Tổ chức gỗ nhiệt đới quốc tế đà biên soạn một số tµi liƯu quan träng nh­


7


Hướng dẫn quản lý rừng tự nhiên nhiệt đới (ITTO, 1990), Tiêu chí đánh
giá quản lý bền vững rừng tự nhiên nhiệt đới (ITTO, 1992), Hướng dẫn thiết
lập hệ thống quản lý bền vững các khu rừng trồng trong rừng nhiệt đới
(ITTO, 1993) và Hướng dẫn bảo tồn ĐDSH của rừng sản xuất trong vùng
nhiệt đới (ITTO, 1993b). Tổ chức ITTO đà xây dựng chiến lược quản lý bền
vững rừng nhiệt đới, buôn bán lâm sản nhiệt đới năm 2000.
Hai động lực thúc đẩy sự hình thành hệ thống QLRBV là xuất phát từ
các nước sản xuất các sản phẩm gỗ nhiệt đới mong muốn tái lập một lâm phận
sản xuất ổn định và khách hàng tiêu thụ sản phẩm gỗ nhiệt đới mong muốn
điều tiết việc khai thác rừng để đáp ứng các chức năng sinh thái toàn cầu. Vấn
đề đặt ra là phải xây dựng những tổ chức đánh giá QLRBV. Trên quy mô quốc
tế, hội đồng quản trị rừng đà được thành lập để xét công nhận tư cách của các
tổ chức xét và cấp chứng chỉ rừng. Với sự phát triển của QLRBV, Canada đÃ
đề nghị đặt vấn đề QLRBV trong hệ thống quản lý môi tr­êng theo tiªu chn
ISO 14001 [28].
HiƯn nay, trªn thÕ giíi đà có bộ tiêu chuẩn quản lý bền vững cấp quốc
gia như: Canada, Thuỵ Điển, Malaysia, Indonesia,vv... và cấp quốc tế của tiến
trình Helsinki, tiến trình Montreal. Hội đồng quản trị rừng (FSC) và tổ chức
gỗ nhiệt đới đà có bộ tiêu chuẩn Những tiêu chí và chỉ báo quản lý rừng
(P&C) đà được công nhận và được áp dụng ở nhiều nước trên thế giới và các
tổ chức cấp chứng chỉ rừng đều dùng bộ tiêu chí này để đánh giá tình trạng
quản lý rừng và xét cấp chứng chỉ quản lý rừng bền vững cho các chủ rừng
[27].
Tháng 8/1998, các nước trong khu vực Đông Nam á đà họp hội nghị
lần thứ 18 tại Hà Nội để thoả thuận về đề nghị của Malaysia xây dựng bộ tiêu
chí và chỉ số về QLRBV ở vùng ASEAN (Viết tắt lµ C&I ASEAN). Thùc chÊt
C&I cđa ASEAN cịng gièng nh­ C&I của ITTO, bao gồm 7 tiêu chí và cũng
chia làm 2 cấp quản lý là cấp quốc gia và cấp đơn vị quản lý [14]. Hiện nay, ở



8

các nước đang phát triển, khi sản xuất nông lâm nghiệp còn chiếm vị trí quan
trọng đối với người dân nông thôn, miền núi, thì quản lý rừng theo hình thức
phát triển lâm nghiệp xà hội đang là một trong những mô hình được đánh giá
cao trên các phương diện kinh tế, xà hội và môi trường sinh thái.
Với mục đích quản lý bền vững, các khu bảo vệ (protected areas) được
thành lập ngày càng nhiều, nhiều quốc gia trên thế giới đà quan tâm đến việc
quản lý bền vững các khu bảo vệ. Nhiều chính sách và giải pháp được đưa ra
để áp dụng quản lý rừng bền vững. Năm 1996, tại Vườn quốc gia Bwindi
Impenetrable và Mgahinga Gorilla thuộc Uganda, Wild và Mutebi đà nghiên
cứu giải pháp quản lý, khai thác bền vững một số lâm sản và quản lý bảo vệ
tài nguyên thiên nhiên giữa Ban quản lý vườn và cộng đồng dân cư.
Trong báo cáo "Hợp tác quản lý với người dân ở Nam Phi - Phạm vi vận
động" của Moenieba Isaacs và Najma Mohamed (2000) đà nghiên cứu và đưa
ra giải pháp quản lý tài nguyên thiên nhiên bền vững tại Vườn quốc gia
Richtersveld chủ yếu dựa trên hương ước (Contractual Agreement) quản lý
bảo vệ tài nguyên, trong đó người dân cam kết bảo vệ ĐDSH trên địa phận của
mình còn chính quyền và Ban quản lý hỗ trợ người dân xây dựng hạ tầng và
cải thiện các điều kiện kinh tế - xà hội khác.
Tại Vườn Quốc gia Kruger của Nam Phi (2000), nhằm bảo vệ tài
nguyên bền vững, Chính phủ đà trao quyền sử dụng đất đai, chia sẽ lợi ích từ
du lịch cho người dân, ngược lại người dân phải tham gia quản lý và bảo vệ tài
nguyên tại Vườn quốc gia.
Theo Shuchenmann (1999), tại Vườn quốc gia Andringitra của
Madagascar, để thực hiện quản lý rừng bền vững, Chính phủ đảm bảo cho
người dân được quyền chăn thả gia súc, khai thác tài nguyên từ rừng phục hồi
để sử dụng tại chỗ, cho phép giữ gìn những tập quán truyền thống khác như có
thể giữ gìn các điểm thờ cúng thần rừng. Ngược lại, người dân phải đảm bảo
tham gia bảo vệ sự ổn định của các hệ sinh thái trong khu vùc.



