Tải bản đầy đủ (.doc) (163 trang)

Truyen lich su cac vi phat

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (638.01 KB, 163 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

<b>Nguyên Tác Anh Ngữ</b>


Hình Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật
<b>MỤC LỤC</b>


<b>1. Sự Giáng Trần Phúc Lợi </b>


<b>2. Cuộc Viếng Thăm Của Vị Đạo Sư Hiền Đức </b>
<b>3. Hoàng tử nhân đức </b>


<b>4. Cuộc Thi Chọn Phò Mã </b>


<b>5. Những Cung Ðiện Ðầy Thú Vui </b>
<b>6. Điệu Hát Quyến Rũ </b>


<b>7. Cảnh Tượng Bất Ngờ </b>


<b>8. Chuyến Du Ngoạn Lần Thứ Hai</b>
<b>9. Cảnh Tượng Sửng Sốt Cuối Cùng </b>
<b>10. Những Lạc Thú Chóng Tàn Phai</b>
<b>11. Buổi Thiền Quán An Lạc</b>


<b>12.Vua Tịnh Phạn Lo Lắng</b>
<b>13. Xuất Gia</b>


<b>14. Cuộc Tầm Ðạo Bắt Ðầu</b>
<b>15. Sáu Năm Tu Khổ Hạnh</b>
<b>16. Tín Nữ Cúng Dường</b>
<b>17. Cuộc Chiến Ðầu Vĩ Ðại</b>
<b>18. Giác Ngộ</b>



<b>19. Thuyết Pháp Cho Ai</b>
<b>20. Bài Pháp Ðầu Tiên </b>
<b>21. Nỗi Khổ Ðau Của Bà Mẹ</b>
<b>22. Con Người Thô Lỗ</b>
<b>23. Những Lời Tán Dương</b>
<b>24. Lịng Thương u Lồi Vật. </b>
<b>25. Năng Lực Của Lòng Từ Bi </b>
<b>26. Trở Về</b>


<b>27. Nhà Vua Và Ông Thần Cây</b>


<b>28. Lịng Thương Bình Ðẳng Ðối Với Tất Cả</b>
<b>29. Những Ngày Cuối Cùng </b>


<b>30. Giáo Pháp Vẫn Cịn Tồn Tại </b>
<b>31. Chú Thích Của Dịch Giả </b>


<b>1 SỰ GIÁNG TRẦN PHÚC LỢI</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

Hồng hậu Ma-Da thức giấc, lịng tràn ngập niềm vui vơ biên, mà từ trước nay hồng hậu
chưa bao giờ có được.


Hồng hậu liền báo cho vua Tịnh Phạn biết, và cả hai đã hỏi yêu cầu các quần thần thơng
bác trong triều đình giải thích về ý nghĩa của điềm chiêm bao. Quý vị trả lời: “Tâu bệ hạ,
đó là một giấc mộng lành. Có nghĩa là hoàng hậu sắp sinh con, và vị hoàng tử này tương
lai sẽ trở thành một siêu nhân. Không riêng bệ hạ và hoàng hậu, mà toàn thế giới nhân
loại đều hưởng sự phúc lành khi hoàng hậu hạ sinh một thái tử, đặc biệt như thế.”
Nghe tin lành như vậy, đức vua và hoàng hậu hết sức vui mừng. Hồng thượng rất sung
sướng vì Ngài mong ước có một hồng nam để tương lai nối ngơi thay ơng trị vì đất
nước. Và giờ đây điều ước muốn đó của đức vua có thể trở thành sự thực.



Theo phong tục thuở xưa, người phụ nữ trở về quê cha mẹ để sinh đứa con đầu lòng. Cho
nên vào lúc sắp sinh thái tử, hoàng hậu Ma-Da cùng với các bạn bè và những người hầu
cận đã rời cung điện vua Tịnh Phạn để bắt đầu lên đường trở về quê ngoại của bà.
Ðoàn tùy tùng đi một khoảng chưa xa bao nhiêu, hoàng hậu đã bảo ngừng lại nghỉ ngơi.
Bà cảm thấy đứa bé sắp sửa ra chào đời. Khi đoàn người đến hoa viên Lâm Tỳ Ni
(Lumbini) (3) xinh đẹp, hoàng hậu đi vào trong vườn này để tìm một nơi thuận tiện cho
việc sinh hồng tử. Các tích chuyện đã ghi chép rằng, ngay cả loài vật và cây cỏ cũng
muốn giúp đỡ vì chúng biết đứa trẻ hồng hậu sắp sinh là một siêu nhân. Một nhánh từ
một thân cây lớn cuốn cong xuống, và hoàng hậu đã nắm chặt nó với bàn tay phải của bà.
Tự chống đỡ trong tư thế này, hoàng hậu đã sinh thái tử. Những người hầu cận đưa tay
bồng em bé và trầm trồ ngợi khen mặt mày thái tử trông hảo tướng và trang nghiêm làm
sao.


Vào lúc ấy, khắp nơi trong nước, dân chúng cảm thấy an bình và hạnh phúc. Mọi người
quên hết nỗi ưu phiền, khơng cịn cải vã tranh chấp và tất cả đều bày tỏ tình thương yêu
bao la thân hữu với nhau. Có người thấy mống ngũ sắc xuất hiện trên bầu trời, cùng
những điềm lành và các sự việc bất thường khác.


Các hiền nhân ở toàn vương quốc đều nhận thấy những dấu hiệu an lành và phúc lợi này,
cho nên họ vui mừng nói với nhau: “Thật là điều đại phước đã xảy ra. Hãy lưu ý đến
những điềm cát tường này! Hôm nay là ngày Rằm tháng tư. Hẳn chắc đó là một ngày
trọng đại!”


Hồng hậu Ma Da khơng ngờ niềm vui của bà hạ sinh hoàng nam vào lúc ấy lại được
toàn dân trong nước đều hân hoan chia xẻ, và hoàng hậu ẵm trong thay thái tử vừa mới
sinh trở về kinh đô của nhà vua.





<b>2 CUỘC VIẾNG THĂM CỦA VỊ ĐẠO SƯ HIỀN ĐỨC</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

Ðó là thời kỳ đại hạnh phúc và thanh bình của đất nước. Vì mọi người khắp nơi đều hân
hoan vui mừng cho nên đức vua và hoàng hậu đặt tên cho thái tử là “Tất Ðạt Ða”


(Siddhartha) (4) nghĩa là “người đã mang lại mọi điều lành”.


Bấy giờ các hiền nhân đều tiên đoán về thái tử. Họ thưa: “Tâu bệ hạ, những điềm báo
trước trong ngày thái tử đản sanh rất tốt đẹp. Thái tử sau này sẽ trở thành nhân vật còn vĩ
đại hơn hồng thượng bây giờ!” Nghe nói vậy, đức vua rất hãnh diện. Ngài thầm nghĩ:
“Nếu các hiền nhân này nói đúng thì con ta thái tử Tất Ðạt Ða tương lai có thể là một vị
minh qn, khơng những trị vì vương quốc nhỏ của ta mà cịn cai trị cả tồn thế giới!
Thật là điều vinh dự lớn lao cho riêng ta cũng như hoàng tộc”.


Vài ngày đầu tiên sau khi hoàng tử ra đời, nhiều người đã vào cung điện để thăm thái tử
vừa mới giáng sanh. Một trong các vị này là ơng tiên A Tư Ðà (Asita) (5). Ơng là một
đạo sĩ sống ẩn tu trong rừng sâu, và nổi danh là một con người rất thánh thiện. Ðức vua
và hoàng hậu ngạc nhiên thấy đạo sĩ A Tư Ðà rời bỏ khu rừng ông đang ở để vào thăm
cung điện, liền nói với sự kính trọng: “Thưa đạo sư hiền đức, chúng tôi rất hân hạnh được
Ngài đến thăm. Xin cho chúng tơi biết mục đích viếng thăm của đạo sư, và chúng tôi hân
hạnh sẽ phục vụ cho Ngài bất cứ điều gì Ngài cần đến”.


Ðạo sĩ A Tư Ðà đáp lời: “Bần đạo xin cám ơn về sự ân cần tiếp đón của đức vua và
hoàng hậu. Bần đạo từ xa đến viếng thăm q vị vì bần đạo thấy có những điềm lạ xuất
hiện gần đây. Các điều ấy báo cho bần đạo biết rằng thái tử mà hoàng hậu vừa mới sinh,
tương lai sẽ thành đạt sự nghiệp kiến thức tinh thần vĩ đại. Lâu nay, bần đạo đã dành hết
cuộc đời tu tập để mong có được trí tuệ siêu phàm ấy, cho nên bần đạo nóng lịng đích
thân muốn đến sớm để gặp thăm thái tử”.


Hoàng thượng vui vẻ vội vàng đến nơi thái tử đang nằm ngủ. Ðức vua cẩn thận bồng thái


tử mang đến cho đạo sĩ A Tư Ðà. Ông ta nhìn hồng tử một hồi lâu và khơng nói gì. Rồi
sau cùng đạo sĩ bước lui, buồn bã nhìn lên bầu trời thở dài và bắt đầu than khóc.




Nhìn đạo sĩ A Tư Ðà khóc, đức vua và hồng hậu cảm thấy lo lắng. Cả hai sợ rằng đạo sĩ
đã trông thấy tướng trạng gì xấu nơi thái tử. Ðơi mắt đầy lệ, vua Tịnh Phạn quỳ xuống và
kêu lên: “Thưa đạo sĩ, Ngài đã thấy gì nơi hồng tử khiến Ngài phải khóc? Tất cả những
vị hiền đức khác đều bảo rằng thái tử con của trẩm ra đời sẽ trở thành một đại nhân, có
được trí tuệ siêu phàm. Nhưng nay, sau khi xem tướng thái tử Ngài lại khóc. Ðiều ấy có
nghĩa là thái tử sẽ chết sớm? Hay có điều gì rất khủng khiếp sắp xảy ra cho thái tử? Thái
tử là đứa con độc nhất mà trẩm rất yêu quý, xin hãy mau mau cho trẫm biết Ngài đã thấy
gì nơi thái tử vì tâm của trẩm hiện đang quá hồi hộp đầy sự buồn khổ và lo âu”.




Rồi với cái nhìn đầy từ ái, đạo sĩ A Tư Ðà trấn an đức vua cùng hoàng hậu và bảo họ
khơng có gì phải lo sợ. Ðạo sĩ nói:


</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

đặc biệt - như ánh sáng phát chiếu ra từ các ngón tay của người điều ấy báo cho bần đạo
biết rằng tương lai của thái tử sẽ hết sức huy hoàng.


“Nếu thái tử quyết định ở lại với bệ hạ để lên làm vua, thái tử sẽ trở thành một vị chuyển
luân thánh vương trong lịch sử. Thái tử sẽ trị vì một đất nước rộng lớn và mang lại cho
quốc dân nhiều an lành hạnh phúc. Nhưng nếu thái tử khơng muốn lên ngơi hồng đế,
tương lai của người sẽ còn vĩ đại hơn! Thái tử sẽ trở thành một đấng đại đạo sư, chỉ bày
cho toàn nhân loại phương pháp sống thế nào để có được tâm an lạc và tình thương. Nhận
thấy thế gian đầy nỗi buồn đau, thái tử sẽ rời bỏ cung điện đi tu, để tìm ra con đường
chấm dứt sự khổ đau. Rồi người sẽ chỉ dạy cho bất cứ ai muốn tìm học giáo lý ấy.



“Khơng, tâu bệ hạ và hồng hậu, bần đạo khơng phải khóc cho thái tử, mà khóc than cho
chính mình. Hồng thượng xem, bần đạo đã dùng hết cả cuộc đời để sưu tầm chân lý, tìm
ra con đường chấm dứt mọi khổ đau. Và hôm nay, bần đạo đã gặp thái tử, người một
ngày kia sẽ chỉ dạy những điều mà bần đạo muốn tu học. Nhưng đến lúc thái tử có đủ khả
năng để dạy dỗ thì bần đạo đã từ trần rồi. Như vậy bần đạo sẽ không được tu học với
hoàng tử trong kiếp này. Cho nên bần đạo hết sức buồn khổ. Nhưng bệ hạ và hồng hậu,
thật là đại phước, khơng nên buồn lo. Hãy vui mừng đã sinh được một hoàng nam siêu
việt như thế”.




Rồi đạo sĩ A Tư Ðà nhìn thái tử lần cuối cùng rất lâu, và từ từ rời khỏi cung điện. Ðức
vua nhìn theo đạo sĩ bước đi rồi, quay lại hướng mắt về thái tử. Ngài rất sung sướng vì
biết rằng khơng có gì hiểm nguy, đe dọa cuộc sống của thái tử. Rồi nhà vua thầm nghĩ:
“Ðạo sĩ A Tư Ðà dạy rằng thái tử Tất Ðạt Ða tương lai sẽ trở thành một đại vương hoặc
là một đại đạo sư. Tốt nhất, trước tiên thái tử sẽ là một vị vua. Hãnh diện biết bao khi ta
có được một hồng tử nổi danh và đầy quyền uy như thế! Rồi khi thái tử đến tuổi già như
đạo sĩ A Tư Ðà, người có thể xuất gia để trở thành một đạo sư hiền đức nếu thái tử
muốn”.


Suy nghĩ điều như vậy, vua Tịnh Phạn sung sướng đứng bồng thái tử trong tay, ước mơ
tưởng nghĩ đến danh vọng mà con của mình một ngày nào sẽ có.


<b>3 HỒNG TỬ NHÂN ĐỨC </b>


Trong lúc thái tử đang cịn q bé thì thân mẫu của thái tử, hồng hậu Ma Da từ trần.
Khơng lậu trước ngày hồng hậu qua đời, bà ta nói với cơ em gái: “Sắp đến ngày chị
khơng cịn có thể chăm sóc cho em bé mới sinh của chị nữa. Dì thân mến, sau khi chị
mất, xin dì nuôi nấng thái tử Tất Ðạt Ða giúp chị”. Em của hồng hậu hứa sẽ làm điều đó.
Bà rất u thương và nuôi dạy thái tử giống như con riêng của mình.



</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

tỏ là rất mực thống minh. Sau vài ngày đầu tiên dạy dỗ, các giáo sư đều báo cáo với nhà
vua:


“Tâu bệ hạ, thái tử không cần đến chúng tôi nữa. Chỉ sau vài bài học, thái tử đã biết hết
mọi điều chúng tôi muốn dạy. Thực vậy, thái tử đã dạy lại chúng tơi những điều mà chính
chúng tơi chưa bao giờ biết từ trứơc!”


Nghe nói thế niềm hảnh diện nơi đức vua về thái tử lại càng tăng trưỡng thêm lên. Hoàng
thượng suy nghĩ: “Với tánh thông minh của con ta thái tử lớn lên, chắc sẽ trở thành một
vị vua tài đức và hùng mạnh”, và điều này làm cho nhà vua rất sung sướng.


Nhưng thái tử cịn có những điểm đặc biệt hơn cả sự thơng minh. Bản tính của thái tử là
rất tốt, hiền lành và có lòng từ bi. Những bạn cùng lứa với thái tử đã thích chơi các trị
chơi vật lộn sơi nổi của trẻ con hay giả làm lính và đánh lẫn nhau. Nhưng thái tử Tất Ðạt
Ða đã dùng hết thì giờ cho cuộc sống thầm lặng của mình. Thái tử thương yêu những con
vật nhỏ sống trong vườn ở hoàng cung và kết bạn thân thiết vơi chúng. Loài vật biết thái
tử không bao giờ sát hại chúng cho nên chúng cũng không cảm thấy sợ hãi thái tử. Ngay
cả thú dữ thường hay bỏ chạy khi thấy người lại gần, nhưng chúng đến chào mừng khi
thấy thái tử bứơc vào công viên. Chúng tiến lại gần không chút sợ sệt và nhận lấy từ bàn
tay thái tử các thức ăn mà thái tử luôn mang theo cho chúng.


Ngày nọ, đang ngồi trong hoa viên, thái tử trông thấy một đàn thiên nga bay trên trời.
Thình lình một mũi tên bắn lên khơng trung và một con bị trúng. Nó rớt từ trên khơng
xuống nơi chân của thái tử với mũi tên đang cịn dính nơi cánh của chim.


Thái tử Tất Ðạt Ða nhẹ nhàng ơm con chim bị thương lên và nói nhỏ với nó: “Ồ, Thiên
nga tội nghiệp con của ta. Con đừng sợ. Ta sẽ chăm sóc cho con nhé. Này, hãy để ta rút
mũi tên ra.” Rồi, thái tử dùng bàn tay dịu dàng vuốt ve để chim hết sợ. Và tay kia thái tử
từ từ lấy mũi tên ác nghiệt ra. Thái tử dùng thuốc đặc biệt thoa vào cánh của chim, và


luôn luôn nói với giọng nhỏ nhẹ, trìu mến để nó khơng còn sợ hãi. Sau cùng thái tử lấy
chiếc áo lụa của mình bao quanh giữ cho thân chim được ấm.


Giây lát sau, một thiếu niên trẻ khác chạy vào trong vườn. Ðó là Ðề Bà Ðạt Ða


(Devadatta) (6), anh em bà con với thái tử. Thiếu niên này tay mang cung tên và vui vẻ la
lớn: “Này Tất Ðạt Ða, Tất Ðạt Ða, có tin mừng! Em bắn trúng con thiên nga! Anh thấy
tài chưa, chỉ một phát đầu em bắn trúng đích liền! Nó rơi xuống gần đâu đây. Anh giúp
em tìm nó đi.”


</div>
<span class='text_page_counter'>(6)</span><div class='page_container' data-page=6>

Ðề Bà lại to tiếng: “Nhưng chim là của em. Vì rõ thực là do em đã bắn rơi nó, và anh đã
lấy cắp chim của em. Vậy anh hãy trả chim cho em hoặc em sẽ bắt lại nó.”


Hai hồng tử đứng cãi cọ như vậy trong giây lát, Ðề Bà mỗi lúc càng nổi giận, nhưng Tất
Ðạt Ða từ chối nhất định không trao chim cho Ðề Bà. Cuối cùng thái tử nói: “Khi hai
người có việc tranh cãi như thế này, chúng ta nên giải quyết vấn đề tại pháp đình. Trước
một số các quần thần sáng suốt, mỗi bên sẽ trình bày sự việc xảy ra như thế nào. Rồi quý
vị hiểu biết đó sẽ phán quyết ai đúng ai sai. Tôi nghĩ chúng ta nên làm như vậy.”


Ðề Bà khơng thích ý kiến này lắm, nhưng đây là phương cách duy nhất để Ðề Bà bắt lại
con thiên nga cho nên anh ta chấp thuận. Cả hai vào hoàng cung, đến trước phụ vương và
các triều thần. Mọi người tại pháp đình đều nhìn nhau cười khi họ nghe trình bày điều mà
hai hồng tử muốn. Các quần thần suy nghĩ bảo rằng: “Cả hai chúng muốn dùng thì giờ
của chúng ta cho việc phân xử chỉ vì một con chim.” Nhưng đức vua nói: “Tất Ðạt Ða và
Ðề Bà Ðạt Ða đều là thai tử của hoàng tộc, và trẫm vui mừng thấy cả hai mang việc tranh
chấp của chúng đến cho chúng ta giải quyết. Trẫm nghĩ đó là đều rất quan trọng vì sau
khi trở thành các nhà cầm quyền tương lai, chúng sẽ cần đến sự phán quyết của pháp đình
này. Hãy bắt đầu phiên tịa đi”.


Rồi lần lượt mỗi hồng tử lên trình bày về sự việc đã xảy ra. Các triều thần cố gắng phân


xử để xem ai phải thì người đó có quyền giữ con thiên nga. Có vị bảo rằng “Ðề Bà bắn
rơi con chim cho nên nó thuộc của Ðề Bà”. Người khác lý luận: “Tất Ðạt Ða tìm thấy con
thiên nga, do đó nó thuộc của người”. Các quần thần đã bàn thảo và tranh luận khá lâu về
nội vụ.


Cuối cùng, giữa pháp đình xuất hiện một ơng lão già mà khơng ai nhớ là đã gặp ông ta từ
trước bao giờ. Nhưng vì trơng thấy ơng rất đức độ, các quần thần đã trình bày cho ơng rõ
đầu đi câu chuyện về con thiên nga của hai hoàng tử. Sau khi nghe xong, ông lão tuyên
bố: “Mọi người nam nữ ai cũng quý trọng sự sống của mình hơn bất cứ vật thể gì khác
trên thế gian cho nên, tôi nghĩ con thiên nga thuộc về người đã hết lịng cứu mạng sống
cho chim, chứ khơng thuộc về kẻ đã cố tâm hủy diệt sự sống của nó. Hãy trao thiên nga
cho Tất Ðạt Ða”.


Mọi người đồng ý rằng điều mà ơng lão hiền đức nói là đúng sự thật, cho nên các triều
thần phán quyết để cho thái tử Tất Ðạt Ða giữ con thiên nga. Sau đó, đức vua cố tìm gặp
để ban thưởng cho ông già về ý kiến sáng suốt của ông, nhưng không thấy ông đâu cả.
Nhà vua liền suy nghĩ: “Thực là điều hết sức kỳ lạ, ta chẳng rõ từ đâu ông ta đến và từ
chốn nào ông đã ra đi”. Mà không ai biết cả. Ðây là một trong những sự việc bí ẩn đã xảy
ra liên quan đến thái tử, cho nên nhiều người tưởng nghĩ rằng thái tử đúng hẳn là một đứa
trẻ rất siêu phàm.


</div>
<span class='text_page_counter'>(7)</span><div class='page_container' data-page=7>

Thái tử ngày càng lớn với tánh tình hiền hậu khiến mọi người quen biết ai cũng mến yêu.
Nhưng phụ hoàng lại rất lo âu. Nhà vua nghĩ: “Tất Ðạt Ða rất hiền lành, và hay ưu tư. Ta
muốn thái tử lớn lên sẽ trở thành một đại vương, và vị quốc vương nào cũng cần phải
dũng lược và hùng mạnh. Nhưng thái tử lại chỉ thích ngồi trầm tư một mình trong vườn
hơn là học tập để trở thành một nhà lãnh đạo quốc gia. Ta sợ rằng con ta sẽ muốn sớm rời
cung điện sống đời xuất gia của những bậc ẩn tu như đạo sĩ A Tư Ðà. Nếu hành động như
thế, thái tử sẽ không bao giờ trở thành một đại vương”.


Những ý tưởng này đã khiến đức vua rất phiền muộn. Ngài cho mời các quan đại thần


thân tín nhất đến để vấn kế họ phải làm sao bây giờ. Cuối cùng, một trong các vị này đề
nghị: “Tâu bệ hạ, thái tử chỉ ngồi và mơ tưởng đến những thế giới khác, bởi vì chưa có
điều gì ở thế giới này khiến cho lòng ủa thái tử phải đắm say. Hãy đi kén vợ, để thái tử
lập gia đình và có con; rồi người hết mơ mộng cũng như sẽ ham thích học hỏi các việc
điều khiển quốc gia”.


Ðức vua nghĩ rằng đó là một ý kiến rất hay. Ngài ra lệnh tổ chức một dạ tiệc lớn tại
hoàng cung. Nhiều thiếu nữ trẻ đẹp thuộc các gia đình quý phái được mời tham dự. Vào
cuối bữa tiệc, ban tổ chức yêu cầu thái tử tặng quà cho từng thiếu nữ, và các quần thần
chú ý xem thử cơ nào thái tử tỏ vẻ ưa thích nhất.


Các thiếu nữ kiều diễm xinh đẹp tất cả đều tỏ ra bối rối khi ra mắt thái tử. Thái tử trơng
rất đẹp trai, nhưng có vẻ lãnh đạm đứng cạnh chiếc bàn với đầy những quà tặng đắt tiền.
Các thiếu nữ từng cô rụt rè tiến lên, và e lệ nhìn xuống khi đến gần thái tử. Tất cả im lặng
nhận món đồ nữ trang, chiếc vịng tay hay một tặng phẩm khác và vội vàng quay về chỗ
ngồi của mình.


Sau cùng, chỉ cịn lại một thiếu nữ. Ðó là cơng chúa Da Du Ðà La (Yasodhara), (7) con
gái của vị vua nước láng giềng. Không như các tiểu thư khác, cô tỏ ra rất dạn dĩ khi đến
gần cạnh thái tử. Tại dạ vũ này lần đầu tiên vị hoàng tử trẻ đã nhìn thẳng vào thiếu nữ
đứng trước mặt. Cơ ta rất tuyệt vời diễm lệ, khiến thái tử tức thì say đắm nàng ngay.
Cả hai đứng yên lặng trong giây lát và đưa mắt nhìn nhau. Rồi Da Du Ðà La nói: “Tâu
điện hạ, quà dành cho em đâu?” Thái tử giật mình, như người tỉnh thức sau giấc chiêm
bao. Thái tử nhìn xuống và thấy trên bàn khơng cịn gì cả. Mọi q thưởng đã tặng hết
cho các giai nhân. “Ðây, em hãy nhận lấy vật này”. Thái tử vừa nói vừa cởi lấy chiếc
nhẫn nơi ngón tay của mình ra. “Ðây là q anh cho em”. Da Du Ðà La vui mừng cầm
lấy chiếc nhẫn và chậm rãi đi trở về chỗ của nàng.


Các quan đại thần chứng kiến mọi việc xảy ra vội vàng đến yết kiến đức vua. Họ sung
sướng thưa: “Tâu hồng thượng hạ thần chúng tơi đã chọn được một người vợ tuyệt hảo


cho thái tử. Nàng là công chúa Da Du Ðà La, con gái vua Thiện Giác (Suprabuddha) (8)
nước kế cận. Chúng tôi sẽ qua thăm đức ua này ngay để lo việc xin cưới công chúa cho
thái tử”.


</div>
<span class='text_page_counter'>(8)</span><div class='page_container' data-page=8>

là một thanh niên trẻ tồn hão, nhưng tơi khơng thể cho khơng con gái tơi cho bất cứ ai.
Nhiều hồng tử khác muốn kết hôn với nàng và tất cả họ đều là những thanh niên trẻ xuất
chúng. Họ giỏi cỡi ngựa bắn cung và các môn thể thao khác. Cho nên, nếu con của Ngài
muốn kết hôn với con gái tôi, thái tử sẽ phải dự cuộc thi tranh tài với những người cầu
hơn khác, vì đó là tập tục của nước chúng tôi”.


Rồi một cuộc đại thi tài được tổ chức với giải thưởng là công chúa Da Du Ðà La xinh
đẹp. Vua Tịnh Phạn lo lắng. Ngài suy nghĩ: “Con ta chưa bao giờ bày tỏ cho thấy có một
chút gì thích thú trong các môn thể thao của người chiến sĩ. Vậy làm sao thái tử có thể
thắng được trong cuộc tranh tài này?” Nhưng thái tử biết được nỗi lo lắng của phụ hoàng
nên đã thưa: “Xin phụ vương đừng lo. Con đã chuẩn bị làm bất cứ gì cần thiết để chiếm
giải Da Du Ðà La về phần con”.


Cuộc thi đầu tiên là bắn cung. Các thanh niên dự thi những tấm bia để bắn cách một
khoảng xa, nhưng mỗi người đều đã bắn trúng đích tâm điểm trên tấm bia. Khi đến phiên
Ðề Bà Ðạt Ða–vì người em bà con với Tất Ðạt Ða cũng là một trong những người cầu
hôn – ông ta không chỉ bắn trúng đích mà mũi tên của Ðề Bà còn xuyên thủng qua tấm
bia để rơi cắm phía bên kia. Ðám đơng dự xem reo hị, nhưng Da Du Ðà La kinh hồng
nhắm mắt. Nàng nghĩ: “Làm sao Tất Ðạt Ða yêu quý của ta có thể bắn được một phát như
vậy, và thật là ghê sợ nếu ta phải lấy Ðề Bà Ðạt Ða!”


Nhưng Tất Ðạt Ða rất vững tin. Tới lượt mình, thái tử để tấm bia rất xa đến nỗi phần
đơng người đứng xem khơng thể nhìn thấy nó. Rồi thái tử lấy một mũi tên từ nơi ống tên
lắp vào cái cung và kéo ra sau. Tuy nhiên thái tử kéo quá mạnh đến nỗi cây cung gãy làm
đơi, và người đã ném nó ra phía sau rất xa!



Thái tử yêu cầu: “Xin mang lại cho tôi cây cung khác, nhưng lần này hãy chọn cây
nào rắn chắc hơn để nó khỏi bị gãy như cây cung trước”. Một vị đại thần nói lớn: “Tâu
điện hạ, có một cây cung rất cổ để trong cung điện. Nó thuộc quyền của một trong các
chiến sĩ anh hùng nhất thời xưa. Nhưng từ khi ông ta qua đời nhiều năm trứơc, không ai
có đủ sức mạnh để sử dụng và ít người bắn với cây cung ấy.”


Thái tử nói: “Ta sẽ dùng nó”, và mọi người đều kinh ngạc. Khi thái tử cầm cây cung,
người cẩn thận uốn cong và kéo giây cung dễ dàng. Thái tử đặt mũi tên vào trên giây kéo
nó ra phía sau xa đến nỗi hai đầu cây cung gần chạm sát vào nhau, rồi nhắm và bắn mũi
tên đi. Toăng! Tiếng kêu phát ra từ cây cung lớn đến nỗi dân chúng ở các làng xa đều
nghe tiếng. Mũi tên bắn đi quá nhanh. Khiến sau khi trúng đích–ngay giữa tâm điểm tấm
bia–nó đã khơng rơi xuống đất mà cịn tiếp tục bay xa cho tới khi mất hút không cịn
trơng thấy.


Ðám đơng đứng xem vui mừng reo hị! “Thái tử đã thắng! Thái tử đã thắng!”. Nhưng bắn
cung chỉ là cuộc thi đầu tiên trong ngày, cuộc tranh tài kế tiếp là thuật múa kiếm.


</div>
<span class='text_page_counter'>(9)</span><div class='page_container' data-page=9>

Người cầu hôn đầu tiên chặt một thân cây dày sáu in-sờ (inches) rồi chín in-sờ và lần thứ
ba chỉ dùng một nhát gươm chặt vào cây dày một phút (foot).


Ðến phiên thái tử. Người chọn một cây có hai thân mọc sát canh nhau. Thái tử vung lưỡi
kiếm quá nhanh đến nỗi khi nó cắt vào thân cây không ai kịp thấy. Lưỡi gươm của thái tử
quá bén và bằng phẳng khiến thân cây đã chặt đứt nhưng khơng ngã xuống. Mà vẫn hồn
tồn giữ được thăng bằng đứng yên. Khi thấy cây còn đứng thẳng, đám đông dự xem,
nhất là Da Du Ðà La Ðều la lên: “Thái tử đã thua. Lưỡi gươm của thái tử không chặt
được ngay cả thân cây đầu tiên”.


Nhưng một làn gió nhẹ lướt qua và thổi các thân cây này ngã xuống. Ðám đông dân
chúng trở nên vui mừng và lại reo hò: “Thái tử đã thắng cuộc”.



Cuộc tranh tài cuối cùng là thi cỡi ngựa. Một con ngựa dữ chưa ai cỡi từ trước bao giờ,
được kiềm giữ bởi những người lực lưỡng, trong khi một thanh niên dự thi cố gắng leo
lên cưỡi nó. Nhưng con ngựa nhảy lên và đá một cách hăng máu khiến khơng ai có thể
ngồi lâu trên lưng nó hơn vài giây. Cuối cùng một thanh niên trẻ cố gắng giữ chặt và
những người khác kiềm chế dắt con ngựa đi. Nhưng nó nhảy lên và chồm ra phía trước
với sự điên cuồng, và giận dữ khiến người cỡi nó rơi xuống đất. Và con ngựa sẽ lồng lộn
giẫm đạp nếu khơng có nhiều người nhảy xơ vào kiềm giữ bắt nó đứng yên.


Đám đông bắt đầu la lớn: “Hãy ngừng cuộc thi! Ðừng để thái tử đến gần con ngựa đó!
Thực quá nguy hiểm, nó sẽ giết thái tử!”. Nhưng Tất Ðạt Ða không sợ. Thái tử suy nghĩ :
“Sự nhu hồ có thể chinh phục thú tánh hung bạo”, và chậm rãi tiến gần nắm chùm lông
bờm trên đầu ngựa. Bằng giọng nhỏ nhẹ, dịu dàng vừa âu yếm xoa đầu và hai bên má của
con ngựa hung hăng, thái tử làm dịu cơn giận dữ, cuồng điên và sợ hãi của nó.


Con ngựa tức thì trở nên hiền lành và bắt đầu liếm bàn tay của Tất Ðạt Ða. Rồi tiếp tục
thỏ thẻ nói ngọt ngào với ngựa, thái tử trèo lên lưng nó. Giữa lúc dân chúng vui mừng reo
hò thái tử biểu diễn con chiến mã trước các vị quốc vương và đại thần cũng như cúi chào
giải thưởng dịu dàng của mình, nàng Da Du Ðà La yêu quý. Cuộc thi tài đã kết thúc,
thanh niên Tất


Ðạt Ða đã thắng! Và thái tử chứng tỏ là con người khơng chỉ tồn năng về sức mạnh vĩ
đại, mà còn bởi đức tính hiền hịa và lịng thương bao la.




