Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (319.53 KB, 22 trang )
<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>
<b>Liên tiếp hơn 50 vụ án, trong đó có 25 vụ cướp táo bạo chủ yếu nhắm vào</b>
<b>các chủ xe vận tải diễn ra trên địa bàn các tỉnh miền Đông và TP HCM khiến</b>
<b>dư luận bàng hồng, giới chủ xe hoang mang, cịn các cơ quan chức năng</b>
<b>như ngồi trên lữa.</b>
<b>Chân tướng tên cướp theo lời khai</b>
Hàng loạt quyết định khởi tố vụ án được ký nhưng thủ phạm vẫn bóng chim
tăm cá. Lần mị theo từng vỏ đạn, mô tả của các nạn nhân, cuối cùng ánh
sáng cũng hé mở. Một họa sĩ sinh sống tại Đồng Nai đã được nhờ đến. Dựa
trên lời khai của 20 người bị hại, những nét phác thảo đầu tiên về chân dung
tên tướng cướp dần hiện ra dưới bàn tay tài hoa của ông. Sau vài lần chỉnh
sửa, đối chiếu, nạn nhân khẳng định: ""Chính là hắn!"". Cuộc xác minh sau đó
kết hợp với tàng thư và các tài liệu trinh sát cho phép khẳng định: thủ phạm là
Nguyễn Chí Dũng, ngụ Tân Khai, Bình Long (Bình Phước). Biệt danh của y là
Dũng chim xanh. Nhưng đến lúc này, một câu hỏi lớn được đặt ra: Dũng chim
xanh đang ở đâu?
<b>Truy tìm</b>
Tóc dài cợm gáy, giỏi võ, sử dụng thành thạo súng
ngắn và liều lĩnh sẵn sàng đổi mạng nếu bị truy đuổi,
đó là những đặc điểm mà các trinh sát hình sự thuộc
lịng khi nhận nhiệm vụ truy bắt Dũng chim xanh.
Rạng sáng 4/6/2001, hai trinh sát Trần Thanh Tồn và
Hà Thanh Tun (Cơng an tỉnh Đồng Nai) phát hiện
Dũng trên quốc lộ 56. Một cuộc đấu súng đã diễn ra
ngay giữa khuya, Dũng lại vẩy đạn về phía trinh sát
và đào thốt trước làn đạn bắn đuổi. Cảm thấy vòng
vây đang siết dần, Dũng chim xanh tạm nằm yên
nhưng chỉ gần hai tháng sau, ngày
29/7/2001, chúng lại tổ chức đi ăn hàng. Chưa kịp
ra tay thì bị hai trinh sát hình sự Võ Thành Cơng và
Ngơ Quang Hậu (Cơng an huyện Bình Chánh)
theo dõi. Hai tên đã ra tay trước, bắn xuyên ống chân
một trinh sát để tẩu thoát. Phải bắt được chúng
bằng mọi giá, Công an tỉnh Đồng Nai hạ quyết tâm
và tung những trinh sát giỏi nhất vào trận. Hy vọng lóe
lên khi họ khoanh vùng được nơi Dũng thuê nhà trọ
cùng vợ con tại TP HCM là một trong hai quận Tân
Bình và Gò Vấp. Con Dũng còn nhỏ nên chắc chắn vợ chồng y sẽ đưa đón cháu đi học
hàng ngày. Hàng chục trường tiểu học, hàng trăm học sinh cùng tên được lập danh sách
và bí mật xác minh theo phương pháp loại trừ. Cuối cùng thì địa chỉ của tên cướp trứ
danh này cũng được khoanh tròn: K41/1 Trương Minh Giảng, phường 17, Gò Vấp.
<b>Sa luới và đối phó</b>
Một kế hoạch tỉ mỉ được vạch ra. Khơng thể bắt Dũng trên đường khi y đưa đón
con đi học. Dũng giỏi võ, bắn súng ngắn thành thạo, luôn lận lưng một khẩu K54
đạn đã lên nòng và chắc chắn sẽ chống trả. Trong trường hợp đó các trinh sát
khơng thể nổ súng vì sẽ nguy hiểm cho người đi đường hoặc con của Dũng.
Sáng 15/10/2001, Dũng vừa dắt xe ra khỏi nhà để đưa con đến trường thì bất
ngờ những người tập thể dục cạnh nhà và cả mấy chàng xe ơm từ hai phía lao
đến. Chưa kịp phản ứng, hai tay y đã nằm trong còng. Hàng giờ sau đó, y mới
biết người bắt mình là các trinh sát Công an tỉnh Đồng Nai.
<i>Dũng </i>
<i>"chim </i>
<i>xanh".</i>
Phương
tiện gây
án của
băng
cướp
Dũng
chim
quận Bình Thạnh (TP HCM)
bắt về tội trộm cắp và tàng
trữ vũ khí trái phép và sau
đó TAND TP HCM tuyên phạt
bốn năm tù. Tháng 10/1989,
vừa ra trại khoảng năm
tháng, Dũng lại bị bắt về tội
cướp tài sản. Trong thời gian
bị giam giữ tại trại Bến Lớn,
Dũng lại đánh người gây
thương tích nên được “tặng
thêm” mầy năm tù, đến
tháng 10/1992 mới được tha,
Tháng 11/1995, Dũng cùng
một “đồng nghiệp” là Hoàng
Ngọc Phương trộm xe máy,
Phương bị bắt, Dũng trốn
thoát được cho đến khi bị bắt
theo lệnh truy nã (tháng
2-1996). Sau đó, TAND tỉnh
Sơng Bé (cũ) tuyên phạt 18
tháng tù.
54 vụ trộm cướp trên địa bàn các tỉnh Đồng
Nai, Tây Ninh Long An, TP HCM, Bà Rịa-Vũng
Tàu… trong vòng bốn năm do Dũng và đồng
bọn gây ra với hàng chục quyết định khởi tố đã
đủ để chứng minh “tầm cỡ” của y. Bộ Công an
quyết định ủy thác điều tra vụ án này cho Công
an tỉnh Tiền Giang. Lại bắt đầu những chuỗi
ngày đối phó với tên cướp đầy thủ đoạn. Chỉ
cắp sách đến trường có hai năm, thời gian cịn
lại Dũng tự học và “thể nghiệm” những thủ
đoạn cướp giật tàn bạo học võ và bắn súng.
Kết quả của quá trình “tự đào tạo” ấy đã biến y
thành một kẻ ít chữ nhiều mưu. Dự liệu trước
bị bắt Dũng đã dặn Phạm Văn Đỉnh và đồng
bọn trong trường hợp y bị bắt thì tên Đỉnh ở
ngồi tiếp tục gây ra những vụ cướp với thủ
đoạn tương tự nhằm đánh lạc hướng cơ quan
điều tra. Và chúng đã thực hiện đúng như thế.
Những ngày đầu bị bắt, Dũng chim xanh nhất
quyết không khai nhận. Trong khi đó, liên tục
những ngày 22/10 và 11/11/2003, hai vụ cướp xe
tải giữa đêm khuya bằng súng K54 được Phạm
Văn Đỉnh và đồng bọn thực hiện. Có ý kiến băn
khoăn: Liệu có bắt lầm? Nhưng cuối cùng cơ
quan điều tra vẫn khẳng định: Nguyễn Chí Dũng
là thủ phạm chính của hàng loạt tội ác. Những vụ
cướp xảy ra sau ngày y vào tù chẳng qua là đám
hỏa mù mà đồng bọn y tung ra.