9

Theo báo cáo của Oli Krishna Prasad (1999), tại Khu bảo tồn Hoàng gia
Chitwan ở Nepal, để quản lý rừng bền vững, cộng đồng dân cư vùng đệm được
tham gia hợp tác với một số bên liên quan trong việc quản lý tài nguyên vùng
đệm phục vụ cho du lịch. Lợi ích của cộng đồng khi tham gia quản lý tài
nguyên là khoảng 30 - 50% thu được từ du lịch hằng năm sẽ được đầu tư trở
lại cho các hoạt động phát triển kinh tế - xà hội của cộng đồng [34].
Các mô hình quản lý bền vững các khu bảo vệ được nêu trên đà góp
phần quản lý bền vững tài nguyên thiên nhiên. Chúng đà đưa ra được một số
chính sách như chia sẽ lợi ích, hỗ trợ đầu tư phát triển hạ tầng kinh tế - xà hội
vv... và một số giải pháp như đồng quản lý, quản lý có sự tham gia của người
dân, v.v... Tuy nhiên, các mô hình trên chỉ phù hợp với một số quốc gia và
một số khu bảo vệ có tiềm năng về du lịch, tài nguyên, đất đai phù hợp.
1.3. ở Việt Nam
Là một nguồn tài nguyên quan trọng, rừng ảnh hưởng trực tiếp đến thu
nhập và đời sống kinh tế nói chung của khoảng một phần ba dân số của cả
nước. Nó không chỉ cung cấp những sản phẩm phục vụ sinh hoạt hằng ngày
như gỗ, củi, lương thực, thực phẩm, dược liệu vv... mà còn cung cấp những sản
phẩm phục vụ nhu cầu công nghiệp, thủ công nghiệp và xuất khẩu. Ngoài ra,
do phân bố ở những vùng sinh thái nhạy cảm như các vùng đầu nguồn rộng
lớn, các vùng ngập mặn, các vùng sình lầy vv... rừng còn là một trong những
yếu tố có ảnh hưởng mạnh mẽ nhất đến môi trường của đất nước. Nó góp phần
quan trọng vào việc chống lại sự biến đổi khí hậu, điều tiết nguồn nước, giảm
tần suất và cường độ phá hoại của các thiên tai như lũ lụt, hạn hán, cháy rừng
vv...
Sự thất bại của công tác quản lý rừng và tài nguyên đất đai vùng đầu
nguồn trong những thập kỷ qua đà làm Việt Nam mất đi hàng triệu hecta rừng

và là nguyên nhân chủ yếu gây ra những biến đổi khí hậu, gia tăng tần suất và
mức độ thiệt hại của hạn hán, lũ lụt. Hằng năm nhà nước phải đầu tư hàng


10

nghìn tỉ đồng để củng cố đê điều và chống lũ. Mất rừng cũng là nguyên nhân
chính gây nên sự xói mòn mạnh và sự hoang hoá diện tích đất đồi núi. Quản
lý rừng không hiệu quả và thiếu quy hoạch cũng làm cho nhiều vùng đất
trũng, đất ngập mặn trù phú bởi các thảm rừng tràm, rừng đước với hàng trăm
loài động vật hoang dà có giá trị cao đà và đang bị thay thế bởi các vùng nuôi
tôm, các rừng trồng công nghiệp với mức độ mặn hoá, phèn hoá ngày càng
nghiêm trọng.
Ngoài các nguyên nhân mất rừng do sự gia tăng dân số, thiếu thốn về
lương thực, phá rừng lấy đất canh tác, khai thác lâm sản quá mức, rừng Việt
Nam còn bị ảnh hưởng bởi sự huỷ diệt trầm trọng của 2 cuộc chiến tranh kéo
dài đà làm cho tài nguyên rừng bị giảm sút vì bom đạn, chất độc hoá học tàn
phá nặng nề. Nếu như tỷ lệ che phủ của rừng nước ta năm 1945 là 43% thì đến
năm 1976 chỉ còn 33,8% [17]. Tỷ lệ che phủ thấp nhất là vào năm 1995 với
28,2%. Trong những năm gần đây, sự nỗ lực của nhà nước với những chính
sách đổi mới, những chương trình trọng điểm quốc gia như Dự án 327, 661 đÃ
làm cho diện tích rừng tăng lên một cách rõ rệt. Đến năm 2000, tỷ lệ che phủ
rừng của cả nước đà nâng lên 33,2% [2] và đến cuối năm 2004 là 36,7% [5].
Trước những biến đổi mạnh mẽ của môi trường và hiểm hoạ sinh thái
có thể xảy ra thì việc quản lý rừng bền vững ngày càng trở nên quan trọng.
Phần lớn các chương trình, dự án quốc tế hỗ trợ ngành lâm nghiệp hiện nay
đều hướng vào QLRBV. Những chương trình phát triển lâm nghiệp lớn của
Nhà nước như chương trình 327, 773, 661, vv... đều xem QLRBV là một trong
những mục tiêu quan trọng. Lâm nghiệp đang trở thành ngành kinh tế phát
triển không chỉ nhờ vào khả năng cung cấp hàng hoá lâm sản mà còn nhờ vào

dịch vụ về môi trường đáp ứng yêu cầu trong nước và quốc tế.
Ngày 06 tháng 7 năm 2006, Bộ trưởng Bộ NN&PTNT đà ra Quyết định
số 1970/QĐ/BNN-KL-LN về viƯc Cơng bố số liệu diện tích rừng có đến
31/12/2005 trong toàn quốc như sau:


11

Bảng 1.1: Diện tích rừng toàn quốc năm 2005
Loi t
loi rừng
. Đất có rừng
1. Rừng tự
nhiên
2. Rừng trồng