<b>5 NHỮNG CUNG ĐIỆN ĐẦY THÚ VUI</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(10)</span><div class='page_container' data-page=10>

“Trẫm muốn xây một cung điện dành cho mùa hè bằng loại đá cẩm thạch mát mẻ và bao
bọc xung quanh với các hồ và suối nước trong. Thứ hai là cung điện mùa đông ấm áp và
tiện nghi. Và cung điện thứ ba dành cho mùa mưa. Các lâu đài này nên thiết lập ngay


giữa một cơng viên lớn với cảnh trí tươi đẹp nhìn từ mọi hướng. Bao quanh hoa viên là
một bức tường cao để ngăn chận khơng có cảnh vật buồn phiền nào ở thế giới bên ngoài
xâm nhập vào được trong ấy. Mọi sự vật đều thật toàn hảo để thái tử Tất Ðạt Ða sẽ khơng
bao giờ có ý định từ bỏ cung điện.”


Phụ hoàng bằng mọi cách ra lịnh cho xây cất các lâu đài mới này thực hấp dẫn lôi cuốn
thái tử. Ngài đã cho tuyển mộ các nhạc công tài danh nhất trong nước vào nơi đó để trình
diễn suốt ngày lẫn đêm. Tất cả những kẻ hầu hạ là các vũ nữ xinh đẹp và nhiều đầu bếp
chính được chỉ bảo nên nấu dọn thường xuyên dâng cho thái tử các món ăn cao lương mỹ
vị.


Nhà vua ngăn cấm đưa vào cung điện bất cứ điều gì có thể gây sự phiền muộn nơi tâm
hồn thái tử khiến người muốn rời bỏ hoàng cung.


Trải qua nhiều năm thái tử Tất Ðạt Ða đã sống trong cảnh giới thần tiên này. Từ sáng đến
tối, thái tử thụ hưởng hàng ngàn thú vui. Thái tử không bao giờ chứng kiến những cảnh
tượng xấu xa, cũng chưa từng nghe bất cứ âm thanh nào không dịu ngọt hay êm đềm.
Chẳng hạn, nếu một trong các thị nữ ốm bịnh, cô phải rời khỏi cung điện, và chỉ trở lại
sau khi cô đã bình phục. Bằng cách này thái tử khơng bao giờ nhìn thấy cảnh bệnh hoạn
hay bất cứ điều gì có thể gây ảnh hưởng sầu não nơi tâm hồn nhạy cảm của thái tử. Nhà
vua ra lịnh không ai được kể cho thái tử nghe những chuyện buồn hay phiền lụy. Ngay cả
trong hoa viên khi có cây nào bắt đầu khô gãy hay tàn úa, nhân viên làm vườn tức thì cắt
bỏ nó đi. Do đó, thái tử khơng bao giờ nhìn thấy một cành hoa héo tàn hay khô chết. Bởi
vậy, thái tử không biết đến sự khổ đau và buồn phiền ở thế gian.


Thời gian qua nhanh như giấc mộng. Da Du Ðà La hạ sinh hoàng nam La Hầu La
(Rahula) (9) và mọi việc diễn tiến tốt đẹp. Phụ vương rất vui mừng sung sướng thấy
những kế hoạch giúp thái tử quan tâm đến cuộc sống hoàng gia đã tiến hành một cách
tồn hảo. Nhưng điều ấy khơng có nghĩa rằng Tất Ðạt Ða, mà sự ra đời của người nhằm
mang lại phúc lành cho nhân loại thế gian sẽ an phận sống một cuộc đời ăn không ngồi


rồi như vậy. Cuối cùng, khi gặp cơ duyên thuận tiện, thái tử sẽ khám phá ra mục đích
chân thực về cuộc sống của mình.




<b>6 ĐIỆU HÁT QUYẾN RŨ</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(11)</span><div class='page_container' data-page=11>

một bài để ru ta vào giấc ngủ. Nên chọn bản nhạc nào mà ngươi chưa bao giờ hát cho ta
nghe từ trước đến giờ”.


Người nữ ca sĩ nhã nhặn vâng lời và ca một bài hát mới với lời réo rắt phát ra từ tâm tư
của nàng, trong lúc cô ta vừa tự đàn theo. Bản nhạc cô hát diễn tả những cảnh đẹp của thế
giới, các vùng đất xa xơi, nơi lúc cịn là đứa trẻ cơ đã đến viếng thăm; và những thành
phố hoa lệ nơi dân chúng đang sống hạnh phúc.


Bài hát đã làm thái tử say mê, và khi nó vừa chấm dứt, người hỏi nàng ca sĩ: “Hãy nói
cho ta biết, phải chăng thực sự có những nơi chốn đẹp đẽ bên ngoài các bức thành của
hoa viên này. Dân chúng trong kinh thành đã sống những cuộc sống ra sao? Trên thế gian
cịn có nhiều cảnh vật hấp dẫn hơn những điều mà ta đã nhìn thấy ở trong các cung điện
này? Hãy kể cho ta nghe tất cả những điều mà cô biết”.


Nàng đáp: “Tâu điện hạ, những lâu đài này hẳn nhiên là tráng lệ nhất, nhưng còn nhiều
cảnh vật đẹp đẽ khác trên thế giới rộng lớn hiện nay. Có nhiều đơ thị, thành phố, núi đồi
và thung lũng, cũng như các vùng đất xa xơi nơi mọi người nói những ngơn ngữ xa lạ. Có
nhiều điều con đã thấy, và những việc khác mà con đã nghe. Các cung điện và hoa viên
của thái tử thực là đẹp, nhưng vẫn cịn nhiều cảnh vật để xem bên ngồi những bức thành
này”.


Nghe nói vậy, thái tử rất mong tự mình đi xem những cảnh vật khác thường và kỳ lạ đó vì
nhiều năm qua, thái tử đã bằng lịng sống trong các hoa viên và cung điện đầy thú vui và


hồn tồn khơng biết đến thế giới bên ngồi. Nhưng giờ đây, thái tử muốn dạo chơi ra
ngoài thành nên người đã gửi thư thỉnh cầu phụ hoàng tổ chức một cuộc du ngoạn ra
ngoài thành của công viên.


Phụ vương nhận thư của thái tử và thầm nghĩ: “Nay con ta muốn đi xem đất nước này.
Mong cho điều ấy xảy ra! Thái tử đã sống khá lâu trong các cung điện lạc thú rồi. Ðây là
lúc thái tử nên ra ngoài xem vương quốc mà tương lai thái tử có thể trị vì”.




7 CẢNH TƯỢNG BẤT NGỜ


</div>
<span class='text_page_counter'>(12)</span><div class='page_container' data-page=12>

Sáng hôm sau, tên hầu cận Xa Nặc (Channa) (11), sửa soạn con ngựa Kiền Trắc
(Kantaka) (12) thân yêu của thái tử, và đánh xe đưa người ra khỏi các cổng thành.
Ðây là lần đầu tiên mà thái tử, kể từ khi còn là một đứa trẻ thơ, được nhìn thấy thành Ca
Tỳ La Vệ, và cũng là lần đầu tiên phần đông dân chúng trong thành gặp mặt vị hoàng tử
của họ. Mọi người đều vui mừng và đứng dọc theo những đường phố được trang hồng
mới mẻ để mong nhìn thấy vị thái tử trẻ đẹp.




Khi xe ngựa của người đi qua, họ trầm trồ với nhau: “Thái tử dáng người trông cao ráo và
đẹp mã làm sao! Cặp mắt và vầng trán của thái tử quá sáng sủa! Chúng ta thực có phước
một ngày nào đó thái tử sẽ là vua của chúng ta”.


Và thái tử cũng rất vui mừng. Kinh thành đâu cũng sáng ngời, sạch sẽ, và thái tử thấy dân
chúng khắp nơi đều vui cười, hớn hở và nhảy múa. Các đường phố thái tử đi qua đều tràn
ngập những cánh hoa do dân chúng hân hoan ném tung vào vị hoàng tử thân yêu. Thái tử
sung sướngg tưởng nhớ lại: “Bài hát diễn tả thật đúng. Rõ ràng đây là một kinh thành rực
rỡ tráng lệ và kỳ lạ!”.



Nhưng thái tử và tên hầu cận Xa Nặc đang đánh xe ngựa bất chợt nhìn thấy trong giữa
đám đơng dân chúng vui vẻ này có một ông lão già lưng còng với nét mặt buồn thảm. Do
sự tị mị vì từ trước nay thái tử chưa từng thấy bất cứ hình ảnh nào như thế bao giờ, nên
thái tử quay lại và hỏi: “Này Xa Nặc, ơng già đó là ai vậy? Tại sao ông đi khom lưng và
không nhảy múa như các bạn trẻ? Tại sao da mặt ông nhăn nheo và khơng sáng sủa như
mọi người khác mà nó lại xanh mét và khô cằn? Tại sao ông lại quá khác biệt với thiên
hạ?”.


Xa Nặc chỉ vào ông già đang đứng mà mọi người khơng ai nhìn thấy và trả lời: “Tại sao,
tâu điện hạ, vì đó là một ông già”.


Thái tử hỏi: “Già? Người này luôn luôn già như vậy từ hay mới xảy ra gần đây?”.


Xa Nặc trả lời: “Tâu điện hạ, dạ không. Nhiều năm trứơc ông lão già ấy cũng trẻ và khỏe
mạnh như mọi người khác mà thái tử nhìn thấy tại đây hôm nay. Nhưng sức lực của ông
dần dần kém sút. Lưng ơng khịm xuống, màu da nơi má đã phai nhạt, phần lớn những
răng của ông đều rụng hết, và hiện nay trông ông lão già nua như vậy.”


Hết sức ngạc nhiên và buồn rầu, thái tử Tất Ðạt Ða lại hỏi: “Phải chăng chỉ có mình ơng
lão đó phải chịu cảnh khổ ốm đau vì sự già nua? Hay những người khác đều giống như
ơng?”


</div>
<span class='text_page_counter'>(13)</span><div class='page_container' data-page=13>

Những lời nói này của Xa Nặc đã làm cho thái tử sửng sốt, khiến người ngồi im lặng rất
lâu khơng nói năng gì. Thái tử trơng như người mất hồn, sợ hãi vì bị một tia sét đánh bất
ngờ. Sau cùng thái tử lại lên tiếng và nói: “Này Xa Nặc, hơm nay ta chứng kiến những
điều mà ta không bao giờ ước mong được thấy. Giữa những người trẻ hạnh phúc này,
cảnh tượng của sự già nua đã làm ta kinh hồng. Thơi ngươi hãy đánh xe quay trở về
hoàng cung, mọi niềm vui của ta trong chuyến du ngoạn này đã tiêu tan hết. Hãy trở về.
Ta khơng muốn nhìn thấy gì nữa.”



Xa Nặc vâng lịnh thái tử. Khi trở về hoàng cung, thái tử đi vào cung điện mà không chào
hỏi ai cả, thái tử vội vã lên lầu vào phịng riêng của mình, và ngồi im lặng rất lâu. Mọi
người ngạc nhiên trước hành động lạ lùng của thái tử, và họ đều cố gắng giúp cho thái tử
vui lên. Nhưng hoàn tồn thất bại. Vào bữa ăn tối, thái tử khơng thiết tha dùng đến thức
ăn, mặc dù người đầu bếp chính đã nấu các món ăn đặc biệt cho thái tử. Thái tử cũng
khơng cịn ham muốn thưởng thức âm nhạc và xem; vũ múa mà luôn ngồi một mình suy
nghĩ đến “sự già, sự già, sự già”.


<b>8 CHUYẾN DU NGOẠN LẦN THỨ HAI</b>


Vua cha được biết thái tử khơng mấy gì vui và ngạc nhiên về kế hoạch của mình có thể
đã thực hiện sai lầm. Ðức vua suy nghĩ: “Thái tử cần đi xem nhiều cảnh nữa. Ta sẽ sắp
đặt chuyến đi du ngoạn khác cho thái tử, nhưng lần này nên đưa người đến xem cảnh trí
nào xinh đẹp hơn trong thành phố”.


Rồi Xa Nặc lại chuẩn bị ngựa Kiền Trắc, và cả hai cỡi xe ngựa ra ngoài thành Ca Tỳ La
Vệ. Các đường phố được trang hồng như trước, và dân chúng vui mừng nhìn thấy lại vị
hoàng tử của họ. Nhưng vào dịp này, chỉ riêng thái tử Tất Ðạt Ða và Xa Nặc trông thấy
một người bệnh tật hiện ra trong giữa đám đông dân chúng vui cười.


Thái tử kêu lên: “Xa Nặc, hãy nhìn kia. Người đó là ai vậy mà họ đang lên cơn ho dữ dội,
với toàn thân rung chuyển và kêu rên thảm thiết như thế?”


“Tâu điện hạ, đó là một người đang đau bệnh”.
Thái tử lại hỏi: “Tại sao ông ta bị ốm đau?”


“Tâu điện hạ, người ta mắc bệnh tật vì nhiều lý do. Có thể họ dùng phải thức ăn không
tốt, hoặc bị nhiễm thời tiết quá lạnh. Lúc ấy thân thể họ mất qn bình và có thể bị cảm
sốt”.



“Phải chăng ngay cả những người sung sướng trong đám đơng dân chúng đó cũng có thể
bị đau ốm?”




</div>
<span class='text_page_counter'>(14)</span><div class='page_container' data-page=14>

Lần thứ hai, thái tử vô cùng sửng sốt. Người nói: “Ta khơng thể hiểu nổi, làm sao một
con người khơng phải lo lắng gì hết và sung sướng như thế lại có thể ngã bệnh bất cứ lúc
nào. Thôi, ngươi hãy đánh xe quay trở về. Ngày nay ta xem như vậy là quá đủ rồi”.
Khi trở về cung điện, thái tử cảm thấy không mấy gì vui vẻ hơn lần trứơc. Khơng người
nào có thể làm cho thái tử vui cười và thái tử khơng muốn nói chuyện với ai. Vua cha,
sau khi thấu rõ sự bất hạnh của con mình, ơng vô cùng lo lắng và phân vân: “Ta đã cố
gắng bằng mọi cách để làm cho con ta hạnh phúc, nhưng cuối cùng tâm hồn thái tử vẫn
chứa chan phiền muộn. Chắc ta nên tham vấn các quần thần thử xem có cách gì giúp cho
thái tử trở nên lạc quan yêu đời hơn không”.


Họ khuyên lần sau, thái tử muốn dạo chơi ra ngoài thành, đừng cho thái tử đi một mình.
Tốt hơn, cùng đi với thái tử nên có các nhạc cơng, vũ nữ và những quan lại trong triều
đình. Họ cần tổ chức đến thăm một hoa viên được trang hoàng đặc biệt để tại đây thái tử
có thể giải trí và bị quyến rũ bởi đủ loại các thú vui.


Do đó, khi thái tử Tất Ðạt Ða một lần nữa muốn ra ngoài thành du ngoạn mọi sự sắp xếp
đã được thực hiện hầu giúp cho chuyến đi của người càng gặp nhiều điều vui càng tốt.
Thành phố được trang hoàng đẹp đẽ hơn trước. Những cảnh trí buồn thảm được che giấu
và một hoa viên đặc biệt được sửa soạn với tất cả màu sắc tươi vui rực rỡ.


9 CẢNH TƯỢNG SỬNG SỐT CUỐI CÙNG


Thái tử Tất Ðạt Ða và Xa Nặc lại rời cung điện bằng xe ngựa. Tháp tùng theo họ còn có
các triều thần, nhạc cơng và người hầu cận đông đảo trông giống như một đám rước lễ.


Dân chúng như trước kia, đứng dọc theo các đường phố, mắt nhìn vào đồn diễn hành
rực rỡ của hồng gia.


Nhưng, lần thứ ba, một cảnh tượng hiện ra mà cũng chỉ một mình thái tử và người đánh
xe ngựa trơng thấy. Ðó là một nhóm người mặt buồn bã đang khiêng một chiếc hòm dài
bên trong đặt một xác người chết có quấn bao vải trắng, xuất hiện từ trong khu nhà ở đi
chậm rãi hướng xuống một con đường phố.


“Này Xa Nặc. Tại sao người đó nằm trong hịm khơng cử động như thế? Ơng ta ngủ phải
khơng? Tại sao các người đi theo lại than khóc? Họ mang người ấy đi đâu?”.


“Tâu điện hạ, đó là xác một người chết. Họ đang khiêng ông ta ra bờ sông để hỏa thiêu”.
Thái tử ngạc nhiên hỏi: “Nhà ngươi nói 'chết' là nghĩa thế nào? Nếu thân xác người ấy bị
đốt, ơng ta có đau đớn gì khơng? Này Xa Nặc, hãy giải thích điều đó cho ta hiểu”.


</div>
<span class='text_page_counter'>(15)</span><div class='page_container' data-page=15>

Ông ta hưởng thụ nhiều lạc thú và khổ đau trong cuộc đời, thành lập gia đình, đi làm
kiếm sống và trở nên già nua. Rồi cơ thể cũa ông ta ngày càng yếu lần. Ông phải nằm liệt
trên giường. Ít lâu sau, ơng khơng thể nhận biết các bạn bè thân thiết nhất của mình. Sức
khỏe cũa ông ta ngày càng suy yếu hơn, và rồi ông khơng cịn hít thở được nữa. Với hơi
thở cuối cùng này, năng lực cũa sự sống và cảm giác hiểu biết cũng xa lià khỏi thân xác
ông. Giờ đây ông ta đã qua đời. Mọi thứ ông để lại cịn nhìn thấy là cái thân xác bất động
mà ơng đã vơ cùng chăm sóc trong lúc cịn sống. Nó nằm đó lạnh cứng và khơng có cảm
giác. Khi gia đình thân quyến hỏa thiêu thân xác ấy, ơng khơng cịn biết gì nữa; vì ơng đã
chết”.


“Này Xa Nặc hãy nói cho ta rõ, phải chăng rất hiếm trường hợp người ta chết như thế?”
Người đánh xe ngựa trả lời: “Tâu điện hạ, không hẳn vậy đâu. Thực ra có người khơng
bao giờ chóng già và rất ít khi họ bị đau ốm. Tuy nhiên, mọi người, khơng trừ ai, một
ngày nào đó, tất cả đều phải chết”.



Những lời này, Xa Nặc phát biểu một cách hồn nhiên khiến cho thái tử vô cùng sửng sốt.
Người hỏi một cách cuồng nhiệt: “Phải chăng ngươi muốn nói, một ngày nào đó, vợ con
ta, các bạn bè và chính ta tất cả đều phải từ giã cõi đời? Và những người ta thấy hôm nay
tại đây, họ ăn mặc đẹp đẽ, cũng sẽ phải nhắm mắt xuôi tay? Than ôi, thật là mê mờ làm
sao cho con người ở thế gian này lại có thể vui vẻ múa hát khi biết rằng sự chết chóc
đang chờ đón họ! Tại sao con người phải quá bận tâm lo nghĩ đến việc phục sức diêm
dúa, thanh lịch trong khi biết rằng một ngày kia vào lúc chết thân xác của họ cũng chỉ
được quấn bọc với mảnh vải trắng thơ sơ?


Phải chăng con người có trí nhớ kém nên họ đã quên không biết đến sự chết? Hay là ý chí
con người q cứng rắn khiến họ khơng cịn lo lắng suy nghĩ đến sự chết? Lại đây, Xa
Nặc, hãy quay xe lui. Ta muốn trở về hoàng cung để suy tư”.


Tuy nhiên, Xa Nặc, đánh xe đến một hoa viên đẹp đẽ. Tại đây, những ca sĩ và vũ nữ kiều
diễm nhất trong cung điện đang chờ đợi cùng với các nhạc công, quần thần và một đại
yến tiệc được tổ chức bởi những đầu bếp của hoàng gia. Tất cả mọi người đều niềm nở và
vui mừng chào đón khi thái tử vừa bước ra khỏi xe ngựa. Nhưng thái tử đã không cười,
và cũng không thốt ra một lời nào. Thái tử đang hoàn toàn suy nghĩ đến cảnh tượng mà
người đã nhìn thấy trong ngày hơm đó.


10 NHỮNG LẠC THÚ CHÓNG TÀN PHAI


Mọi người đều cố gắng hết sức để mang lại niềm vui cho thái tử. Các cô vũ nữ tán tỉnh
mong tạo nên một nụ cười trên khuôn mặt đẹp trai đầy sầu muộn của thái tử. Nhưng Tất
Ðạt Ða tỏ ra không mấy chú ý đến họ. Thái tử không thể xua đuổi ra khỏi tâm trí của
mình những cảnh tượng già, bệnh, và hết.


</div>
<span class='text_page_counter'>(16)</span><div class='page_container' data-page=16>

các cô vũ nữ đáng yêu xinh đẹp này, và từ chối không tham dự các tiệc vui. Hãy lại đây!
Hồng tử cịn trẻ trung và đầy sinh lực, nên chính mình thụ hưởng đi chớ. Tại sao như
vậy? Các thiếu nữ này không khá xinh đẹp đối với thái tử hay sao?”



Nhưng thái tử đã trả lời với ông ta bằng một giọng vừa cứng rắn và hoà dịu như tiếng
sấm rền: “Nhà ngươi đã hiểu lầm ta. Không phải ta khơng thích nhìn ngắm những người
và cảnh vật đáng yêu ở đây. Tuy nhiên khi ta nghĩ tưởng đến các vẻ đẹp sẽ chóng tàn
phai và sự biến đổi vơ thường của vạn ật ta khơng cịn cảm thấy vui thú gì nữa.


“Nếu khơng có sự già, bệnh và chết, thì ta cũng vậy, sẽ tìm thấy nhiều lạc thú khi nhìn
vào các hình ảnh đáng yêu đó. Nhưng giữa cảnh khổ đau, và biết rằng điều ấy đang chờ
đợi tất cả chúng ta trong tương lai, làm sao ta có thể thỏa mản với các thú vui mà chúng
sẽ nhanh chóng trơi qua?


“Này ơng bạn của ta, nếu ngươi có một trái tim sắt đá hơn ta thì ngươi có thể dễ dàng thụ
hưởng các thú vui ấy. Nhưng đối với ta mọi vật ta nhìn thấy đều đang bị thiêu đốt trong
ngọn lửa khổ đau. Bao lâu ta chưa tìm ra con đường giải thốt sự đau khổ này thì mọi thú
vui trần thế khơng làm sao quyến rũ ta được.”


Vì khơng thể nào làm cho thái tử lạc quan yêu đời, nên mọi người đều buồn bã trở về
hoàng cung. Khi các quần thần báo cho phụ hồng biết khơng có điều gì có thể khiến thái
tử ham thích hay vui vẻ được, đức vua vơ cùng lo lắng đến mất ngủ. Hoàng thượng thầm
nghĩ: “Này, con u q của ta, điều gì có thể giữ con ở lại với ta nơi vương quốc này?
Có thú vui khác nào mà ta có thể cung cấp để con ta sẽ khỏi phải ra đi?” Với những ý
tưởng lo buồn sợ rằng sẽ sớm mất vị hồng tử độc nhất của mình, đức vua đã sống qua
một đêm trong tuyệt vọng.


11 BUỔI THIỀN QUÁN AN LẠC


Thái tử ngày càng chìm sâu trong cảnh bi quan yếm thế. Hình như người khơng cịn ham
thích điều gì nữa. Thái tử biếng lười ăn uống và kết quả là người thái tử trở nên xanh xao,
gầy ốm. Hoàng thượng và mọi người đều rất phiền muộn vì những thay đổi bất hạnh này
đã xảy đến cho thái tử Tất Ðạt Ða thân yêu của họ.



Ngày nọ, thái tử đến gặp vua cha và bày tỏ: “Thưa phụ vương, gần đây, tâm con luôn bị
xáo trộn. Con cảm thấy bất an và xin cha cho phép con một lần nữa du ngoạn ra ngoài
thành. Sự thay đổi cảnh trí này có thể giúp con an lạc”.


Vua cha đồng ý nghe theo lời yêu cầu của thái tử ngay vì nhà vua muốn thực hiện bất cứ
điều gì để làm thái tử vui lịng và có được hạnh phúc.Cũng như trước đây, phụ hồng căn
dặn các quan triều thần thân tín nhất nên đi sát bên cạnh và trông chừng thái tử.


</div>
<span class='text_page_counter'>(17)</span><div class='page_container' data-page=17>

tức và tin đồn nhảm nhí ở triều đình. Nhưng thái tử khơng thích nghe những câu chuyện
tầm phào đó; nên các quầnthần để thái tử ở lại một mình, rồi họ bỏ đi, chuyện trị vui vẻ
với nhau.


Thái tử Tất Ðạt Ða đửng nhìn ra cánh đồng. Bác nông phu đang cày ruộng với những con
bị, chim mng ca hát dưới ánh mặt trời chiếu sáng rực rỡ. Hoàng tử thầm nghĩ: “Cảnh
nơi đây thật là đẹp. Các luống cày ở đồng ruộngtrông giống như các gợn sóng nơi mặt
hồ”.


Thái tử ngồi xuống, và lần đầu tiên tâm hồn người cảm thấy thoải mái trong giây lát.
Nhưng khi nhìn kỹ hơn vào cảnh tượng trước mặt, thái tử bắt đầu nhận ra đó là những sự
vật mà người chưa được mục kích trước đây. Lưỡi cày cắt đất thành luống tới đâu, thái tử
trơng thấy thân mình của hàng trăm cơn trùng bé nhỏ bị giết chết đến đó. Thái tử nhìn
thấy vơ số lồi sâu bọ khác bị lui bò tới hỗn loạn trong cảnh tổ ấm của chúng bị tàn phá.
Thái tử cũng nhận biết rằng chim chóc khơng cịn hót ca vui vẻ nữa. Chúng đang liên tục
tìm kiếm thức ăn, bay sà xuống để mổ gắp những con sâu sợ hãi. Và nhiều chim nhỏ hơn
lo lắng sợ đàn diều hâu và các chim lớn khácđang đói ăn bay lượn vịng quanh bên trên
chúng.


Thái tử chứng kiến những con bò làm việc khổ nhọc đang cố gắng kéo chiếc cày nặng nề
trên thửa ruộng. Bác nông phu quất những làn roi làm phồng da đau đớn trên lưng con


bò. Và người nơng dân cũng lao động cực nhọc. Như lồi vật, thân hình chai cứng và sạm
nắng mặt trời của ông ta cũng nhễ nhại mồ hôi.


Thái tử suy nghĩ: “Ðó là vịng ln hồi khổ đau. Người nơng dân, những con vật của ơng
ta, các lồi chim chóc, cơn trùng - chúng làm việc suốt ngày mong tìm cuộc sống hạnh
phúc, đầy tiện nghi và có đủ miếng ăn. Nhưng kỳ thực, chúng đang thường xuyên giết
chóc, tự hủy diệt mình và sát hại lẫn nhau! Ta cảm thấy quá tội nghiệp cho cuộc sống trần
gian làm sao”.


Lịng thái tử ngập tràn tình thương bao la đối với những sinh vật bất hạnh này. Thái tử
khơng muốn nhìn thấy chúng khổ đau. Người tìm đến một nơi bóng mát ngồi dưới cây
hồng táo và bắt đầu chú tâm thiền định suy tưởng đến mọi cảnh vật mà thái tử đã chứng
kiến. Khi thái tử quán chiếu sâu xa thấu suốt bản chất của sự khổ mà người đã thấy, tâm
thức thái tử càng trở nên yên lặng và định tĩnh. Thái tử cảm thấy tâm mình hồn tồn
vắng lặng mà trước đây chưa từng có được.


</div>
<span class='text_page_counter'>(18)</span><div class='page_container' data-page=18>

riêng mình? Ta phải tìm ra con đường cứu độ cho mọi chúng sanh khác nữa. Những
người ấy đều thân thiết với ta, và họ đang quá khổ đau! Ta phải đi tìm ra con đường chấm
dứt sự đau khổ này và chia xẻ sự giải thốt đó với những người khác”.


Sau buổi tọa thiền quán tâm từ bi này kết thúc, thái tử Tất Ðạt Ða liền mở mắt. Bấy giờ
hiện ra trước mặt thái tử là một đạo sĩ phục sức giống như kẻ hành khất nghèo, mà từ
trước nay thái tử chưa từng gặp thấy. Cặp mắt của vị đó rất hiền từ và trong sáng với
khn mặt lộ vẽ hết sức bình an.


Thái tử hỏi: “Hãy cho ta biết ngươi là ai?”.


Vị đạo sĩ trả lời: “Ta là người cảm thấy ghê sợ trước những khổ đau của trần thế. Ta
nhàm chán các thú vui dục lạc mà mọi kẻ khác đang mong tìm; cho nên giờ đây ta đi lang
thang một mình. Ta đã rời bỏ ngơi nhà của ta; hiện ta sống và ngủ nơi các hang động,


trong rừng hoặc bất cứ nơi nào mà ta gặp thấy. Nguồn vui duy nhất của ta là mong đạt
được sự an lạc tồn hão và giải thốt cùng tột nhất”. Vừa nói xong những lời này, vị đạo
sĩ như có phép lạ liền biến mất, bỏ mình thái tử ở lại với sự kinh ngạc và lòng ngập tràn
niềm vui.


Thái tử thầm nghĩ: “Cuối cùng ta đã tìm thấy ý nghĩa chân thật của sự sống. Ta cũng sẽ từ
giã cung điện của ta để bắt đầu đi tìm chân hạnh phúc và con đường chấm dứt mọi khổ
đau”.


Với tâm nguyện dõng mãnh và ý chí cương quyết, thái tử leo lên ngựa Kiền Trắc và trở
về hoàng cung.


12 VUA TỊNH PHẠN LO LẮNG


Sau khi về đến cung điện, thái tử liền đi thẳng vào phịng của vua cha. Thái tử chấp tay
lại vì theo tục lệ khi muốn thỉnh cầu một việc quan trọng, và thưa: “Con muốn trở thành
người du sĩ khơng nhà để mong tìm ra con đường chấm dứt mọi khổ đau. Xin phụ vương,
cho con được phép rời hoàng cung”.




Từ khi thái tử còn nhỏ, đức vua đã lo sợ một ngày nào đó Ngài sẽ được nghe lời thỉnh cầu
khủng khiếp này. Cho nên vua cha hết sức kinh hoàng khi nghe thái tử thốt ra câu nói
như vậy. Bằng giọng nói nghẹn ngào trong nước mắt, vua cha trả lời: “Con yêu quý,
đừng nghĩ đến việc rời cung điện. Con đang cịn q nhỏ để có thể theo đuổi cuộc sống
khơng gia đình của một thánh nhân. Hãy chờ tới ngày con lớn khôn. Hiện tại, con nên ở
lại kinh thành Ca Tỳ La Vệ và cai trị vương quốc này”.


</div>
<span class='text_page_counter'>(19)</span><div class='page_container' data-page=19>

Vua Tịnh Phạn sửng sốt khi nghe thái tử bày tỏ những ý tưởng lạ lùng này, và Ngài bắt
đầu giận dữ. Ðức vua la lớn: “Này Tất Ðạt Ða, hãy quên đi những ý tưởng điên rồ đó”.


Nhưng thái tử vẫn cương quyết nói: “Thưa phụ vương, nếu cha khơng thể cứu con thốt
khỏi những sự khổ vì cảnh già, bệnh, chết và bất an, thì cha nên để con ra đi hầu mong
tìm con đường tự cứu lấy mình. Thật là vơ lý nếu phụ hồng cứ giam giữ con mãi như tù
nhân ở đây”.


Tuy nhiên, hồng thượng khơng muốn nghe gì nữa, và ông nổi cơn thịnh nộ, quát tháo
om sòm truyền lịnh cho các quần thần: “Ðừng để thái tử vượt thành ra đi! Hãy mang
quân lính đến vây kín hoàng thành!”




13 XUẤT GIA


Thái tử Tất Ðạt Ða rời cung điện của phụ hoàng và trở về phịng của mình. Thái tử đi
ngang qua các dãy phịng trang hồng đẹp đẽ, những hành lang rực, rỡ, các vòi nước lấp
lánh, và tiến vào phịng của mình ở lầu trên. Thái tử đi ngang qua giữa các nhạc công
lừng danh và những thị nữ xinh đẹp. Nhưng khơng một cảnh trí lộng lẫy nào gây được sự
chú ý nơi tâm hồn thái tử. Người chỉ có một ý tưởng duy nhất là phải vượt thành ra đi.
Ðêm ấy, sau buổi cơm tối, hình như một quyền phép lạ nào đã xâm nhập vào hồng cung.
Các nhạc cơng, vũ nữ và thị nữ từng người một lần lượt đều cảm thấy mỏi mệt, và nằm
lăn ra ngủ say. Cuối cùng, ngay cả công chúa Da Du Ðà La cũng ngủ thiếp đi bên cạnh
hài nhi La Hầu La của nàng. Thái tử nhìn vợ và đứa con thơ đang nằm ngủ và thầm nghĩ:
“Ta nên ẵm con ta vào lòng lần cuối cùng trước khi ta vượt thành xuất gia nhưng làm vậy
có thể khiến Da Du Ðà La thức giấc. Như thế rất khó cho ta ra đi. Khơng được, ta phải
nhanh chóng, và n lặng rời khỏi cung điện, trước khi bất cứ ai có thể thức dậy”.