<b>Đợi một ngày tàn</b>
Đa mưu nhưng rồi Dũng vẫn phải khuất phục.
Y đã bị dồn vào thế chân tường và phải dẫn
cán bộ điều tra về tận Bình Phước đào súng
đạn mà y dặn vợ chôn giấu. Những cuộc khám
xét diễn ra trong đêm và được bảo vệ cẩn mật,
ngồi gia đình Dũng và chính quyền địa
phương, những người hàng xóm khơng hề
biết. Hai tay bị cịng, mắt Dũng vẫn dáo dác tìm đường thốt nhưng vơ vọng. Các
trinh sát đã cột tay của y vào tay mình khi buộc y đưa đến nơi cất giấu vũ khí. Tàn
nhẫn và liều lĩnh, sẵn sàng nhả đạn vào những người vơ tội nhưng hình như Dũng
chim xanh không đủ can đảm để đối diện với cái giá phải trả. Đã hai lần tại trại tạm
Những vụ cướp táo bạo
Ngày 25/4/2001, Dũng chim xanh
và Phạm Văn Đỉnh chặn xe ô-tô
Giao, huyện Long Khánh (Đồng
Nai). Khi nạn nhân đinh chống cự,
chúng đã bắn vỡ kính xe và lục
sốt cướp bốn triệu đồng. Ngày
20/5/2001, chúng lại chặn một
chiếc xe trên quốc lộ 13, Bến Cát
(Bình Dương) và cướp của chủ
hàng Nguyễn Thị Lệ 10 triệu đồng.
Ba ngày sau đó, chúng lại thực
hiện một vụ cướp trên quốc lộ 56
và lấy đi 4,8 triệu đồng. Ngày
27/5/2001, chúng chặn xe tải ở
khu vực xã Nha Bích, huyện Bình
Long (Bình Phước) và cướp 43
triệu đồng. Táo tợn hơn, chúng đã
bảy lần đột nhập vào trụ sớ của
các cơ quan cơng an để ăn trộm.
Trong đó năm lần đột nhập và trụ
sớ Phòng CSGT tỉnh Tây Ninh, lấy
đi ba xe máy và 188 bộ hồ sơ
đăng ký xe; hai lần đột nhập vào
trụ sớ công an huyện Bình Long
(Bình Phước) lấy đi ba xe máy.
Tổng cộng 15 bị can trong băng
cướp Dũng chim xanh đã thực hiện
54 vụ, chiếm đoạt số tài sản trị giá
675 triệu đồng và bốn cây vàng.
Công an đã thu giữ của bọn chúng
ba khẩu súng, hai lựu đạn, 163
viên đạn và nhiều phương tiện gây
án khác. Dũng và đồng bọn còn
thực hiện một vụ hiếp dâm trẻ em,
giam của Công an tỉnh Tiền Giang y chụp tay vào ổ điện trong các buổi hỏi cung
nhằm tự sát nhưng khơng thành cơng, phải sống để nhìn những gì đang chờ đợi
mình. Hai tuần nữa, Dũng và 14 đồng bọn của y, những kẻ cùng đi cướp, cùng tham
gia các vụ trộm và tiêu thụ tài sản do phạm tội mà có sẽ hầu tịa.
Lăn lộn với cuộc sống giang hồ, tự đào tạo mình thành một tên tướng cướp khét
tiếng nhưng Dũng chim xanh đã khơng nhìn ra bài học: mọi tội ác rồi sẽ phải trả giá.
(<i>Theo Pháp Luật</i>)
<b>Trong những năm 1976 - 1980, thị xã Vinh và những vùng lân cận lo sợ bởi những vụ </b>
<b>cướp giật của một băng cướp trang bị vũ khí nóng. Khơng khí sợ hãi và lo lắng lan rộng </b>
<b>khắp vùng.</b>
<b>Lời đồn thổi và sự thật</b>
Cứ 20g tối là đường phố Vinh đã vắng tanh vắng ngắt, chủ nhân của những ngơi nhà
thuộc loại "có máu mặt" trong thị xã đều cửa đóng then cài. Người ta đồn rằng băng
cướp đó được cầm đầu bởi một tướng cướp có tên Trương Hiền. Trương Hiền giỏi võ
và bắn súng rất nhanh. Ngoài đời đàn em thường gọi đại ca Trương Hiền là Toọng.
Theo ông Nguyễn Thanh Huyền, nguyên Phó Trưởng CA thị xã Vinh, hồi đó trên địa
bàn thị xã Vinh thường xuyên xảy ra cảnh móc túi, trấn lột, cướp giật tại các điểm
nóng như ga tàu, bến xe, chợ Vinh. Toán cướp Toọng cầm đầu gây nhiều vụ chấn
động, làm bất an trong dân chúng địa phương. Vì là địa điểm trung chuyển hành
khách từ Bắc vào Nam và ngược lại nên Vinh trở thành cái rốn chứa tệ nạn xã hội, với
đủ mọi thành phần du đãng...
tướng cướp vào chân ghế. Nhưng chưa đầy ba tiếng đồng hồ sau, Toọng đột ngột biến
mất. "Thật kỳ lạ! Khi cùm chân tướng cướp, tơi đã khóa chắc chắn rồi, chẳng biết
bằng cách nào mà anh ta thoát được", Trung tá Phạm Hồng Quang nhớ lại.
Toọng giỏi võ, khôn khéo và rất liều mạng. Điển hình là vụ đại náo chợ Vinh của
Toọng. Khi ấy, bị CA Nghệ An cùng hàng trăm người dân vây bắt, Toọng vẫn liều
mình chống trả. Trong nửa giờ đồng hồ, hắn hai tay hai súng cố thủ trên một nóc nhà.
Rồi, Toọng liều mạng từ nóc nhà nhảy xuống giữa chợ để mở đường máu, cắn răng
chịu đựng một cơn mưa gạch đá và hàng trăm chiếc địn gánh ném theo và trốn thốt
ra đường Bến Thủy. Bị CA truy đuổi trong một thời gian khá dài, Toọng lẩn trốn
trong rừng, sống vạ vật và kiệt sức...
Với bốn năm liên tục cướp giật và gieo rắc tội ác lên khắp thành Vinh, những người
dân nơi đây đã kịp dựng nên những câu chuyện truyền miệng... về Toọng. Họ kể rằng
xuất thân của Toọng là cao thủ trong làng biệt kích của chế độ VNCH xưa, được đào
thấy Toọng, giận giữ lao vào đánh.
Vào tháng 3-1979, băng cướp của Toọng bị đập tan. Toọng bị đưa ra xét xử và lĩnh án
tử hình.
Kể từ bình minh của lịch sử, dân tộc Việt đã luôn phải chinh phục thiên nhiên hoang
dã để mở cõi và đấu tranh chống ngoại xâm, nhất là những đạo quân từ phương Bắc
Trong suốt hai thời kỳ nhà Lý và nhà Trần từ thế kỷ 11 đến thế kỷ 14, Phật giáo trở
thành quốc giáo. Những phương thức nghiêm ngặt nhằm tự kiểm sốt, hồn thiện
mình và rèn luyện những bí kíp về thần, khí, ý, lực đã giúp các nhà sư khơng chỉ am
tường tơn giáo mà cịn rất giỏi võ. Thời Lý, các nhà sư thường tổ chức lễ hội ở chùa
chiền và đền miếu, nơi có những hoạt động mang đậm tinh thần thượng võ như đấu
vật và tỉ thí võ cơng tay khơng hoặc có binh khí.