Diện tích
(ha)
12.616.700
10.283.173
2.333.526

Phân theo chức năng sử dụng
Đặc dụng
Phịng hộ
Sản xuất
1.929.304
6.199.682
4.487.714
1.849.049

5.328.450
3.105.674
80.255
871.232
1.382.040

Qua kÕt qu¶ kiĨm kê rừng cho thấy hiện nay rừng sản xuất chỉ chiếm
khoảng 1/3 tổng diện tích rừng, còn lại là rừng đặc dụng và phòng hộ. Nguồn
quỹ đất chưa có rừng chiếm 20%, đây là điều kiện thuận lợi để nâng cao diện
tích rừng sản xuất đồng thời góp phần hoàn thành mục tiêu nâng độ che phủ
rừng nước ta lên 43% trong tương lai.
Theo tài liệu trong Chiến lược phát triển ngành lâm nghiệp [2], trước
năm 1945 quản lý lâm nghiệp được tổ chức theo hạt. Ranh giới hạt lâm nghiệp
không phụ thuộc nhiều vào ranh giới hành chính tỉnh, huyện mà là đơn vị
quản lý nhà nước trong một lÃnh thổ có rừng, có chức năng thừa hành pháp
luật. Trong thêi kú nµy, toµn bé rõng n­íc ta lµ rừng tự nhiên đà được chia
theo các chức năng để qu¶n lý, sư dơng nh­ sau:
+ Rõng ch­a qu¶n lý: Là những diện tích rừng ở những vùng núi hiểm
trở, dân cư thưa thớt, nhà nước thực dân chưa có khả năng quản lý, người dân
được tự do sử dụng lâm sản, đốt nương làm rẫy. Việc khai thác sử dụng lâm
sản đang ở mức tự cung tự cấp, lâm sản chưa trở thành hàng hoá.
+ Rừng mở để kinh doanh: Là những diện tích rừng ở những vùng có
dân cư và đường giao thông thuận lợi cho việc vận chuyển lâm sản. Những
diện tích rừng này được chia thành các đơn vị như khu, từ khu được chia thành
các lô khai thác và theo chu kỳ, sản lượng do hạt trưởng lâm nghiệp quản lý,
đấu thầu khai thác.


12


+ Rừng cấm: Là những diện tích rừng sau khai thác, cần được bảo vệ để
tái sinh trong cả chu kỳ theo vòng quay điều chế, cũng có thể là khu rừng có
tác dụng đặc biệt cần được bảo vệ [17].
Nhìn chung, trong thời kỳ trước năm 1945 tài nguyên rừng Việt Nam
khá phong phú, nhu cầu lâm sản của con người còn thấp, mức độ tác động của
con người vào tài nguyên rừng chưa cao, vấn đề QLRBV chưa được đặt ra.
Theo số liệu thống kê tài nguyên rừng khu vực Đông Dương, diện tích rừng
nước ta vào năm 1943 còn khoảng 14,3 triệu hécta, tương đương độ che phủ
43% [17].
Từ sau hoà bình lập lại rừng được chia thành 3 chức năng để quản lý sử
dụng đó là rừng sản xuất, rừng phòng hộ và rừng đặc dụng. Tổ chức quản lý
sử dụng 3 loại rừng được hình thành và phát triển từ năm 1986 [17].
Trong thời kỳ này, hoạt động của ngành lâm nghiệp đà trải qua nhiều
giai đoạn khác nhau. Ngay sau khi hoà bình lập lại, toàn bộ diện tích rừng và
đất rừng ở miền Bắc được quy hoạch vào các lâm trường quốc doanh. Nhiệm
vụ chủ yếu là khai thác lâm sản để phục vụ cho nhu cầu phát triển của các
ngành kinh tế và của nhân dân, việc xây dựng và phát triển vốn rừng tuy có
đặt ra nhưng chưa được các đơn vị sản xuất kinh doanh lâm nghiệp quan tâm
đúng mức. Cùng với mức độ tăng nhanh về dân số, tình trạng chặt phá rừng tự
nhiên lấy đất sử dụng canh tác nông nghiệp, lấy các sản phẩm gỗ, củi và các
lâm sản khác càng diễn ra nghiêm trọng hơn. Những hình thức quản lý và sử
dụng tài nguyên rừng như trên đà làm cho tài nguyên rừng nước ta bị tàn phá
một cách nặng nề. Diện tích rừng đà bị thu hẹp từ 14,3 triệu ha năm 1943
xuống còn khoảng 10 triệu ha năm 1985. Giai đoạn từ năm 1946 - 1960, công
tác bảo vệ rừng chủ yếu là khoanh nuôi bảo vệ, hướng dẫn nông dân miền núi
sản xuất trên nương rẫy, ổn định công tác định canh, định cư, khôi phục kinh
tế sau chiến tranh. Giai đoạn 1961 - 1975 QLBVR được đẩy mạnh, khoanh
nuôi tái sinh rừng gắn chặt với định canh, định cư. Công tác khai thác rừng đÃ