Bước đi nhẹ nhàng giữa những thân người đang say ngủ, thái tử đến cửa sổ, trèo qua mái
nhà và tuột xuống đất. Thái tử đến nơi Xa Nặc, người đánh xe ngựa đang ngủ và nhẹ
nhàng đánh thức anh ta dậy: “Nhanh lên, Xa Nặc, thắng yên cương vào ngựa cho ta. Ta
muốn ra đi đêm nay”.



Xa Nặc rất ngạc nhiên việc thái tử muốn vượt thành xuất gia vào giữa đêm khuya, nhưng
y vẫn làm theo lời yêu cầu của thái tử. Xa Nặc sửa soạn ngựa Kiền Trắc và mang đến cho
thái tử. Tất Ðạt Ða vỗ về con ngựa và khẽ nói: “Này Kiền Trắc, bạn thân của ta, chúng ta
nên giữ im lặng. Ta không muốn làm thức giấc bất cứ tên lính gác nào. Ðêm nay là một
đêm rất trọng đại”.


</div>
<span class='text_page_counter'>(20)</span><div class='page_container' data-page=20>

con đường giải thốt mọi khổ đau, ta sẽ khơng trở về lại kinh thành Ca Tỳ La vệ rực rỡ
này!”


Cả ba đi suốt đêm. Khi mặt trời sắp mọc, họ tới một khu rừng yên tĩnh, tại đây có nhiều
đạo sĩ đang ẩn tu. Thái tử sung sướng và tự nghĩ: “Giờ đây chuyến đi tầm đạo thực sự của
ta mới bắt đầu”. Rồi thái tử quay sang nói với Xa Nặc: “Này Xa Nặc thân mến, ta cám ơn
sự giúp đỡ của con. Ta đã tới nơi ta mong muốn. Bây giờ ta nhờ con mang con ngựa của
ta trở về hoàng cung”.


Xa Nặc khơng tin rằng Thái tử sẽ khơng cùng với mình đi trở về cung điện. Cho nên anh
ngạc nhiên đứng nhìn, mắt chứa chan đầy lệ. Thái tử thấu hiểu nỗi đau buồn của người
hầu cận và rất dịu dàng nói với anh ta lần nữa: “Này Xa Nặc trung thành của ta, con chớ
nên khóc lóc. Sớm muộn gì rồi chúng ta cũng sẽ phải chia tay. Ðây, hãy nhận giữ lấy
những đồ trang sức mà ta đang dùng; ta sẽ không cần thiết đến chúng nữa. Con hãy trở về
hoàng cung và báo cho phụ vương ta biết rằng ta đã không ra đi trong sự giận hờn.
Không phải ta không mến yêu gia đình ta nữa. Nhưng vì quá yêu thương thân quyến
hoàng tộc của ta mà nay ta đành phải tạm xa lià tất cả. Nếu ngày nào ta tìm ra con đường
giải thoát, chấm dứt mọi khổ đau, ta sẽ trở về thăm quê hương. Nếu không thành cơng thì
việc rời bỏ kinh thành của ta hơm nay vẫn phải xảy ra một ngày nào. Vì sớm muộn gì thì
sự chết sẽ đến để bắt chúng ta chia lìa. Giờ đây chúng ta hãy đi để ta bắt đầu công cuộc
tầm đạo”.


Xa Nặc nhận thấy rằng khơng làm sao có thể lay chuyển được ý chí của thái tử. Người


cầm lấy giây cương ngựa Kiền Trắc từ nơi tay thái tử và chậm rãi hướng dẫn cho ngựa
cất bước. Xa Nặc và ngựa Kiền Trắc nhiều lần nhìn lui thái tử với những cặp mắt đầy lệ.
Cuối cùng cả hai về đến thành Ca Tỳ La Vệ, tại đây Xa Nặc có bổn phận đau buồn trong
việc thuật lại cho mọi người biết rằng thái tử Tất Ðạt Ða đã vĩnh viễn từ bỏ cuộc sống nơi
hoàng cung.


14 CUỘC TẦM ÐẠO BẮT ÐẦU


Ðứng một mình trong rừng, chuẩn bị khởi đầu cho cuộc tầm đạo cao cả của mình, Tất
Ðạt Ða thầm nghĩ: “Từ nay trở đi ta khơng cịn là một hồng tử nữa. Cho nên, thực là
khơng thích hợp, nếu ta tiếp tục sống và phục sức như một vương tử”. Thái tử lấy dao cắt
đứt mái tóc dài và óng mướt của mình, biểu tượng cho vương quyền. Rồi thái tử đến tiếp
xúc, nói với người thợ săn nghèo khổ: “Này ông bạn, tôi không cần dùng các xiêm lụa là
này nữa. Nếu muốn sống ẩn tu trong rừng, tôi chỉ cần mặc loại áo vải thô sơ như ông.
Vậy chúng ta hãy cởi bỏ y phục ra để trao đổi”. Ông thợ săn mừng rỡ và nhanh chóng
bằng lịng theo lời đề nghị của Tất Ðạt Ða trao đổi quần áo tồi tàn của mình để nhận nơi
thái tử những y phục sang trọng đắc tiền.


</div>
<span class='text_page_counter'>(21)</span><div class='page_container' data-page=21>

còn đẹp trai và hấp dẫn. Các đạo sĩ trong rừng khi nhìn thấy thái tử đi tới họ liền nói với
nhau: “Ðây tới thêm một nhân vật rất đặc biệt. Khuôn mặt của ông ta trông sáng quắc và
đầy cương quyết! Con người đó mà đi tìm Chân lý, chắc thế nào cũng chứng đạo”.
Tất Ðạt Ða tìm gặp nhiều đạo sư để học hỏi, nhưng người không thỏa mãn với những
điều đã học được nơi họ. Thái tử suy nghĩ: “Những điều các đạo sĩ chỉ dạy rất bổ ích,
nhưng khơng hướng dẫn con người đến cảnh giới hạnh phúc hoàn toàn”. Cuối cùng, thái
tử hay tin có vài đạo sĩ thấu triệt chân lý đang sống ở vương quốc Ma Kiệt Ðà (Magadha)
(13), dưới quyền trị vì của vua Tần Bà Sa La (Bimbisara) (14). Cho nên thái tử quyết
định du hành xa về phía nam và đơng để tìm gặp họ.


Ngày nọ, lúc thái tử đến thành vương xá (Rajagriha) (15), thủ đô nước Ma Kiệt Ðà, người
đi ngang qua gần cổng thành. Một quan đại thần của vua Tần Bà Sa La nhìn thấy thái tử


liền chạy đến gặp đức vua.


Ơng nơn nóng thưa rằng: “Tâu hồng thượng, hạ thần vừa trơng thấy một đạo sĩ hết sức
lạ thường xuất hiện trong thành phố. Ông ta mặc áo quần rách rưới và đến từng nhà xin
thức ăn, nhưng hạ thần quyết chắc rằng đạo sĩ đó là một vĩ nhân. Khn mặt của người
trông rất từ bi với dáng đi hết sức trang nghiêm. Và hầu như nơi đạo sĩ toả ra một ánh
sáng đặc biệt.”


Nhà vua rất vui mừng cho mời đạo sĩ Tất Ðạt Ða đến gặp. Cả hai đàm luận trong giây lát,
đức vua vô cùng khâm phục trước sự sáng suốt, đức tính khiêm cung và lòng từ tâm của
vị đạo sĩ. Rồi đức vua nói: “Trẫm chưa bao giờ gặp một nhân vật nào mà trẫm có thể đặt
trọn niềm tin vào họ hơn đạo sĩ. Xin Ngài hãy ở lại thành Vương Xá để giúp trẫm cai trị
vương quốc này”.


Nhưng Tất Ðạt Ða lễ phép trả lời:“Thưa Ðại Vương, bần đạo đã có dịp cai trị một vương
quốc, nhưng bần đạo đã từ chối. Bần đạo khơng thích sống trong cảnh phú quý và có
quyền lực mà chỉ muốn đi tìm chân lý. Bần đạo cám ơn về sự dâng hiến của Ngài nhưng
bần đạo đến xứ sở này chỉ mong gặp các vị minh sư có thể giúp bần đạo tìm ra chân lý”.
Rồi đức vua cúi đầu chào vị đạo sĩ mặc y phục rách rưới và nói: “Trẫm cầu chúc đạo sĩ
gặp nhiều may mắn trên đường tầm đạo. Nếu ngày nào Ngài chứng ngộ được chân lý mà
Ngài đang đi tìm, xin Ngài trở lại đây để chỉ dạy cho trẫm hiểu cái đạo lý ấy. Ngay cả
trường hợp nếu đạo sĩ không thành công, trẫm cũng luôn luôn mong được tiếp đón Ngài
trở lại kinh đơ vương quốc này”.


Tất Ðạt Ða cám ơn nhà vua rất nhiều và đạo sĩ tiếp tục cuộc hành trình.


15 SÁU NĂM TU KHỔ HẠNH


</div>
<span class='text_page_counter'>(22)</span><div class='page_container' data-page=22>

chỉ dạy. Nhưng ông vẫn chưa thỏa mãn, và tự nghĩ: “Thầy của ta mặc dù là những đạo sư


thánh thiện, song mọi lời chỉ giáo của họ vẫn không giúp con người chấm dứt được
những sự khổ đau. Cho nên ta phải cố gắng tự mình đi tìm ra chân lý.”


Sa mơn tiếp tục cuộc hành trình cho tới khi đến dịng sơng Ni Liên Thuyền (Nairangana)
(18), gần thành phố linh thiêng Ca Da (Gaya)(19). Sa môn vượt qua sông và đi vào khu
rừng bên kia bờ sơng. Tại đây ơng gặp nhóm năm đạo sĩ đang tu tập. Cuộc sống của họ
thật hết sức giản dị. Họ dùng rất ít thức ăn, sống ngoài trời, và ngồi yên tĩnh thiền định
nhiều giờ mỗi ngày.


Sa môn hỏi những đạo sĩ này:


“Tại sao quý vị tự hành hạ làm đau đớn thân xác mình như vậy.”


Họ trả lời: “Phần đông mọi người trên thế gian đều nng chìu q mến thân thể của
mình, cho nên họ đang còn chịu nhiều đau khổ. Chúng tơi nghĩ rằng nếu chúng ta có thể
khống chế sự đau đớn chúng ta sẽ tìm ra phương pháp khắc phục được những khổ đau”.


Sa môn Tất Ðạt Ða thầm nghĩ: “Nhiều năm qua, ta sống trong các cung điện đầy thú vui
dục lạc. Ta đã q nng chìu thân xác của mình cho nên tâm ta khơng tìm thấy sự an
lạc. Có thể những đạo sĩ này nói đúng. Ta sẽ tham dự cùng với họ thực hành để thử xem
phương pháp này dẫn đến chấm dứt được sự khổ hay không.”


Rồi ông bắt đầu thực tập những phương cách tu hành vất vả và khó nhọc nói trên. Sa môn
ngồi liên tục nhiều giờ tại một chỗ. Mặc dù chân và lưng của người rất đau đớn, nhưng
ông vẫn không lay động. Sa môn tự thiêu đốt thân mình dưới ánh nắng hè cháy bỏng và
làm tê cóng da thịt bởi những làn gió đơng lạnh buốt. Sa môn chỉ dùng vừa đủ thức ăn để
duy trì sự sống. Và cho dù khổ nhọc đến đâu, ông vẫn tự bảo: “Ta phải tiếp tục để tìm ra
con đường chấm dứt mọi khổ đau”.



Năm người bạn cùng tu nhìn sa mơn Tất Ðạt Ta, đầy kinh ngạc. Họ nói với nhau: “Chúng
ta chưa thấy ai có quyết chí tu hành như vị này. Ơng ta ln tinh tấn và không bao giờ
thối tâm. Người sắp thành công bằng lối tu khổ hạnh này sẽ là Tất Ðạt Ða. Chúng ta nên
đến ngồi sát cạnh sa mơn để khi người tìm ra được con đường chánh đạo, chúng ta sẽ có
thể tu học với ông”.


Sa môn Tất Ðạt Ða ngày càng hành hạ thân xác mình nhiều hơn. Ban đầu ơng chỉ ngủ vài
giờ mỗi đêm; nhưng sau đó người chấm dứt hồn tồn khơng ngủ nghỉ gì hết. Thường khi
sa mơn dùng mỗi ngày một bữa ăn thanh đạm, nay người cũng không ăn nữa. Ông chỉ
dùng vài hạt ngũ cốc cốc và trái nạc do gió thổi vào vạt áo của người.


</div>
<span class='text_page_counter'>(23)</span><div class='page_container' data-page=23>

Sáu năm dài trôi qua. Khi rời cung điện và từ bỏ mọi thú vui trần tục, sa mơn Tất Ðạt Ða
đúng hai mươi chín tuổi. Nay ông được ba mươi lăm trải qua sáu năm tu hành khắc khổ
trong sự ăn uống, ngủ nghỉ, ẩn trú và phục sức. Ngày kia, sa môn thầm nghĩ: “Nay ta có
tiến gần chút nào đến mục đích tầm đạo giải thốt của ta hơn sáu năm trước chăng? Hay
ta vẫn đang còn mê mờ như xưa? Khi làm thái tử sống trong cảnh giàu sang phú quý, ta
thụ hưởng đủ mọi điều mà một vị hồng tử có thể mong ước có được. Ta đã phung phí
nhiều năm trong các ngục tù lạc thú đó.


“Rồi ta xuất gia đi tu và bắt đầu công cuộc tầm đạo. Ta đã sống trong rừng, các hang
động và chưa gặt hái được kết quả gì ngoài sự nhịn ăn và hành hạ xác thân. Nhưng ta vẫn
khơng tìm ra con đường chấm dứt mọi khổ đau. Giờ đây ta có thể nhận thấy đó là một sự
sai lầm trong việc tự hủy hoại thân thể của mình như thế này, chẳng khác gì sự nhầm lẫn
là ta đã phí phạm nhiều thì giờ trước kia trong các cung điện hồng gia. Ðể tìm ra chân
lý, ta nên theo con đường trung đạo nằm giữa hai cuộc sống quá dục lạc, và quá ép xác
khổ hạnh”.


Sa môn nhớ lại nhiều năm trứơc, sau khi nhìn thấy cảnh một người chết, ơng đã ngồi
thiền định dưới gốc cây hồng táo. Sa môn thầm nghĩ: “Sau lần tham thiền đó, tâm ta trở
nên rất định tinh. Lần đầu tiên ta có thể sáng suốt nhìn thấy rõ ràng các sự vật. Giờ đây ta


sẽ cố gắng thiền định trở lại như thế”.




Nhưng khi nhìn lại mình, sa môn nhận thức rằng: “Ta đã ngồi đây tu tập nhịn ăn trong
nhiều năm hiện giờ thân ta mệt mỏi, đầy dơ bẩn và suy yếu. Ta ốm gầy đến nỗi chỉ còn
da bọc xương. Làm sao ta có thể thiền định sáng suốt, quán sát sự vật khi thân mình dơ
nhớp và q đói khát”.


Sa mơn từ từ đứng dậy đi xuống sông tắm. Nhưng người quá yếu sức gần như muốn ngã
chìm nước. Sa mơn nỗ lực cố gắng vươn mình để tiến lên bờ. Rồi Ngài ngồi trong giây
lát, nghỉ ngơi.


16 TÍN NỮ CÚNG DƯỜNG


Tại ngôi làng nhỏ sát cạnh khu rừng có một anh chăn bị. Sinh sống với cơ vợ tên Tu Già
Ða (Sujata)(20). Nàng rất sung sướng vừa mới sinh được cháu trai đầu lịng. Cơ dùng sữa
thơm ngon nhất vắt từ những con bò của anh chồng để chuẩn bị nấu một bữa ăn thịnh
soạn. Cô mang thức ăn vào rừng dâng cúng cho những vị thần mà cơ tin rằng họ đang
sống ở đó. Nàng thường hay cầu xin những thần linh này và nay muốn cám ơn các Ngài
đã giúp cho cô sinh được một đứa con khỏe mạnh.


</div>
<span class='text_page_counter'>(24)</span><div class='page_container' data-page=24>

Sa môn Tất Ðạt Ða từ từ mở mắt và trông thấy bát đồ ăn để trước mặt. Người mỉm cười
yên lặng nhìn Tu Già Ða, rồi đưa bát sữa lên miệng và bắt đầu uống. Nàng kinh ngạc thấy
sau khi dùng sữa, sức khỏe nơi cơ thể của sa môn ngày càng tăng lên. Uống sữa xong,
ông đặt bát xuống, cám ơn Tu Già Ða và nói: “Con tưởng nghĩ ta là thần linh, nhưng ta
chỉ là đạo sĩ đang đi tìm chân lý. Nhờ dùng sữa con dâng cúng, ta cảm thấy khỏe lại. Nay
ta tin chắc rằng ta sẽ tìm ra đạo giải thoát. Con sẽ được nhiều phước báu do hành động
lành con đã làm hôm nay. Cám ơn con”.





Năm người bạn cùng tu với sa môn Tất Ðạt Ða trong rừng thấy ông nhận lấy thức ăn đặc
biệt của cô Tu Già Ða. Họ rất bực mình và tự bảo nhau: “Sa môn Tất Ðạt Ta đã từ bỏ
công cuộc tầm đạo. Ơng ta khơng cịn theo đuổi cuộc sống thánh thiện nữa. Hãy nhìn kia,
ơng tắm rửa và dùng thức ăn ngon trở lại. Làm sao chúng ta có thể chung sống với con
người như vậy được? Hãy lại đây. Chúng ta nên rời khu rừng này và đến thành Ba La Nại
(Benares)(21). Chúng ta có thể tiếp tục con đường tu khổ hạnh tại vườn Lộc Uyển (22)
gần đó”.


Rồi họ bỏ đi nghĩ rằng sa mơn Tất Ðạt Ða khơng cịn ham thích trong sự tầm cầu chân lý
nữa. Nhưng Tất Ðạt Ða lấy lại sức khỏe nhờ ăn uống, và chuẩn bị ngồi thiền để mong
chứng ngộ đạo giải thoát mà người đang đi tìm trong nhiều năm qua. Ngài đứng dậy,
vượt qua sông và hướng đi về nơi mà sau này được biết là cây Bồ Ðề (Giác Ngộ).


17 CUỘC CHIẾN ÐẤU VĨ ÐẠI


Giây phút mà thế gian chờ đợi giờ đây đang đến gần. Sa môn Tất Ðạt Ða, người đã từ bỏ
vương quốc ra đi tìm chơn lý, hướng tiến về cây bồ đề. Trên đường đi, sa môn gặp một
người đang mang cỏ tươi và sa mơn xin ơng ta một bó nhỏ. Ngài dùng cỏ này để lót làm
chỗ ngồi.


Khi sa mơn đến gần cây bồ đề, bầu trời trở nên trong lành. Cả thế giới dường như nín thở,
lo lắng mong chờ biến cố trọng đại sắp xảy ra sau đó. Các nhánh cây đều cong xuống như
đón chào Ngài đến ngồi dưới bóng cây giác ngộ.


Sa mơn Tất Ðạt Ða đã dùng cỏ sửa soạn kỹ lưỡng làm thành một chiếc gối nhỏ để ngồi
trên đó và mặt quay nhìn về hướng đơng. Sa mơn ngồi trong tư thế kiết già vững chắc với
hai bàn tay đặt trên đầu gối. Rồi Ngài phát lời thệ nguyện đầy dũng cảm và quyết tâm:
“Ta sẽ không rời khỏi nơi này cho đến chết, nếu ta chưa chứng đạo quả giác ngộ”. Các vị


thiên thần trên không đều hoan hỷ nhìn xuống, chứng nghe lời thệ nguyện cao cả của sa
môn Tất Ðạt Ða. Hôm ấy là ngày Rằm tháng Tư, vào lúc mặt trời sắp mọc.


</div>
<span class='text_page_counter'>(25)</span><div class='page_container' data-page=25>

Cho nên, khi nhìn thấy sa mơn Tất Ðạt Ða đang ngồi thiền định dưới cội bồ đề, Ma
Vương rất phẫn nộ. Hắn liền kêu gọi, tập họp các con trai lẫn gái đến xung quanh, và la
hét: “Này các con hãy trơng kìa. Thái tử Tất Ðạt Ða đang ngồi thiền định. Nếu người
thành công và tìm ra đạo lý chấm dứt hết được mọi sự khổ, thì điều gì sẽ xảy đến với
chúng ta? Các con có biết chăng lúc ấy chúng ta sẽ mất hết quyền lực? Chúng ta không
thể phá hại mọi kẻ khác nếu người giáo hóa cho họ biết rõ chân lý. Vì thế chúng ta cần
phải đánh phá sự thiền định của thái tử, nếu không chúng ta sẽ bị tiêu diệt!”


Rồi Ma Vương cùng với các lực lượng tội ác của y đã cố gắng bằng mọi cách phá quấy sa
môn Tất Ðạt Ða. Chúng tạo ra một trận bão kinh hồn với những cơn sấm sét dữ dội bủa
vây quanh Ngài. Chúng thổi lên trận cuồng phong khiến cảnh vật xung quanh gần như
sụp đổ. Nhưng bên dưới các nhánh cây bồ đề, mọi sự vật, được bao che nhờ thần lực
thiền định của sa môn Tất Ðạt Ða, nên đều yên tỉnh.


Nhận thấy bão tố khơng có hiệu quả, Ma Vương liền thu tàn quân về và hét lớn: “Hãy tấn
công!”. Tức thì tồn lực các đội qn u ma, quỷ sứ và những cảnh tượng ghê rợn hiện
ra nhắm vào sa môn Tất Ðạt Ða đánh phá. Chúng ào ạt chạy đến bao vây gào thét mắng
nhiếc, nguyền rủa người. Chúng bắn Ngài với những mũi tên độc hại của sự hận thù.
Nhưng khi các mũi tên này bay đến thái tử, chúng biến thành những cánh hoa sen vô hại
rơi xuống chân Ngài. Không điều gì có thể quấy phá tịnh tâm thiền định của sa môn.


Ma Vương suy nghĩ: “Nếu những vũ khí và cảnh tượng ghê rợn này khơng thể đánh phá
thái tử, thì có lẽ các hình ảnh xinh đẹp, khêu gợi sẽ quấy rầy được tâm thiền định của
người”. Ma Vương tức thì biến hóa những tên ma quỷ khủng khiếp thành các phụ nữ kiều
diễm quyến rủ nhất. Những vũ nữ xinh đẹp mê hồn này nhảy múa trước mặt sa môn đang
thiền định, nhưng chúng vẫn không lay chuyển được Ngài. Kỷ niệm về những cung điện


đầy lạc thú, các hình ảnh vợ con thái tử, những bản nhạc trời mê ly và thức ăn cao lương
mỹ vị - không điều gì có thể phá vỡ định tâm n tĩnh nơi con người cương quyết đi tìm
chân lý này.


Ma Vương đành thua cuộc. Nhưng y cố gắng thực hiện kế hoạch cuối cùng. Ðuổi hết đồ
chúng đi, Ma Vương một mình hiện ra trước thái tử. Bằng giọng nhạo báng hắn nói với
thái tử: “Phải chăng ngươi là thái tử Tất Ðạt Ða tuyệt luân? Nhà ngươi nghĩ rằng mình là
vị đại thiền định. Biết bao đạo sĩ thánh thiện đã thất bại trong việc đi tìm chân lý; nhưng
ngươi tưởng rằng mình có thể thành công!


“Thực ngươi quá điên rồ! Ngươi không thấy rằng phải tốn biết bao nhiêu công phu mới
thành tựu được cái đạo quả mà ngươi đang đi tầm cầu. Ngươi đã làm được những gì để
mong đạt tới sự thành công? Trước tiên, ngươi đã thụ hưởng nuông chìu bản thân trong
hai mươi chín năm. Rồi trải qua sáu năm tự hành hạ xác thân mình. Và bây giờ ngồi thiền
định ở đây, người mong có thể chứng đạo quả giác ngộ.


</div>
<span class='text_page_counter'>(26)</span><div class='page_container' data-page=26>

Những lời khinh mạn này đã không lay chuyển được sa môn Tất Ðạt Ða. Từ nơi đầu gối,
Ngài im lặng nâng cánh tay phải lên, đưa trước mặt Ma Vương và chấm xuống mặt đất.
Ðúng vậy chính thế gian này đã làm chứng cho Tất Ðạt Ða! Trải qua vô lượng kiếp, Ngài
đã xuất hiện trên cõi đời này dưới nhiều hình thức. Ngài đã tu tập hạnh bố thí, nhẫn nhục;
đã thực hành hạnh từ bi không làm tổn hại các chúng sanh khác; và Ngài đã thiền định để
tìm chân lý. Ngài đã hành trì các hạnh nguyện ấy có kiếp làm thân nam, khi làm thân nữ
có đời hiện ra làm người giàu, khi làm kẻ nghèo luân hồi sinh tử nhiều lần. Ngài đã thành
tựu mọi phước đức ấy, với tâm nguyện tìm ra con đường cứu khổ cho chúng sanh. Và thế
gian này là chứng nhân của Ngài.


Ma Vương nhận thấy rằng giờ đây y thực sự đã hoàn toàn thất bại, và biến mất đi như
một cơn ác mộng. Duy nhất còn lại một mình sa mơn Tất Ðạt Ða. Bão tố mây mù đã quét
sạch, và ánh trăng rọi chiếu sáng trên bầu trời. Khơng khí trở nên dịu hiền và sương mai
chiếu lấp lánh trên đầu ngọn cỏ. Mọi cảnh vật như sẵn sàng.



18 GIÁC NGỘ!


Sa môn Tất Ðạt Ða cảm thấy tâm mình nhẹ nhàng và yên tĩnh. Dần dần Ngài quán chiếu
sâu vào tự thân và trí tuệ của Ngài ngày càng sáng suốt hơn. Bằng con mắt của tâm giác
ngộ, Ngài nhìn thấy biết mọi việc xảy ra trong quá khứ. Ngài khám phá ra rằng khi đời
sống này kết thúc thì một kiếp sống mới lại bắt đầu. Chết chỉ là sự hủy diệt của thân xác;
nhưng dịng sống của nó vẫn tiếp tục diễn tiến tồn tại để tái sinh hiện hữu trong một xác
thân mới, mãi mãi luân hồi.


Ngài nhận biết rằng người nào gây nhân ác trong đời hiện tại như làm hại kẻ khác thì họ
(nam cũng như nữ) sẽ nhận chịu quả báo đau khổ trong kiếp sau. Nhưng nếu ai có lịng
thương mọi người thì họ sẽ gặt lấy kết quả hạnh phúc và an vui. Bất cứ hành động nào do
con người gây ra sẽ không bao giờ mất, mà việc làm ấy còn gây hậu quả hạnh phúc hay
khổ đau cho họ trong nhiều đời sau.


Ngài cũng khám phá nhận thấy rằng mọi kiếp sống của tất cả chúng sanh đều có tương
quan, tương duyên với nhau; tâm Ngài thể nhập chân lý thâm sâu mầu nhiệm. Mặt trời,
các hành tinh, những vì sao và giải ngân hà của vũ trụ tâm Ngài đều quán sát thấu rõ tất
cả trong lúc thiền định. Ngài nhận biết rằng các vật thể từ hạt bụi nhỏ nhất đến ngơi sao
lớn nhất đều có liên hệ với nhau. Mọi vật luôn luôn biến đổi: sanh diệt rồi lại diệt sanh.
Chẳng có sự việc gì xảy ra mà khơng có ngun nhân, và các ngun nhân đều gây ra kết
quả.


</div>
<span class='text_page_counter'>(27)</span><div class='page_container' data-page=27>

mang lại cho họ nguồn hạnh phúc lâu dài. Chúng sẽ chóng thay đổi hoặc suy tàn và con
người lại bắt đầu đi tìm những sản nghiệp mới.


Ngài cũng thấy rằng người đời thường chống đối những điều họ khơng ưa thích. Cuộc
sống của họ tràn đầy sự oán ghét và hận thù. Lúc nào con người cũng nghĩ đến việc làm
hại kẻ khác, để rồi sau đó họ phải nhận lãnh sự buồn đau. Từ đời này sang kiếp nọ con


người tự tạo cho mình nhiều điều bất hạnh. Họ mong đi tìm sự an lạc nhưng lại gặp tồn
những khổ đau. Cuối cùng, Ngài đã tìm ra con đường dẫn đến chấm dứt sự khổ. Nếu ai
có thể nhìn thấy rõ ràng chân lý như chính Ngài đã thấy vào đêm hơm nay thì mọi điều
chạy theo dục vọng và chịu khổ đau của họ sẽ chấm dứt. Tâm con người khơng cịn tham
lam hay sân hận. Họ cũng khơng làm bất cứ điều gì gây tổn hại đến người khác. Do đó họ
cảm thấy rất hạnh phúc. Khi hủy diệt hết sự oán thù, lịng người sẽ chứa chan tình thương
và lịng u thương này sẽ mang lại cho con người sự an lạc và hạnh phúc mà khơng có
gì so sánh được.


Khi sa môn Tất Ðạt Ða thấu triệt rõ tất cả những điều này, chân tâm của Ngài khơng cịn
dính mắc một chút bụi vơ minh nào. Ngài đã có được ánh sáng trí tuệ tuyệt ln. Ngài
khơng cịn là một nhân vật bình thường mà là người đã hoàn toàn chứng đắc đạo quả giác
ngộ. Giờ đây Ngài là một vị Phật (Buddha)(24) Ngài đã thành tựu mục tiêu của Ngài!


Với nụ cười thanh tịnh và an lạc, Ngài xuất thiền đứng dậy. Khi ấy vào lúc ban mai và
mặt trời đang hừng mọc ở phương đông.


19 THUYẾT PHÁP CHO AI?


Tất cả vạn vật đều vui mừng vào buổi sáng huy hoàng ấy. Hoa tươi nở rộ khắp nơi, tỏa
hương thơm ngào ngạt trong khơng gian. Chim chóc ríu rít hót ca, và mọi sinh vật đâu
đâu cũng khơng cịn sợ hãi. Những mống cầu vồng và mây ngũ sắc rực rỡ hiện ra trên
bầu trời, và mọi người đều kinh ngạc khi nhìn thấy các hiện tượng kỳ lạ đó.


Ðức Phật với lịng ngập tràn niềm an lạc giải thốt nhất. Tâm Ngài dứt sạch hết vơ minh,
phiền não và cảm thấy nguồn vui bất tận. Trải qua nhiều ngày và tuần lễ, Ngài ngồi gần
cây Bồ Ðề (giác ngộ) để suy tưởng về niềm vui và phúc lạc nhiệm mầu mà Ngài đã thành
tựu được.



Rồi Ngài suy nghĩ: “Ta đã trải qua nhiều gian nan tu tập mới tìm ra con đường đạo chấm
dứt sự khổ và trở thành một vị Phật, Ta đã tu hành khổ hạnh trong nhiều năm. Khi thấy
rằng phần đông mọi người đều mê mờ và bị vô minh che lấp, ta không rõ ai là người hiểu
biết được những giáo lý mà ta đã chứng ngộ. Làm sao ta có thể chỉ dạy giáo pháp ấy cho
họ? Vậy tốt hơn ta nên ẩn tu một mình trong rừng cho đến mãn đời để thụ hưởng nguồn
an lạc của một vị Phật”.


</div>
<span class='text_page_counter'>(28)</span><div class='page_container' data-page=28>

nguyện cầu trong nhiều năm qua rằng Ngài sẽ từ bỏ cuộc đời vương giả để xuất gia hầu
tìm ra con đường cứu khổ chúng sanh. Giờ đây Ngài đã chứng ngộ được giáo lý ấy, xin
Ngài hãy chỉ dạy cho chúng con. Khơng như Ngài chúng con đang cịn đau khổ”.


Nhưng từ nơi tâm của đức Phật lại dấy lên một ý tưởng khác: “Ai thực hành được giáo lý
ta chỉ dạy? Ai có ý chí mạnh mẽ và đầy can đảm? Ai sẽ cố gắng hết mình và chịu đựng
lâu dài?”


Rồi tiếng nói tiềm ẩn lại vang lên: “Kính bạch đức Thế Tơn hẳn đúng là tâm chúng con
đã bị màn vô minh che lấp. Nhưng vẫn có những người khơng đến nỗi q mê lầm. Họ có
thể hiểu biết, thực hành theo giáo lý của Ngài. Vì hạnh nguyện cứu độ chúng sanh, xin
Ngài từ bi chỉ dạy giáo pháp chân thật ấy cho chúng con!”.