Từ thế kỷ 15 đến thế kỷ 19, võ Việt Nam tồn tại ở hai dạng: bình dân (tại các lễ hội)
và triều đình (chương trình chuyên rèn luyện và thi võ). Các hoạt động võ thuật bình
dân được tổ chức rộng rãi trong dân chúng, thường tại các lò võ và các lễ hội truyền
thống, để giải trí, gia tăng tinh thần thượng võ, nâng cao kỷ luật và tự vệ. Nổi tiếng
trong các lễ hội này là các hình thức võ vật, đặc biệt là vật Liễu Đôi ở Nam Định.
Những đô vật tài giỏi được dân gian phong là "trạng Vật". Nhiều người trong số họ
sau này trở thành những lãnh tụ của các cuộc khởi nghĩa nông dân, như Phùng Hưng,
Nguyễn Hữu Cầu, Nguyễn Cừ, Lê Lợi, Tây Sơn tam kiệt (Nguyễn Nhạc, Nguyễn
Huệ, Nguyễn Lữ) và các đô đốc tài ba của họ v.v.
Cũng từ cuối thế kỷ 19 đến hết thế kỷ 20, nhiều trường phái võ thuật khác nhau đến từ
các nước châu Á khác du nhập dần vào Việt Nam như Judo, Aikido, Karate (Nhật
Bản), Wushu, Thiếu Lâm phái, Võ Đang phái, Nga Mi phái, Thái Cực quyền (Trung
Quốc); Pencak silat (Malayssia), Taekwondo (Triều Tiên), quyền Anh (châu Âu) v.v.
Người Việt đã tiếp nhận, chuyển hóa, kết hợp với võ thuật bản địa, làm phong phú
thêm kỹ thuật tự vệ của võ học dân tộc. Liên đoàn Võ thuật Cổ truyền Việt Nam được
thành lập năm 1991 với tinh thần gìn giữ và phát huy tinh hoa võ thuật của tổ tiên,
giới thiệu quảng đại đến bè bạn năm châu một phần vốn liếng di sản văn hóa được
tích lũy qua nhiều thế hệ người Việt. Liên đoàn cũng đang hướng tới mục tiêu xây
dựng một môn quốc võ[1]<sub>, mà trọng tâm là sự đầu tư cho các võ phái như Bình Định </sub>
phái Binh Dinh [2]<sub> cũng như các hệ phái võ thuật cổ truyền khác như, Nam Hồng Sơn </sub>
Thăng Long võ đạo Tân Khánh Bà Trà v.v.
Trước thế kỷ 16 vua chúa bổ dụng các võ tướng trong triều dựa trên những cống hiến,
công trạng hoặc gia thế của họ chứ không qua thi tuyển. Do đó, đa số các võ tướng
cao cấp trong triều là người của hoàng gia.
Năm 1253 triều Trần cho lập Giảng Võ đường, một trường rèn luyện võ dành cho
hồng thân quốc thích là các võ tướng. Cũng trong khoảng thời gian này Trần Quốc
Tuấn đã soạn Binh thư yếu lược, một cuốn sách nhằm chỉ dạy tướng sĩ rèn luyện binh
pháp, võ công. Nhờ dạy và học võ một cách bài bản, triều Trần đã có nhiều tướng lĩnh
nổi tiếng như Trần Quốc Tuấn, Trần Quang Khải, Trần Khánh Dư, Phạm Ngũ Lão
v.v, góp phần to lớn vào chiến thắng chống quân Nguyên Mông xâm lược.
Năm 1721 dưới thời Lê Dụ Tông trường đào tạo võ đầu tiên cho quảng đại quần
chúng được mở tại Thăng Long mang tên Võ Học sở, đồng thời bổ nhiệm một vị quan
chịu trách nhiệm giảng dạy binh pháp. Chúa Trịnh Cương rất lưu tâm đến việc đào tạo
tướng lĩnh, ông cũng là người biên soạn những quy định và thể chế thi tuyển võ học.
Năm 1731, chúa Trịnh Giang tiếp tục soạn thêm những quy định về võ thí sau khi
nhận ra có nhiều võ sinh xuất sắc đã trượt ở phần thi viết luận về chiến lược dùng
binh. Theo những quy định do nhà chúa sửa đổi, công phu võ học được nhấn mạnh
hơn là kiến thức về chiến lược quân sự. Tới năm 1740 Triều Lê đã xây dựng Võ Miếu
để tôn thờ các binh gia nổi tiếng của Trung Quốc và Việt Nam như Tôn Tử, Quản Tử
và Trần Quốc Tuấn. Trong suốt thời vua Lê chúa Trịnh (1428-1788) có 19 cuộc thi võ
được tổ chức và lấy đỗ 200 võ sinh. Các cuộc thi võ tại triều đình này chỉ ngưng một
thời gian ngắn khi Nguyễn Huệ đưa quân ra Bắc Hà "phò Lê, diệt Trịnh), và lại được
tái tổ chức sau đó dưới thời Tây Sơn.
năm Dần, Thân, Tị, Hợi; thi Hội tổ chức vào năm Tí, Ngọ, Mão, Dậu. Các cuộc thi võ
ở Huế thường tổ chức vào tháng bảy âm lịch, với những hạng mục như xách tạ, chiến
đấu tay không, sử dụng vũ khí (cơn, đao, khiên, thương), đặc biệt là sử dụng thiết côn
nặng gần 20 kg để đấu đối kháng và thương dài 3,3 mét để đâm các hình nộm. Trong
vịng thi thứ ba các thí sinh được kiểm tra kỹ năng bắn súng. Những thí sinh trúng
tuyển lại phải trải qua một vòng khảo thí về "võ kinh thất thư" (bảy bộ sách kinh điển
về võ học) [4]<sub>, đồng thời thi đấu tự chọn một trong 18 mơn loại võ khí thuộc thập bát </sub>
ban võ nghệ.
Từ 1802 đến 1884 nhà Nguyễn tổ chức 74 kỳ thi ở các cấp và tổng số có 3893 thí sinh
vượt qua được cả kỳ thi văn và thi võ. Các thí sinh trúng tuyển qua các kỳ thi với
thành tích cao được phong tiến sĩ võ.
Nhìn chung, các kỳ thi võ tại triều đình phong kiến Việt Nam rất khác với thí võ theo
Các kỳ thi võ tại triều đình phong kiến Việt Nam chấm dứt vào năm 1880 khi người
Pháp bắt đầu tăng cường nền cai trị của họ tại Việt Nam.
Bên cạnh những nét tương đồng với nền võ thuật rộng lớn của Trung Hoa do ảnh
hưởng từ giao lưu văn hóa trong lịch sử, các võ phái Việt Nam đặc biệt là các hệ phái
võ thuật cổ truyền vẫn thể hiện những đặc điểm khác biệt rõ rệt với các nền võ học
khác trên thế giới nói chung và Trung Hoa nói riêng:
Lời thiệu của các bài quyền, bài binh khí thường làm bằng thơ, phú có vần
điệu, đặc biệt có nhiều bài thơ Nôm, khác hẳn với các võ phái Trung Hoa hoặc
khơng có lời thiệu, hoặc lời thiệu chỉ là sự liệt kê thứ tự chiêu thức một cách
rời rạc.