13

chú ý đến thực hiện theo các quy trình, quy phạm, đảm bảo xúc tiến tái sinh tự
nhiên. Nhìn chung, công tác QLBVR được thống nhất quản lý từ trung ương
đến địa phương. Sau ngày thống nhất đất nước, Nhà nước quản lý toàn bộ tài
nguyên rừng thông qua các lâm trường quốc doanh, người dân và cộng đồng
đà bị tách rời khỏi các hoạt động quản lý, sử dụng tài nguyên rừng. Đây là
một trong những nguyên nhân cơ bản gây nên tình trạng suy thoái tài nguyên
rừng một cách nhanh chóng ở nước ta.
Do yêu cầu về chức năng bảo tồn và phòng hộ của rừng ngày càng trở
nên quan trọng, để đảm bảo môi trường bền vững phục vụ cho phát triển kinh
tế, xà hội nên các hoạt động lâm nghiệp đặc biệt quan tâm đến 2 loại rừng đặc
dụng và phòng hộ. Tháng 11/1997 Quốc hội Nước Cộng Hoà XÃ Hội Chủ
Nghĩa Việt Nam đà thông qua Dù ¸n trång míi 5 triƯu ha rõng giai đoạn
1998-2010, trong đó gồm 2 triệu ha rừng đặc dụng, phòng hộ và 3 triệu ha
rừng sản xuất. Hiện nay, Nhà nước ta đà có hệ thống luật pháp và những chính
sách quan trọng để quản lý, bảo vệ phát triển rừng, đó là:
- Luật Bảo vệ và Phát triển rừng sửa đổi 2004;
- Luật Bảo vệ Môi trường năm 2004
- Luật Đất đai năm 2003
- Nghị định 139/2004/NĐ-CP ngày25/6/2004 của Chính phủ về xử phạt
vi phạm hành chính trong lĩnh vực quản lý bảo vệ rừng và quản lý lâm sản.
- Chỉ thị 12/2003/CT-Ttg ngày 16/5/2003 về việc tăng cường các biện
pháp cấp bách để bảo vệ và phát triển rừng;
- Quyết định số 178/2001/QĐ-TTg ngày 12/11/2001 của Thủ t­íng
ChÝnh phđ vỊ qun h­ëng lỵi, nghÜa vơ cđa hé gia đình, cá nhân được giao,
được thuê, nhận khoán rừng và đất lâm nghiệp.
- Thông tư số 56/1999/TT/BNN-KL ngày 30/3/1999 của Bộ NN&PTNT
về hướng dẫn xây dựng quy ước bảo vệ và phát triển rừng trong cộng đồng dân
cư thôn, làng, bản, ấp.



14

- Nghị định số 09/2006/NĐ-CP ngày 16/1/2006 của Chính phủ quy định
về phòng cháy chữa cháy rừng.
- Nghị định số 32/2006/NĐ-CP ngày 30 tháng 3 năm 2006 của Chính
phủ về quản lý thực vật rừng, động vật rừng nguy cấp, quý, hiếm
- Quyết định 661/QĐ-TTg ngày 29/7/1998 của Thủ tướng Chính phủ về
mục tiêu, nhiệm vụ, chính sách và tổ chøc thùc hiƯn trång míi 5 triƯu ha rõng.
- Qut định 245/1998/QĐ - TTg ngày 21/12/1998 của Thủ tướng
Chính phủ về thực hiện trách nhiệm quản lý Nhà nước của các cấp về rừng và
đất Lâm nghiệp.
- Quyết định số 186/1006/QĐ-TTg, ngày 14/8/2006 của Thủ tướng Chính
phủ về việc ban hành Quy chế quản lý rừng.
- Quyết định số 40/2005/QĐ-BNN ngµy 7/7/2005 cđa Bé NN&PTNT vỊ
viƯc ban hµnh Quy chÕ về khai thác gỗ và lâm sản khác.
- Quyết định số 192/2003/QĐ-TTg ngày 17/9/2003 của Thủ tướng Chính
phủ về việc phê duyệt Chiến lược quản lý hệ thống khu bảo tồn thiên nhiên
Việt Nam đến năm 2010
- Chiến lược phát triển ngành Lâm nghiệp Việt Nam đến năm 2010 và Dự
thảo chiến lượng Lâm nghiệp quốc gia 2006 - 2020.
Ngoài ra, còn nhiều các văn bản pháp quy khác được ban hành từ Bộ
NN & PTNT, liên bộ và cả từ chính quyền địa phương về những vấn đề liên
quan đến quản lý và bảo vệ rừng. Những văn bản quy phạm đó đà góp phần
giúp các địa phương và ngành Lâm nghiệp quản lý bảo vệ rừng có hiệu quả
hơn.
Trong những năm gần đây, Chính phủ Việt Nam đà có nhiều quan tâm
đến công tác QLBVR và sử dụng hợp lý tài nguyên rừng bằng các giải pháp
chính sách, tổ chức quản lý và xà hội hoá nghề rừng. Cụ thể đà thực hiện cắt

giảm sản lượng khai thác tiến tới đóng cửa rừng tự nhiên, đẩy mạnh và phát
triển rừng trồng sản xuất, phát triển kinh tế trang trại, phát triển lâm nghiệp
theo hướng xà hội hóa nghề rừng,... Bên cạnh đó, việc thiết lập các khu rừng


15

đặc dụng, xây dựng các dự án trồng và bảo vệ rừng phòng hộ cũng rất được
quan tâm thực hiện.
Thấy được tầm quan trọng và giá trị to lớn của tài nguyên rừng và
ĐDSH, từ năm 1962 Nhà nước ta đà thành lập rừng cấm Cúc Phương, đây là
rừng đặc dụng đầu tiên của nước ta. Đến nay năm 2003, trên toàn quốc đà có
26 vườn Quốc gia và 99 khu dự trữ thiên nhiên, khu bảo vệ cảnh quan và khu
bảo tồn loài, sinh cảnh với tổng diện tích rừng đặc dụng là 2.541.675 ha [4].
Ngày nay, ở nước ta tuy nhËn thøc cđa con ng­êi vỊ rõng vµ vai trò của
nó đà ngày càng đầy đủ hơn nhưng việc phục hồi những diện tích rừng đà mất
lại gặp rất nhiều khó khăn do hạn chế về mặt kinh tế và kỹ thuật phục hồi
rừng. Vì vậy, công tác quản lý tài nguyên rừng bền vững càng trở nên cấp thiết
hơn. Nếu tình trạng suy thoái tài nguyên rừng không chấm dứt và tài nguyên
rừng không được phục hồi nhanh chóng thì nguy cơ mất cân bằng sinh thái,
giảm tính đa dạng sinh học sẽ ngày càng lớn mạnh hơn, từ đó dẫn đến nhiều
tổn thất mà chúng ta sẽ gặp phải cả về kinh tế, xà hội và đặc biệt là môi
trường.
Trong nhiều năm qua, nền kinh tế nước ta đà có nhiều khởi sắc, lương
thực đà đủ ăn và phục vụ xuất khẩu, nhiều loại chất đốt đà thay thế một phần
gỗ củi như: than, điện, ga,... Vì vậy, công tác quản lý sử dụng tài nguyên rừng
đà có nhiều tiến bộ. Nhà nước có nhiều điều kiện thuận lợi để làm tốt công tác
quản lý, bảo vệ, xây dựng và phát triển rừng. Cụ thể năm 1992, Chính phủ đÃ
phê duyệt chương trình phủ xanh đất trống đồi núi trọc (chương trình 327) giai
đoạn 1993-1998; tiếp đó là Dự án trồng mới 5 triệu ha rừng được thực hiện từ