Ðức Phật mỉm cười và bảo: “Dĩ nhiên, dĩ nhiên, Ta sẽ chỉ dạy. Lý do duy nhất khiến ta đã
từ bỏ cuộc đời vương giã là mong đi tìm con đường cứu khổ cho nhân loại. Nay Ta đã
thành Phật, Ta sẽ làm bất cứ điều gì Ta có thể.


“Nhưng ngay cả đức Phật cũng khơng thể dứt trừ hết nỗi khổ cho những kẻ khác nếu họ
khơng nỗ lực tự mình cứu độ. Con người cần phải biết ngăn ngừa bệnh tật trước khi vị
bác sĩ có thể chữa lành bệnh cho họ. Cũng thế họ nên chịu khó lắng nghe giáo pháp chân
thật trước khi kẻ khác có thể giúp họ. Nhưng bất cứ ai tìm đến Ta với tinh thần rộng mở
sẽ nhận thấy rằng Ta luôn sẵn sàng bằng mọi cách chỉ giáo cho họ”.



Rồi đức Phật thầm nghĩ: “Ai trong số những người trên thế gian này ta nên giáo hóa trước
tiên? Người nào sẵn sàng nhất?” Ngài liền tưởng nhớ đến ông A La La (Adrada)


và Uất Ðầu Lam Phất (Udraka) là hai đạo sư mà Ngài đã gặp sáu năm trước đây. “Họ là
những người ta nên chỉ giáo trước, nhưng ta biết rằng nay họ đã từ trần và khơng cịn ở
thế gian này nữa”.


Ðức Phật lại nhớ đến năm người bạn cùng tu khổ hạnh với Ngài ở trong rừng. Ngài tự
nghĩ: “Họ sẵn sàng có thể hiểu rõ chân lý Ta sẽ thuyết giảng cho họ trước tiên”.


Ngài biết rằng Ngài sẽ gặp những người bạn này ở vườn Lộc Uyển gần thành Ba La Nại,
một thánh địa thiêng liêng nhất của Ấn Ðộ thời cổ. Ðức Phật thầm bảo: “Ta sẽ đến đó, và
bắt đầu công việc giảng pháp mà Ta quyết định sẽ làm”.


20 BÀI PHÁP ÐẦU TIÊN


</div>
<span class='text_page_counter'>(29)</span><div class='page_container' data-page=29>

Cuối cùng, đức Phật đến vườn Lộc Uyển. Từ xa, năm người bạn cũ thấy Ngài đang đi tới.
Họ thầm bảo với nhau: “Kìa, ông Tất Ðạt Ða bất tài vô dụng nay lại tới đây. Chúng ta
khỏi cần tiếp đón con người nhu nhược ấy! Hãy mặc kệ đừng biết đến ông ta”.


Nhưng khi đức Phật tiến lại gần, mọi người đều nhận thấy nơi Ngài có những tướng hảo
rất đặc biệt. Cho nên ban đầu họ có ý khơng muốn nghinh tiếp, nhưng sau tất cả đều tự
động đứng dậy chào đón Ngài. Với lịng đầy tơn kính, họ sửa soạn chỗ ngồi nâng giữ
chiếc y của đức Thế Tơn, mang nước lại cho Ngài và nói: “Hoan nghênh Ngài Tất Ðạt Ða
đến vườn Lộc Uyển. Chúng tôi hân hạnh được Ngài đến tu học với chúng tôi tại đây”.
Ðức Phật đáp lại: “Này các đạo sĩ, Như Lai cám ơn tâm thành đón tiếp của quý vị. Nhưng
q vị nên biết rằng nay Ta khơng cịn là thái tử Tất Ðạt Ða nữa cho nên không đúng
chút nào nếu các người gọi ta bằng tên đó”.


Các đạo sĩ hỏi: “Vậy chúng tôi nên gọi Ngài với danh xưng gì?”.



Ðức Thế Tơn dạy rằng: “Tồn thế giới đều chìm đắm trong vơ minh. Nay. Khi một người
đã khám phá ra chân lý, họ khơng cịn sống trong mê lầm nữa. Nay Ta đã giác ngộ và tìm
ra chân lý. Tất cả các đấng Giác Ngộ được gọi là Phật”.




Rồi năm vị đạo sĩ với lòng tơn kính thưa rằng: “Bạch đức Thế Tơn, xin Ngài hãy chỉ giáo
cho chúng con những điều Ngài đã hiểu biết để chúng con cũng được giác ngộ như
Ngài”.


Và để đáp lại lời thỉnh cầu của họ, đức Phật đã thuyết bài pháp đầu tiên. Nó được gọi tên
là: “Chuyển Bánh Xe Pháp” và “Pháp” (Dharma) là chân lý mà Ngài đã chứng ngộ. Ngài
bắt đầu thuyết giảng: “Này các sa môn, quý vị nên biết rằng có bốn Chân Lý Vi Diệu.
Một là Chân Lý về Sự Khổ. Cuộc sống là ngập tràn những khổ đau như già, bệnh chết và
bất hạnh. Mọi người luôn chạy đuổi theo các dục lạc, nhưng cuối cùng chỉ thấy khổ đau.
Ngay khi đạt được thú vui thì họ cũng nhanh chóng cảm thấy mệt mỏi vì điều lạc thú ấy.
Khơng có nơi nào con người tìm thấy sự thỏa mãn thực sự hay an lạc hoàn toàn.


“Hai là Chân Lý Cao Siêu về Nguyên Nhân của Sự Khổ. Khi tâm chúng ta chứa đầy lòng
tham và dục vọng chúng ta sẽ gặp mọi điều đau khổ. Chẳng hạn một người giàu bo bo
giữ của, tánh keo kiết ấy sẽ mang lại cho y sự khổ đau mà thôi.




“Thứ ba là Chân Lý Cao Siêu về Sự Chấm Dứt Sự Khổ. Khi tâm chúng ta đoạn diệt hết
lòng tham và dục vọng, sự khổ sẽ chấm dứt. Chúng ta sẽ cảm thấy an lạc và hạnh phúc
không lời nào diễn tả được.


</div>
<span class='text_page_counter'>(30)</span><div class='page_container' data-page=30>

Sau khi nghe bài pháp này, năm vị đạo sĩ cảm thấy vô cùng hạnh phúc như họ tìm thấy


được kho vàng vĩ đại. Tất cả đều nói: “Bạch đức Thế Tơn, Ngài thực sự đã chứng ngộ
chân lý. Xin Ngài chỉ dạy cho chúng con con đường đạt tới trí tuệ cùng tột và sự an lạc
hoàn toàn. Chúng con nguyện làm đệ tử theo Ngài”.


Ðược biết rằng vào lúc ấy, nhiều vị thiên thần cũng nghe được bài pháp đầu tiên này nên
đã bay xuống trần gian và thốt lên: “Ðức Thế Tôn đã bắt đầu chuyển bánh xe pháp.
Nguyện cầu thế giới nhân loại tất cả đều hưởng phúc lạc”.


21 NỖI KHỔ ÐAU CỦA BÀ MẸ


Ðức Phật đã dùng nhiều phương pháp để giáo hóa. Ðối với hạng người bình dân và thiếu
nhi, Ngài chỉ giáo bằng cách kể cho họ nghe những mẩu chuyện đạo. Ðối với hạnh người
khá thông minh, Ngài giảng dạy giáo pháp với sự giải thích tường tận. Và có những
người Ngài giáo huấn bằng sự im lặng không nói lời nào. Nhưng có lẽ, bài pháp có khả
năng giáo hóa mạnh mẽ nhất là tấm gương sáng và chính cuộc sống đạo đức của Ngài.
Ðức Phật ln ln hành động với tâm rộng lượng và lịng từ bi. Ngài kiên nhẫn giáo hóa
cho nọi Chúng Sanh, ngay cả đối với hạng người dốt nát và điên cuồng nhất.


Chẳng bao lâu, rất nhiều người đã ngưỡng mộ đi theo và trở thành đệ tử của đức Phật.
Nếu thiện nam tín nữ nào gặp phải điều gì khó khăn phiền muộn, họ liền tìm đến gặp đức
Thế Tôn để nhận sự chỉ giáo của Ngài. Ngày nọ, thiếu phụ Gơ Ta Mi (Gotami) có đứa
con vừa mới mất. Nàng quá đau khổ đến nỗi trở nên điên dại. Cơ ta đi khắp nơi mong tìm
vị thầy có thể cứu cho con của cơ sống lại. Các bạn bè xót thương bảo rằng: “Này Gơ Ta
Mi, cơ nên tìm gặp đức Phật. Hy vọng Ngài có thể cứu giúp cơ được”.


Rồi Gơ Ta Mi ơm chặt đứa con trong lịng đến trước đức Phật khóc than, bạch rằng: “Xin
Ngài từ bi cứu giùm cho bé trai của con được sống lại”. Với giọng nói hiền hịa, Ngài
đáp: “Này Gơ Ta Mi, Ta có thể giúp con, nhưng trước tiên, mong con đi kiếm mang về
cho Ta một hạt cải nhỏ. Và hạt cải ấy phải thuộc gia đình nào từ trước nay chưa có ai qua
đời”.



Gơ Ta Mi vội vàng đi tìm hạt cải. Nàng đến hỏi một nhà nọ, và được thiếu phụ ở đó trả
lời: “Cơ có thể tìm thấy hạt cải và bất cứ vật gì cơ muốn. .. . Nhưng xin cô biết cho rằng
chồng tôi mới mất năm ngoái”.


</div>
<span class='text_page_counter'>(31)</span><div class='page_container' data-page=31>

Cuối ngày, nàng trở về gặp đức Phật. Ngài hỏi: “Thế nào Gô Ta Mi, con tìm có hạt cải
khơng? Và đứa con của con đâu rồi? Con khơng mang nó theo nữa sao?”.


Nàng đáp: “Bạch đức Thế Tôn, hôm nay con nhận biết rằng khơng riêng mình con có
người thân mất. Mà khắp nơi ai ai cũng đều phải chết. Con cảm thấy thực là điên rồ làm
sao khi nghĩ rằng con có thể có được đứa con sống lại. Giờ đây con đành chấp nhận sự lìa
đời của cháu bé và chiều nay con đã đem chơn nó. Nay con trở lại và xin Ngài chỉ dạy
giáo pháp cho con. Con sẵn sàng để lắng nghe”.


Ðức Phật dạy: “Này Gô Ta Mi, hôm nay con đã học hỏi được nhiều điều. Sớm muộn gì
rồi sự chết cũng phải đến với mọi người. Nhưng nếu con hiểu rõ chân lý, con có thể sống
và chết trong an lạc. Hãy lại đây, Ta sẽ chỉ giáo cho con”. Rồi Ngài đã thuyết giảng giáo
lý cho Gô Ta Mi nghe, và chẳng bao lâu, nàng tìm thấy sự an lạc và hạnh phúc mà trước
đây nàng chưa từng biết đến.


22 CON NGƯỜI THÔ LỖ


Ngày nọ, đức Phật đi ngang qua một ngôi làng. Một thanh niên trẻ giận dữ và thô lỗ đến
gần mắng nhiếc Ngài. Hắn la lối: “Ơng khơng được thuyết giảng cho người khác. Ông
cũng ngu dốt như bất cứ ai. Ông là kẻ đạo đức giả.”


Ðức Phật đã không buồn giận khi nghe những lời nhục mạ này. Ngài ôn tồn bảo người
thanh niên: “Ta hỏi ngươi, nếu ngươi mua một món quà tặng cho người nào đó, nếu
người ấy khơng nhận thì vật biếu kia thuộc về ai?”



Tên vô lễ ngạc nhiên trước câu hỏi lạ lùng như thế và trả lời: “Món q đó thuộc về tơi vì
tơi đã mua nó”.


Ðức Phật cười và bảo: “Ðúng vậy. Sự mắng nhiếc của người cũng giống như thế. Nếu
ông sân giận chửi bới tôi, nhưng tôi đã không nhận lãnh điều đó thì sự mạ nhục kia sẽ trở
lại nơi ơng. Rồi chính ơng là người bất hạnh chứ không phải tôi. Tất cả những hành động
xấu ác ông làm sẽ gây tai hại cho ông.


“Nếu ơng muốn chấm dứt việc tự làm hại chính mình, ông phải đoạn diệt tâm sân hận và
nên mở rộng lịng thương. Khi ơng thù ghét kẻ khác, chính ông sẽ đau khổ. Nhưng khi
ông yêu thương mọi người, tất cả đều hạnh phúc”.


Người thanh niên lắng nghe những lời dạy sáng suốt này của đức Phật. Ông ta thưa rằng:
“Bạch đức Thế Tơn, Ngài nói rất đúng. Xin Ngài hãy chỉ dạy cho con giáo lý của đạo từ
bi. Con muốn làm đệ tử của Ngài”.


Và đức Phật đáp: “Lẽ tất nhiên. Ta sẽ chỉ giáo cho bất cứ ai thực tâm muốn tu học. Con
hãy đến với Ta”.


</div>
<span class='text_page_counter'>(32)</span><div class='page_container' data-page=32>

Chẳng bao lâu, đức Phật có một số đơng tín đồ và đệ tử đi theo Ngài từ nơi này đến nơi
khác. Ngày nọ, một đệ tử tới gặp Ngài và thưa: “Bạch đức Thế Tôn, Ngài thực đúng là
một trong những vị giáo chủ vĩ đại nhất chưa từng thấy!”


Ðức Phật khơng cảm thấy vui thích khi nghe lời tâng bốc này. Nhưng Ngài lại hỏi người
đệ tử: “Con đã gặp tất cả các vị đại giáo chủ xuất hiện trên thế giới này chưa?”


Ông ta đáp: “Thưa Ngài dĩ nhiên là chưa”.


Và con có biết hết tất cả các vị đại sư hiện đang sống và sẽ ra đời trong tương lai không?”
Người đệ tử trả lời: “Bạch Ngài, dạ không”.



Ðức Phật dạy: “Như vậy, thực là điều điên rồ khi con bảo Ta là vị giáo chủ vĩ đại nhất
trong tất cả. Vì làm sao con biết rõ được điều ấy là đúng hay sai”.


Vị đệ tử lại đáp: “Bạch Ngài, con muốn tán dương Ngài, vì giáo pháp của Ngài là quá cao
siêu và hữu ích”.


Ðức Phật dạy tiếp: “Nếu con nhận thấy giáo lý của Ta là bổ ích, điều tốt nhất là con nên
thực hành theo. Ðừng phí cơng khen ngợi Ta. Mục đích duy nhất Ta ra đời là nhằm giáo
hóa cho mọi chúng sanh. Nếu con muốn làm cho Ta vui, con nên nghe theo lời Ta dạy.
Ðiều này sẽ khiến Ta hoan hỷ hơn là việc con tán dương Ta.”


Lần khác, đức Phật hỏi vị đệ tử: “Khi con mua một món đồ nữ trang, con có trả tiền mà
khơng thử trước khơng?”




Người đệ tử trả lời: Dạ thưa Ngài, dĩ nhiên là khơng. Vì nó có thể là đồ giả và như thế là
con sẽ bị mất tiền”.


Ðức Phật dạy tiếp: “Giáo lý của Ta cũng giống như vậy. Con đừng tin vào lời Ta thuyết
giảng là đúng, chỉ đơn giản vì Ta đã nói điều ấy. Tốt hơn, con nên thực hành những lời
dạy của Ta để biết rằng chúng là đúng hay sai. Nếu con nhận thấy giáo pháp của Ta là
phù hợp với chân lý và hữu ích, thì con cố gắng làm theo. Nhưng con đừng thực hành chỉ
vì con kính trọng Ta.


“Con cũng khơng nên chỉ trích giáo lý của các tôn giáo khác và bảo rằng chúng là không
tốt. Trên thế gian còn nhiều vị đại giáo chủ khác, và tất cả đều giúp ích cho nhân loại theo
sự chỉ dẫn riêng của họ. Con đừng chê bai bất cứ tơn giáo nào. Bởi đó khơng phải là công
việc của con. Ðiều con nên thực hành là làm sao để có được hạnh phúc và giúp những kẻ


khác cũng hạnh phúc như con”.


Bằng cách đó đức Phật đã dạy cho các đệ tử của Ngài là nên phản tỉnh, tự xét bản thân
mình, ăn ở tốt với tất cả và kính trọng mọi người.


</div>
<span class='text_page_counter'>(33)</span><div class='page_container' data-page=33>

Vào thời đó tại Ấn Ðộ dân chúng thường hay giết súc vật để cúng tế cho các thần linh.
Họ tin làm vậy sẽ khiến các thần linh hoan hỷ. Rồi những vị thần sẽ ban cho dân chúng
mọi điều họ cầu nguyện như sự giàu sang hoặc những cơn mưa cho các vụ mùa của họ.
Ðức Phật, bất cứ đến đâu, Ngài cũng dậy bảo cho dân chúng biết rằng thực là điều sai
lầm khi người ta giết hại súc vật để cúng tế. Một vài người nghe Ðức Phật thuyết giảng
như vậy, họ tức giận và nói: “Kinh sách của chúng tơi đã dậy rằng giết súc vật để dâng
cúng cho các thần linh là việc làm chân chính. Tại sao Ngài dám nói khác đi?”.


Và Ðức Phật đã trả lời: “Thực là điều sai lầm khi bảo làm người khác đau khổ để các bạn
có hạnh phúc. Mọi chúng sanh ai cũng ham muốn sự sống như các bạn. Cho nên nếu các
bạn sát hại loài vật tức là các bạn đã sống ích kỷ. Và Ta đã dậy nhiều lần rằng người nào
sống ích kỷ, kẻ đó sẽ gặp khổ đau trong cuộc đời.


“Lại nữa, bất cứ thần linh nào đòi uống máu tươi của sinh vật khác rồi mới phù hộ cho
các bạn thì đó khơng phải là vị thần tồn thiện. Và thần linh ấy khơng xứng đáng cho
người ta kính lạy. Nhưng nếu các bạn thể hiện được tình thương và lịng tốt đối với mọi
chúng sanh - lồi vật cũng như con người - thì ngay chính các thần linh vẫn phải tôn sùng
các bạn”.


Nhiều người trong dân chúng nghe những lời dậy đầy trí tuệ này của đức Phật, đều nhận
biết rằng các điều ấy là đúng với sự thật. Tức thì họ từ bỏ tập tục giết hại các thú vật. Nhờ
vậy mà nỗi đau khổ lớn lao của chúng được chấm dứt.


25 NĂNG LỰC CỦA LỊNG TỪ BI



Ðức Phật đã khơng qn lời hứa với vua Tần Bà Sa La là sẽ trở về giảng pháp cho ông ta.
Rồi khi thời cơ đến, Ngài đã trở lại thành Vương Xá. Bên ngoài kinh thành này có một
ngọn đồi gọi là “Kỳ Xà Quật” hay “Núi Hình Chim Kên” (Vulture's Peak) (25) và Ðức
Phật cùng với các đệ tử của Ngài đã tới ẩn tu trong những hang đá tại đó.


Vua Tần Bà Sa La thường lên đỉnh núi ấy để nghe Ðức Phật thuyết pháp. Dân chúng
trong thành cũng tới đó, và chẳng bao lâu số tín đồ theo Ngài rất đông. Sau một thời gian
Ðức Vua và nhiều nhà phú hộ khác đã hỷ cúng cho Ðức Phật và các đệ tử của Ngài
những công viên và tại đây mọi người có thể ở lại thoải mái để nghe giáo pháp của đức
Thế Tôn.


Ðề Bà Ðạt Ða người em bà con với Ðức Phật lấy làm ganh ghét. Ông ta thầm nghĩ: “Ðức
Phật có nhiều tín đồ theo, và mọi người đều sùng kính Ngài. Nhưng tất cả khơng ai biết
tới mình, mặc dù ta cũng vĩ đại như Ðức Phật. Vậy ta phải tiêu diệt ông ta!”.


</div>
<span class='text_page_counter'>(34)</span><div class='page_container' data-page=34>

ngươi giúp ta ám sát Ðức Phật, ta sẽ giúp nhà ngươi giết vua cha. Rồi ngươi có thể thay
thế ông ta lên làm vua”.


Người con vua Tần Bà Sa La đồng ý nghe theo những lời khuyên ác độc này. Rồi cả hai
người đã cố gắng tìm mọi cách để ám hại Ðức Phật. Ngày nọ, trong khi đức Thế Tôn
đang ngồi thiền định gần đỉnh núi Chim Kên, bọn họ đẩy một tảng đá lớn rơi xuống đồi
hướng về Ngài. Nhưng khi vừa sắp trúng


đè nát Ðức Phật, hịn đá bể làm đơi nên không làm hại được Ngài.


Hôm khác, Ðức Phật đang đi khất thực trong thành Vương Xá với các đệ tử thân tín nhất
của Ngài. Cả hai kẻ thù của Ðức Phật biết Ngài sắp đến gần nên họ chuẩn bị sẵn sàng. Họ
mua một con voi và cho nó uống nhiều rượu. Khi con voi say mèm, họ dùng gậy đánh
đập cho đến khi nó trở nên giận dữ điên cuồng. Rồi hai người thả cho voi chạy về hướng
Ðức Phật và mong rằng nó sẽ chà đạp giết chết Ngài.



Khi các đệ tử Ðức Phật trông thấy con voi điên lồng lộn hướng tiến về phía họ, tất cả đều
sợ hãi bỏ chạy. Những đệ tử, ngoại trừ Ðại Ðức A Nan (Ananda)(27), người hầu cận Ðức
Phật, vẫn đứng bên cạnh vị thầy của mình và ơm chặt lấy chiếc y của Ngài.


Khi Ðức Phật thấy voi đến gần, và thay vì sợ hãi hay tức giận, Ngài bày tỏ lịng xót
thương vơ bờ đối với con vật khốn khổ. Con voi mặc dù đã say và điên dại, nó vẫn cảm
nhận được thần lực về lịng từ bi của Ðức Thế Tơn. Nó ngừng lồng lộn tấn công và hiền
lành đến gần đức Phật rồi hạ cúi sát chiếc đầu lớn xuống dưới chân Ngài.


Ðức Phật dịu dàng vỗ về con voi say và quay lại dạy bảo đức A Nan: “Duy nhất chỉ có
tình thương mới diệt được hận thù. Sự thù hận khơng thể chấm dứt bằng lịng hận thù.
Ðây là bài học quan trọng mà con nên nhớ.”.




26 TRỞ VỀ


Ngày kia, Ðức Phật nói với các đệ tử của Ngài: “Ðã đến lúc Ta sẽ trở về Ca Tỳ La Vệ,
kinh thành của thân phụ ta”. Và tất cả môn đồ bắt đầu chuyến đi dài về thăm quê hương
ấu thời của Ðức Phật. Tin Ngài sắp về lan nhanh tới kinh thành và mọi người đều vui
mừng, sung sướng. Họ nói với nhau: “Thế nào rồi vị hoàng tử thân yêu của chúng ta cũng
sẽ trở về! Giờ đây người là bậc đại sư với hàng ngàn tín đồ. Thực qúy hóa làm sao khi
chúng ta gặp lại thái tử!”.


Vua Tịnh Phạn vui mừng khôn xiết khi nghe tin con mình trở về. Nhà vua biết rằng Ðức
Phật có nhiều tín đồ nên ơng ta thầm nghĩ: “Con ta đã trở thành đấng giáo chủ vĩ đại.
Thái tử đã mang lại cho ta nhiều vinh dự”.


</div>
<span class='text_page_counter'>(35)</span><div class='page_container' data-page=35>

từ nhà nọ qua nhà kia. Rồi các Sư trở về nơi mình đang cư ngụ để cùng nhau thọ trai


trong im lặng.


Vị cận thần trở về thành Ca Tỳ La Vệ và trình báo cho nhà vua biết mọi chuyện. Ðức vua
giận dữ hét lên: “Con ta, một vị hoàng tử, nay trở thành kẻ ăn xin! Ta cảm thấy nhục nhã.
Ta phải chấm dứt điều này ngay tức khắc!”


Vua Tịnh Phạn liền cỡi ngựa ra ngoài hoàng cung và đến nơi thái tử đang ở. Khi nhìn
thấy Tất Ðạt Ða gìơ đây là một vị Phật sáng chói, xung quanh có hàng nghìn đệ tử, nhà
vua vơ cùng xúc động. Gặp gỡ cả hai thân thiết mừng rỡ đón chào nhau. Rồi đức vua hỏi
thái tử: “Ta nghe nói mỗi sáng con mang bình bát đi xin ăn, có phải thế không?”


Ðức Phật trả lời: “Vâng, đúng vậy. Ði khất thực là truyền thống của chúng tôi.”


Nghe vậy, nhà vua càng nổi giận hơn trước. Ông quát lớn: “Truyền thống của chúng tơi?
Con xuất thân từ dịng dõi nhiều đời vua, họ khơng bao gìơ đi xin ai bất cứ vật gì để sống.
Phong tục của chúng ta là dùng thức ăn để trong các dĩa vàng và bạc, chứ khơng phải nơi
những bình bát đơn sơ bằng gỗ. Truyền thống của chúng tôi mà con muốn nói đến nghĩa
là gì?”


Ðức Phật ơn tồn đáp: “Thưa phụ vương, thân phụ xuất thân từ dòng dõi các vua chúa.
Ðúng như thế. Nhưng con xuất thân từ những bậc đại sư, các Ðức Phật trong qúa khứ.
Những vị tơn sư này rất là bình dị. Họ xin nhận thức ăn từ bất cứ ai họ gặp. Khi con bảo
truyền thống của chúng tôi là đi khất thực, con muốn nói đó là truyền thống của chư
Phật”.


Rồi Ðức Phật nắm lấy tay phụ vương và cùng đi với người một lúc lâu. Ngài thuyết giảng
cho đức vua nghe về bài pháp Tứ Diệu Ðế và con đường dẫn đến chấm dứt sự khổ. Sau
một thời gian dài nghe Ðức Phật giảng pháp, vua Tịnh Phạn nói: “Ðúng vậy, con hơm
nay thực qúa cao qúy hơn hẳn một vị hoàng tử con của ta ngày trước. Như đạo sĩ A Tư
Ðà tiên đốn con khi cịn là một hài nhi là sau này con sẽ trở thành một Ðại



giáo chủ. Ta xin cúi đầu đảnh lễ con, một vị Phật. Xin Ngài hãy chấp nhận cho tơi, người
đã có lần muốn Ngài lên ngôi vua, làm một trong các đệ tử của Ngài”.


Ít lâu sau, vợ Ðức Phật, nàng Da Du Ðà La; con của Ngài, La Hầu La; bà di mẫu (Ma Ha
Ba Xà Ba Ðề) người đã nuôi nấng Ðức Phật, và nhiều mệnh phụ phu nhân khác trong
cung điện cũng đều yêu cầu được làm đệ tử đức Thế Tôn. Họ bạch với Ðức Phật: “Chúng
con rất buồn khổ khi Ngài cỡi ngựa vượt thành xuất gia những năm về trước. Nhưng giờ
đây đức Từ Phụ đã mang lại cho chúng con nhiều nguồn vui với tâm an lạc nhờ chúng
con thấu hiểu giáo lý chân thật của Ngài. Chúng con rất vui mừng thấy rằng Ngài đã giã
từ chúng con xưa kia để hôm nay trở về làm một vị Phật”.


</div>
<span class='text_page_counter'>(36)</span><div class='page_container' data-page=36>

Vào lúc ba mươi lăm tuổi, đức Phật thuyết pháp cho những ai có dun thích nghe. Trong
bốn mươi lăm năm còn lại, Ngài đi khắp Ấn Ðộ giáo hóa giúp cho tâm hồn mọi người
được an lạc. Thỉnh thoảng khi đức Phật muốn dạy cho dân chúng hiểu biết về tình thương
và lịng hảo tâm Ngài thường kể những câu chuyện nhằm gây sự chú ý của họ. Dưới đây
là một trong các mẩu chuyện đó.


Ngày xưa lâu lắm rồi, có một ơng vua rất tự hào. Ơng muốn xây cho mình một cung điện
rất lớn nên ông đã ra lịnh cho các triều thần: “Các ngươi đi vào rừng và tìm cho trẩm một
cây cao nhất tại đó. Trẩm sẽ dùng nó để xây cất cung điện của trẩm”.


Các quan triều thần đi vào rừng và tìm thấy một cái cây như vậy. Cây này to lớn và mọc
xung quanh có nhiều cây nhỏ khác. Tối hơm đó, họ báo cáo cho nhà vua biết và tâu rằng:
“Thưa hồng thượng, chúng tơi đã kiếm ra được cái cây mà Ngài muốn. Sáng mai, chúng
tôi sẽ trở lại vào rừng để đốn chặt nó xuống”.


Nhà vua rất vui mừng và đi nghỉ. Ðêm ấy, ông nằm thấy một giấc mộng kỳ lạ. Nhà vua
chiêm bao thấy rằng vị thần sống ở cây đó hiện ra trước mặt ơng và nói: “Thưa Hồng
Thượng, xin Ngài đừng triệt hạ ngôi nhà mà tôi đang cư ngụ. Nếu Ngài làm vậy, mỗi lát


chặt vào cây sẽ làm cho thân tôi vô cùng đau đớn và tôi sẽ chết”.


Nhưng nhà vua đã trả lời: “Ngươi là một thân cây đẹp nhất trong khu rừng này. Trẩm cần
dùng cây ấy để xây dựng cung điện của trẩm”.


Vị thần chống đối, nhưng đức vua vẫn ngoan cố và cương quyết đòi đốn ngã cây xuống.
Cuối cùng, thần cây thưa với nhà vua: “Ðược rồi, Ngài có thể đốn chặt cây. Nhưng mong
Ngài làm như thế này. Xin đừng chặt nó từ nơi gốc như người ta thường làm. Mà Ngài
nên cho người leo lên tới ngọn cây và cắt nó từ từ. Ðầu tiên họ chặt một khúc, rồi một
khúc nữa cho đến khi họ chặt hết cả toàn cây”.


Nhà vua rất ngạc nhiên khi nghe như vậy nên ơng ta nói: “Nhưng nếu trẩm ra lịnh cho
người ta làm như nhà ngươi bảo và chặt vào thân cây nhiều lần điều ấy sẽ gây ra cho nhà
ngươi rất đau đớn hơn là họ chặt một lát vào gốc để hạ cây xuống”.


Vị thần đáp lại: “Vâng, đúng vậy. Nhưng nếu Ngài làm theo lời tơi đề nghị thì sẽ an tồn
hơn cho các sinh vật khác ở trong khu rừng này. Ngài xem, cây của tơi rất lớn. Nếu
xuống, nó sẽ đập trúng nhằm các cây thấp và giết hại vô số sinh vật bé nhỏ xung quanh.
Các tổ ấm của những chim chóc, sâu bọ sẽ bị tàn phá và nhiều cây nhỏ khác sẽ bị hủy
diệt. Nếu Ngài chặt cây từng khúc ngắn thì sẽ gây ra ít thiệt hại hơn”.


</div>
<span class='text_page_counter'>(37)</span><div class='page_container' data-page=37>

Hôm sau, đức vua đi vào rừng để trang hoàng cho thần cây. Và từ ngày đó, ơng trở nên
một nhà cầm quyền nhân đức và cơng bình.


28 LỊNG THƯƠNG BÌNH ÐẲNG ÐỐI VỚI TẤT CẢ


Một ngày nọ, Ðề Bà Ðạt Ða ốm đau. Nhiều bác sĩ đến khám bịnh nhưng không ai chữa
được cho ông ta. Rồi đức Phật, bà con với Ðề Bà Ðạt Ða đã đến thăm ông.


Một trong các đệ tử đức Phật đã hỏi Ngài: “Bạch đức Thế Tôn, tại sao Ngài muốn đến


giúp Ðề Bà Ðạt Ða? Nhiều lần ông ta đã âm mưu ám hại ngay cả ông muốn giết Ngài!”.
Ðức Phật trả lời: “Không có lý do gì để ta đối xử tốt với người này và thù ghét những kẻ
khác. Tất cả đều bình đẳng vì mọi người đều muốn có hạnh phúc và khơng ai thích ốm
bịnh cũng như đau khổ. Cho nên, chúng ta nên yêu thương mọi người”.


Rồi đức Phật đến cạnh giường của Ðề Bà Ðạt Ða và nói: “Nếu thực sự Ta mến thương
Ðề Bà Ðạt Ða là người luôn luôn muốn ám hại Ta cũng như Ta đã yêu thương La Hầu
La, đứa con độc nhất của Ta, thì nguyện cho người bà con với Ta sẽ lành bịnh!”. Tức thì
Ðề Bà Ðạt Ða được bình phục, và mạnh khõe trở lại.


Ðức Thế Tôn liền quay sang dạy bảo những đệ tử của Ngài: “Các con nên nhớ là chư
Phật thường cứu giúp tất cả chúng sanh một cách bình đẳng”.


29 NHỮNG NGÀY CUỐI CÙNG


Lúc đức Phật tám mươi tuổi, Ngài tự nghĩ: “Ta đã làm tất cả để có thể cứu độ mọi người.
Ta đã giáo hóa cho họ biết sống yêu thương nhau và không sợ hãi trước bất cứ việc gì
xảy ra trong cuộc đời. Nay đến lúc Ta sẽ dạy cho họ làm sao từ giã cõi đời này không
chút âu lo phiền muộn”.