Bộ pháp : vận hành theo đồ hình bát quái, với nguyên lý "lưỡng túc bát quái vi
căn" (hai chân lấy bát quái làm nền tảng), khi đứng thì vững như đá tảng, khi
di chuyển thì nhẹ nhàng linh hoạt như lá bay.
Cước pháp : nổi tiếng với rất nhiều đòn độc cước, trong đó có những địn đá
chớp nhống tấn cơng ở tầm trung đẳng trở xuống, ít có những địn đá ở tầm
thượng đẳng hoặc những đòn đá bay thiên về biểu diễn.
Thủ pháp : áp dụng theo ngũ hành pháp với nguyên lý "song thủ ngũ hành vi
bản" (hai tay lấy ngũ hành làm nền tảng).
Kỹ thuật: Các đòn thế được chọn lọc, phân thế riêng phù hợp với cách đánh
của từng dạng đối tượng, địa hình (có thể đánh trên lưng ngựa, voi, cọc gỗ,
thành giếng) nhất là lối đánh cận chiến một người chống lại nhiều người. Rất ít
có các kỹ thuật thiên về màu mè hoa dạng mà mang tính thực dụng cao độ.
Tận dụng triệt để lối đánh "cộng lực", dựa vào sức lực đối phương để triệt hạt
Binh khí: các võ phái Việt Nam truyền thống nổi tiếng với nhiều loại binh khí
được chế tác từ các dụng cụ thô sơ trong nghề nông, như Thiết lĩnh, một dạng
tương tự cơn nhị khúc; Bút chì (vũ khí) chế từ chiếc xẻng có buộc thêm dây
dài vào cán để phóng; Tề mi cơn làm bằng tre, tầm vơng cịn gọi là roi chiến.
Đặc biệt tề mi cơn với những kỹ thuật độc đáo như thế "đâm so đũa", một
tuyệt kỹ bí truyền chưa có cách hóa giải[5]. Các võ phái tại Bình Định cịn
thường xun phổ dụng mơn binh khí là dải lụa được buộc vật nặng ở đầu,
một vũ khí mềm hơn nhuyễn tiên của Trung Hoa, nhưng không kém phần uy
lực thuộc thập bát ban võ nghệ Việt Nam.
Wapedia: For Wikipedia on mobile phones
Các hệ phái võ thuật cổ truyền ở Việt Nam đa dạng nhưng có thể xếp vào 5 nhóm
Các phái võ Bắc Hà ban đầu đều phát triển ở miền Bắc Việt Nam dù có võ phái sau đó
đã ảnh hưởng lan rộng đến các khu vực khác trong cả nước. Các phái này bao gồm:
Vật Liễu Đơi : Võ vật có truyền thống lâu đời và rất phổ biến tại miền Bắc Việt
Nam. Nhiều làng tổ chức thi đấu vật vào các lễ hội mùa xuân. Lễ hội Vật Liễu
Đôi tổ chức thường niên ở làng Liễu Đôi, xã Liêm Túc, huyện Thanh Liêm,
Hà Nam.
Nhất Nam : có lịch sử lâu đời nhất trong các võ phái cổ truyền Việt Nam, có
khởi nguồn từ Thanh Hóa, Nghệ An. Ông tổ của môn vật truyền thống Việt
Nam, Nguyễn Tam Chinh, sinh ra tại vùng này. Đây cũng là vùng đất địa linh
nhân kiệt sản sinh nhiều danh tướng Việt Nam lẫy lừng trong lịch sử chống
ngoại xâm như Bà Triệu (225-248), Dương Đình Nghệ (?-938), Lê Lợi v.v.
Trong ba cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông xâm lược, nhà Trần chủ yếu
dựa vào mười vạn binh sĩ từ các tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An.
Nam Hồng Sơn : do võ sư Nguyễn Văn Tộ sáng lập dựa trên cơ sở chương
trình rèn luyện võ cổ truyền dân tộc từ thời Nguyễn và vay mượn thêm một số
kỹ thuật của võ Trung Hoa.
Việt Võ đạo (Vovinam): Vovinam Việt Võ Đạo là môn võ được võ sư Nguyễn
Lộc sáng lập vào năm 1938. Đây là hệ thống pha trộn võ học gia đình, võ Việt
Nam và các trường phái võ các nước khác như Judo, Karate.... Võ phái dựa
trên kỹ thuật phản cơng ngang, đi từ dễ đến khó, từ đơn giản đến phức tạp.
Hà Nội và vùng phụ cận được xem là cái nôi của võ cổ truyền. Trước đây nhiều võ
sinh khu vực này đã vượt qua nhiều cuộc khảo thí võ rất gian nan do triều đình phong
kiến tổ chức tại Giảng Võ đường. Sau năm 1880 khi mà thi võ bị triều đình bãi bỏ,
nhiều võ gia vẫn tiếp tục bí truyền các kỹ năng lại cho con cháu.
Bình Định là vùng từng thuộc vương quốc Chămpa, nơi có truyền thống võ thuật lâu
đời mà những phù điêu của vương quốc Chăm cịn lưu giữ hình ảnh. Đây cũng là cái
nôi võ thuật miền Trung gắn liền với triều đại Tây Sơn (1778-1802). Trong thế kỷ 18,
một số võ sư nổi tiếng từ miền Bắc Việt Nam và Trung Quốc chuyển đến định cư tại
vùng này và dạy võ cho người dân địa phương. Trong số này có Trương Văn Hiến
(vùng Thanh Hóa, Nghệ Tĩnh), Trần Kim Hùng (có tổ tiên sáng lập thơn Trường
Đình, Tây Sơn), Diệp Kim Tịng (từ Phúc Kiến), Đinh Văn Nhưng (người Ninh Bình).
Những võ sư này đã rèn luyện võ nghệ cho anh em nhà Tây Sơn và hầu hết các tướng
sĩ của cuộc khởi nghĩa. [<i>cần dẫn nguồn</i>]
Từ cuối thế kỷ 18 các võ sư đã gây dựng tại Bình Định phái võ Tây Sơn (còn gọi là
Võ trận Tây Sơn) độc đáo, kết hợp của nhiều hình thức và kỹ thuật từ những võ phái
Bình Định khác nhau. Nguyên tắc của võ phái này là: "nhất mạnh, nhì nhanh, thứ ba
giỏi", nhấn mạnh tầm quan trọng đặc biệt của sức mạnh, sự khéo léo, và kỹ thuật có
uy lực thực dụng. Tuy nhiên, cùng với sự suy vi của dòng họ Tây Sơn, nhiều kỹ thuật
của phái võ trận này chỉ còn được truyền dạy trong các chi phái võ của các gia tộc tại
Bình Định.