năm 1998-2010 với mục tiêu là xây dựng, bảo vệ rừng để đảm bảo an toàn
môi trường sinh thái, đồng thời thoả mÃn nhu cầu lâm sản phục vụ cho nền
kinh tế quốc dân.
Hưởng ứng phong trào Quốc tế "Rừng và con người", tháng 6/1997 Bộ
NN & PTNT thay mặt Chính phủ nước ta đà ký cam kÕt b¶o tån Ýt nhÊt 10%


16

diƯn tÝch rõng gåm c¸c hƯ sinh th¸i rõng hiƯn có và cùng với cộng đồng Quốc
tế, Việt Nam sẽ tham gia thị trường lâm sản bằng các sản phẩm được dán nhÃn
là khai thác hợp pháp từ các khu rừng đà được cấp chứng chỉ trong khối AFTA
và WTO[12].
Hiện nay ë ViƯt Nam, tiªu chn qc gia vỊ QLRBV được tổ công tác
FSC Việt Nam biên soạn trên cơ sở điều chỉnh bổ sung những tiêu chuẩn và
tiêu chí qu¶n lý rõng cđa FSC qc tÕ, cã sư dơng những ý kiến đóng góp của
các nhà quản lý và sản xuất lâm nghiệp trong nước và trên thế giới, để vừa
đảm bảo những tiêu chuẩn quốc tế, vừa phù hợp với điều kiện thực tế ở Việt
Nam và đà được Ban giám đốc FSC quốc tế phê duyệt năm 1999. Do những
tiêu chuẩn và những tiêu chí áp dụng chung cho toàn quốc, đồng thời phải phù
hợp với tiêu chuẩn chung của quốc tế nên việc áp dụng không thể phù hợp
hoàn toàn trong mọi trường hợp và mọi điều kiện ở từng địa phương. Vì vậy,
khi áp dụng những tiêu chuẩn và những tiêu chí cần có sự mềm dẻo trong một
phạm vi nhất định, được các tổ chøc chøng chØ rõng quèc tÕ vµ FSC quèc gia
chÊp nhận [32], [23].
QLRBV đang được đặt ra như một vấn đề bức xúc cả về quan điểm,
phương pháp luận đến những giải pháp cụ thể. Các kết quả nghiên cứu vµ kinh
nghiƯm trong n­íc vµ qc tÕ vỊ QLRBV thùc sự là những bài học quý cho
quản lý rừng ở mỗi địa phương. Vấn đề đặt ra là quản lý rừng như thế nào
được coi là quản lý bền vững? Để quản lý tài nguyên rừng bền vững cần phải

thoả mÃn những điều kiện gì? Trong các giải pháp quản lý, giải pháp nào sẽ
tác động tích cực đến quản lý tài nguyên rừng bền vững trên địa bàn nghiên
cứu? Đây chính là những câu hỏi mà nghiên cứu này cần giải quyết tại Khu
bảo tồn thiên nhiên ĐaKrông.


17

Về cơ sở lý luận, ở Việt Nam đà có nhiều công trình nghiên cứu phân
tích những yếu tố ảnh hưởng đến quản lý sử dụng tài nguyên rừng bền vững.
Một số đề tài nghiên cứu đà bước đầu đề xuất các giải pháp cụ thể áp dụng
cho một số vùng như:
- Quản lý sử dụng tài nguyên rừng bền vững lưu vực sông Sê San của
Phạm Đức Lâm và Lê Huy Cường 1998 [15], các tác giả đà đưa ra các giải
pháp về quản lý và sử dụng tài nguyên rừng bền vững tại lưu vực sông Sê San;
- Quản lý bền vững rừng khộp ở EaSúp - Đắc Lắc của Hồ Viết Sắc 1998
[20], tác giả đà đề xuất một số giải pháp về xà hội và quản lý nhằm quản lý
bền vững rừng khộp ở Ea Súp - Đắc Lắc;
- Du canh với vấn đề QLBVR ở Việt Nam của Đỗ Đình Sâm 1998 [21],
tác giả đà phản ánh thực trạng du canh, đánh giá sự ảnh hưởng của nó đồng
thời nêu lên một số giải pháp chính sách về định canh và biện pháp kỹ thuật
canh tác trên đất dốc nhằm quản lý rừng bền vững ở Việt Nam;
- Sử dụng đất tổng hợp bền vững của Nguyễn Xuân Quát năm 1996
[19], tác giả đà nêu lên những điều cần biết về đất đai, phân tích tình hình sử
dụng đất, các mô hình sử dụng đất bền vững, mô hình khoanh nuôi phục hồi
rừng ở Việt Nam, đồng thời đà đề xuất tập đoàn cây trồng nhằm sử dụng bền
vững và ổn định đất rừng;
- Cấu trúc rừng tự nhiên ở Tây Nguyên và khả năng ứng dụng trong
kinh doanh rừng của Trần Văn Con năm 1999 [10], tác giả đà đánh giá lại các
nghiên cứu về cấu trúc rừng tự nhiên ở vùng Tây Nguyên để xem xét thực