Rồi đức Phật gọi Ðại Ðức A Nan thân tín đến và bảo: “Này A Nan, nay chúng ta nên trở
về thành Ca Tỳ La Vệ lần cuối cùng. Ta muốn nhập diệt tại kinh thành nơi Ta đã sinh ra
và lớn lên”.


Ðại Ðức A Nan rất buồn rầu và than khóc: “Kính bạch đức Thế Tơn, xin Ngài đừng rời
bỏ chúng con! Từ nhiều năm qua, Ngài là vị đạo sư đã hướng dẫn cho chúng con. Nếu
vắng bóng Ngài chúng con khơng biết làm sao đây”. Rồi Ðại Ðức A Nan khóc lóc thảm
thiết.


</div>
<span class='text_page_counter'>(38)</span><div class='page_container' data-page=38>

con thâm nhập được những lời dạy của Ta thì con khơng cần thiết có Ta nữa. Lại đây,


chúng ta hãy lên đường”.


Ðức Phật và các đệ tử của Ngài đi về hướng bắc. Khi đến một nơi không xa thành Ca Tỳ
La Vệ, tất cả đi ngang qua ngôi làng Câu Thi Na (Kusinara) (28). Tại đây đức Phật bảo
các đệ tử ngừng lại để nghỉ ngơi. Rồi Ngài quay lại nói với Ðại Ðức A Nan: “Ðây là nơi
Ta sẽ nhập diệt”.


Mặc dù hôm ấy là ngày cuối cùng trong cuộc đời của đức Phật, Ngài vẫn còn cứu độ cho
những kẻ khác. Một ông lão ở trong làng đến xin được gặp đức Phật và Ngài đã nhận lời.
Ðức Thế Tôn lắng nghe những nỗi khổ đau của người đệ tử già và dùng lời nói từ hịa
khun giải ông ta. Tâm ông lão cảm thấy an lạc và hạnh phúc trở lại.


Rồi đức Phật đi vào trong vườn và nằm nghỉ giữa hai thân cây. Những đệ tử của đức Phật
tập họp quỳ xung quanh Ngài. Một số vị đang khóc lóc, nhưng các người khác họ giữ tâm
hồn tồn thanh tịnh và n lặng nhìn Ngài.


Ðức Phật khuyến giáo chúng đệ tử lần cuối cùng: “Hãy ghi nhớ những lời Ta đã dạy các
con. Lòng tham và dục vọng là nguyên nhân của mọi khổ đau. Cuộc đời luôn luôn biến
đổi vô thường, vậy các con chớ nên tham đắm vào bất cứ vật gì ở thế gian. Mà cần nỗ lực
tu hành, cải đổi thân tâm để tìm thấy hạnh phúc chân thật và trường cửu”.


Rồi đức Thế Tơn quay mình qua hướng mặt và đặt cánh tay phải xuống dưới đầu của
Ngài. Ðức Phật nhắm mắt lại và nhập Niết Bàn một cách an lành. Hôm ấy nhằm vào ngày
Rằm tháng Tư âm lịch.


Sau một thời gian các đệ tử mang kim thân của Ngài đặt trên một đống cũi lớn. Theo tục
lệ, họ chuẩn bị hỏa thiêu Ngài nhưng họ không thể châm lửa cháy được. Phải chờ vị đại
đệ tử của đức Phật đến. Lúc đức Thế Tôn nhập diệt, vị này đang ở xa nên ông ta vội vàng
trở về Câu Thi Na ngay khi hay tin đức Phật đã viên tịch. Khi về tới nơi, vị đệ tử lớn này
đảnh lễ đức Thế Tôn lần cuối cùng thì dàn cũi tự nhiên bốc cháy. Kim thân đức Phật


được hỏa thiêu một thời gian lâu cho tới khi cháy hết khơng cịn gì ngoại trừ các xá lợi
xương tro.


Các vị vua sống tại miền bắc Ấn Ðộ vào thời ấy, tất cả đều muốn giữ tro và xương của
đức Phật. Họ tự nghĩ: “Ta sẽ xây dựng một ngôi bảo tháp tại vương quốc của ta để thờ
đấng giáo chủ vĩ đại này và tơn trí đặt xá lợi của Ngài trong đó. Ðiều này sẽ mang lại cho
ta và xứ sở của ta niềm hãnh diện lớn lao”.


</div>
<span class='text_page_counter'>(39)</span><div class='page_container' data-page=39>

nên chia đồng đều các xá lợi của Ngài. Và mỗi quỳ vị có thể xây dựng một bảo tháp để
thờ xá lợi tại vương quốc của mình”.


Các vị vua nhận thấy những lời khuyên này thực sáng suốt cho nên họ đã chấm dứt cuộc
tranh chấp. Họ chia đều cho nhau những xá lợi (xương tro) của đức Từ Phụ và lên đường
trở về nước. Sau đó, các nhà vua đã cho xây những bảo tháp thờ xá lợi để ghi nhớ đức
Phật là đấng đã chỉ dạy cũng như sống theo cái Ðạo hồ bình và trí tuệ.




30 GIÁO PHÁP VẪN CÒN TỒN TẠI


Ðức Phật đã nhập diệt hơn 2500 năm trước tại một ngôi làng nhỏ ở Ấn Ðộ. Nhưng giáo
pháp đầy tình thương và trí tuệ của Ngài vẫn không bao giờ mất. Các đệ tử cùng sống với
đức Thế Tôn đã truyền bá giáo lý của Ngài cho nhiều người khác. Và những Phật tử này
lại thay phiên nhau thuyết giảng Phật Pháp đến cho các thế hệ sau đó. Bằng cách này giáo
lý đức Phật được truyền lại đến cho nhân loại ngày nay.


Mọi người trong mỗi quốc gia, bất luận nam hay nữ họ theo tín ngưỡng nào, đều có thể tu
học theo giáo lý từ bi này của đức Phật. Nhờ thực hành nghiêm chỉnh những lời dạy đó,
chúng ta sẽ tận diệt được lịng ích kỷ, sân hận và tham lam. Chúng ta có thể khắc phục
mọi nỗi lo âu, có được nội tâm an lạc và trí tuệ hiểu biết mà Thái Tử Tất Ðạt Ða đã tìm


thấy dưới cội Bồ Ðề (Cây Giác Ngộ). Cũng như Ngài đã thành tựu, mỗi chúng ta đều có
thể trở thành một vị Phật, đấng Giác Ngộ. Chúng ta cũng có thể mang lại hạnh phúc cho
mọi người khác như đức Thế Tôn đã làm.


Nguyện cầu cho tất cả chúng sanh an lành!


<i><b>“Chớ làm các điều ác.</b></i>
<i><b>Nên làm những việc lành.</b></i>
<i><b>Giữ tâm ý cho trong sạch.</b></i>
<i><b>Ðó là lời dạy của chư Phật”.</b></i>


<b>CHÚ THÍCH CỦA DỊCH GIẢ</b>


Về chữ viết tắt dùng dưới đây, P là Pali (tiếng Ba Lị); S là Sanskrit (tiếng Phạn) và Jap.
<i>là Japanese (Nhật ngữ).</i>


1. (HOÀNG HẬU) MA GIA: Danh từ Hán Việt dịch âm chữ Màyà (Ba Lị và Phạn) hay
Maka (Nhật). Mẹ của đức Phật và vợ của vua Tịnh Phạn (Ba Lị: Suddhodana). Bà sống
ở nước Câu Ly (Ba Lị: Koliya) thời xưa, nay thuộc vương quốc Nepal. Bà cịn có tên
gọi là Ma Ha Ma Gia (Ba Lị: Mahà Màyà).


</div>
<span class='text_page_counter'>(40)</span><div class='page_container' data-page=40>

núi Hy Mã Lạp Sơn (Himalayas) có kinh đơ đóng tại thành Ca Tỳ La Vệ (Ba Lị:
Kapilavatthu), ngày nay thuộc vương quốc Nepal.


3. LÂM TỲ NI: Danh từ Hán Việt dịch âm chữ Lumbini (Ba Lị và Phạn). Tên một hoa
viên nơi đức Phật Thích Ca Mâu Ni (Ba Lị: Buddha Shakyamuni) đã ra đời hơn 2.600
năm trước. Nó nằm gần kinh đơ Ca Tỳ La Vệ của bộ tộc Thích Ca. Ngày nay Lâm Tỳ Ni
(Lumbini) có tên gọi là Rummindei thuộc lãnh thổ xứ Nepal. Vua A Dục (Asoka) của Ấn
Ðộ (273-232 trước tây lịch) đến viếng thăm nơi này khoảng vào năm 250 trước tây lịch.
Ðức vua đã cho xây dựng một trụ đá tại đây để kỷ niệm chuyến đi hành hương chiêm bái


của Ngài. Lâm Tỳ Ni là một trong bốn thánh tích quan trọng nhất của Phật Giáo. Ba Phật
tích kia là Phật Ðà Ca Da (Buddha Gaya), vườn Lộc Uyển (Sarnath) và Câu Thi Na
(Kusinara).


4. TẤT ÐẠT ÐA: Danh từ Hán Việt dịch âm chữ Siddhattha (Ba Lị), Siddhàrtha (Phạn)
hay Shittta-Taishi (Nhật ngữ). Nghĩa đen là “người đã hồn thành mục tiêu đại nguyện
của mình”. Tục danh của đức Phật trước khi Ngài xuất gia.


5. A TƯ ÐÀ: Danh từ Hán Việt dịch âm chữ Asita (Ba Lị và Phạn) hay Ashida (Nhật). Vị
đạo sĩ ẩn tu ở tiểu quốc Ca Tỳ La Vệ thời xưa (nay thuộc xứ Nepal). Khi thái tử Tất Ðạt
Ða giáng sinh ơng đến thăm tiên đốn rằng sau này nếu thái tử ở đời sẽ là một đại vương
và nếu xuất gia đi tu ngài sẽ thành Phật.


6. ÐỀ BÀ ÐẠT ÐA: Danh từ Hán Việt dịch âm chữ Devadatta (Ba Lị và Phạn) hay
Daibadatta (Nhật). Bà con với đức Phật. Ðầu tiên, Ðề Bà Ðạt Ða là đệ tử của đức Thế
Tôn nhưng sau ông từ bỏ và trở thành kẻ thù của Ngài. Hai lần ông mưu toan ám hại đức
Phật. Lần thứ nhất, ông đứng trên đồi lăn đá xuống làm đức Phật bị thương, nhưng sau
Ngài được y sĩ Kỳ Bà (Jivaka) chữa lành. Lần thứ hai, Ðề Ðà Ðạt Ða xúi giục người giữ
voi ở thành Vương Xá (Ràjagaha) nước Ma Kiệt Ðà (Magadha) ngày xưa thả voi say
Nalagiri chạy ra đường để giết đức Phật, nhưng khi đến gần voi quỳ xuống bên chân
Ngài. Vào cuối đời, Ðề Bà Ðạt Ða nhận biết lỗi lầm của mình. Ngày nọ, ơng đang trên
đường đến gặp đức Thế Tôn mong được sám hối để Ngài tha thứ, nhưng chưa kịp tới gặp
đức Phật thì ơng đã bị đọa rơi vào hỏa ngục.


7. DA DU ÐÀ LA: Danh từ Hán Việt dịch âm chữ Yasodharà (Ba Lị), Yásodhara (Phạn)
hay Yashudara (Nhật). Vợ của thái tử Tất Ðạt Ða (Siddhàrta) trước khi Ngài đi tu và là
mẹ của La Hầu La (Ba Lị: Rahula), con của đức Phật. Sau này, bà đã xuất gia làm Tỳ
Kheo Ni.


8. THIỆN GIÁC: Danh từ Hán Việt dịch âm chữ Suprabuddha (Ba Lị) hay Zenkaku


(Nhật ngữ). Vị vua trị vì bộ tộc Câu Ly (Koliya) có kinh đơ đóng tại thành Devadaha, nay
thuộc xứ Nepal. Ơng là thân sinh của Da Du Ðà La (Yasodharà).


</div>
<span class='text_page_counter'>(41)</span><div class='page_container' data-page=41>

10. CA TỲ LA VỆ: Danh từ Hán Việt dịch âm chữ Kapilavatthu (Ba Lị), Kapilavastu
(tiếng Phạn) hay Kabira-e (Nhật). Kinh đơ của bộ tộc. Thích Ca (Sakya) dưới quyền cai
trị của vua Tịnh Phạn (Suddhodana) Ðức Phật ra đời tại vườn Lâm Tỳ Ni (Lumbini) gần
thị trấn Ca Tỳ La Vệ (Kapilavatthu) và Ngài đã trải qua thời niên thiếu tại đó. Ngày nay,
Ca Tỳ La Vệ (Kapilavatthu) được các nhà khảo cổ Ấn Ðộ xác nhận thuộc làng


Tilaurakota trong địa hạt Terai, xứ Nepal.


11. XA NẶC: Danh từ Hán Việt dịch âm chữ Channa (Ba Lị), Chandaka (Phạn) hay
Shanoku (Nhật). Người hầu cận thân tín của thái tử Tất Ðạt Ða (đức Phật). Ông đã mang
ngựa Kiền Trắc (Kanthaka) đến cho thái tử cỡi để vượt thành xuất gia. Sau này Xa Nặc
trở thành đệ tử của đức Phật.


12. KIỀN TRẮC: Danh từ Hán Việt dịch âm chữ Kanthaka (Ba Lị), Kanthaka (Phạn) hay
Kenchoku (Nhật). Tên con ngựa mà đức Phật đã dùng để cỡi khi Ngài rời bỏ cung điện đi
xuất gia.


13. MA KIỆT ÐÀ: Danh từ Hán Việt dịch âm chữ Magadha(Ba Lị và Phạn) hay Makada
(tiếng Nhật). Một trong 16 nước lớn của Ấn Ðộ thời đức Phật còn tại thế. Lúc ấy, Ma
Kiệt Ðà (Magadha) dưới quyền cai trị của vua Tần Bà Sa La (Bimbisàra: 543-493 trước
tây lịch) có kinh đơ đóng tại thành Vương Xá (Rajagaha) nước Ma Kiệt Ðà (Magadha)
xưa kia, nay thuộc các quận Patnavà Gaya, tiểu bang Bihar, miền đông bắc ấn Ðộ.


14. TẦN BÀ SA LA: Danh từ Hán Việt dịch âm chữ Bimbisàra (Ba lị và Phạn) hay
Bimbashara (Nhật). Tên vị vua cai trị vương quốc Ma Kiệt Ðà (543-493 trước tây lịch)
thời đức Phật cịn tại thế. Ơng đã kiến tạo thành Vương Xá (Ràjagaha). Kinh sách tiếng


Ba Lị (Pali) ghi chép rằng Tần Bà Sa La (Bimbisàra) lên ngôi vua vào năm mười lăm
tuổi, và năm sau ông quy y làm đệ tử của đức Thế Tơn. Ơng là vị vua đã hết lịng ủng hộ
Phật Giáo, đã dâng cúng Tu Viện Trúc Lâm cho đức Phật và chư Tăng.


15. VƯƠNG XÁ THÀNH: Danh từ Hán Việt dịch âm chữ Ràjagaha (Ba Lị), Ràjagrha
(Phạn) hay Ịsha-jị (Nhật): Kinh đơ của vương quốc Ma Kiệt Ðà (Magadha) thời xưa,
nay là thành phố Rajgir trong tiểu bang Bihar, vùng đông bắc Ấn Ðộ.


16. A LALA:: Danh từ Hán Việt dịch âm ngắn gọn của chữ Alàra-Kàlàma (Ba Lị),
Àràda-Kàlàma (Phạn) hay Ararakaran (Nhật). Tên vị đạo sĩ thái tử Tất Ðạt Ða đến hỏi
đạo giải thoát ngay sau khi Ngài rời cung điện đi xuất gia và trở thành nhà tu khổ hạnh.
Ðược biết đạo sĩ A La La là một triết gia theo phái Số Luận (Samkhya) và sống gần thành
Tỳ Xá Ly (Ba Lị:Vesali), nay là thành phố Besàrh trong quận Muzzaffapur, tiểu bang
Bihar, vùng đông bắc Ấn Ðộ.


17. UẤT ÐẦU LAM PHẤT: Danh từ Hán Việt dịch âm ngắn gọn chữ


Uddaka-Ràmaputta (Ba Lị), Udraka-Ràmaputra (tiếng Phạn). Tên một trong các đạo sư thái tử Tất
Ðạt Ða đến hỏi đạo sau khi xuất gia và trước khi Ngài thành Phật.


</div>
<span class='text_page_counter'>(42)</span><div class='page_container' data-page=42>

dân chúng Ấn Ðộ gọi là sông Phalgu hay Lilajana với nước trong xanh, sạch và mát.
Dịng sơng phát xuất từ vùng gần Simeria, trong quận Hazaribagh, miền trung tiẻu bang
Bihar, vùng đông bắc Ấn Ðộ. Sa môn Tất Ðạt Ða (Siddhàrtha) đã viếng thăm và tắm ở
sông này sau khi Ngài từ bỏ lối tu ép xác khổ hạnh. Cạnh bờ sông có khu rừng Sa-La, nơi
đây đức Phật đã nghỉ ngơi vào buổi chiều ngay trước đêm Ngài thành Ðạo sau 49 ngày
ngồi thiền định dưới cội Bồ Ðề tại làng Phật Ðà Ca Da (Buddha Gaya) nằm cách xa một
khoảng ngắn về hướng tây con sông này.


19. CA DA: Danh từ Hán Việt dịch âm chữ Gayà (Ba Lị) hay Gaya (tiếng Nhật). Tên một
thành phố thiêng liêng thuộc tiểu bang Bihar, miền đông bắc Ấn Ðộ. Ðây là nơi đức Phật


hay viếng thăm khi Ngài còn tại thế. Ngày nay Ca Da (Gaya) bao gồm thành phố


Sahebganj về phía tây bắc và thị trấn Gayacũ ở hướng nam. Phật Ðà Ca Da (Buddha
Gaya) nơi đức Phật thành Ðạo cách thành phố Ca Da (Gaya) khoảng 10 cây số về phía
nam.


20. TU GIÀ ÐA: Danh từ Hán Việt dịch âm chữ Sujàtà (Ba Lị). Tên người con gái của vị
điền chủ ở làng Senani gần thị trấn Ưu Lâu Tần Loa (Ba Lị: Uruvela) thời đức Phật còn
tại thế, nay là làng Urel cách xa sáu dặm thị trấn Ca Da (Gaya) trong quận Gaya thuộc
tiểu bang Bihar, vùng đông bắc Ấn Ðộ. Nàng phát tâm hứa sẽ dâng cúng cho vị thần cây
đa cạnh nhà một bữa ăn cháo sữa nếu như nàng sanh một đứa con trai. Sau đó, cơ sanh
cháu trai, lịng mong ước của cơ được mãn nguyện. Cô sai người hầu gái sửa soạn nơi
cho cô đến lễ bái tạ ơn Người tớ gái thấy sa môn Tất Ðạt Ða đang ngồidưới gốc cây đa,
cô tưởng ngài là vị thần cây hiện ra để thọ nhận lễ vật. Sau khi được người hầu gái thơng
báo, tín nữ Tu Già Ða (Sujàtà) rất vui mừng, mang thức ăn đựng trong bình bát bằng
vằng đến cúng dường cho Ngài. Ðây là bữa ăn duy nhất của đức Phật trước khi Ngài
chứng đạo giác ngộ sau thời gian 49 ngày ngồi thiền định dưới cội Bồ Ðề tại làng Phật
Ðà Ca Da (Buddha Gaya) trong tiểu bang Bihar, miền đông bắc Ấn Ðộ.


21. BA LA NẠI: Danh từ Hán Việt dịch âm chữ Bàrànasi (Ba Lị và Phạn) hay Haranashi
(Nhật). Tên cũ còn gọi là Banaras. Thành phố nằm cạnh bờ sông Hằng, kinh đô của
vương quốc Ca Thị (Ba Lị: Kasi), một trong 16 nước của Ấn Ðộ thời đức Phật còn tại
thế. Cách thành phố Ba La Nại khoảng bảy dặm (miles) la vườn Lộc Uyển (Sarnath) nơi
đức Phật đã thuyết bài pháp đầu tiên “Kinh Chuyển Pháp Luân” cho năm người đệ tử
xuất gia của Ngài. Thành Ba La Nại (Baranasi hay Banaras) xưa kia, ngày nay là thị trấn
Varanasihay Benaresthuộc tiểu bang Uttar Pradesh, miền bắc Ấn Ðộ (Xem chú thích số
22).


</div>
<span class='text_page_counter'>(43)</span><div class='page_container' data-page=43>

23. MA VƯƠNG: Danh từ Hán Việt dịch âm chữ Màra (Ba Lị và Phạn) hay Ma (tiếng
Nhật). Nghĩa là quỷ sứ, yêu ma, thần của lịng tham ái, tội lỗi và chết chóc. Ma Vương là


vua làm chủ cõi trời “Tha Hóa Tự Tại Thiên” hay“Paranirmita-vasavartin” (tiếng Phạn)
tức là cảnh trời thứ sáu trong cõi Dục giới. Ma Vương thường được vẽ với hình tượng
ngài có một trăm cánh tay và ngồi cỡi trên con voi. Trong Phật Giáo, Ma Vương là biểu
tượng của những dục vọng khống chế, ngăn chận con người cũng như mọi hành động của
chúng ta hướng đến việc lành và tiến bộ trên con đường giải thoát, giác ngộ.


24. PHẬT hay PHẬT ÐÀ: Danh từ Hán Việt dịch âm chữ Buddha (Ba Lị và Phạn), hay
Butsuda (Nhật). Chữ “Buddha” (Phật) phát xuất từ ngữ căn tiếng Phạn “Budh” nghĩa là
hiểu rõ, thấy biết hay tỉnh thức. Phật là người đã giác ngộ, khơng cịn bị sanh tử ln hồi
và hồn tồn giải thốt.


25. KỲ ÐÀ QUẬT SƠN: Danh từ Hán Việt dịch âm chữ Gijjhakùta (Ba Lị), Grdhrakùta
(Phạn) hay Gishakutsu-sen (Nhật). Cũng gọi là núi Linh Thứu hay “Núi hình chim Kên”
(Vulture's Peak) vì ngọn núi có hình dáng giống như con chim kên và cũng bởi chim kên
thường hay tụ tập đậu trên đỉnh núi này. Ðây là một trong năm ngọn núi danh tiếng tại
thành Vương Xá (Ràjagaha) thời đức Phật còn tại thế, tức là thành phố Rajgir ngày nay,
trong tiểu bang Bihar, miền đông bắc Ấn Ðộ. Xưa kia, nhiều đạo sĩ thường vào ẩn tu
trong các hang động ở ngọn núi này và đức Phật cũng hay ghé lại tọa thiền nơi đây mỗi
khi Ngài đến hoằng pháp tại Vương Xá. Ðược biết trên đỉnh núi này đức Phật đã thuyết
nhiều kinh điển Ðại Thừa quan trọng trong đó có kinh Diệu Pháp Liên Hoa.


26. A XÀ THẾ: Danh từ Hán Việt dịch âm chữ Ajàtasattu (Ba Lị), Ajàtasatru (tiếng
Phạn) hay Ajase (Nhật). Con vua Tần Bà Sa La (Bimbisàra) và hồng hậu Vi Ðề Hi
(Vaidehi). Ơng lên làm vua trị vì nước Ma Kiệt Ðà (494-462 trước tây lịch) khoảng tám
năm cuối cùng của đức Phật và tiếp 24 năm sau khi đức Thế Tôn nhập diệt. Tên A Xà
Thế (Ajàtasattu) nghĩa là “kẻ thù (sattu) khi chưa sanh ra (Ajata) “ vì theo truyền thuyết
bảo rằng lúc hoàng hậu Vi Ðề Hi mang thai ông, bà thường hay thèm khát hút máu nơi
đầu gối của chồng. Do vậy, các chiêm tinh gia đoán rằng đứa con trong bụng bà tương lai
sẽ sát hại cha nó (Tần Bà Sa La) để lên nắm quyền cai trị đất nước. Thực vậy, theo sử
liệu Phật Giáo, A Xà Thế sau này đã bắt giam và bỏ đói giết chết vua cha trong ngục thất.


Cùng với Ðề Bà Ðạt Ða (Devadatta), ông đã âm mưu chống lại đức Phật nhưng thất bại.
Sau này, ông đã quy y làm đệ tử của đức Thế Tôn và ủng hộ mạnh mẽ Phật Giáo. Cuối
cùng, A Xà Thế đã bị giết chết bởi chính con của ông là thái tử Udayabadra, người đã ở
ngôi vua được 14 năm.


</div>
<span class='text_page_counter'>(44)</span><div class='page_container' data-page=44>

28. CÂU THI NA: Danh từ Hán Việt dịch âm chữ Kusinàrà (Ba Lị), Kúsinagara (tiếng
Phạn) hay Kushinagara (Nhật Kinh đô của xứ Mạt La (Ba Lị: Mallas), một trong 16
vương quốc của Ấn Ðộ thời đức Phật còn tại thế. Ngày nay là làng Kasia cách xa 55 cây
số về hướng đông thị trấn Gorakhpur, trong tiểu bang Uttar Pradesh, miền bắc Ấn Ðộ.
Ðây là nơi đức Phật đã nhập Niết Bàn (viên tịch) trong rừng Sa La vào năm 543 trước tây
lịch. Sau đó, kim thân của Ngài được hỏa thiêu và một phần xá lợi của đức Thế Tơn đã
được tơn trí thờ trong một bảo tháp tại Câu Thi Na. Vì là nơi đức Phật đã nhập diệt cho
nên thành phố này đã trở thành một trong bốn thánh địa thiêng liêng nhất của Phật Giáo.


<b>SỰ TÍCH QUAN THẾ ÂM BỔ TÁT</b>
<b>Tạp chí Từ Bi Âm</b>


<b></b>


Đức Quan Thế âm Bồ Tát, khi chưa xuất gia tu hành, có một kiếp Ngài làm con đầu lịng
của vua Vơ Tránh Niệm, tên là Bất Huyến Thái Tử.


Trong thời kỳ vua ấy thống trị thiên hạ, thì có Phật Bảo Tạng ra đời.


Vua thấy nhơn tâm xu hướng theo lời giáo hóa của Phật càng ngày càng đông, bèn suy
nghĩ rằng: "Nếu Đạo Phật không phải chơn chánh, thì đâu có lẻ người ta sùng bái khắp
xứ như vậy!"


Nên vua mới phát tâm sắm đủ lễ vật đến cúng dường Phật và chúng Tăng trong ba tháng,
và lại khuyên các vị vương tử và đại thần cũng làm như vậy.



Khi ấy Bất Huyến Thái Tử vâng lời Phụ Vương, hết lịng tin kính, sắm đủ các món ngon
quý và đem những đồ trân trọng của mình mà dưng cúng cho Phật và đại chúng trong ba
tháng, không trễ nãi bữa nào và cũng khơng món gì kém thiếu.


Quan Đại thần Bảo Hải, là phụ thân của Phật Bảo Tạng, thấy vậy khuyên rằng: "Điện hạ
đã sẳn lòng tu phước mà cúng Phật cúng Tăng: vậy xin Điện hạ hãy đem công đức đó mà
hồi hướng về Đạo Vơ Thượng Bồ Đề, chớ nên cầu sự phước báu trên cõi Trời Đao Lợi
hay là cõi Trời Phạm Thiên làm chi.


</div>
<span class='text_page_counter'>(45)</span><div class='page_container' data-page=45>

Nếu Điện hạ cứ cầu phước báu đó, chắc khơng thốt khỏi ải sanh tử ln hồi: nếu đã
khơng khỏi ln hồi, thì chưa chắc lúc nào đặng tiêu diêu tự tại.


Chi bằng Điện hạ đem công đức đó mà cầu món phước báu vơ lậu, khơng hư khơng mất,
đời đời kiếp kiếp vượt ra ngồi ba cõi bốn dịng hưởng sự an vui vơ cùng vô tận, và hồi
hướng về Đạo Bồ Đề mà cầu mau thành Phật quả, đặng cứu độ chúng sanh khỏi sông mê
biển khổ. Vậy phần tự lợi đã vng trịn, mà đức lợi tha lại đầy đủ nữa.


Bất Huyến Thái Tử nghe ơng Bảo Hải khun nói như vậy, bèn đáp rằng: "Ta xem xét cả
thảy chúng sanh trong đường địa ngục chịu sự khổ cực: còn kẻ nhơn gian và người thiên
thượng thì đủ điều cấu nhiễm, lắm chuyện trần lao, khơng có chút nào đặng thanh tịnh,
bởi đó mà tạo thành tội nghiệp, nên mới thọ quả báo mà đọa vào ba đường dữ là: địa
ngục, ngạ quỷ và súc sanh".


Bất Huyến Thái Tử đáp lại rồi tự nghĩ rằng: "Bởi chúng sanh ở trong đời không gặp đặng
những người hiền nhơn quân tử, khuyên việc lánh dữ làm lành mà dìu dắt lên con đường
giải thốt, chỉ gặp những kẻ tàn ác tiểu nhơn cũ dụ nhau kết bạn bè, thường xúi dục
những điều bất thiện, và lại phá hư Chánh Pháp, khinh Pháp Đại Thừa, làm cho mất cả
căn lành, thêm điều tà kiến, vì vậy mới che lấp tâm tánh, không biết đạo đức là gì, nên
phải chịu nổi đày đọa".



Bất Huyến Thái Tử ngẫm nghĩ hồi lâu, rồi thưa rằng: " Nay tôi đối trước mặt Phật và đại
chúng mà tỏ lời như vầy: Tơi nguyện đem tất cả các món cơng đức tôi đã từng cúng
dường Tam Bảo và các món cơng đức tơi đã từng tu tập Pháp mầu mà hồi hướng về đạo
Vô Thượng Bồ Đề.


Tôi nguyện trong khi tôi tu những điều công hạnh Bồ Tát, làm những việc lợi ích cho
chúng sanh, nếu tơi xem có kẻ mắc sự khốn khổ hiểm nghèo ở trong hồn cảnh ám muội,
khơng biết cậy nhờ ai, khơng biết nương dựa đâu, mà có xưng niệm danh hiệu tôi, tức
thời tôi dùng phép Thiên nhỉ mà lóng nghe và dùng phép Thiên nhãn mà quan sát coi kẻ
mắc nạn ấy ở chỗ nào, cầu khẩn việc gì, đặng tơi hiện đến mà cứu độ cho khỏi khổ và
đặng vui . Nếu chẳng đặng như lời thề đó thì tơi khơng thành Phật.


Thưa Đức Thế Tơn! Nay tơi vì hết thảy chúng sanh mà phát lòng đại nguyện, tu học về
Pháp xuất thế, lo làm các công hạnh tự giác tự lợi, nguyện khi phụ vương tôi là Vô Tránh
Niệm, trải hằng sa kiếp nhẫn sau thành Phật, hiệu là A Di Đà Như Lai ở cõi An Lạc, Thế
giới, hóa độ chúng sanh xong rồi, chừng nhập Niết Bàn, Chánh Pháp truyền lại, thì tơi tu
hạnh làm việc Phật sự. Đến lúc Chánh Pháp gần diệt, hễ diệt bửa trước thì bửa sau tôi
chứng Đạo Bồ Đề.


Xin Đức Thế Tôn từ bi mà thọ ký cho tôi, và tôi cũng hết lòng yêu cầu các Đức Phật hiện
tại ở hằng sa thế giới trong mười phương đều thọ ký cho tôi như vậy nữa?


</div>
<span class='text_page_counter'>(46)</span><div class='page_container' data-page=46>

mắc những sự tội báo, mà sanh lòng đại bi, muốn đoạn trừ mọi sự khổ cực, dứt bỏ những
điều phiền não và làm cho cả thảy đều đặng hưởng sự an vui.


Vì người có lịng soi xét những lồi u cầu của lồi hữu tình trong thế gian mà cứu khổ
như vậy, nên nay Ta đặt hiệu là: Quan Thế Âm.


Trong khi ngươi tu hạnh Bồ Tát, thì giáo hóa cả vơ lượng chúng sanh cho thốt khỏi sự


khổ não và làm đủ mọi việc Phật sự.


Sau khi A Di Đà Như Lai nhập Niết Bàn rồi, thì cõi Cực Lạc lại đổi tên là: "Nhứt Thiết
Trân Bảo Sở Thành Tựu", y báo càng tốt đẹp hơn trước đến bội phần.


Chừng đó, đương lúc ban đêm, độ trong giây phút, có hiện ra đủ thức trang nghiêm, thì
ngươi sẽ ngồi trên tòa Kim Cang ở dưới cây Bồ Đề mà chứng ngôi Chánh Giác hiệu là:
"Biến Xuất Nhất Thiết Quang Minh Công Đức Sang Vương Như Lai", phước trịn hạnh
đủ, mn sự vẻ vang, đạo Pháp cao siêu, thần thông rộng lớn, rất tôn rất quý, khơng ai
sánh bằng mà lại sống lâu đến chín mươi sáu ức na do tha kiếp, rồi khi diệt độ thì Chánh
Pháp cịn truyền bá lại đến sáu mươi ba ức kiếp nữa.