Từ thời Tây Sơn đến nay, nhóm Bình Định bao gồm nhiều võ phái xuất phát từ Bình
Định và vùng phụ cận như: roi Thuận Truyền, quyền An Thái, quyền An Vinh và các
Điều cần nói ở đây là, tên gọi "Võ Bình Định" nguyên khởi xuất hiện vào thế kỷ thứ
15, do Nguyễn Trãi đặt và được truyền nối rồi ngộ nhận là mơn võ xuất phát từ vùng
Bình Định vào thời Tây Sơn. Theo cách lý giải của tủ sách <i>Tìm hiểu Võ thuật</i>, sau
cuộc khởi nghĩa thành công, Lê Lợi đặc biệt lưu tâm đến việc trui rèn võ nghệ cho
quân đội nên cho mở các kỳ thi võ và mở trường dạy võ. Nhà vua ủy thác cho nhà sư
Sa Viên là người huấn luyện võ nghệ cho nghĩa binh Lam Sơn từ năm 1415 mở võ
đường. Nguyễn Trãi đã đặt tên cho võ đường của nhà sư Sa Viên là Võ đường Bình
Định để tưởng nhớ cơng lao của Bình Định Vương Lê Lợi. Từ đó tên Võ Bình Định
được truyền nối khắp nước[6]<sub>.</sub>
Từ cuối thế kỷ 18, bị bại trận trước quân khởi nghĩa Tây Sơn, tàn quân nhà Nguyễn
bỏ chạy xuống phía Nam quy tụ về Đồng Nai tiếp tục tuyển mộ các võ sư để rèn binh
luyện khí. Sau khi nhà Nguyễn được thành lập năm 1802, nhiều người vùng này đã
vượt qua các kỳ thi võ của triều đình, theo đuổi binh nghiệp và trở thành nhiều võ
tướng. Một số hồng thân quốc thích nhà Tây Sơn, để trốn tránh sự truy nã trả thù của
Gia Long, cũng lưu lạc tới miền Nam, mang theo sở học của bản thân và âm thầm
truyền dạy trong các gia tộc, hình thành nên nhiều võ phái nổi tiếng.
Xuất thân đa dạng của người Việt trong Nam đã tạo nên những hệ thống võ thuật Nam
Bộ có nguồn gốc rất phong phú pha trộn từ các nhóm Bình Định, Thanh Hóa, Nghệ
Nhiều võ sư miền Nam nổi danh được ví với "tam nhật" (ba mặt trời) Hàn Bái, Bá Cát
và Bảy Mùa; "tam nguyệt" (ba mặt trăng) Trương Thanh Đăng, Quách Văn Kế và Vũ
Bá Oai; "tứ tú" (bốn vì sao) với Hồ Văn Lành, Trần Xil, Xuân Bình và Lý Huỳnh.
Nhiều võ sĩ miền Nam đã tham gia thượng đài với rất nhiều lần toàn thắng trước các
võ sư đến từ những quốc gia lân bang như Cao Miên, Lào, Xiêm. Trước năm 1975,
miền Nam cũng đã từng thành lập Tổng cuộc Quyền thuật Việt Nam của Tổng nha
Thanh niên trực thuộc Bộ Văn hóa Giáo dục và Thanh niên.
Sự giao lưu, ảnh hưởng lâu đời từ Trung Hoa trong suốt trường kỳ lịch sử đã tạo nên
ở Việt Nam những hệ phái võ thuật do các võ sư Trung Quốc hoặc võ sư Việt giảng
dạy. Đó có thể là hệ thống được chân truyền nguyên bản từ phương Bắc, và cũng có
thể là các hệ phái đã hỗn dung với kỹ thuật bản địa nhưng vẫn giữ nguyên tên gọi có
gắn với võ thuật Trung Hoa. Tuy nhiên, có một đặc điểm chung nhất cho các võ phái
có nguồn gốc Trung Hoa hiện đang được giảng dạy tại Việt Nam: hầu hết là những hệ
thống đã ít nhiều cải biên cho phù hợp với thể chất và văn hóa của người Việt. Danh
sách khơng đầy đủ các võ phái có nguồn gốc Trung Hoa trên lãnh thổ Việt Nam gồm:
Bắc Mã Sơn, Lâm Sơn Động, Phật gia quyền, Không Động, Vĩnh Xuân Quyền (Việt
Nam), Thiếu Sơn Phật Gia, Thiếu Lâm Long Phi, Thiếu Lâm Bắc Truyền Thiên Mục
Sơn, Thiếu Lâm Nội Gia Quyền, Thiếu Lâm Bắc Phái Mai Hãn, Thiếu Lâm Tự (võ),
Thiếu Lâm Sơn Đông và các võ phái như Võ Đang phái, Nga Mi phái v.v.
phái Cửu Long : do võ sư Trần Hoài Ngọc thành lập năm 1954 ở Việt Nam.
Khi ông di cư sang Pháp có phát triển mơn phái này tại Loire Atlantiques và
Côte d'Azur.
phái Nam Hổ Quyền : do võ sư Phillipe Đặng Văn Sung chấp chưởng. Đây là
một chi phái của Bình Định gia, hiện phát triển tại Nice.
Phái Trung Hòa : Nguyễn Trung Hòa là một trong những võ sư sáng lập Liên
đoàn Võ thuật Việt Nam tại Pháp. Phái Trung Hòa do võ sư Jean Quý, đệ tử
của Nguyễn Trung Hòa sáng lập sau khi sư phụ qua đời, hiện phát triển chủ
yếu tại Paris.
Vo Thuat : Phong trào Vo Thuat do Võ sư Nguyễn Văn Trung thành lập tại
Montpellier năm 1967, tại Grenoble năm 1970 và vùng Paris Ile de France
năm 1977. Võ sư Nguyễn Văn Trung là đệ tử của nhiều cựu võ sư ẩn sĩ của
Việt Nam (tại Bắc Ninh, Bắc Giang, Hà Nội, Hải Dương, Bà Rịa Vũng Tàu,
Sài Gòn Phú Nhuận, Marseille, Montpellier, Gap, Grenoble và Paris). Quê của
ông nội ở Huế (làng Bao La), quê của mẫu thân và phụ thân ở Bắc Ninh. Võ
sư sinh ra ở phố Tiền An tỉnh Bắc Ninh năm 1948.
Phái Thanh Long do võ sư Francis Fournie thành lập tại Toulouse. Bài tập là
các phương pháp nội gia, ngoại gia, các loại vũ khí truyền thống Việt Nam.
Sơn Lâm Hắc Hổ : phái võ do cố võ sư Vũ Ngọc Vinh thành lập, hiện do
Frederic Vũ, con trai võ sư Vinh làm chưởng môn giảng dạy tại Paris.
Trường phái Cây Lau : Cũng xuất xứ từ cố võ sư Nguyễn Trung Hòa như phái
Trung Hòa. Nguyễn Trung Hòa bắt đầu dạy tại Pháp năm 1948. Khi ông qua
đời năm 1975, cháu họ ơng là Bernard Võ Đình Quang phát triển võ phái tại
Paris.
Phái Lam Sơn : phát triển tại vùng Montpellier, đại võ sư của môn phái là
Jacques Trần Văn Ba.
Trường phái Song Long Khiên do Francois Brassecasse sáng lập và giảng dạy
tại Nevers. Kỹ thuật đào tạo bao gồm cả nội gia và ngoại gia.
Sơn Long Quyền Thuật hay Võ-Vietnam do võ sư Nguyễn Đức Mộc giới thiệu
vào Pháp năm 1950 và phát triển đến nay.