trạng sự hiểu biết, khả năng ứng dơng sù hiĨu biÕt vỊ cÊu tróc rõng tù nhiªn
trong kinh doanh rừng tự nhiên;
- Nghiên cứu phát triển bền vững vùng đệm Khu bảo tồn thiên nhiên và
Vườn Quốc gia của Trần Ngọc Lân và cộng sự (1999) thực hiện tại Vườn
Quốc gia Pù Mát [16], các tác giả đà đề xuất một số giải pháp về mặt xà hội
và kinh tế để phát triển bền vững vùng đệm cđa V­ên Qc gia Pï M¸t;


18

- Đánh giá tình hình khai thác sử dụng lâm sản ngoài gỗ và đề xuất giải
pháp quản lý rừng bền vững ở vùng đệm Khu bảo tồn thiên nhiên Pù Huống
của Suree và Đào Thị Minh Châu (2004) [8], các tác giả đà đánh giá thực
trạng và ảnh hưởng của việc khai thác, sử dụng lâm sản ngoài gỗ đồng thời đÃ
nêu ra được một số giải pháp về xà hội và kỹ thuật nhằm quản lý rừng bền
vững ở vùng đệm Khu bảo tồn thiên nhiên Pù Huống;
- Dự án kết hợp bảo tồn và phát triển (Integrated Conservation and
Development - ICD) tại Vườn Quốc gia Cát Tiên do Quỹ Quốc tế về Bảo tồn
thiên nhiên (WWF) tài trợ (1997), trong dự án này chỉ đưa ra giải pháp đồng
quản lý tài nguyên trong đó đề cập đến sự tham gia quản lý tài nguyên rừng
của cộng đồng địa phương và các bên liên quan mà chưa đề cập đến các giải
pháp khác nhằm QLRBV.
Tuy các kết quả nghiên cứu liên quan đến quản lý rừng ở khu vực còn
chưa đầy đủ và có tính hệ thống, nhưng những kết quả đó sẽ là những tài liệu
tham khảo có giá trị cho việc nghiên cứu một số giải pháp chính áp dụng cho
công tác quản lý sử dụng rừng theo hướng tổng hợp và bền vững trên địa bàn
Khu BTTN ĐaKrông - tỉnh Quảng Trị.
Đối với Khu BTTN ĐaKrông cho tới nay mặc dù đà được thành lập và
đi vào hoạt động từ đầu những năm 2000 nhưng trong thực tiễn quản lý tài
nguyên rừng còn gặp nhiều khó khăn do chưa có những nghiên cứu cụ thể về

các giải pháp. Vì địa bàn Khu BTTN rộng và tình hình quản lý, bảo vệ rừng
phức tạp nên cần thiết phải vận dụng đồng thời nhiều biện pháp kinh tế, xà hội
và khoa học công nghệ. Những biện pháp này phải giải quyết hài hoà những
vấn đề kinh tế, xà hội, môi trường với bảo tồn. Chúng phải được lồng ghép với
nhau để đáp ứng đồng thời được 3 mục đích là góp phần nâng cao đời sống
kinh tế, ổn định xà hội và bảo vệ được Khu BTTN. Vì lý do đó, đề tài luận văn
đặt ra là cÇn thiÕt.


19

Chương II-Mục tiêu, đối tượng, giới hạn, nội dung và
phương pháp nghiên cứu
2.1. Mục tiêu nghiên cứu
2.1.1. Mục tiêu tổng quát
Mục tiêu tổng quát của đề tài nhằm góp phần xây dựng cơ sở khoa học
cho việc quản lý bền vững tài nguyên rừng tại Khu bảo tồn thiên nhiên
ĐaKrông tỉnh Quảng Trị.
2.1.2. Mục tiêu cụ thể
* Về lý luận:
- Làm rõ được thực trạng quản lý tài nguyên rừng ở Khu bảo tồn thiên
nhiên ĐaKrông.
- Xác định được các yếu tố thuận lợi và khó khăn đối với quản lý tài
nguyên rừng ở Khu bảo tồn thiên nhiên ĐaKrông.
* Về thực tiễn:
- Đề xuất được một số giải pháp góp phần quản lý bền vững tài nguyên
rừng ở Khu bảo tồn thiên nhiên ĐaKrông
2.2. Đối tượng nghiên cứu
Khu bảo tồn thiên nhiên ĐaKrông và một số khu vực vùng đệm thuộc
địa phận huyện ĐaKrông, bao gồm các xà ĐaKrông, Mò ó, Triệu Nguyên, Ba

Lòng, Hải Phúc, Ba Nang, Tà Long, Húc Nghì, Tà Rụt, A Bung.
2.3. Giới hạn nghiên cứu:
- Về địa điểm: Giới hạn trong Khu bảo tồn thiên nhiên ĐaKrông và 10
xà khu vực vùng đệm thuộc địa phận huyện ĐaKrông, bao gồm: ĐaKrông, Mò
ó, Triệu Nguyên, Ba Lòng, Hải Phúc, Ba Nang, Tà Long, Húc Nghì, Tà Rụt, A
Bung.
- Về nội dung: Chỉ tập trung nghiên cứu những vấn đề có liên quan đến
tài nguyên rừng, những giải pháp góp phần quản lý bền vững tài nguyên rừng
tại Khu bảo tồn thiên nhiên ĐaKrông.