Bất Huyến Thái Tử nghe Phật Bảo Tạng thọ ký rồi, liền vui mừng mà thưa rằng: "Bạch
Đức Thế Tôn! Nếu sự thề nguyện của tơi quả đặng hồn mãn như lời Ngài nói đó, thiệt là
hân hạnh biết bao! Nay tôi lạy Ngài xin làm thế nào cho các Đức Phật hiện ở hằng sa thế
giới cũng đều thọ ký cho tôi và khiến cho cả thảy thế giới đều đồng thời vang ra những
tiếng âm nhạc, và các kẻ chúng sanh nghe tiếng ấy đều đặng thân tâm thanh tịnh mà xa
lìa mọi sự dục vọng trên đời".


Lúc Bất Huyến Thái Tử thưa rồi, đương cúi đầu Lễ Phật, tức thì các Thế giới tự nhiên
rung động vang rền, kêu ra những tiếng hòa nhã, ai ai nghe đến cũng sanh lòng vui vẻ, là
cho các điều dục vọng bổng nhiên tiêu tan cả.


Khi ấy, thoạt nghe các Đức Phật ở mười phương đồng thinh thọ ký cho Quan Thế Âm
rằng: "Đương khi thời kiếp Thiện trụ, ở tại cõi Tán Đề Lam thế giới, nhằm lúc Phật Bảo
Tạng ra đời mà giáo hóa chúng sanh, có con của vua Vơ Tránh Niệm, tên là Bất Huyến
Thái Tử phát tâm cúng dường Phật và Đại chúng trong ba tháng: Do cơng đức đó, nên
trải hằng sa kiếp sẽ thành Phật, hiệu là: Biến Xuất Nhất Thiết Công Đức Quang Minh
Sang Vương Như Lai, ở về thế giới Nhứt Thiết Trân Bảo Sở Thành Tựu".



Bất Huyến Thái Tử khi đặng Chư Phật thọ ký rồi, thì lịng rất vui mừng.


Đến khi mạng chung, thì Ngài thọ sanh ra các đời khác, trải kiếp nọ qua kiếp kia, hằng
giữ bổn nguyện, gắng công tu hành, cầu đạo Bồ Đề, làm hạnh Bồ Tát, chăm lịng thi hành
những sự lợi ích cho chúng sanh, khơng có khi nào mà Ngài quên cái niệm đại bi đại
nguyện.


</div>
<span class='text_page_counter'>(47)</span><div class='page_container' data-page=47>

Đến sau, Đức Phật A Di Đà nhập Niết Bàn rồi, thì Ngài kế ngơi Phật vị mà giáo hóa
chúng sanh.


<b>SỰ TÍCH ĐỨC ĐỊA TẠNG BỔ TÁT</b>



<b>Tạp chí Từ Bi Âm</b>
<b></b>


---o0o---Đức Địa Tạng là một vị đã chứng bực Đẳng Giác trải đến vô lượng A Tăng Kỳ kiếp rồi.
Ngài có lời đại nguyện rằng: Nếu Ngài chưa độ hết chúng sanh, thì Ngài khơng chứng
quả Bồ Đề, và nếu sự thọ khổ trong địa ngục hãy cịn, thì Ngài thề khơng chịu thành Phật.
Do cái bổn nguyện ấy, nên Ngài phân thân nhiều phen, đặng độ thoát hằng hà sa số chúng
sanh đương tội khổ, trải đã không biết bao nhiêu kiếp rồi, mà Ngài cũng còn làm một vị
Bồ Tát như vậy.


Cịn như nói đến tiền thân của Ngài từ khi chưa chứng quả vị, có kiếp Ngài làm con gái,
có kiếp thì Ngài làm con trai, và cũng có kiếp Ngài làm vua nữa.


Nay y theo Kinh Địa Tạng của Phật Thích Ca nói tại cung Trời Đao Lợi rất có chứng cớ
rõ ràng, mà lược điển một sự tích, khi Ngài làm con gái dịng Bà La Môn như dưới này.
Hồi đời quá khứ, tại kiếp Bất khả tư nghị A tăng kỳ, có Đức Phật Giác Hoa Định Tự Tại
Vương ra đời.



Sau Phật ấy nhập diệt rồi, đến thời kỳ Tượng Pháp thì Ngài Địa Tạng lúc ấy chưa chứng
vị Bồ Tát, sanh làm con gái dịng Bà La Mơn.


Vì nàng có túc phước rất nhiều, nên hết thảy mỗi người trong hàng thân thích đều tơn
trọng cung kính, cho đến khi đi đứng nằm ngồi, cũng đều có hàng Chư Thiên ủng hộ.
Ngặt vì thân mẫu của nàng tín theo ngoại đạo, nên thường đem lòng tà niệm mà khinh khi
Tam Bảo, đã khơng tin nhân quả nghiệp báo, mà lại cịn chê bai Chánh Pháp nữa.


Khi đó nàng đã biết mẹ mình khơng tin Phật pháp, thế nào đến khi thác rồi cũng phải
trầm luân nơi khổ ải, nên nàng mới hết lòng khuyên can, sớm tối kiếm nhiều lời, phương
tiện mà giảng nói, muốn làm sao cho mẹ mình tín ngưỡng theo Chánh giáo, thì mới đành
lịng.


</div>
<span class='text_page_counter'>(48)</span><div class='page_container' data-page=48>

Ôi chẳng bao lâu bà đã nhuốm bệnh trầm kha, bổng chốc hóa ra người thiên cổ. Vì lúc
sanh tiền ác nghiệp đã thành thục, nên chi thần hồn phải theo nghiệp quả mà đọa lạc vào
vơ gián địa ngục.


Cịn phần nàng, một nỗi thì thương mẹ cách biệt, dậm đất kêu trời, một nổi thì sợ mẹ
trầm luân, kinh hồn hãi vía, ngổn ngang trăm mối bên lịng, ăn khơng ngon, nằm khơng
ngủ, đêm ngày than khóc, ngàn thảm mn sầu. Tưởng trong cảnh huống ấy, nếu có
phương gì mà cứu mẹ được, dầu thịt nát xương mịn nàng cũng khơng hề tiếc, huống chi
nói đến sự gì. Khi ấy nàng mới bán hết nhà cửa ruộng vườn, rồi mua sắm đủ các thứ
hương hoa và những đồ quí báu đem đến Chùa Phật mà dâng cúng.


Lúc nàng vào Chùa lễ lạy, xem thấy hình tượng của Đức Giác Hoa Định Tự Tại Vương
Như Lai sơn vẻ trang hoàng, oai dung nghiêm chỉnh, dường như một vị Phật sống thì
trong lịng nàng lại bội phần kính ngưỡng.


Nàng lễ bái rồi tự nghĩ rằng: "Phật là bực Đại Giác, đủ trí sáng suốt và hiểu thấu các lẽ,
nếu được Phật cịn tại thế, thì trong lúc mẹ ta chết rồi, thì có phạm tội gì và sanh về


đường nào, ắt nhờ Phật từ bi chỉ bảo cho ta biết đặng, có đến nổi đâu mà thảm như thế
này!"


Nàng nghĩ như vậy rồi, cứ đứng nhìn sửng tượng Phật mà khóc, khơng chịu bước ra,
dường có vẻ muốn tỏ lòng cầu khẩn với Phật mà mong Phật chỉ bảo chỗ thọ khổ của mẹ
mình và nhờ ơn cứu độ.


Vừa một chập lâu, thoạt nghe giữa thinh khơng có tiếng gọi rằng: "Nàng Thánh Nữ kia!
Thơi đừng buồn rầu khóc lóc nữa, để ta chỉ chỗ thác sanh của mẹ ngươi cho ngươi biết".
Nàng nghe nói như vậy, liền chấp tay ngữa mặt lên hư không mà bạch rằng: "Từ khi mẹ
tôi mất đến nay, ngày đêm thương nhớ, không biết hỏi han ai cho rõ chỗ thác sanh của
mẹ tôi, nay không biết đức Thánh thần chi mà có lịng đối thương đến tơi như vậy".
Lúc nàng nói vừa rồi, giữa thanh khơng lại có tiếng trả lời rằng: "Ta đây là Giác Hoa
Định Tự Tại Vương Như Lai mà ngươi cúng dường lễ bái đó! Vì thấy ngươi có lịng
thương nhớ mẹ rất tha thiết, thiệt là chí hiếu hơn hạng chúng sanh thường tình, nên ta đến
đây mà chỉ bảo".


Nàng nghe mấy lời Phật nói như thế, thì lòng thiết tha muốn biết rõ tin của mẹ thác sanh
về chỗ nào, nên khơng kể đến thân hình, liền gieo mình xuống đất, tay chân bủn rủn, chết
điếng một hồi.


May đâu có những người ở hai bên xúm lại đỡ dậy, nên nàng mới hồi tỉnh lại, rồi bạch
với giữa thanh khơng rằng "Xin Phật đem lịng từ bi thương xót mà chỉ dùm chỗ thác
sanh của mẹ tơi cho mau, chứ tơi đây hình mịn tâm khổ chẳng bao lâu phải chết".


</div>
<span class='text_page_counter'>(49)</span><div class='page_container' data-page=49>

danh hiệu của ta, tự nhiên biết được xứ sở của mẹ ngươi thác sanh". Nàng lễ Phật vừa
xong, liền trở về nhà cứ y theo lời Phật dạy, nàng ngồi yên lặng một chỗ, niệm danh hiệu
của Phật Giác Hoa Định Tự Tại Vương Như Lai một ngày một đêm. Thình lình nàng thần
mộng đi đến một chỗ bờ biển kia, nước cuồn cuộn sôi trào, ba đào sóng bủa, lại thấy
nhiều giống ác thú, cả mình bằng sắt, nhảy nhót bơi chạy trên mặt biển, khơng biết là bao


nhiêu, lại thấy những đàn ông và đàn bà, kể hơn trăm ngàn, lặn xuống trồi lên ở trên ấy,
thảy đều bị những thú dữ kia dành giựt bấu xé mà ăn thịt.


Cịn quỉ Dạ Xoa thì hình thù khác nhau hoặc có thứ nhiều tay nhiều chân, hoặc có thú
nhiều con mắt nhiều đầu, hoặc có thứ nanh bén nhọn như gươm mọc ló ra ngoài miệng,
thảy đều áp lại lùa đuổi những bọn tội nhơn đến gần cho thú dữ kia ăn thịt. Thiệt cái thảm
trạng ấy không dám xem cho lâu!


Nhưng nàng nhờ có sức niệm Phật, nên tâm vẫn thanh tịnh, tự nhiên khơng có chút cho
sự sợ hãi cả. Xảy đâu có một quỷ vương, tên là Vơ độc, thấy hình tướng nàng chẳng phải
người phàm, oai nghi không giống kẻ tục, bèn đến trước mặt nàng cúi đầu nghinh tiếp mà
bạch rằng: "Dám hỏi Đức Bồ Tát vì duyên cớ chi mà đi tới đây?"


Nàng lại hỏi quỷ vương rằng: "Chỗ này kêu là xứ gì?


Quỷ vơ độc đáp rằng: "Đây là biển nghiệp thứ nhất, về phía Tây núi Thiết vi".


Nàng nghe nói liền bảo rằng: "Ta nghe trong núi Thiết vi có địa ngục ở chính giữa, việc
ấy quả như vậy hay khơng?"


Quỷ Vơ độc đáp rằng: "Thiệt có địa ngục, chớ khơng phải huyễn hoặc đâu!"


Nàng nghe rồi bèn khởi lịng kính nghi mà hỏi nữa rằng: "Địa ngục là nơi để giam nhốt
những người có tội, cịn Ta đây có lịng kính ngơi Tam Bảo, mà dun cớ gì cũng đi đến
chỗ ấy như vậy?"


Quỷ Vô độc đáp rằng: "Phàm người đi đến đây có hai cách: một là có oai đức thần thông,
đến cứu độ cho mấy người tội khổ, hay là đến chơi cho biết, hai là mấy người tội ác đã
thành thục, phải đi tới đây mà chịu khổ.



Nếu trừ hai lẽ ấy ra, thì khơng thể đến đây được". Nàng lại hỏi nữa rằng: "Nước biển này
duyên cớ sao mà lại sôi trào lên hồi, cịn ở trong thì có nhiều tội nhân lặn lên hụp xuống,
lại bị các loài thú dữ xâu xé ăn thịt như thế!"


</div>
<span class='text_page_counter'>(50)</span><div class='page_container' data-page=50>

Ở bên phía Đơng biển này, cách chừng mười vạn do tuần lại có một cái biển nữa, sự đày
đọa của chúng sanh bị vào đó cịn khổ hơn đây đến bội phần. Cịn bên mé Đơng biển kia,
lại có một cái biển khác, sự thảm trạng thống thiết không thể kể xiết!


Những hạng người thọ khổ là do bình nhựt ở thế gian tạo những nghiệp ác mà phải cảm
lấy sự tội báo như vậy, nên ba cái biển đó đều gọi là: "biển nghiệp".


Nàng lại hỏi quỷ Vô độc rằng: "Sao đây chỉ thấy có biển nghiệp mà thơi, cịn địa ngục lại
ở chỗ nào đâu?"


Quỷ Vơ độc đáp rằng: "Ở giữa ba cái biển ấy là chỗ địa ngục. Nếu kể số riêng ra thì nhiều
đến trăm ngàn mà sự thọ khổ đều mỗi mỗi khác nhau, như nói về phần ngục lớn thì có 18
chỗ, cịn nói về phần ngục trung thì có năm trăm chỗ và lại có ngàn trăm chỗ ngục nhỏ
nữa. Sự khổ độc trong mấy chỗ ngục đó khơng biết bao nhiêu mà kể cho xiết đặng!
"Nàng lại hỏi quỷ vương rằng: "Mẹ ta khi chết đến nay tuy chưa bao lâu mà chẳng biết
thần hồn đã đi đến chỗ nào?"


Quỷ vương lại hỏi nàng rằng: "Chẳng hay mẹ của Bồ tát, lúc sanh tiền làm những nghiệp
gì, xin tỏ cho tơi rõ".


Nàng đáp rằng: "Mẹ ta trước bị nhiễm theo tà kiến, chê bai ngôi Tam Bảo, gửi lịng
khơng thường, lập tánh khơng định, dẫu có nghe lời khun can mà tạm tín, rồi cũng trở
lại hủy báng nữa. Nay chết tuy chưa bao lâu, ắt có lẻ theo ác nghiệp ấy mà đọa vào khổ
thú, nên ta muốn tìm cho biết chỗ sanh xứ của mẹ ta, nhưng không hiểu ở nơi nào?"
Quỷ vô độc hỏi rằng: "Vậy chờ mẹ của Bồ tát tên họ là chi?"



Nàng đáp rằng: "Cha tên là Thi La Thiện Hiện còn mẹ hiệu là Duyệt Đề Lợi, đều là dịng
dõi Bà La Mơn cả".


Quỷ Vơ độc nghe rồi, lật đật chấp tay mà bạch với nàng rằng: "Xin Thánh giả trở về bổn
xứ, chẳng nên thương nhớ lịnh thân mẫu mà buồn rầu làm cho hao mòn quý thể. Số là
Duyệt Đề Lợi đã khỏi sự khổ ở chốn địa ngục này mà sanh lên cõi Trời cách nay đã ba
ngày rồi. Ngun Bà nhờ có người con hết lịng thảo thuận, lập đàn tràng tu phước và
cúng dường nơi tháp tự của Đức Giác Hoa Định Tự Tại Vương Như lai, nên mới cảm đến
Phật Thánh mà được sanh về cõi Trời như vậy.


Chẳng những thân mẫu của Bồ Tát nhờ phước đó mà thốt khỏi chỗ Vơ gián địa ngục,
đặng sanh lên cõi Trời mà thôi, cho đến những người đồng thọ tơi ở đó cũng nhờ dun
phước ấy mà đều đặng an vui và đồng sanh về cõi Thiên đàng trong ngày đó nữa?.
Quỷ vương nói rồi, liền chấp tay tỏ vẻ cung kính mà xin lui.


</div>
<span class='text_page_counter'>(51)</span><div class='page_container' data-page=51>

phát lời thệ nguyện lớn rằng: "Nay tơi nguyện cho đến kiếp vị lai nếu có chúng sanh nào
tạo tội mà chịu khổ ở nơi Địa ngục, bất luận là kẻ thân thuộc hay người cừu oán, tôi lập
ra nhiều pháp môn phương tiện mà cứu độ cho đều được phân giải thoát tất cả".


<b>SỰ TÍCH ĐỨC ĐỊA TẠNG BỔ TÁT</b>
( ĐỜI KHÁC)


Hồi đời quá khứ vơ lượng a tăng kỳ kiếp, có Đức Phật Thanh Tịnh Liên Hoa Mục ra đời.
Sau Phật nhập diệt rồi, đến thời kỳ tượng Pháp, thì Ngài Địa Tạng chưa chứng vị Bồ Tát,
sanh làm người con gái, tên là Quang Mục.


Khi mẹ nàng từ trần, thì nàng ngày đêm lo sợ, khơng biết mẹ có thốt khỏi tội khổ hay
khơng.


Có một bửa kia, nàng gặp một Thầy Tỳ khưu đương khất thực, mà Thầy ấy chính là một


vị La Hán đi giáo hóa chúng sanh. Nàng bèn sắm đủ các món đồ ăn ngon quý, rồi mời vị
La Hán ấy vào nhà mà cúng dường.


Khi Ngài thọ thực rồi, bèn hỏi rằng: "Ngươi muốn cầu nguyện việc chi hay không?"
Nàng thưa rằng: "Bạch Ngài! Bởi vì ngày mẹ tơi mất đến nay, tơi buồn rầu thương nhớ
bội phần, nghĩ đến ơn nhũ bộ, đức sanh thành, thì ngàn kiếp mn đời tơi cũng không
quên đặng, nên tôi nguyện làm việc tư phước này đặng cầu siêu vong linh cho mẹ tôi nơi
chín suối. Nhưng bổn phận tơi là người phàm mắt thịt, không biết mẹ tôi thác sanh về chỗ
nào?


Vậy xin Ngài từ bi chỉ bảo cho tôi biết".


Vị La Hán thấy nàng Quang Mục tuổi nhỏ mà có lịng hiếu đạo như vậy, bèn nhập định
thấy mẹ nàng bị đọa vào chỗ ác thú mà chịu nhiều nổi thống khổ rất nặng nề.


Khi Ngài xuất định rồi, liền hỏi nàng rằng: "Vậy chớ lúc còn sanh tiền ở trên dương thế,
mẹ ngươi làm những việc chi, đến nổi nay lại bị hiện báo ngay ở chỗ ác thú mà chịu hình
phạt lớn lao như thế ?"


</div>
<span class='text_page_counter'>(52)</span><div class='page_container' data-page=52>

nghiệp sát sanh của mẹ tơi đó cũng đã quá nặng, vậy xin Ngài đem lòng từ bi thương xót
đến kẻ thơ ấu này làm thế nào cứu vớt mẹ tơi đặng thốt khỏi nơi khổ thú, thì ơn đức ấy
vô lượng vô biên".


Vị La Hán thấy tấm lòng chơn thiệt của nàng yêu cầu khẩn thiết như vậy, liền dùng cơ
phương tiện mà khuyên nhủ nàng rằng: "Ngươi nên chí thành xưng niệm danh hiệu của
Phật Thanh Tịnh Liên Hoa Mục, và phát tâm đắp vẻ sơn thếp hình tượng của Phật mà
thờ, thì ngày sau nhờ cái cơng đức đó mà kẻ cịn sống đặng thêm sự lợi ích, và người mất
rồi lại khỏi sự khốn nàn, hai đàng đều nhờ phần phước báu tất cả".


Khi nàng Quang Mục nghe lời của vị La Hán nói trên, nàng dẫu bỏ thân mạng cũng


khơng tiếc, huống chi là sự gì. Nên nàng liền bán hết thảy những đồ nữ trang và có bao
nhiêu tiền của cũng đem ra mướn thợ tạo tượng Phật Thanh Tịnh Liên Hoa Mục và mua
vàng sơn thếp mà cúng dường như tỏ dấu yêu cầu đến Phật, đặng nhờ ơn cứu độ cho từ
thân.


Có một đêm kia, ước chừng lúc canh ba, nàng vừa mơ màng giấc điệp, bỗng thấy thân
Phật hiện ra sắc vàng rực rỡ, lại có hào quang sáng chói mà tỏ cho nàng biết rằng: "Mẹ
ngươi chẳng bao lâu rồi cũng thác sanh vào nhà ngươi, hể vừa biết sự đói lạnh thì nói
liền, khi đó ngươi sẽ rõ".


Nàng Quang Mục tỉnh giấc dậy, thì biết là điềm linh ứng của Phật mách bảo, nhưng chưa
hiểu cách thác sanh làm sao, nên luống những ưu sầu mà trơng đợi.


Cách ít lâu, người tớ gái của nàng sanh được một đứa con, chưa đầy ba ngày mà đã biết
nói.


Có một bửa nọ, đứa nhỏ thấy nàng Quang Mục liền cúi đầu mà khóc lóc rất thảm thiết,
rồi nói rằng: "Đường sanh nẻo tử, mối nghiệp dây duyên, nếu đã tạo tội thì tất phải chịu
lấy quả báo, chớ không thể tránh được. Ta đây vốn thiệt là mẹ ngươi khi trước. Từ lúc
vĩnh biệt đến nay, ta bị đọa vào địa ngục, chịu nổi đắng cay, may nhờ phước lực của
ngươi, nên ta mới được đầu thai lên đây. Nhưng vì tội báo còn nặng nên ta phải sanh làm
thân hèn hạ như thế này. Đã vậy mà lại không thọ, ta chỉ sống được mười ba tuổi mà thôi,
rồi lại phải chết vì bị đọa vào ác đạo nữa. Bây giờ ngươi nghĩ có cách gì làm cho ta ngày
sau thốt khổ ấy đặng hay khơng?


Nàng nghe nói đầu đuôi tự sự, hiệp với lời của Phật mách bảo trong điềm chiêm bao, thì
biết là thiệt mẹ của mình, nàng động mối thương tâm, tơ sầu vấn vít, giọt lệ chứa chan,
mà thưa với đứa nhỏ ấy rằng: "Nếu quả là mẹ tơi, thì chắc biết đặng những sự tội lỗi
trong lúc sanh tiền làm hạnh nghiệp gì mà phải đọa vào ác đạo như vậy? Xin tỏ hết cho
tôi làm tin".



</div>
<span class='text_page_counter'>(53)</span><div class='page_container' data-page=53>

Nàng lại hỏi nữa rằng: "Vậy chớ những sự tội báo ở nơi địa ngục ra thế nào?"


Đứa nhỏ nói rằng: "Ơi sự thống khổ ấy khơng nở nói ra , mà đã nói thì cũng khơng biết
chừng nào cho hết chuyện".


Nàng nghe mấy lời ấy liền khóc ịa, rồi ngữa mặt lên hư không mà bạch rằng: "Tôi
nguyện với Chư Phật xin đem lòng đại bi mà cứu cho mẹ tôi đời đời khỏi đọa vào địa
ngục, và từ nay cho mẹ tôi khỏi phạm tội nặng mà sa vào đường ác đạo khác nữa".
Nàng bèn ra quỳ trước bàn thờ Đức Thanh Tịnh Liên Hoa Mục mà nguyện rằng: " Nay
tôi vái cùng mười phương Chư Phật, xin từ bi thương xót mà chứng minh cho mấy lời thệ
nguyện của tôi ở giữa này. Nếu mẹ tơi đời đời lìa khỏi ba đường dữ cùng khỏi làm người
hèn hạ, và đến kiếp nào kiếp nấy cũng khỏi đầu thai làm thân con gái nữa, thì từ đó tơi
đối trước tượng Phật Thanh Tịnh Liên Hoa Mục đây cho đến trăm ngàn muôn ức kiếp về
sau, hễ thế giới nào có chúng sanh bị các tội khổ ở trong địa ngục, ngạ quỷ và súc sanh,
thì tơi thệ nguyện ra sức cứu vớt cả thảy khỏi sự thống khổ nơi ba đường ấy và chừng
người nào người nấy đều đặng thành Phật tất cả, tôi mới chịu chứng bực Chánh
Giác".Khi nàng phát thệ nguyện vừa rồi, bỗng nghe giữa hư khơng có tiếng nói rằng:
"Này Quang Mục! Ngươi có lịng từ bi mẫn rất lớn, biết vì mẹ mà phát lời đại nguyện
như thế, nay Ta là Thanh Tịnh Liên Hoa Mục cho mẹ ngươi mãn đến khi 13 tuổi, được
thác sanh làm người Phạm Chí, hưởng thọ đến trăm tuổi, rồi sau lại được sanh về cõi Vô
ưu, hết sự lo phiền, đủ điều khoái lạc, lại sống lâu đến đời đời kiếp kiếp, và sau được
thành Phật quả mà cứu độ tất cả chúng sanh ở cõi Nhân gian và Thiên thượng, nhiều như
số cát sông Hằng".


Nàng nghe đủ mọi điều tiên chúc của Phật tỏ bày, thì lấy làm vui mừng khôn xiết, liền lễ
lạy mà cảm ơn đức Ngài.


Từ đó về sau nàng ni dưỡng và săn sóc đứa con nít ấy kỹ càng và khi đến 13 tuổi nó
chết, nàng thương xót và chơn cất một cách tử tế như mẹ vậy.



<b>SỰ TÍCH ĐỨC ĐỊA TẠNG BỔ TÁT</b>
<b>(ĐỜI KHÁC)</b>


Trước đời quá khứ vô lượng A tăng tỳ na do tha bất khả thuyết kiếp, thì Đức Nhứt
Thuyết Thí Thành Tựu Như Lai và Ngài Địa Tạng Bồ Tát đều chưa xuất gia tu hành. Hai
người đồng làm vua lân bang với nhau trong một thời kỳ.


</div>
<span class='text_page_counter'>(54)</span><div class='page_container' data-page=54>

phúc vơ vi, dưới thì bá tánh được an cư lạc nghiệp, và sau nữa tất cả chúng sanh đều gội
ơn giáo hóa, cảm đức nhơn từ, mà bỏ dữ làm lành, đặng mọi phần lợi ích.


Song nhân dân trong các nước lân bang, phần nhiều hay làm điều ác nghiệp, như là tham
lam, nóng giận, ngu si, tà kiến, nói thì ngoa ngơn ác ngữ, mắng rũa lẫn nhau, khơng kính
Phật trọng Tăng, chẳng trì giới sát, tật đố mấy người lương thiện, mưu hại những kẻ trung
thành, chẳng có chút gì là lịng nhơn đức cả.


Đã vậy mà hễ có xảy ra những tai bệnh gì, thì cứ rước bóng rước chàng, vái ma vái quỷ,
đem thân mạng mà cầu cứu với bọn tà sư ngoại đạo, sát hại vật mà cúng tế luôn luôn, tạo
tác không biết bao nhiêu là tội nghiệp. Hai vị quốc vương thấy nhơn dân ở các nước lân
bang cứ chuộng sự tà m à làm việc chẳng lành như vậy, động lòng thương xót, mới bàn 
luận cùng nhau tìm phương tiện gì, đặng hóa độ cho những kẻ ấy khỏi bị cái ác nghiệp
thọ báo, trầm luân nơi biển khổ về sau.


Lúc bàn luận xong rồi, một vị phát nguyện rằng:


"Nay tôi nguyện xuất gia cầu đạo Bồ đề cho đặng mau thành Chánh Giác mà hóa độ tất
cả chúng sanh đều được vào cõi Niết Bàn, thì lịng tơi mới lấy làm thỏa mãn".


Cịn một vị, thì phát nguyện rằng: "Nay tôi nguyện xuất gia tu hạnh Bồ Tát, nếu tơi
khơng độ những lồi chúng sanh bị tội khổ được mọi điều an lạc và chứng quả


Bồ #273;ề, thì tơi chưa chịu thành Phật".⠦


Trong hai vị quốc vương đồng thời phát nguyện như đã nói trên, thì phát nguyện sớm
thành Phật mà hóa độ chúng sanh, tức là Ngài Nhứt Thiết Trí Thành Tựu Như Lai. Còn vị
phát nguyện độ hết chúng sanh rồi sau sẽ thành Phật, tức là Ngài Địa Tạng Bồ Tát.


Vì lời thệ nguyện của Đức Địa Tạng như vậy, nên đã trãi vơ số kiếp mà Ngài cũng cịn
làm một vị Bồ Tát. Thiệt tấm lòng độ sanh của Ngài to lớn biết là dường nào!


<b>SỰ TÍCH ĐỨC ĐỊA TẠNG BỔ TÁT</b>
(ĐỜI KHÁC NỮA)


Hồi đời quá khứ, thuộc về kiếp bất khả thuyết, thì tiền thân của Đức Địa Tạng Bồ Tát lại
sanh làm ông Đại Trưởng giả, rất hào tộc và có đức độ.


</div>
<span class='text_page_counter'>(55)</span><div class='page_container' data-page=55>

Một bữa kia, ơng Trưởng giả tình cờ gặp vị Phật ấy, thân tướng tốt đẹp, ngàn phước trang
nghiêm, thiệt là tuyệt thắng trên đời, xưa nay chưa thấy. Ông càng xem lại càng thương
và càng kính, làm cho ơng sanh lịng hân hạnh bội phần.


Ơng bèn lại gần, cúi đầu chấp tay mà thưa rằng: "Bạch Thế Tôn! Tôi trộm thấy cái dung
quang của Ngài rất đoan trang nghiêm nghị và viên mãn trăm phần, càng ngó lại càng
tươi, càng nhìn lại càng đẹp, thiệt là chẳng ai có cái báo thân như thế! Nhưng tơi tự nghĩ
rằng nếu được quả tốt, ắt có nhơn lành, vậy chẳng rõ mấy kiếp trước, Ngài làm những
hạnh nguyện gì mà ngày nay cảm được thân tướng tốt đẹp như thế!


Xin Ngài từ bi giảng nói cho tơi biết, chứ tôi đây cũng lấy làm ước ao sao cho được cái
tướng hảo ấy".


Sư Tử Phấn Tấn Cụ Túc Vạn Hạnh Như Lai thấy ơng Trưởng giả có lòng ước sự làm
lành, nên Ngài liền bảo rằng: "Nếu người muốn được kim thân diệu tướng như Ta đây,


thì phải phát tâm tu hành, trải vơ lượng kiếp cầu đạo bồ đề và một lòng tinh tấn, mà hóa
độ tất cả những lồi chúng sanh thọ khổ cho thoát khỏi đường tội báo và được phần khoái
lạc tiêu diêu, do cái duyên phước ấy mà ngày sau sẽ cảm đặng tướng hảo như Ta đây, chớ
không khó gì".


Ơng Trưởng giả nghe Phật dạy bảo như vậy, liền quỳ xuống trước mặt Ngài mà phát
nguyện rằng: "Tôi nguyện từ nay cho đến đời vị lai, không biết bao nhiêu kiếp số về sau,
nếu có chúng sanh nào ở trong sáu đường, bị thống khổ về sự tội báo, thì tơi dùng đủ
phương tiện mà độ cho được giải thốt tất cả, chừng đó tơi mới chứng Phật quả".


Vì trong kiếp làm Trưởng giả nói trên, Đức Địa Tạng có phát lời đại nguyện như vậy, nên
từ đấy đến nay, trải đã trăm ngàn vạn ức na do tha, không biết bao nhiêu kiếp số rồi, mà
Ngài hãy còn làm một vị Bồ tát.


Xem đó thì biết cái thệ nguyện "lợi tha" của Ngài là vô cùng vô tận, và cái công đức "cứu
khổ" của Ngài thiệt là vơ lượng vơ biên.


<b>SỰ TÍCH ĐỨC ĐỊA TẠNG BỔ TÁT</b>
(CHUYỂN THẾ)


</div>
<span class='text_page_counter'>(56)</span><div class='page_container' data-page=56>

Khi được 24 tuổi, Ngài xuất gia tu hành có dắt theo một con chó trắng, kêu là con Thiện
thinh ( Thiện thinh là con chó biết nghe tiếng người) qua Tỉnh Giang Nam, huyện Thanh
Dương, về phía Đơng phủ Trì Châu, Ngài lên trên đảnh núi Cửu Hoa ngồi thiền định trọn
75 năm.


Đến đời nhà Đường niên hiệu Khai Nguyên, năm thứ 16, tối 30 tháng 7, Ngài chứng
thành đạo quả. Lúc ấy Ngài đã được 99 tuổi, mà cũng cịn ở trong động núi Cửu Hoa.
Thuở đó, có một vị Cát Lão là ơng Mẫn Cơng, sẳn lòng từ thiện, hay làm những sự phước
thiện, hay làm những sự phước duyên. Trong nhà ông thường năm, mỗi khi Trai Tăng là
100 vị, mà ông chỉ thỉnh 99 vị, còn một vị để dành thỉnh Ngài cho đủ số.