Phái Tây Sơn : xuất từ từ Phái Tây Sơn trong nước, hiện nay do võ sư Phan
Toàn Châu chấp chưởng tại Paris.
Phái Nam Hải : do võ sư Nghiêm An Thạch sáng lập tại Pháp khi sang Pháp
năm 1983. Là hệ phái hỗn hợp Lam Sơn, Bạch Hạc quyền, Thiếu Lâm (võ) và
Phái Kỳ Lân Chi Minh hiện do võ sư Trần Bá Đức, đệ tử của Nguyễn Trung
Hịa, làm chưởng mơn.
Phái Long Hải : do võ sư Trần Giác sáng lập, chương trình tập chú trọng đặc
biệt kỹ thuật khinh cơng và võ cổ truyền Việt Nam, hiện phát triển tại La
Rochelle.
Văn Võ Đạo : VAN VO DAO là một môn phái Võ Thuật Việt Nam.(Thể hiện
sự hòa hợp Văn học, Võ học và Đạo đức). Chưởng mơn: võ sư Kinh Chu.
Phái Hịa Long : do đại võ sư Vĩnh Long, chủ tịch Hội Võ thuật Việt Nam,
sáng lập và giảng dạy tại Paris.
Việt Vũ Đạo : chú trọng đặc biệt những triết lý võ học cổ truyền Việt Nam, thể
Quán Khí Đạo (Qwankido): do võ sư Võ Xuân Tòng sáng lập, hiện đang thịnh
hành ở Pháp.
Võ Đạo Việt Nam : Do Chu Tấn Cường sáng lập, hiện thịnh hành ở Đức.
<b>Đại Bàng đã ngừng tung cánh</b>
<b>Sáng 9/4, khi hay tin Đại tá Lý Đại Bàng qua đời, đồng chí, đồng đội </b>
<b>>> Đại tá Lý Đại Bàng, khắc tinh của tội phạm ma </b>
<b>túy đã ra đi mãi mãi</b>
Từ khi là lính săn bắt cướp (SBC) cho đến khi làm Trưởng
phòng CSĐT tội phạm về ma túy (PC17, Công an TP HCM),
Lý Đại Bàng vẫn vậy, vẫn hết mình với cơng việc, vẫn kiệm
lời khi nói về mình nhưng nhắc đến tên anh - mọi người nhớ
mãi đến một người hùng SBC, giỏi võ một thời tung hoành
trên đường phố để "săn bắt" những tên cướp liều lĩnh, táo
bạo xuất hiện khá nhiều ở TP HCM vào những năm đầu sau
ngày giải phóng.
Lý Đại Bàng vào Cơng an tháng 11/1977 thì năm 1978, 6
Đội SBC thuộc Phịng Cảnh sát hình sự và Công an quận 1, quận 5 được thành lập. Các đội
này là nơi tập hợp những trinh sát trẻ gan dạ, dũng cảm; giỏi võ thuật, bắn súng và lái xe.
Bởi lẽ, những "cảnh sát chìm" này phải luôn trong tư thế sẵn sàng rượt đuổi, đấu súng với
những tên tội phạm nguy hiểm nổi lên rất nhiều trong những năm đầu sau ngày giải phóng.
Hình ảnh những Cảnh sát hình sự trên những chiếc xe Honda 67 xốy nịng chạy với tốc độ
100 cây số/giờ để truy bắt cướp trở nên quá quen thuộc với người dân thành phố. Sau 10
năm kể từ ngày thành lập, lực lượng SBC với những tên tuổi trở thành thần tượng của
người dân thành phố như Lý Đại Bàng, Dương Minh Ngọc, Mai Văn Tấn… đã lập nhiều
chiến công, bắt giữ hàng trăm tên cướp đặc biệt nguy hiểm.
Riêng với Lý Đại Bàng, anh đã trực tiếp phá trên 300 vụ án, bắt giữ 400 đối tượng và cùng
đồng đội khám phá gần 200 vụ án khác, bắt gần 250 đối tượng phạm tội thuộc dạng khét
tiếng lúc bấy giờ. Từ đó, cái tên Lý Đại Bàng gắn liền với những vụ bắt cướp nổi tiếng mà
Một trong những vụ án nổi tiếng mà Lý Đại Bàng khám phá là triệt hạ băng cướp có "hàng
nóng" do hai tên máu lạnh Nguyễn Văn Chính và Nguyễn Chính Thắng cùng thực hiện. Bọn
cướp này sẵn sàng nổ súng bất cứ lúc nào nếu như nạn nhân kháng cự và chúng đã thực
hiện 3 vụ chỉ trong thời gian ngắn trên địa bàn quận 5.
Từ đó, Ban chỉ huy Cơng an quận 5 giao cho Đội SBC phải bằng mọi giá triệt hạ băng cướp.
Lý Đại Bàng và đồng đội nhận nhiệm vụ rong ruổi ngày đêm trên các tuyến đường của quận
để đón lõng hung thủ. Trong một lần cùng đồng đội mai phục ở chợ Tân Thành, Lý Đại
Bàng phát hiện hai đối tượng Chính và Thắng đang tổ chức "ăn hàng" tại đây.
Đúng như phán đoán của anh, tên Thắng sau khi giật túi xách của một phụ nữ đã nhảy lên
xe để tên Chính nhấn ga tẩu thoát. Nhanh như chớp, Lý Đại Bàng cũng rồ ga đuổi theo rồi
nhảy sang xe của bọn cướp, tước súng của tên ngồi sau và quật ngã xuống đường. Sau khi
giao tên này cho đồng đội, Lý Đại Bàng tiếp tục lên xe truy tìm tên còn lại và phát hiện hắn
vừa leo lên một chiếc xích lơ. Anh lại quăng xe xuống đường rồi tung một cước thật mạnh
vào tên cướp nhưng hắn cũng chẳng vừa, liền móc lựu đạn ra đưa lên miệng định cắn chốt
để quyết ăn thua đủ. Ngay tức khắc, Lý Đại Báng bóp chặt bàn tay cầm lựu đạn của tên
cướp mặc cho hắn cắn tay anh máu tuôn xối xả. Sau khi vơ hiệu hố quả lựu đạn, tên cướp
lại cho tay vào túi quần để rút khẩu rulô nhưng Lý Đại Bàng cũng đã kịp thời khống chế…
Ngoài vụ án này, Lý Đại Bàng cịn khố tay nhiều băng cướp khét tiếng khác tồn tại từ trước
năm 1975 như băng "Tiêu mù", "Nguyễn tàn bạo", "Hoàng Cần Thơ", "Tuấn Côn Đảo"…
Sau khi Đội SBC kết thúc sứ mệnh, Lý Đại Bàng công tác tại nhiều đơn vị khác nhau ở quận
5 và Phịng Cảnh sát hình sự, Cơng an TP HCM. Năm 2001, anh được điều động giữ chức
vụ Phó phịng CSĐT về ma túy rồi sau đó là Trưởng phịng. Cùng với tập thể cán bộ, chiến
sĩ tại đây, đồng chí đã chỉ huy và tham gia phá nhiều chuyên án ma túy lớn, bắt hàng trăm
đối tượng thuộc hàng cộm cán trong thế giới của "nàng tiên nâu".