20

2.4. Nội dung nghiên cứu
- Đánh giá ảnh hưởng của các yếu tố tự nhiên và kinh tế - xà hội đến
công tác bảo tồn ở Khu bảo tồn thiên nhiên ĐaKrông.
- Đánh giá thực trạng quản lý tài nguyên rừng ở Khu bảo tồn thiên
nhiên ĐaKrông
- Đánh giá hiệu quả các giải pháp đà áp dụng trong quản lý bảo vệ rừng
ở Khu bảo tồn thiên nhiên ĐaKrông
- Đề xuất một số giải pháp góp phần quản lý bền vững tài nguyên rừng
tại Khu bảo tồn thiên nhiên ĐaKrông.
2.5. Phương pháp nghiên cứu
2.5.1. Cách tiếp cận và quan điểm nghiên cứu của đề tài
* Cách tiếp cận :
Nghiên cứu này xuất phát từ việc khảo sát, đánh giá các nhân tố chi
phối đặc thù đến công tác bảo tồn ở Khu bảo tồn thiên nhiên ĐaKrông như vị
trí địa lý, điều kiện tự nhiên, kinh tế - xà hội Khu bảo tồn thiên nhiên; thực
trạng quản lý tài nguyên rừng ở khu vực nghiên cứu, cơ chế, chính sách, từ
đó nhìn nhận rõ mối quan hệ của công tác quản lý bảo tồn tài nguyên rừng với

các vấn đề kinh tế, xà hội của địa phương để thấy rõ được những điểm mạnh,
điểm yếu, cơ hội và thách thức đối với công tác bảo tồn tài nguyên rừng ở đây.
Trên cơ sở đó, đề tài đi sâu xem xét hiệu quả của các giải pháp đà áp dụng,
những ưu điểm, nhược điểm cần khắc phục làm cơ sở cho việc đề xuất các giải
pháp góp phần quản lý bền vững tài nguyên rừng tại Khu bảo tồn thiên nhiên
ĐaKrông. Phương hướng giải quyết vấn đề được khái quát hóa qua sơ đồ sau:


21

Các thông tin về
kinh tế, xà hội
liên quan đến
quản lý rừng

Các thông tin về
điều kiện tự nhiên
liên quan đến
quản lý rừng

Các thông tin về
thực trạng quản lý
rừng trong vùng
nghiên cứu

Các thông tin về
thể chế, chính
sách trong quản
lý rừng


Phân tích, xử lý, đánh giá
thông tin

Đề xuất các giải pháp quản lý rừng
bền vững
Hình 2.1: Sơ đồ các bước tiếp cận nghiên cứu
Trên cơ sở đó, vấn đề nghiên cứu được xem xét trên các quan điểm sau:
- Quan điểm hệ thống: Rõng võa lµ mét bé phËn cđa hƯ thèng tù nhiên,
vừa là một bộ phận của hệ thống kinh tế - xà hội và bản thân nó cũng là một
hệ thèng hoµn chØnh.
+ Rõng lµ mét bé phËn cđa hƯ thống tự nhiên: Sự tồn tại và phát triển
của rừng phụ thuộc vào những quy luật của tự nhiên, chịu ¶nh h­ëng cđa
nhiỊu u tè kh¸c trong hƯ thèng tù nhiên như địa hình, thổ nhưỡng, khí hậu,
sinh vật, vv... Do rừng có quan hệ chặt chẽ với các yếu tố tự nhiên mà có thể
quản lý rừng bằng tác động vào các yếu tố tự nhiên. Trên quan điểm hệ thống
có thể xem những giải pháp quản lý rừng như là những giải pháp điều khiển
hệ thống tự nhiên để ổn định thành phần và các mối quan hệ trong hệ sinh thái
rừng. Vì vậy, việc nghiên cứu sự ảnh hưởng của các yếu tố tự nhiên đến công
tác quản lý rừng là cần thiết.


22

+ Rõng cịng lµ mét bé phËn cđa hƯ thèng kinh tế vì sự tồn tại và phát
triển của nó gắn liền với các hoạt động kinh tế của con người như trồng rừng,
khai thác lâm sản, làm nương rẫy, đốt than, săn bắt chim thú, phát triển du
lịch, vv... Các hoạt động này lại phụ thuộc vào mức sống kinh tế, cơ cấu ngành
nghề, nhu cầu thị trường, khả năng đầu tư, lợi nhuận, vv... Ngoài ra, rừng cũng
tác động mạnh mẽ tới các yếu tố kinh tế thông qua việc cung cấp nguyên liệu,
năng lượng và thông tin cho nhiều hoạt động kinh tế của con người. Vì có

quan hệ chặt chẽ với các yếu tố trong hệ thống kinh tế nên có thể quản lý rừng
bằng việc tác động vào những yếu tố kinh tế.
+ Rừng cũng là một thực thể xà hội. Sự tồn tại và phát triển của rừng
phụ thuộc nhiều vào hoạt động của con người. Những hoạt động đó theo
hướng bảo vệ và phát triển rừng hay tàn phá rừng luôn bị chi phèi bëi nhiÒu
yÕu tè x· héi nh­ nhËn thøc vÒ giá trị của rừng, ý thức với pháp luật nhà nước,
trách nhiệm với cộng đồng, kiến thức về quản lý rừng, văn hoá, phong tục tập
quán liên quan đến quản lý rừng, vv... Do rừng có liên quan chặt chẽ với các
yếu tố xà hội nên có thể quản lý rừng bằng cách tác động vào những yếu tố xÃ
hội. Vì vậy, việc phân tích những ảnh hưởng của yếu tố xà hội đến rừng và
hiệu quả quản lý rừng là rất cần thiết và quan trọng.
- Quản lý rừng bền vững phải là những hoạt động tổng hợp và đa
ngành:
Quản lý rừng là hoạt động mang tính kỹ thuật, nhưng cũng mang tính
kinh tế - xà hội sâu sắc. Vì vậy, những giải pháp quản lý rừng sẽ bao gồm cả
những giải pháp khoa học công nghệ và những giải pháp kinh tế - xà hội.
Những giải pháp này sẽ liên quan đến các ngành như Lâm nghiệp, Nông
nghiệp, Thuỷ lợi, Địa chính, Giao thông, Môi trường, Văn hoá, Giáo dục,
Quốc phòng, vv...
- Quản lý rừng bền vững phải là hoạt động phát triển: Quản lý rừng bền
vững vừa phải bảo tồn được tài nguyên thiên nhiên vừa phải hướng vào cải