Có một bửa kia, Ngài xin ơng Mẫn Cơng một chỗ đất, ước vừa trãi đủ cái y Ca Sa của
Ngài mà thơi.


Khi ơng bằng lịng cho, thì Ngài lấy y trải ra, trùm hết cả khoảng đất tại cạnh núi.
Ơng Mẫn Cơng thấy sự thần kỳ như vậy, biết là một vị Thánh Tăng, nên lại càng bội
phần hoan hỉ mà nguyện cúng hết đất ấy, cịn người con ơng thì xin xuất gia theo Ngài.
Ít lâu ông cũng đi tu, trở lại đầu cơ với con, tức là Thầy Đạo Minh Hòa Thượng.


Sau Ngài lại thiền định 20 năm nữa, đến đời nhà Đường, niên hiệu Chí Đức thứ hai, bữa
30 tháng 7, Ngài nhập diệt.


Vì có sự tích của Ngài chuyển thế như vậy, nên người đời sau tạo tượng mà thờ Ngài, bên
tả có Thầy Đạo Minh, cịn bên hữu có tượng ông Mẫn Công đứng hầu, và mỗi năm đến
ngày 30 tháng 7 Annam, ai cũng làm lễ kỷ niệm Ngài là do tích đó.


<b>Những truyện Niệm Phật cảm ứng</b>


<b>mắt thấy tai nghe</b>



</div>
<span class='text_page_counter'>(57)</span><div class='page_container' data-page=57>

<b>Lời người</b>


<b>dịch </b>


Pháp môn Tịnh độ
theo như huyền ký của
Đức Phật trong Kinh
Vô Lượng Thọ ([1]) và
Kinh Đại Tập ([1]) là
một pháp mơn thù
thắng và rất thích hợp
với chúng sanh trong
thời mạt pháp này.

Chư Tổ như các ngài
Mã Minh, Long Thọ,
Trí Giả, Huệ Viễn,
Thiện Đạo, Thanh
Lương, Vĩnh Minh,
Thiên Như, Liên Trì,
Ấn Quang, v.v… cũng
đều đề xướng tuyên
dương pháp môn Tịnh
độ. Và trên thực tế
chúng ta thấy hành giả
tu Tịnh độ ngày một
nhiều. Thế nhưng dịch
giả nhận thấy những
sách viết về Tịnh độ
thì dường như q ít!
Đã thế, mà trong số ít
ỏi đó lại cịn có những
sách nội dung chẳng
những khơng làm tăng
trưởng niềm tin nơi
hành giả, mà còn gây
cho hành giả thêm
hoang mang. May
thay, dịch giả được đại
đức Thích Minh
Quang hiện đang du
học ở Đài Loan, trong
một chuyến về nước
tặng cho quyển

“Những Truyện Niệm

<b>MỤC LỤC</b>



<i>- Lời người dịch</i>
<i>- Lời tựa</i>
<i>- Lời nói đầu</i>


Một câu Phật hiệu khởi tử hồi sinh
Bồ tát thị hiện khuyến hóa niệm Phật
Phật A Di Đà phóng quang gia bị


Mẹ già niệm Phật, con được tai qua nạn khỏi
Chị lạy Phật, em trai được nhờ phước


Phật vốn là y vương có thể trị dứt các chứng bệnh
Trợ giúp cha vãng sanh Tây phương thật là đại hiếu
Vốn đến đòi nợ, niệm Phật được giải oan


Bị tai nạn giao thông nhờ niệm Phật được cấp cứu
Xe hư, niệm Phật được hiệu lực


To tiếng niệm Phật, đuổi được oan hồn
Niệm Phật có thể độ được hung thần ác sát
Bên bờ sống chết, được cứu sống lại
Nơi ở của hung thần hoá thành tốt lành
Thuốc A Già Đà trị dược vạn bệnh


Thuốc đại bi khiến cho thai đã chết sống lại
Té xuống lầu bị thương, qua ngày sau khơng sao
Bồ tát gia bị khai mở trí tuệ cho tơi



Chí tâm niệm Phật, khắc phục được tai nạn gió lửa
Đến lúc việc xảy ra mới ôm chân Phật cũng có kết quả
Té xuống kênh rạch niệm Phật được cứu


Bụng đau khó chịu, bà ngoại dựa vào


Niệm Phật: nước rút, người và vật đều bình an
Xe lật, được bình an vô sự


</div>
<span class='text_page_counter'>(58)</span><div class='page_container' data-page=58>

Phật Cảm Ứng Mắt Thấy Tai Nghe” này, dịch giả xem thấy rất hay, cảm thấy quyển sách
này nếu được dịch ra chữ Việt và in ấn lưu hành thì có thể giúp tăng trưởng tín tâm nơi
hành giả tu Tịnh độ rất nhiều, nên dịch giả khơng ngại vốn liếng Hán học cịn nông cạn
và văn từ tiếng Việt cũng rất vụng về, mạnh dạn phát tâm dịch quyển sách này ra chữ
Việt, để các hành giả tu Tịnh nghiệp cùng xem, với ước nguyện thông qua quyển sách
nhỏ này, mọi người càng thâm tín hơn nơi pháp mơn thù thắng mà mình đã chọn.


Ngưỡng mong trên Hịa Thượng bổn sư (Hịa Thượng thượng Trí hạ Tịnh) chứng minh,
cùng toàn thể chư liên hữu hoan hỷ với pháp sự này.


Đây là lần đầu tiên dịch giả mạo muội cầm bút dịch một quyển sách Phật ra mắt đại
chúng, chắc chắn sẽ có rất nhiều sai sót. Ngưỡng mong được các bậc cao minh chỉ giáo.


<b>Nam mô A Di Đà Phật</b>
Mùa Hạ năm Tân Tỵ
Dịch giả cẩn bút


<i><b>Tỳ kheo Thích Hoằng Chí</b></i>


<b>Lời tựa</b>




<i>Tuyết Lơ lão nhân Lý Bính Nam (<b>[1]</b>)</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(59)</span><div class='page_container' data-page=59>

những điều ghi chép trong sách xưa; có người thì tin những lời nói của người nay; có
người tin sách khơng tin người; có người tin người khơng tin sách; có người tin xưa
khơng tin nay; có người tin nay khơng tin xưa. Như thế thì chẳng phải đều tin hết, cũng
chẳng phải đều chẳng tin hết.


Quyển sách này người biên soạn là người nay, những điều người nay ghi chép là những
việc nay. Người nay thì nhiều người quen; việc nay thì nhiều người biết, cho nên chẳng
có hư cấu và khoa trương q đáng, như thế thì sao mà khơng tin? Nếu tin thì tăng thêm
phước đức, làm cho phong hóa xã hội được thuần khiết (trong sáng, tốt đẹp). Tác phẩm
ghi lại những chuyện nhân quả này được viết ra là vì người có lịng tin, cũng làm ra là vì
người chưa có lịng tin. Người chưa có lịng tin hiện nay chưa chắc sau này không tin,
cho nên tác phẩm được viết ra cũng khơng uổng phí vậy.


Có người bảo: “Cái nhân quả mà ngài nói, tơi khơng dám bác, nhưng những chuyện cảm
ứng ghi ở đây, khơng khỏi đáng nghi?”. Ơi, nhân quả là hiện tướng của Sự; cảm ứng là
động thái của Lý. Sự và Lý, Động và Hiện nếu có thể tách làm hai, thì làm gì có nhân
quả? Lại có người nạn vấn rằng: “Nhân quả, Kinh, Sử đã nói rõ rồi, cần chi đến những
chuyện cảm ứng này?”. Đáp: “Ơng khơng nghe việc phương tiện khéo léo trong kinh
Pháp Hoa sao? Thuyết pháp thì hàng trung căn, hạn căn khơng khế ngộ; thuyết thí dụ thì
hàng thượng căn trung căn đều nghe; thuyết nhân dun thì ba căn đều thơng suốt, mà
quyển sách này đã giúp thêm được cho Kinh, Sử, thế há chẳng tốt hơn sao?”. Như ai thực
sự tin được điều này, mới có thể thấy được chỗ thâm áo của Kinh, Sử.


<i>Trung Hoa Dân Quốc năm thứ 58,</i>
<i>Cuối Xuân năm Kỷ Dậu</i>


<i><b>Lý Bính Nam</b>ghi</i>



<b>Lời nói đầu </b>



</div>
<span class='text_page_counter'>(60)</span><div class='page_container' data-page=60>

Hiện nay đang là thời mạt pháp, tà thuyết rối rắm, những người tu học muốn đầy đủ pháp
vị tốt đẹp, chỉ có y giáo phụng hành, chuẩn bị tư lương chờ đến kỳ hạn có thể vãng sanh
về An Dưỡng (cõi Cực Lạc). Đồng trong loài người, mà có người nhân nơi chí tâm niệm
Phật mà có được những cảm ứng kỳ diệu, tiêu tai giải nguy, hoặc có người nhất tâm niệm
Phật, khi lâm chung nhờ Phật tiếp dẫn thị hiện những tướng lành. Học nhơn (tôi, lời
khiêm xưng của tác giả) không ngại ngu muội vụng về, nghĩ ra nên đem những sự thật
cảm ứng khơng thể nghĩ bàn, chính mình mắt thấy tai nghe trong hơn mười năm trở lại
đây, nhất nhất ghi chép lại, để cho những người chưa tin Phật, niệm Phật, sớm biết tin
Phật niệm Phật; những người đã tin Phật niệm Phật rồi sẽ càng gắng gỏi nỗ lực hơn, tinh
tấn hơn gấp bội; những ai thấy nghe đều được lợi ích trong Phật Pháp. Đây chính là
nguyện vọng của bút gia.


<i><b>Lâm Khán Trị</b></i>


<b>1. MỘT CÂU PHẬT HIỆU KHỞI TỬ HỒI SINH</b>


Có một vị liên hữu ở làng Bắc Đồn, ngoại ô của Đài Trung tên là Lại Lâm Trị, vì chồng
của bà tên là Tuấn, cho nên mọi người đều gọi bà là thím Tuấn, năm nay bà sáu mươi bốn
tuổi. Mỗi thứ tư và thứ bảy bà đều đến thư viện và Liên xã chùa Từ Quang nghe thuyết
pháp; hai thời khóa tụng sáng, tối chỉ biết niệm Phật. Bà có một người con gái tên là Lan,
năm mười tám tuổi đã lấy chồng và sanh được một đứa con trai tên là Đạt Tử. Mười ba
năm trước lúc Đạt Tử vừa mới ba tuổi, một hôm đi chơi trước cổng, bỗng nhiên có một
con heo nái chạy lại đụng ngã Đạt Tử, từ hơm đó trở đi bị sốt cao, lại hôn mê bất tỉnh,
theo chẩn đoán của bác sĩ là viêm màng não. Trung y, Tây y, thuốc thang gì đều vơ hiệu,
hai mươi ngày sau thì chết! Vào khoảng 8 giờ tối là dứt thở, người trong nhà để Đạt Tử
trên nền gạch trong phòng khách dùng một bao vải rách đắp lên, giấy khai tử mọi việc
chuẩn bị xong, dự định sáng mai đem đi chôn.



</div>
<span class='text_page_counter'>(61)</span><div class='page_container' data-page=61>

khơng biết khóc và tay chân cứng cịng khóc ré lên! Thím Tuấn và con gái là A Lan, vội
vã tới xem, thấy hai tay của Đạt Tử đã kéo cái bao vải ra, hai mẹ con vừa mừng vừa sợ,
bế nó lên và rót cho nó một tí nước, thì nó cũng uống được, thật là khơng thể nghĩ bàn.
Sáng sớm hôm sau, hai mẹ con lại bồng Đạt Tử đi Bắc Đồn cho bác sĩ khám, bác sĩ cũng
thấy kỳ lạ, làm sao chết rồi mà sống lại? Bảo hai mẹ con nhanh chóng đưa lên bệnh viện
tỉnh Đài Trung. Lúc đó thím Tuấn yêu cầu tôi phụ giúp bà đưa cháu đi bệnh viện nhập
viện!


Đạt Tử liền được đưa đi bệnh viện ở Đài Trung vào Khoa Nhi. Nhưng khi thím Tuấn
nhìn thấy mấy chục đứa nhỏ bị viêm màng não trong bệnh viện bị biến dạng kỳ quái: có
đứa mắt lệch, có đứa miệng méo, có đứa tay chân khơng động đậy gì hết, trong lịng rất là
buồn. Bà hỏi thăm thì đa số nhập viện từ sáu tháng đến hai năm, sức khỏe vẫn chưa bình
phục, mà bác sĩ chẩn đoán cho Đạt Tử, tối thiểu phải nằm viện bốn tháng, còn khả năng
hết bệnh hay khơng cũng khơng dám chắc! Thím Tuấn mới nói với tơi: “Về tình hình
kinh tế nhà tơi làm sao có thể nằm viện lâu đến bốn tháng được?!”. Tơi liền khun bà
rằng: “Thím Tuấn à! Thím thực là cả đời khơn ngoan, lại đi tính dại một lúc! Đạt Tử là
nhờ phước ấm của thím mà được Phật, Bồ Tát phò hộ, mới chết mà được sống lại, tôi
nghĩ cháu nhất định sẽ khỏi, chỉ cần chúng ta vừa cố hết sức trị liệu cho cháu, vừa thành
khẩn cầu Phật, Bồ Tát cứu giúp, rồi mới phó mặc mạng cho trời!”. Thím Tuấn vẫn cịn do
dự chưa quyết định, rốt cuộc tơi lại khun bà: “Thôi tạm nằm hai tuần đi, khỏe hay
không cũng xuất viện, nhưng thím cần ở lại bên cạnh Đạt Tử niệm Phật khơng được gián
đoạn”. Thím Tuấn cuối cùng bị tôi thuyết phục, bèn làm thủ tục nằm viện điều trị!


</div>
<span class='text_page_counter'>(62)</span><div class='page_container' data-page=62>

bị sởi rất dễ dẫn đến sưng phổi. Nếu như thế, thì thật khơng cịn cách trị!”. Thím Tuấn và
A Lan trước đã nghe đoán số mạng sẽ chết, nay bác sĩ cũng nói sẽ chết càng đau lịng vơ
cùng! Lúc đó lại hối hận là không nên vào viện, trong hai tuần đã tốn hết mấy ngàn đồng.
Lúc đó tơi cũng ở kế bên, liền nói với họ rằng: “Có lẽ Đức Phật A Di Đà và Quán Thế
Âm Bồ Tát từ bi thương xót cho bà là người đệ tử trung thật, mới đặc biệt gia bị, khiến
Đạt Tử trước khi xuất viện tái phát sởi, ở trong bệnh viện y dược dễ dàng thuận tiện, chớ


nếu sau khi xuất viện về nhà rồi mà tái phát sởi thì càng nguy hiểm hơn! Khơng tin, ở lại
thêm một tuần lễ nữa liền có thể bình an xuất viện. Bây giờ bà phải khẩn thiết hơn nữa ở
bên cạnh nó niệm Phật, khơng được gián đoạn, khơng nên nản lịng!”. Lúc đó tơi cũng
chỉ an ủi họ như thế thơi, thật ra tơi cịn sốt ruột hơn họ nữa!


Một tuần lễ trôi qua, trải qua sự trị liệu rất thuận lợi, quả nhiên Đạt Tử đã vượt qua cửa ải
tử vong một cách an nhiên, có thể xuất viện được rồi. Nhưng theo nguyên tắc của bệnh
viện, người bệnh muốn xuất viện, nhất định phải qua bác sĩ tái khám một lần. Khi bác sĩ
khám lại cho Đạt Tử, miệng nói ln khơng ngớt: “Kỳ lạ! Kỳ lạ! Làm sao mà bệnh trạng
nghiêm trọng quá sức như thế, lại mau khỏi như vậy?”. Liền hỏi thím Tuấn: “Trong
miệng bà khơng ngớt niệm những gì vậy?”. Thím Tuấn nói: “Niệm A Di Đà Phật”. Bác sĩ
nghe xong nói: “Mẹ tơi cũng là người ăn chay trường hai, ba chục năm nay rồi, vì sao
khơng biết niệm A Di Đà Phật?”. Đáng tiếc thím Tuấn khơng biết trả lời, lỡ mất một cơ
hội! Lại nói về Đạt Tử, từ khi xuất viện về nhà, sức khỏe cùng với những đứa trẻ bình
thường khác mạnh khỏe như nhau, nhưng hay hỏi bà ngoại: “Con còn nhỏ như thế này tại
sao biết tự mình ăn cơm, lại biết nói chuyện, biết đi?”. (có lẽ bị ảnh hưởng viêm não nên
hơi bị thần kinh - dịch giả). Thím Tuấn liền đổi tên nó lại là “A Châu”


Thời gian qua như tên, mới chớp mắt, A Châu năm nay đã mười bảy tuổi, anh ta thường
ngày làm việc rất siêng năng, lại hiếu thuận với người lớn, là một thanh niên tốt có lễ
giáo nhân nghĩa.


Cuối cùng chúng ta hãy nghiên cứu một chút, một câu Thánh hiệu này thế mà hơn khoa
học. Hãy xem các bác sĩ đã nghiên cứu khoa học mấy chục năm họ chẩn đoán: nếu như
thằng nhỏ nằm viện ít nhất phải bốn tháng, cịn khả năng khỏi hay khơng cịn khơng dám
chắc! Và một vị khác có khả năng bói bát tự, khéo đốn về âm dương, đốn là chỉ sống
có ba tuổi bị ban sởi mà chết, rốt cuộc bị câu Thánh hiệu A Di Đà Phật mà tiêu tai giải
nạn, gặp dữ hóa lành. Nhưng có lẽ có người sẽ hồi nghi: “Niệm Phật thì khơng chết ư?”.
Đương nhiên tơi khơng dám nói quả quyết như thế, do vì đời người có sanh ắt có tử.
Nhưng trong kinh có nói rằng: “Chí tâm niệm một câu A Di Đà Phật có thể tiêu diệt tội


nặng sanh tử trong tám mươi ức kiếp”. Chỉ cần xem người niệm Phật có phải là “chí tâm”
niệm hay khơng? Nếu như khơng chí tâm, niệm Phật khơng có cảm ứng, khơng tự trách
mình, lại đi trách ai đây?


<b>2. BỒ TÁT THỊ HIỆN KHUYẾN HÓA NIỆM PHẬT </b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(63)</span><div class='page_container' data-page=63>

khơng để ý. Vài giờ sau tỉnh dậy, cơ nói với mẹ: “Con vừa rồi bị hôn mê, thần thức sợ sệt
đi đến một nơi rậm rạp um tùm, dường như rất xa, nhưng con vẫn cứ đi mãi về phía
trước, giữa đường gặp một người nữ trẻ tuổi, rất là đoan chánh trang nghiêm, vừa chặn
con lại, lại thêm duỗi tay đẩy con một cái té lộn nhào, lúc bị dậy con liền mắng cơ ta:
“Ngươi… cái cô gái này sao mà vô cớ xô ta vậy? Cơ tên là gì?”. Cơ gái đó liền nói với
con rằng: “Chỗ này không phải chỗ ngươi đến, mau mau về đi, ngươi về nhà sẽ biết tên
ta”. Nói như thế xong, cơ liền cung kính chắp tay lại, miệng niệm: “Nam mô A Di Đà
Phật”. Lúc đó con liền tỉnh dậy”. Thím Tuấn nghe xong liền nói với con gái rằng: “Cơ gái
đó e rằng chính là Qn Thế Âm Bồ Tát biến hóa ra để cứu con đó. Có khả năng là Đức
Đại Từ Đại Bi cứu khổ cứu nạn Quán Thế Âm Bồ Tát rồi!”.


Từ đó về sau sức khỏe của A Lan hồi phục mạnh khỏe như thường. Sau việc đó, thím
Tuấn đến Liên Xã thăm tơi và kể cho nghe chuyện của A Lan trải qua và còn hỏi tôi rằng:
“Tại sao Quán Thế Âm Bồ Tát cũng phải chắp tay niệm A Di Đà Phật? Quán Thế Âm Bồ
Tát không phải là một trong Tam Thánh của Tây phương Cực Lạc thế giới sao?”. Tơi liền
nói với bà ta rằng: “Quán Thế Âm Bồ Tát chắp tay niệm Phật là dạy cho A Lan niệm,
không phải ngài tự mình cần phải niệm. Đây chính là dùng tự bản thân làm khuôn phép
dạy cho người (thân giáo) muốn khuyến hóa A Lan con gái của bà, khơng niệm Phật làm
sao có thể thốt ly được Ta Bà khổ hải, khỏi vào trong vòng luân hồi?”. Từ đó con gái
của thím Tuấn cũng bắt đầu niệm Phật.


<b>3. PHẬT A DI ĐÀ PHÓNG QUANG GIA BỊ </b>


Đây là một câu chuyện thật xảy ra vào ngày mồng 9 tháng 11 ÂL năm Dân Quốc thứ 52


(Dân Quốc sơ niên là 1911) do niệm một câu đại chú vương vạn đức hồng danh mà được
cảm ứng không thể nghĩ bàn. Một phụ nữ họ Lại ở trong vùng nông thôn mới do thành
phố Đài Trung hỗ trợ, năm nay 54 tuổi, bà ta đã từng dẫn đứa cháu mới 5 tuổi của bà
sang một vị liên hữu tên Lý Kim Phương đối diện với nhà bà để nhờ gia trì chú Đại Bi
“thâu cảnh”. Gia trì chú Đại Bi “thâu cảnh” là một phương pháp rất hiệu nghiệm, cũng là
một pháp môn phương tiện hay, khéo khuyên người niệm Phật.


</div>
<span class='text_page_counter'>(64)</span><div class='page_container' data-page=64>

không nên dẫn bà Lại đi, mà nên cố gắng phị hộ sức khỏe của bà được bình an, vì bà ấy
là một người con dâu hiếu thảo, trên thì lo hầu hạ mẹ của ơng, dưới cịn có con nhỏ chưa
trưởng thành, cần phải ni dạy, ông nhất thiết không được dẫn bà ấy đi!”. Bà mẹ chồng
của bà Lại lúc đó cũng nói: “Con à! Từ sau khi con qua đời, vợ con và mẹ cùng nương
nhau mà sống, con không được dẫn nó đi, con nếu dẫn nó đi, để lại mẹ già cả thế này và
mấy đứa nhỏ còn nhỏ như thế kia, làm sao mà sống đây? Như vậy con chính là đại bất
hiếu!”. Vị liên hữu Kim Phương lần nữa lại khuyên hồn quỷ: “Ông Lâm à! Ông phải nên
niệm A Di Đà Phật phát nguyện cầu sanh Tây phương, mới có lối thốt, ln hồi trong
sáu đường là cái khổ nói khơng cùng. Bây giờ tôi niệm A Di Đà Phật, ông cũng phải phát
tâm niệm A Di Đà Phật theo!”. Nói xong liền niệm “A Di Đà Phật”, niệm liên tục không
dừng. Niệm được khoảng nửa tiếng đồng hồ, thì nghe bà Lại bắt đầu nói: “Tam Tiên ánh
vàng rực rỡ, Tam Tiên ánh vàng rực rỡ, chồng tôi cũng đi rồi”. Vị liên hữu Kim Phương
hỏi bà ta: “Bà hỏi thử xem, Tam Tiên tên là gì?”. Bà Lại nói: “Họ nói là Phật A Di Đà
phóng quang gia bị”. Bà Lại đang trong hôn mê tức thời tỉnh táo trở lại, chưa đầy mấy
ngày sức khỏe của bà bình an vơ sự (Tam Tiên tức là Tam Tơn, do vì bà Lại khơng phải
tín đồ chính thức của Phật giáo, nên khơng biết tơn xưng Tam Tôn). Bà Lại lần này bị sự
nguy khốn đó, cũng khơng phải khơng có ngun nhân, việc xong bà mẹ chồng của bà ta
nói với vị liên hữu Kim Phương rằng: “Thằng Lâm con tôi sau khi kết hơn với con dâu họ
Lại này chưa từng có gây gổ với nhau lần nào, thật là một cặp vợ chồng hạnh phúc. Từ ba
năm trước khi thằng Lâm chết rồi, con Lại ngày ngày đều thương nhớ chồng. Mười mấy
hơm trước nó một mình đi ra mộ dọn dẹp, cúng bái, khóc lóc thảm thiết một trận nữa, cho
nên bắt đầu từ hơm đó, đêm nào cũng mộng thấy hồn chồng về trong nhà. Điều kỳ lạ là
khơng chỉ một mình nó mộng thấy, trong nhà lớn nhỏ đều mộng thấy cả!”.



Vị liên hữu Lý Kim Phương có hơi khơng hiểu: Tại sao một người đã chết ba năm rồi,
thần thức cịn ơm giữ trong mộ? Riêng tơi, tơi cho rằng việc này có hai cách giải thích:
Một là ơng Lâm này lúc cịn sống, “chấp ngã” rất nặng cho nên sau khi chết đọa vào quỷ
đạo vẫn lưu luyến cái thi thể cũ của mình như trước mà trở thành lồi quỷ giữ xác!


Hai là lúc bà Lại đi ra mộ quét dọn cúng bái, thì những cơ hồn ngạ quỷ ở gần mộ đó biến
hóa ra hình tướng của ơng Lâm theo bà ta về nhà làm loạn! Căn cứ theo trong Kinh Địa
Tạng có nói: “Cõi Diêm Phù Đề này, người hành thiện, lúc lâm chung, cũng có trăm ngàn
quỷ thần ác đạo hoặc biến ra làm cha mẹ, nhẫn đến biến ra những bà con quyến thuộc,
dẫn dắt người chết khiến vào đường ác, huống nữa là người lúc sống vốn tạo ác nghiệp.
Hai cách giải thích trên đây, không biết thuộc về cách nào? Những vị độc giả thơng minh,
các ngài có thể giải đáp cho tôi không?


<b>4. MẸ GIÀ NIỆM PHẬT, CON ĐƯỢC TAI QUA NẠN KHỎI </b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(65)</span><div class='page_container' data-page=65>

thành, chẳng những làm cho cả gia đình theo Phật mà cịn độ được cả nhà của mẹ mình.
Nhà của mẹ bà ở trên núi làng Minh Tú trấn Sa Lộc. Vào ngày mồng 8 tháng 9, tám năm
về trước bắt đầu mời các vị hoằng pháp trong Liên Xã đến đó tuyên giảng chánh pháp,
khuyên người niệm Phật. Trong nhà bà thờ phụng tượng Tây phương Tam Thánh, đặt tên
là “Tín Nghĩa Đường”, lại cịn lấy ngày mồng 8 tháng 9 hằng năm làm ngày lễ kỷ niệm
định kỳ. Những tín đồ ở gần đấy, mỗi lần đến ngày đó đều sắm sửa hương hoa quả phẩm
đến Tín Nghĩa Đường lễ Phật, nghe pháp. Ngày mồng 8 tháng 9 năm Dân Quốc thứ 52,
học nhơn (<i>lời khiêm xưng của tác giả sách này: Khán Trị</i>) được mời đến đó giảng Phật
Pháp kết dun. Hơm đó có một bà lão cùng một người nam trong tay bưng một khung
kiếng đi đến Tín Nghĩa Đường, trên mặt hai người lộ nét rất vui vẻ, ở trước Phật, năm
vóc sát đất, rất là cung kính dập đầu ba lạy, tơi nhìn thấy khơng khỏi hiếu kỳ liền đến hỏi
bà lão: “Các vị tin Phật lễ bái thành khẩn như thế, khơng biết là nhân dun gì?”. Lúc đó
bà lão lập tức trả lời rằng: “Tơi đến để đáp tạ Phật, Bồ Tát đã phò hộ”. Tơi tìm cho bà ta
một chỗ ngồi, thế là bà từ từ nói ra một đoạn nhân duyên tin Phật như sau:



“Vào trung tuần tháng rồi, có một đêm tơi nằm mộng thấy răng của tơi tồn bộ rụng hết.
Trời sáng thức dậy suy nghĩ đây là một điềm báo trước không tốt lành, tôi liền đem việc
chiêm bao khơng tốt lành này nói với em dâu Cẩm Tỉ, cô ta dạy tôi quỳ trước Phật, nhứt
tâm niệm Phật, khẩn cầu Phật Tổ phò hộ cho cả nhà bình an, gặp dữ hóa lành, nạn lớn
biến thành nhỏ, nạn nhỏ biến thành không”. Bà lão nói một mạch đoạn nguyên nhân
trước này, dừng lại một chút lại nói tiếp: “Tơi có đứa con lớn tên là Thành, làm công
nhân đốt than trong vùng núi sâu ở miền Trung. Sáng hơm đó nó đang cơng tác nổi lửa
đốt củi, thì bên tai bỗng nghe có người gọi: “Thành à! Về nào!”. Nó quay nhìn xung
quanh, hồn tồn khơng thấy ai, tại sao lại có tiếng kêu? Lại chạy ra bên ngồi nhìn xem
cũng chẳng thấy người nào gọi nó, nhưng khi nó đi lại vào trong nhà, thì bên tai lại nghe
tiếng gọi: “Thành à! Về nào!”. Lúc đó anh Thành cảm thấy rất kinh ngạc, liền nghĩ đến
bà mẹ già hơn bảy mươi tuổi ở nhà, có phải đã xảy ra chuyện gì ngồi ý muốn rồi khơng?
Lập tức đến ông chủ xin nghỉ phép, kiên quyết sửa soạn hành trang về nhà thăm. Khi anh
Thành vai mang quần áo, mền bông rời khỏi nơi đốt than khoảng hơn một trăm bước, thì
bỗng nhiên nghe “bình” một tiếng thật to, quay đầu nhìn lại xem thử, thì chính là cái gian
nhà của anh ta ở đốt than vừa bị sập xuống, anh Thành lúc đó thở phào ra một hơi, mừng
rỡ đã thoát khỏi tai nạn bị đè chết, trong lòng rất là an ủi, sau đó anh vẫn cứ vai mang
hành lý lên đường về nhà.


</div>
<span class='text_page_counter'>(66)</span><div class='page_container' data-page=66>

nhiên là những hành lý v.v… đã bị nước cuốn trôi mất, đơn độc một thân, rốt cuộc được
bình an vơ sự về đến nhà”. Trên đây là câu chuyện thật, không thể nghĩ bàn như thế, do
bà lão đó kể lại, nhờ mẹ già nhứt tâm niệm Phật mà cảm ứng được người con tiêu tai
thoát nạn nguy hiểm hai lần.


<b>5. CHỊ LẠY PHẬT, EM TRAI ĐƯỢC NHỜ PHƯỚC </b>


Phật và Bồ Tát là thầy tốt, là phước điền của chúng sanh. Vị liên hữu Lý Thủy Cẩm, cũng
là một vị thiện hữu tri thức, gieo rắc hạt giống Bồ Đề. Bà mỗi lần mời hẹn các nhân viên
hoằng pháp của Liên Xã ở Đài Trung, ngày giờ đã định xong, liền về nhà trước đi tuyên


truyền khắp các nơi ở trên núi, già trẻ trai gái không ai khơng đến niệm Phật, nghe pháp.
Gieo giống thì nhất định sẽ nảy mầm; có niệm Phật thì nhất định có cảm ứng. Vào
khoảng tháng 5 năm trước, có một hơm vị liên hữu Thủy Cẩm nói với tơi: “Trong xóm
nhà của mẹ tơi có một bé gái mười tuổi, rất là thơng minh và có căn lành, cô ta lần nào
cũng đến tham gia nghe các vị giảng về Phật pháp, cảm thấy rất là hay, bèn phát tâm
hàng ngày niệm A Di Đà Phật. Do vì trong nhà cơ ta chưa có lập bàn thờ Phật cho nên
sáng tối đều đến nhà bên cạnh có bàn thờ Phật để nhờ lạy Phật”.