Từ những chiến cơng đó, năm 2005, đồng chí Lý Đại Bàng được Chủ tịch nước phong tặng
danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân vì có thành tích đặc biệt xuất sắc trong
việc giữ gìn an ninh chính trị, TTATXH. Ở tuổi 50, đồng chí vẫn cịn đầy nhiệt huyết để phục
vụ cho xã hội, phục vụ nhân dân nhưng tiếc thay Đại Bàng từ nay đã khơng cịn tung cánh…
Bài viết này là một nén tâm nhang vĩnh biệt người Anh hùng Lý Đại Bàng!
<b>Ông Tạo sĩ Phù Mỹ</b>
Câu chuyện này cũng do ông Mười ở Phước Thuận, huyện Tuy Phước kể.
Việc thi võ Cử nhân ở Bình Định rồi phải ra thi Tiến sĩ ở Huế đã gây nên một
việc vô lý như sau: Một ông đậu thủ khoa trường võ Bình Định ra Huế thi Tạo
sĩ. Thấy ông ấy giỏi binh thư đồ trận lại võ nghệ cao cường, triều đình Huế sợ
ơng chiếm vị trí thứ nhất mà triều đình đã có ý định trao cho một người tơn
thất quen lớn trong triều. Nếu có chèn được ơng ta thì chỉ chèn được trên bài
vở, cịn lúc giao đấu thì phải chờ hơn thua. Quả nhiên, sau khi đấu lực, đấu
tài, ông ấy đã đỗ đầu tiến sĩ. Triều đình rất bực mình. Sau khi bái mạng, ông
Tạo sĩ bèn cưỡi ngựa về làng. Khi đến đèo Nhông thuộc huyện Phù Mỹ, ông
bị cọp chận đường. Ông nhảy xuống ngựa, dùng đoản đao đánh nhau với
cọp từ nửa đêm đến gà gáy. Cuối cùng mãnh hổ bị hạ gục. Nhân dân Phù Mỹ
đã nhiệt liệt hoan hô chiến công oanh liệt đầu tiên của vị Tạo sĩ Tân khoa, tổ
chức tiệc khoản đãi để chúc mừng và lập bản tường trình về triều đình để
tuyên dương cơng trạng.Đợi đến ba tháng thì tỉnh nhận được lệnh của Bộ thi
hành kỷ luật nghiêm khắc đối với Tân khoa Tạo sĩ giết cọp. Lý do được nêu
ra:- Xưa nay cọp được coi là tổ sư của con nhà võ và nơi nơi đều có lập miếu
thờ: ngũ hổ, bạch hổ và tôn thờ làm võ sư. Thế mà một Tạo sĩ, mới đậu, đã
quên căn, quên ơn thầy mà giết đi thầy. Đó là một tội phản sư của hạng
người bất hiếu. Vì vậy nên triều đình đã thượng tấu xin thu hồi bằng Tạo sĩ
của đương sự và hạ xuống hàng thứ dân. Đồng thời phạt đánh 30 trượng.
Thế là triều đình gạt được người có tài đã tranh mất vị trí khơi khoa của người
đã được chọn trước. Và như vậy người ấy được nâng lên thay thế chức vụ
<b>Chuyện cụ Trung Quân</b>
người khơng khỏi bàng hồng kinh sợ.Tám ông cử điểm cao còn lại, không ai
bảo ai, bước ra trước ban giám khảo xin được miễn thi đấu và quay qua cụ
Trung Quân bái tạ xin tôn là thủ khoa. Cuộc phúc hạch chỉ cịn giữa mười ơng
cử nhân điểm cao để tranh á nguyên
Sự thật về tướng cướp 'Người không mang họ' - Kỳ 2
Năm 1976, từ Đơng Hà- Quảng Trị, Trương Hiền nhảy xe đị ra Nghệ Tĩnh, gia nhập
nhóm du đãng tại thành Vinh (năm 1976). Từ kẻ thân cô thế cô nơi đất khách quê
người, không lâu sau, anh ta trở thành tướng cướp, cai trị đám đầu gấu bắc miền
Trung.
>> Sự thật về tướng cướp "Người không mang họ"
<b>Đại náo giang hồ</b>
Khu phố tướng cướp Toọng và đàn em gây ra nhiều vụ cướp
giật, trấn lột
Tên tuổi của Toọng trở thành nỗi khiếp sợ của dân thành
phố Đỏ. Tối đến, nhà nhà cửa đóng then cài, khơng ai dám
đi một mình trên những đoạn đường vắng.
<b>“Lỳ như Toọng!”</b>
Bấy giờ, Vinh có năm khu phố. Khu phố 1 thuộc địa bàn
“Người không mang
họ”, bên cạnh Trương
Sỏi cịn có một nhân
vật ấn tượng: Kim Chi.
Nữ giang hồ vừa là
nhân tình, vừa là phó
tướng của băng cướp.
Trong đời thực, Trương
Hiền cặp với một cô gái
miền Trung tên là Ngãi,
xinh như mộng, phiêu
dạt tới thành Vinh.
Thân phận của nữ
giang hồ ấy liên quan
đến vụ vượt ngục
không thành của tướng
cướp Toọng như thế
nào?
khách lang thang, gái làm tiền ùa về. Sự thay đổi này có thể tính được từ khi có những
chuyến xe hàng từ trong các đô thị miền Nam chở ra với giá cả rẻ đến mức không ai
tưởng tượng nổi.
Búp bê, mì chính, áo len, khăn voan, tồn hàng sặc sỡ. Liền theo đó là tuyến xe từ
biên giới Lào - Việt được khơi thông. Vinh lại trở thành một ngã ba cực kỳ nhộn nhịp
của vùng đất Nghệ - Tĩnh. Ở đâu trên mặt đất có những ngã ba thì ở đó lập tức xuất
hiện sự lựa chọn.
Và thế là, trên trục đường chính nườm nượp người đi, khơng thể nào khơng có kẻ lại
chọn cho mình lối rẽ ngang, rẽ ngửa. Bn gian bán lận hình thành. Chợ trời đột xuất
nhóm họp.
Từ ngã sáu chạy lên bến xe vịng qua ga tàu, trở về ngã tư, xuôi lên cầu Đước, những
lớp người sống theo kiểu “giật” hàng đầu này “buộc” lại đầu bên kia ngày mỗi nhiều.
Tất cả tình trạng ấy đặt lên vai cơng an thành Vinh và công an tỉnh Nghệ Tĩnh một
gánh nặng thường trực”.
Bối cảnh thành Vinh những năm đầu giải phóng, quả đúng như nhà văn Xuân Đức mô
tả trong Người không mang họ.
Chân ướt chân ráo đến đất Vinh, Trương Hiền ra tay thu phục dưới trướng đám lâu la
khoảng 30 tên, lập thành băng đảng chuyên móc túi, trấn lột, cướp giật, đột vòm.
Vây quanh Đệ nhị mãi võ, có nhiều tay sừng sỏ trong giới giang hồ. Lợi râu quê ở
Phú Thọ, ngoại hình dong dỏng cao, mặt mày sáng sủa, được giao nhiệm vụ đi trinh
sát, tìm cơ hội gây án.