23

thiện chất lượng cuộc sống con người. Vì vậy nghiên cứu quản lý rừng bền
vững phải được thực hiện theo cách tiếp cận của nghiên cứu phát triển.
- Quản lý rừng bền vững cần phải có sự tham gia: Nằm trên một địa
bàn rộng lớn, rừng có mối liên quan chặt chẽ với đời sống xà hội đặc biệt là
đối với những người dân sống gần rừng. Vì vậy, công tác quản lý bảo vệ rừng

không chỉ là trách nhiệm của Ban quản lý Khu bảo tồn mà còn là trách nhiệm
chung của toàn xà hội, trong đó đặc biệt chú ý đến sự tham gia của những
người dân sống gần rừng.
2.5.2. Phương pháp nghiên cứu cụ thể
2.5.2.1. Thu thập các thông tin, số liệu và kết quả nghiên cứu đà có
- Những kết quả nghiên cứu và kinh nghiệm về quản lý rừng của các
nước trên thế giới.
- Những tài liệu về thể chế, chính sách trong nông lâm nghiệp ở Việt
Nam như: Luật đất đai, Luật Bảo vệ và Phát triển rừng, Chính sách giao đất
lâm nghiệp, Chính sách khoán bảo vệ rừng; quyền hưởng lợi, nghĩa vụ của hộ
gia đình, cá nhân được giao, được thuê, nhận khoán rừng và đất lâm nghiệp;
trách nhiệm quản lý Nhà nước các cấp về rừng và đất lâm nghiệp, , vv...
- Những tài liệu liên quan đến điều kiện tự nhiên, kinh tế - xà hội của
Khu bảo tồn ĐaKrông.
- Những tài liệu, kết quả nghiên cứu về tài nguyên động thực vật tại
Khu bảo tồn ĐaKrông.
2.5.2.2. Phương pháp đánh giá nhanh nông thôn RRA và đánh giá nông
thôn có sự tham gia PRA.
- Phương pháp đánh giá nhanh nông thôn RRA.
+ Lựa chọn 50 hộ gia đình và cán bộ địa phương để phỏng vấn theo
phương pháp đánh giá nhanh nông thôn RRA. Các hộ gia đình và cán bộ được
lựa chọn từ 10 xà vùng đệm của Khu bảo tồn thiên nhiên ĐaKrông, bao gồm:
ĐaKrông, Mò ó, Triệu Nguyên, Ba Lòng, Hải Phúc, Ba Nang, Tà Long, Húc


24

Nghì, Tà Rụt, A Bung. Tiêu chí để lựa chọn là các hộ gia đình phải đại diện
cho các địa vị xà hội, mức sống, địa bàn cư trú, nhận thức, thành phần dân tộc,
khả năng tiếp cận, lĩnh vực quản lý (nếu là cán bộ) khác nhau.

+ Địa điểm khu vực thu thập thông tin có tính đại diện cao, phản ánh
đúng thực trạng vấn đề nghiên cứu.
+ Các chủ đề phỏng vấn tập trung vào: Mức sống của các hộ gia đình,
những hoạt động có ảnh hưởng đến tài nguyên rừng, sự phụ thuộc của người
dân vào rừng, vai trò của người dân đối với công tác bảo tồn tài nguyên rừng
và những kiến nghị, đề xuất của họ,
+ Công cụ điều tra chủ yếu là bảng các câu hỏi phỏng vấn với những
câu hỏi định hướng, bán định hướng và không định hướng.
- Phương pháp đánh giá nông thôn có sự tham gia PRA được áp dụng
để kiểm tra kết quả, củng cố những thông tin thu được từ phương pháp kế thừa
cũng như phương pháp đánh giá nhanh nông thôn; xác định những cơ hội,
thách thức đến quá trình quản lý rừng; lựa chọn các giải pháp ưu tiên cũng như
đề xuất và kiến nghị những biện pháp quản lý sử dụng có hiệu quả và hợp lý
tài nguyên rừng.
+ Đề tài thực hiện những cuộc trao đổi, thảo luận với 10 nhóm người
đại diện cho 10 xà với những chủ đề có liên quan đến quản lý rừng. Trong quá
trình trao đổi, thảo luận, người thực hiện đề tài giữ vai trò là người thúc đẩy và
định hướng cuộc trao đổi mà không đưa ra những ý kiến mang tính quyết định
và không áp đặt tư tưởng của mình cho những thành viên tham gia thảo luận.
+ Lựa chọn đối tượng: Nhóm đối tượng phỏng vấn, thảo luận thu thập
thông tin đa dạng, phong phú về địa vị xà hội, mức sống, địa bàn cư trú, nhận
thức, thành phần dân tộc, khả năng tiếp cận, lĩnh vực quản lý khác nhau nhưng
đều có sự hiểu biết về các vấn đề có liên quan đến quản lý rừng.
+ Nội dung trao đổi, thảo luận tập trung vµo:


×