Thành trắng (cịn gọi là Thành cu điên) lang bạt từ đất Bắc, trợ thủ đắc lực của
Trương Hiền, là một sát thủ liều lĩnh, nguy hiểm. Dũng xà kèo, kẻ giang hồ có số có
má, ưa dùng bạo lực.
Ngồi ra, băng đảng của Đệ nhị mãi võ Trương Hiền còn thu phục được nhiều tay
cộm cán như Hưng Ba tai, Sơn Hảo, Hoàng Việt (quê ở Nam Trung - Nam Đàn)...
Để che mắt cơ quan an ninh, Trương Hiền lấy nhiều biệt danh: Toọng, Vui, Đức.
Đồng đảng thường gọi Trương Hiền bằng cái tên quen thuộc: Toọng.
Trinh sát Công an thành phố Vinh mô tả, Toọng cao khoảng 1,6m, dáng người thâm
thấp, hơi béo, đầu húi cua, nước da ngăm đen, nói giọng miền Trung. Một kẻ thấp bé
nhẹ cân như Toọng, làm thế nào làm chủ giới giang hồ thành Vinh?
<b>Tác oai tác quái thành Vinh</b>
Nóng bỏng nhất là khu vực ga, đường Phan Bội Châu (nối QL1 vào ga), chợ Vinh,
bến xe. Trên trục đường Phan Bội Châu (khu phố 1), băng nhóm tội phạm thoắt ẩn
thoắt hiện, trấn cướp hành lý, tư trang của hành khách vừa bước xuống tàu.
Một người cư trú tại khu phố 1 kể lại, ông từng tận mắt chứng kiến vụ trấn lột trên
đường vào ga. “Hơm đó trời chạng vạng tối. Một thanh niên lăm lăm súng ngắn trên
tay, ép một hành khách nam vào gốc cây. Sau một lúc giằng co, tiếng súng nổ. Nạn
nhân dường như mất khả năng tự vệ sau ba phát súng bắn dọa, buộc phải giao chiếc
cặp đang cầm trên tay cho tên cướp”.
Cảnh sát nhận diện kẻ gây án chính là Toọng, nạn nhân là Phó hiệu trưởng ĐHSP
Vinh. Trong chiếc cặp bị cướp có tài liệu, 60 đồng. Sau này, người ta tìm thấy tang
vật giấu dưới gầm cầu Đước, trên đường Vinh- Hưng Ngun.
Đội phó đội CSĐT Cơng an thành phố Vinh, thiếu tá Nguyễn Văn Bình nhớ lại: “Một
lần, Toọng đi xe đò từ Huế ra Vinh. Qua cầu Bến Thủy, biết trên xe chở mì chính, đá
lửa, đồng hồ, Toọng lừa tài xế chạy xuống bãi đất trống tại xã Hưng Lộc, dùng súng
uy hiếp trấn lột tồn bộ số hàng hố trên xe.
Khu vực ngã ba bãi than (giáp ranh phường Lê Lợi- Đông Vĩnh), Toọng thường
xuyên sai đàn em trà trộn vào hành khách để ăn hàng. Khi có cơ hội, chúng dùng súng
khống chế, cướp giật. Một trung niên từ Quảng Trị ra Vinh mua ba kilôgam thuốc
phiện, bị Toọng ép đến nghĩa địa phường Đội Cung, cướp trắng số thuốc phiện mua
được”.
Qua trinh sát của trợ thủ Lợi râu, trong thành phố nhà nào giàu có, mất cảnh giác là
đêm đến, Toọng cho đàn em đột vòm.
Như một hung thần xa lộ, Toọng ngang nhiên gây án. Có lần, tướng cướp cùng đám
lâu la chặn chiếc xe đị tuyến Bắc- Nam, xơng lên trấn lột tài sản của hành khách.
Những chuyến tàu khách cũng là miếng mồi ngon trong mắt Đại ca Toọng.
Giữa lúc đoàn tàu đang lao vun vút trên đường ray, băng nhóm phục sẵn trên nóc toa
xe, hễ phát hiện thấy bộ đội đeo đồng hồ thị tay ra cửa kính là y như rằng, rẹc, rẹc.
Đồng hồ biến mất.
“Thời đó, bộ đội ta thường hay đeo đồng hồ Sen-Kô bốn đinh, mất nhiều vơ kể”,
Thiếu tá Nguyễn Văn Bình cho biết. Có bữa, Toọng cịn chỉ đạo đàn em đánh tháo cả
một toa xe chở hàng, khi đoàn tàu đang lăn bánh.
Tên tuổi Toọng trở thành nỗi ám ảnh của cư dân thành Vinh. Nhiều cung đường, chưa
tối đã vắng tanh vắng ngắt. Không mấy ai dám đi trên phố Phan Bội Châu một mình
giữa đêm khuya, vì sợ đụng phải Đại ca Toọng. Cũng tại khu phố này, tối đến, nhà
nhà cửa đóng then cài.
của y.
Bảo vệ bà con tư thương buôn bán, công an thành phố Vinh lập tổ cảnh sát
Một chiều cuối năm 1977, anh Phạm Hồng Quang nhận được tin báo
Toọng xuất hiện tại đình chợ. Lống cái, Quang mất hút trong dòng người
tứ xứ đang nườm nượp đổ về đình chợ mua sắm dịp cuối năm.
Thống thấy bóng cảnh sát sau lưng, tướng cướp lừng danh rút lui. Toọng
thấp bé, nhỏ con, nhanh như sóc, lống cái đã vọt ra bờ sông Cồn Mộc
(sông Cửa Tiền) phía sau khu chợ.
Sơng Cồn Mộc như dải lụa mềm, vắt qua Hưng Nguyên, về Vinh, xuôi
xuống Bara Bến Thủy. Hai bên bờ, cư dân thưa thớt, cây cối um tùm.
Quay đầu là bờ. Quay đầu cũng đồng nghĩa với việc qui hàng. Toọng nhảy
ùm xuống nước tìm đường thốt. Nhưng thật rủi cho Đệ nhị đại ca, trung tá
Quang lại là một tay thạo nghề sông nước. Anh phóng mình đuổi theo
tướng cướp.
Lịng sơng rộng dài khiến Toọng mệt nhoài. Tiếp đất bờ bên kia, tướng
cướp chẳng đủ sức để chạy trốn, anh ta nằm xoài trên thảm cỏ, bất động.
Trung tá Quang lao đến. Đúng lúc đó, ơng Huệ, ơng Phương, hai công dân
bảo vệ chợ Vinh vừa đến. Họ giải Toọng về đồn.
Đồn cảnh sát chợ Vinh ngày đó nghèo nàn, xung quanh thưng bằng cót,
mái lợp giấy dầu. Đình chợ, nơi có hàng trăm gian hàng cũng lụp xụp mái
nhà lợp giấy dầu. Chỗ giam giữ Toọng là một căn phòng nhỏ. Sau khi lấy
lời khai, cảnh sát cùm chân tướng cướp vào cẳng ghế.
Nhưng chưa đầy ba tiếng đồng hồ sau, Toọng đột ngột biến mất!
“Thật kỳ lạ! Khi cùm chân tướng cướp, tôi đã khóa chắc chắn rồi, chẳng
biết bằng cách nào mà anh ta thoát ra được”, Trung tá Phạm Hồng Quang
nhớ lại. “Tơi kiểm tra chiếc cùm, thấy khóa vẫn còn nguyên”.