</div>
<span class='text_page_counter'>(67)</span><div class='page_container' data-page=67>

gì, con từ nay về sau khơng thể tiếp tục lạy Phật, niệm Phật được nữa, những người hàng
xóm đây cũng khơng dám tin Phật nữa!”. Lúc đó cha của đứa bé sực nhớ lại thằng bé bốn
tuổi này sau khi sanh, đã từng có đi xem quẻ bát tự (bát tự hà lạc) liền tìm trong tủ lấy ra
tờ giải về số mạng của thằng bé đưa cho mọi người xem. Quả nhiên trong quẻ giải viết rất
rõ ràng vào năm đó tháng đó (vừa khéo chỉ đúng vào tháng này năm này!) sẽ xảy ra tai
họa bất ngờ! Thế là mọi người nhìn nhau nhưng rồi cũng không ai biết làm thế nào!
Nguyên thằng bé bốn tuổi này, từ lúc sáng sớm, tự mình chạy ra khỏi nhà, cũng không
biết là thuận theo đường sắt dọc biển, hay là từ đường đó chạy đi thẳng một mạch đến
hơn 5 giờ chiều. Ở gần trạm xe Vương Điền có một anh sinh viên trẻ trơng thấy nó một
mình cắm đầu chạy trên đường sắt, anh sinh viên trẻ đó liền kêu: “Em bé! Em bé! Ở đó
nguy hiểm lắm, mau dừng lại đi!”. Thằng nhỏ cũng chẳng thèm quay đầu lại, cứ cắm đầu
chạy miết. Anh sinh viên tốt bụng này liền chạy thẳng tới trước ôm cứng thằng bé lại. Ai
có ngờ thằng nhỏ này, mắt trợn lên dữ dằn, há miệng cắn trên tay anh sinh viên một cái.
Anh này vẫn khơng giận nó, cố nén chịu đau, ôm thằng bé ép đưa đến trạm xe, giao cho
trưởng trạm giữ nó. Hỏi ở đâu, tên họ là gì cũng khơng biết nói, trưởng trạm sực nhớ đến
hồi sáng ở trạm xe Long Tỉnh có liên lạc điện thoại đến dặn chú ý ở trên núi Long Tỉnh
có một đứa bé bốn tuổi đi lạc, trưởng trạm xe Vương Điền liền gọi điện thoại cho trạm xe
Long Tỉnh mời người nhà của thằng bé đến nhận lãnh về.


Bà vợ của trưởng trạm thấy thằng bé toàn thân bụi bặm, bộ dạng đáng thương và rất đói,
liền dắt nó về nhà, trước tắm cho nó, lại lấy quần áo của con mình thay cho và cho nó ăn
hai chén cơm. Có lẽ chạy suốt ngày đường mệt quá, nên nuốt hai chén cơm xuống bụng


xong, liền lăn ra ngủ, bà vợ của trưởng trạm liền bế lên giường để nó ngủ yên.


Người ở trạm xe Long Tỉnh lập tức cho cha mẹ nó hay, nhanh chóng đi nhận về. Từ nhà
của trưởng trạm xe Vương Điền đem nó về, lúc đó đã 11 giờ đêm. Mặc dù đã nửa đêm,
nhưng những bà con già trẻ lớn bé ở vùng đó đều đến thăm nó. Thằng bé này đã được bà
vợ tốt bụng của trưởng trạm dùng xà bông thơm tắm cho toàn thân thơm phức, lại mặc
cho bộ đồ đẹp nữa, mọi người ai nấy đều nói: “Hơm nay thằng bé được bình n về nhà,
chính là nhờ phước phần của chị nó lạy Phật. Thật là tin Phật, niệm Phật có cảm ứng
vậy!”. Nếu khơng thế thì thằng bé này từ Long Tỉnh đến Vương Điền chạy suốt một ngày
trên đường sắt dọc biển lại khơng gặp việc gì bất trắc ngồi ý muốn… Đồng thời lại còn
gặp được người tốt giúp đỡ, gặp được sự thương yêu giúp đỡ của anh sinh viên và bà vợ
tốt bụng của ông trưởng trạm xe. Đây nếu khơng phải Phật, Bồ Tát phị hộ thì làm sao có
thể về nhà bình n vơ sự như thế?


<b>6. PHẬT VỐN LÀ Y VƯƠNG CÓ THỂ TRỊ DỨT CÁC CHỨNG BỆNH</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(68)</span><div class='page_container' data-page=68>

sao có thể có được cảm ứng như thế?”. Nhưng phải biết Phật Pháp vốn bình đẳng, khơng
có cao thấp, người già lớn niệm Phật cũng có cảnh giới bất tư nghì. Tôi một lần nữa kể ra
một chuyện thật để chứng minh:


Mẹ của liên hữu Lý Thủy Cẩm là một vị thọ Bồ Tát giới ở thư viện Từ Quang vào ngày
10 tháng 6 năm Dân Quốc thứ 49, mọi người đều gọi bà là lão Bồ Tát. Bốn năm trước lúc
bà 80 tuổi, ở dưới vú bên phải bỗng nhiên nổi lên một cục thịt to bằng cái chén trung.
Theo bác sĩ chẩn đoán là ung thư gan, đã rất nguy kịch, hết phương cứu chữa, chẳng
những dùng thuốc không hiệu quả, mổ lại càng không được, chỉ có để bà muốn ăn gì thì
cố mua cho bà ăn, thế là tốt rồi! Tây y, Đông y đều nói như thế, khơng kê thuốc cũng
khơng chích thuốc, châm cứu gì


cả! Cứ như thế nằm trên giường bệnh đau đớn triền miên suốt 6 tháng, nhờ vào đứa con
trai tên là Nghĩa, là một cư sĩ và người con dâu chăm sóc phục dịch kề bên; con gái là


Thủy Cẩm cũng về nhà chuẩn bị hậu sự (đám tang). Nhưng trong 6 tháng, lão Bồ Tát mỗi
ngày hai thời sáng tối, bất luận thế nào đều nhất định đứng dậy lạy Phật, dầu là đang
trong cơn bệnh khổ, nằm trên giường bệnh, miệng cũng không rời Thánh hiệu A Di Đà
Phật. Vào khoảng đầu tuần tháng Tám (từ mồng 1 đến mồng 10) bệnh trạng đã rất trầm
trọng, thân thể không thể cử động được, miệng khơng nói được! Một đêm kia, lúc bệnh
trạng đang rất nguy cấp bỗng nhiên thấy bà nói lẩm bẩm: “A Di Đà Phật, Quán Thế Âm
Bồ Tát … các ngài viết chi nhiều chữ như thế, con một chữ cũng không biết! Các ngài
sao khơng nói thẳng với con có tốt hơn khơng?”. Ngưng lại một chút, lão Bồ Tát lại nói
tiếp: “Cảm ơn lòng từ bi của Phật rất nhiều, các ngài 10 giờ tối mai sẽ đến giải phẫu cho
con cắt bỏ đi cục thịt ở dưới ngực bên phải này, A Di Đà Phật, Quán Thế Âm Bồ Tát, các
ngài thật là từ bi quá!”. Những lời này đều là vợ chồng A Nghĩa và vị liên hữu Thủy Cẩm
tự tai nghe được, nhưng lúc đó lại cho là người già trước lúc lâm chung, tinh thần rối loạn
nói lung tung vậy thơi! Nhưng đến sáng lão Bồ Tát liền kêu con, cháu đi chuẩn bị hương
hoa quả phẩm, đặt một cái bàn thờ trong phòng để tiếp đón Phật Bồ Tát đến trị bệnh. Thật
là không thể nghĩ bàn, vừa đợi đến 10 giờ, liền nghe tiếng khua của dao kéo… Đột nhiên
nghe một tiếng “sựt”, cục thịt ở dưới ngực bên phải đó bỗng bị cắt rời ra, máu chảy ra
đen như than, từng giọt từng giọt to bằng ngón tay cái, chảy ra rất nhiều. Từ đêm đó trở
đi, sức khỏe của bà mạnh khỏe dần dần, miệng của vết thương nơi cắt cục thịt, nhờ con
dâu hằng ngày dùng nước trà rửa, rửa không đến một tháng, không cần thuốc gì mà khỏi
bệnh.


</div>
<span class='text_page_counter'>(69)</span><div class='page_container' data-page=69>

<b>7. TRỢ GIÚP CHO CHA VÃNG SANH TÂY PHƯƠNG THẬT LÀ ĐẠI HIẾU! </b>
<i>Ban trợ niệm của Liên Xã ở Đài Trung khởi đầu là do một tay của lão cư sĩ Giang Ấn </i>
<i>Thủy tổ chức dựng nên, cho nên mọi người cử ông làm trưởng ban trợ niệm, chuyên phụ </i>
<i>trách niệm cho người lâm chung được vãng sanh Tây phương. Mọi người đều quen tôn </i>
<i>xưng lão cư sĩ là Giang tiên sinh. Lúc ơng 71 tuổi cịn kiêm nhiệm chức giáo sư lịch sử ở </i>
<i>Học Uyển chùa Linh Sơn, ơng gánh vác mọi việc vì người, rất tận tình, khơng từ khó </i>
<i>nhọc. Khơng may vào hạ tuần (khoảng 20 đến 30) tháng 8 năm Dân Quốc thứ 48, ông </i>
<i>bỗng bị chứng bệnh suyễn mệt tim, Đông Tây y đều không hiệu quả, đến khi bệnh q </i>
<i>nguy kịch, có một hơm vào lúc 7 giờ sáng, con trai của ông là Giang Trọng Phan Quân </i>


<i>(dạy học tư gia trong thành phố Đài Trung), đến nhà tơi nói với tơi: “Sư cơ Khán Trị! </i>
<i>Hơm qua bác sĩ nói cha tơi sống tối đa thêm bảy ngày nữa thì lìa đời, kêu tơi phải lo </i>
<i>chuẩn bị hậu sự, không biết nên làm thế nào đây?”. Tơi vốn biết Trọng Phan Qn lúc </i>
<i>bình thường là đứa con rất hiếu thuận, liền hỏi anh ta: “Từ lúc cha anh bệnh đến nay, </i>
<i>anh đã tốn hết bao nhiêu tiền cho cha anh rồi?”. Anh ta nói khoảng hơn năm mươi ngàn </i>
<i>đồng. Tơi nói: “Nếu theo pháp thế gian mà nói, như thế đã hết sức vì người rồi. Nhưng </i>
<i>tốn nhiều tiền như thế đối với cha anh mà nói lại khơng có ích gì cả, chỉ có thể làm tăng </i>
<i>thêm đau khổ cho thân xác! Tơi nghe nói anh mấy tháng nay không nhớ đến thay đổi y </i>
<i>phục, ngày đêm chỉ lo hầu hạ thuốc thang, có thể nói anh là một người con có hiếu trong</i>
<i>đời, nhưng như thế cũng chưa thể gọi là lòng hiếu chơn chánh!”. Trọng Phan Qn nghe</i>
<i>xong lấy làm lạ khơng biết gì, lặng lẽ nhìn tơi, tơi liền vì anh ta mà giải thích: “Theo lý </i>
<i>nhà Phật nói, anh phải làm cho cha anh tâm được an, chết có chỗ về (tâm hữu sở an, tử </i>
<i>hữu sở quy). Anh nếu thật có lòng hiếu, ắt phải về nhà ở bên cha mà niệm Phật, bắt đầu </i>
<i>hôm nay niệm 7 ngày, tâm của cha anh chắc chắn sẽ vô cùng vui vẻ, khiến cho ông ra đi </i>
<i>được nhẹ nhàng, vãng sanh về cõi Phật, như thế mới là đại hiếu chơn chánh. Hiếu hạnh </i>
<i>chung chung của người thế gian chỉ là cung cấp những sự hưởng thụ trong cuộc sống </i>
<i>của cha mẹ vào lúc tuổi già, sau khi chết thần thức đọa lạc vào đâu lại không cần biết, </i>
<i>đây chỉ là hiếu về vật chất, cho nên không thể nói là đại hiếu”. Giang Quân nghe xong </i>
<i>rất vui mừng tiếp nhận đề nghị của tôi, tôi bèn chỉ cho anh phương pháp niệm Phật, hy </i>
<i>vọng anh ta mỗi lần niệm một giờ cho đến hai giờ, cần chí tâm thành khẩn, mỗi câu phải </i>
<i>rõ ràng, mới có hiệu quả.</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(70)</span><div class='page_container' data-page=70>

Giang và vợ chồng của Trọng Phan cho đến con gái, con rể tổng cộng 7 người, đều cùng
niệm Phật, niệm khoảng 30 phút, bỗng nhiên Giang lão cư sĩ tự mình ngồi dậy, hai tay
chấp lại, hai chân ngồi kiết già, hai mắt mở to, nét mặt vui tươi, lúc nằm xuống lại, an
tường vãng sanh trong tiếng Phật hiệu A Di Đà. Trong khoảnh sát na hiện ra kỳ tích
khơng thể nghĩ bàn như thế, thật tình mà nói, tơi lúc đó cũng giật mình!


Cả nhà con cháu của Giang lão cư sĩ do tôi hướng dẫn phân ban trợ niệm, niệm đến trời
sáng đã qua 8 giờ đồng hồ, thử sờ trên đỉnh còn rất ấm, thân thể vẫn mềm mại như bơng,


nghi dung cịn tươi tốt, trang nghiêm hơn cả lúc cịn sống.


Tơi liền hỏi Trọng Phan Quân: “Anh hôm qua khi về nhà, có niệm Phật cho cha anh nghe
khơng?”. Giang Qn liền nói: “Có! Có. Tơi từ nhà bà cơ về, liền ngồi bên cạnh cha mà
niệm Phật. Lần đầu niệm được hai tiếng đồng hồ, buổi chiều được hai tiếng nữa, cha tôi
vô cùng hoan hỉ, gọi tôi là con ngoan và hỏi ai dạy tôi niệm Phật? Làm sao hơm nay có
thể niệm Phật được nhiều như thế? Tơi liền trả lời: “Ba! Đó là tự con phát tâm niệm Phật,
con từ nay trở đi phải niệm Phật hàng ngày, cầu nguyện cho ba sớm được khỏe mạnh”.
Cha tơi nghe xong rất hài lịng, vui vẻ, buổi trưa liền ăn một chén cháo, nửa dĩa rau xanh,
đau đớn hầu như bớt phân nửa. Bác sĩ nói có thể sống thêm 7 ngày nữa mới chết, khơng
ngờ có mấy tiếng đồng hồ sau linh giác lại an tường vãng sanh trong tiếng niệm Phật, thật
là Phật Pháp vô biên, không thể nghĩ bàn.


Lão cư sĩ Giang Ấn Thủy là người vãng sanh vào tháng 2 năm Dân Quốc thứ 49. Vào
khoảng tháng 6 tôi đi bộ vô ý bị té gãy cánh tay rất nặng, xương gãy làm ba khúc, đêm đó
đau đến nỗi không thể ngủ, đến 2 giờ khuya vẫn không thể nhắm mắt. Tơi liền lẩm bẩm
nói với cánh tay bị đau rằng: “Mi là thứ đồ giả! Cái túi da hôi thối sống đã mấy chục
năm! Đau là do mi đau, vì mi là mi, ta là ta. Ta cần đi Tây phương, khơng liên can gì tới
mi!”. Tôi liền một mực quán tưởng đến Phật, trong lúc nửa tỉnh nửa thức, bỗng thấy một
người từ trong hư không đáp xuống, đi thẳng đến trước mặt tôi, ông ta mặc áo vải màu
xám, thân thể to lớn, gương mặt cũng to, chỉ thấy phân nửa thân trên còn phân nửa thân
dưới bị mây màu che khuất. Người này đột nhiên gọi tôi: “Chị Khán Trị! Tay của chị đau
lắm hả? Đây là thời vận không tốt nhưng tai nạn đã qua rồi, không sao đâu!”. Tôi vừa
nghe tiếng liền ngẩng đầu lên xem lần nữa, rất giống Giang tiên sinh, tôi liền hỏi: “Giang
tiên sinh! Ơng có vãng sanh khơng?”. Ơng ta trả lời liên tiếp: “Có! Có!…” rồi xoay mình
biến mất. Lúc tôi mở mắt ra xem là đúng 3 giờ, tay cũng khơng cịn đau nữa, khơng đầy
mấy ngày liền khỏi. Đây là lần thứ nhất tơi nhìn thấy người vãng sanh, có bút mực thế
nào cũng khó mà diễn tả hết cái tướng trang nghiêm tốt đẹp đó được!


</div>
<span class='text_page_counter'>(71)</span><div class='page_container' data-page=71>

đều chỉ hỏi ơng ta có vãng sanh khơng? Tại sao khơng hỏi: “Khán Trị tơi đây có thể được


vãng sanh khơng? Phải đến ngày nào mới được vãng sanh?”.


<b>8. VỐN ĐẾN ĐÒI NỢ, NIỆM PHẬT ĐƯỢC GIẢI OAN </b>


Nhớ lại vào đầu tuần tháng 2 mười năm trước, Ái cơ nương, trụ trì của chùa Đại Nhã
Long Thiện, gặp tôi ở trạm xe cục Cơng lộ, bèn nói với tơi rằng: “Chị Khán Trị, ngày 19
tháng 2 là ngày khai pháp hội của chùa tơi, tín chúng đều muốn nghe chị giảng Phật
Pháp, xin mời chị phát tâm đến”. Tôi liền nhận lời. Ngày ước định đến liền đi, lại còn
mang theo rất nhiều “vơ thượng chí bảo” và những sách về pháp mơn Tịnh độ, hơm đó
sau khi giảng xong, phân phát cho các thính chúng để kết dun. (Vơ thượng chí bảo là
một loại như tấm thiếp xếp bỏ túi, in hình Tây phương Tam Thánh và những phương
pháp giản tiện về niệm Phật)


Tháng 2 năm sau lúc tôi đả thất tại chùa Linh Sơn ở Đài Trung, hơm đó là ngày sư tỷ Huệ
Phồn hộ thất; khoảng hơn 3 giờ chiều, tôi đang niệm Phật trong Niệm Phật đường, sư tỷ
Huệ Phồn đi vào nhè nhẹ kéo áo tràng tôi một cái, tôi liền đi theo Huệ Phồn ra ngồi xem
coi chuyện gì, chỉ thấy một người đàn bà ở dưới quê, hoàn tồn khơng quen biết, khoảng
hơn 50 tuổi, đang đứng ngồi sân. Tơi liền hỏi: “Bà ở đâu kêu tơi có việc gì?”. Bà ta nói:
“Ơng nhà tơi kêu tơi kiếm bà, gặp mặt bà để nói lời tạ ơn bà. Tôi từ sáng sớm vào thành,
ở trong thành hỏi thăm khắp hết: “Sư tỷ Khán Trị ở đâu?”, trong đó có người chỉ, nói bà
ở trong Liên Xã. Đến Liên Xã, người trong Liên Xã nói bà đang ở chùa Linh Sơn cho nên
tơi tìm đến đây, muốn nói một chuyện để bà biết, cũng là báo đáp cái ân của bà”. Tôi
nghe xong lấy làm lạ, thật chẳng biết ất giáp gì cả! Xem ra chuyện này khơng thể nói hai
ba lời mà xong được, vả lại quy củ Phật thất ở chùa Linh Sơn rất nghiêm, ở sân chùa
khơng được nói chuyện, tơi liền dẫn bà ta cùng ra phía ngồi tường, để tiện hỏi cho rõ,
lúc đó Huệ Phồn cũng đi theo.


</div>
<span class='text_page_counter'>(72)</span><div class='page_container' data-page=72>

Tôi hỏi bà ta: “Trong nhà bà có mấy người?”. Bà nói: “Ơng nhà tơi ngồi tơi là vợ chính
ra, cịn có một người vợ lẽ, cùng với con tôi tổng cộng bốn người. Vì bệnh của con,
chúng tơi ba người già đều phải hết sức trơng nom nó, hy vọng nó mau lành bệnh, một


lịng ni con phịng lúc tuổi già, hy vọng ba người già chúng tơi có chỗ nương tựa.
Nhưng đến cuối năm ngoái, đầu tuần tháng chạp âm lịch, Phúc Hưng bỗng nhiên mời ba
người già chúng tơi đến bên giường, nói rằng: “Ba và hai má! Con trưa hôm nay sẽ vãng
sanh Tây phương Cực Lạc thế giới, ba má đều già, nhất thiết chớ quá đau buồn, than thở
tuổi già không con, anh cả của con đi qua Nhật mười mấy năm bặt vơ âm tín, nhưng ba
má khơng cần phải lo, hiện nay anh ấy đã lập nghiệp, thành gia thất, lấy vợ sinh con ở
Nhật Bản rồi, anh ấy vào đầu tuần tháng 2 sẽ có thư về hỏi thăm, về sau sẽ qua qua lại lại
giữa Đài Loan và Nhật Bản, cảnh già của ba má khơng đến nỗi cơ quạnh đâu!”.


Ơng nhà tơi nghe xong những lời như thế, liền khóc mà nói với con rằng: “Sức khỏe con
gần đây đã đỡ hơn trước nhiều rồi mà, con không được bỏ ba má. Con nên cầu Phật A Di
Đà phò hộ cho con đi”. Lúc đó Phúc Hưng con chúng tơi lại nói: “Con vốn là đến đây để
đòi nợ, ba má ba người trong đời quá khứ đã kết oán cừu với con rất sâu, thiếu nợ của
con rất nhiều, đời này đến làm con của ba má, từ lúc sanh cho đến khi tốt nghiệp đại học,
rồi bị cái bệnh lao phổi ác ôn này, thuốc thang suốt ba năm, đến nay nợ vẫn chưa hết, con
vốn muốn chờ đến sau khi bán tiêu căn nhà này đi khiến cho ba má ba người già nghèo
cùng khốn khổ, khơng có chỗ nương thân, sống khổ như chết. Nhưng năm nay nhờ gắng
sức nhất tâm niệm Phật, nên đã tiêu diệt được tội nghiệp nhiều đời, sắp vãng sanh Tây
phương Cực Lạc thế giới. Từ nay bốn người chúng ta khơng cịn ốn cừu gì nữa, oán cừu
đã được cởi mở hết rồi. Ba má ba người cũng phải chí tâm niệm A Di Đà Phật cầu sanh
Tây phương, về sau chúng ta sẽ có thể ở chung một chỗ mãi mãi, khơng cịn chia lìa nữa.
Mong rằng ba má nhờ kỹ lời con! Thôi thời gian đã đến rồi, đem giùm quyển “Vơ


Thượng Chí Bảo” lại cho con, khơng được khóc, cũng không nên động đến thân con, ba
má ba người nên quay lưng lại, khơng nên nhìn con, con cũng sẽ tự niệm Phật”


</div>
<span class='text_page_counter'>(73)</span><div class='page_container' data-page=73>

Trị. Cái ân tình này nhất định cần tơi phải đến Đài Trung tìm sư tỷ Khán Trị, gặp mặt sư
tỷ để nói ra việc cảm ứng đặc biệt này cho sư tỷ biết, cũng là để sư tỷ hoan hỷ! Đây chính
là chúng tơi muốn báo đáp ân tình của sư tỷ, nên tôi từ sáng sớm đến bây giờ mới tìm ra
được sư tỷ đấy!”. Sau khi nói những lời cám ơn liền muốn đi về. Lúc đó tơi liền hỏi bà:


“Nhà bà ở đâu? Chồng của bà tên họ là gì?”. Bà ta nói: “Tơi ở số 13 giáp, đường Đại
Nhã, chồng tôi tên là Lại Tuấn, con tên là Lại Phúc Hưng”. Lúc đó sư tỷ Huệ Phồn ở kế
bên, nghe từ đầu đến đây bỗng nhiên nói với bà ta: “Thì ra cơ là em dâu Tuấn, tôi là chị
của ông Tuấn, do vì nhiều năm khơng có qua lại, thật có lỗi! Xin mời đến nhà tôi dùng trà
đi”. Bà ta nói cám ơn xong liền bỏ đi. Lúc đó mặt trời đã lặn về phía Tây, hơn 5 giờ rồi.
Ba người chúng tơi đứng ngồi tường chùa Linh Sơn, lâu hơn hai tiếng đồng hồ.


Hai câu chuyện vãng sanh ghi đúng sự thật ở trên đều có thể chứng minh đích thực có
Phật A Di Đà, đích thực có thế giới Cực Lạc ở Tây phương; niệm A Di Đà Phật đích thực
có thể giải được ốn kết, tiêu diệt được oán thù trong nhiều đời nhiều kiếp. Căn cứ theo
Đức Phật Thích Ca trong Kinh A Di Đà có nói: “Chúng sanh trong cõi đó, thường vào lúc
sáng sớm đều lấy đãy đựng hoa tốt đem cúng dường mười muôn ức Đức Phật ở phương
khác, đến giờ ăn liền trở về bổn quốc…”. Đây là Đức Phật nói về chúng sanh ở Tây
phương, sau khi vãng sanh về đó liền có được thần túc thơng. Cịn căn cứ theo kỳ tích của
Lại Phúc Hưng mà suy đoán, Lại Phúc Hưng lúc lâm chung đã phát sanh được tha tâm
thông, mặc dù không thể tìm ra chứng cứ trên kinh điển, nhưng sự thật là như thế. Các
độc giả thơng minh có thể giải thích dùm cho tơi khơng?


9. BỊ TAI NẠN GIAO THÔNG, NHỜ TIẾNG NIỆM PHẬT ĐƯỢC CẤP CỨU
Ở Đài Loan có câu tục ngữ: “Khơng có quỷ khơng làm cho chết người” thật là đúng. Mấy
năm gần đây, ở các nơi, tai nạn giao thông liên tiếp không ngừng, có lẽ là cơ hồn uổng tử
các nơi quấy phá, mắt phàm của chúng ta không thể thấy biết được. Tuy không thấy
được, nhưng nếu như biết trì một câu Thánh hiệu vạn đức hồng danh A Di Đà Phật thì có
thể khiến cho những ma quỷ đó bỏ đi ngay tức thời, lập tức được an nhiên vô sự. Độc giả
nếu như không tin thì mấy câu chuyện thật sau đây sẽ chứng minh:


</div>
<span class='text_page_counter'>(74)</span><div class='page_container' data-page=74>

đến đây ngừng một hồi, lại tiếp: “Rất đông người như thế, muốn đến kéo ta đi, nghe tiếng
niệm Phật của các con ta, đã chạy ra ngoài hết rồi, xe hơi cũng chạy luôn”. Không bao
lâu sư tỷ tỉnh táo lại hẳn, lúc tôi đến thăm thì trên đầu bà ta đã được bao lớp vải gạc và
may mười mấy mũi, bà kể việc bà thấy rất nhiều tà ma quỷ quái muốn ép bà lên xe. Tôi


khen ngợi công sức niệm Phật của bà là rất tốt. Nếu như là người khơng có tin Phật hoặc
khơng dụng cơng sức nhiều, thì thần thức khơng sáng suốt, thấy xe hơi có thể đi được,
liền vui mừng đi theo họ ngay, há chẳng đáng sợ ư? Thì ra anh lính trẻ cõng bà về nhà là
một liên hữu trong ban thanh niên của Liên Xã, đã nhiều năm nghe kinh với Bính Cơng
ân sư, do đó mọi người đều biết nhau, sư tỷ Ngọc nếu không gặp được anh ta, nhẫn đến
tự mình khơng được chánh niệm rõ ràng, chắc chắn khó hồi phục mạnh khỏe.


<b>10. XE HƯ, NIỆM PHẬT ĐƯỢC HIỆU LỰC </b>


Sư tỷ Hồng Khoan Châu là phó ban trưởng của ban Cửu Liên, là người từ bi, cũng là
trưởng ban của Ban 48 lời nguyện. Nhà sư tỷ ở đường Nguyên Tử thành phố Đài Trung,
là một gia đình theo Phật, rất là phát tâm Bồ Đề, lúc bình thường, thường khuyên mọi
người niệm A Di Đà Phật và thiện xảo phương tiện độ người. Hàng xóm có con nít hay bị
hoảng sợ, giựt mình khơng ngủ được, đều bồng lại nhờ sư tỷ gia trì chú Đại Bi, đứa trẻ
liền nhẹ nhàng thoải mái dễ ngủ. Vào khoảng 8 năm trước, một hôm tôi đến nhà sư tỷ
chơi, thấy một phụ nữ trẻ tay bồng một đứa bé, xin sư tỷ niệm chú Đại Bi cho cô ta, niệm
xong, sư tỷ cịn khun cơ ta rằng:“Lúc cơ bồng con cho bú, cũng phải thường niệm A Di
Đà Phật, con của cô sẽ được dễ nuôi. Thực ra lúc nào ở đâu cũng có thể niệm, lúc quét
nhà, lúc giặt đồ cho đến khi đi đường, một bước một tiếng đều có thể niệm A Di Đà Phật,
như thế trong nhà của cơ sẽ được bình an vơ sự”. Sư tỷ hỏi cơ ta: “Chồng của cơ làm
nghề gì?”. Cơ ta đáp: “Tài xế xe hàng”. Sư tỷ nghe vậy lại nói rất khẩn thiết nói rằng:
“Cơ về nhà nhất định phải chỉ cho chồng cô niệm A Di Đà Phật, nếu như lúc gặp tai nạn
hay nguy hiểm phải to tiếng niệm “Nam Mô A Di Đà Phật” thì có thể tiêu tai khỏi nạn”.
Người phụ nữ kia thế mà có căn lành, lại thơng minh, khi về nhà, đúng như lời sư tỷ dạy,
nói cho chồng nghe và chỉ cho chồng lúc lái xe phải niệm, lúc nguy cấp càng phải to
tiếng niệm hơn, chắc chắn có thể đổi nguy thành an.


</div>
<span class='text_page_counter'>(75)</span><div class='page_container' data-page=75>

dạy tôi lúc nguy hiểm hay lúc gặp tai nạn càng nên to tiếng niệm: “Nam Mô A Di Đà
Phật”. Đang lúc nói đến đó, thật là lạ lùng, trong tích tắc chiếc xe chở hàng tự nhiên bỗng
khởi động lại chạy về Đài Trung, tôi lập tức giật mình tỉnh giấc, thấy có một chiếc xe


khác cũng đang đậu ngủ, lúc đó cũng mới thức dậy, trời cịn chưa sáng, tơi liền lái xe về
nhà an nhiên vơ sự”


Anh tài xế đó lại nói: “Cư sĩ! Nhà của tôi muốn thỉnh an vị một tượng Phật để lễ bái,
khơng biết có được khơng?”. Sư tỷ rất vui nói: “Rất tốt! Rất tốt!”. Sư tỷ liền tặng cho anh
ta một bức Tây phương Tam Thánh của Hồng Kông in, chỉ cho anh ta về để khuôn kiếng
và chỉ cho anh ta phương pháp các thời khóa đơn giản sáng tối.


Vợ chồng tài xế cảm tạ rồi ra về. Đoạn cảm ứng bất khả tư nghì này là chính tai tơi nghe
được. Xin khun chư vị: Thân người khó được, ai có miệng đều nên niệm A Di Đà Phật,
một câu đại chú vương vạn đức hồng danh, đời này gặp được chớ nên bỏ qua!


<b>11. TO TIẾNG NIỆM PHẬT, ĐUỔI ĐƯỢC OAN HỒN </b>


Chí tâm niệm được một câu lục tự hồng danh, cũng có thể giải được ốn cừu của người
khác. Câu chuyện xảy ra vào tháng 4 năm Dân Quốc thứ 46, ở ngay cửa rạp hát Đơng
Bình ở khu trung tâm, có một chiếc xe tải lớn vì muốn tránh xe đạp mà tông thẳng vào
trong rạp hát Đơng Bình, ngã hai cây cột lớn ở hành lang gây ra tai họa tử thương sáu
người, trong đó có một người bị thương nặng chết liền là một bà cụ hơn sáu mươi tuổi, bà
ta mới từ Đài Bắc về đây hơm trước, do vì cãi nhau với đứa con trai mà bỏ nhà ra đi đến
nhà con gái ở Đài Trung đây. Con gái bà ta lại rất hiếu thuận với mẹ, khuyên bà không
cần phải về, đứa con rể cũng rất vui tiếp bà ở lâu lại Đài Trung.


Ngày hơm đó khoảng 5 giờ chiều, bà cụ này tắm, xong lại tắm cho đứa cháu gái nhỏ nhất,
sau đó cõng đứa cháu gái nhỏ đi ra ngoài chơi, đến dưới hành lang rạp hát Đơng Bình, tội
nghiệp cho bà ta bị xe đụng vào đầu chết liền, may mà đứa cháu gái đang cõng trên lưng
lại bình an vơ sự. Qua ngày sau, sau khi hỏa táng, lấy tro xương làm lễ vĩnh biệt ở nhà
con gái, mời được mấy vị đạo sĩ về làm lễ siêu bạt vong linh. Hôm đó đứa con trai của bà
cũng từ Đài Bắc vội vã đến, tay trái cầm gậy, tay phải cầm phướng, đi theo đạo sĩ khóc
thút tha thút thít làm người con hiếu nam. Đang lúc nghi lễ ồn ào, bỗng người con hiếu


nam, gậy và phướng đang cầm trong tay, một chân còn bên trong cửa, một chân ngồi
cửa đứng nghệch ra đó, khơng nhúc nhích gì, tròng mắt ngây ra hơi nhướng cao, trong
miệng thở khò khè, gương mặt xám đen.


</div>
<span class='text_page_counter'>(76)</span><div class='page_container' data-page=76>

như thế, sư tỷ Nguyệt Nga giựt mình hoảng sợ khơng tự chủ được, lớn tiếng la lên “Nam
mô A Di Đà Phật”, niệm Phật to tiếng như thế liên tục được hai phút, sau đó sư tỷ Nguyệt
Nga nói: “Nói thật tình nghe, lúc đó tơi to tiếng niệm Phật hết sức như thế thật tình là do
sợ, khơng nén được mà niệm ra, hồn tồn khơng phải do vì cứu người mà niệm. Nhưng
thật khơng thể nghĩ bàn, người con hiếu nam đang đứng ngây ra đó, nghe được tiếng
niệm Phật, sắc đen trên mặt dần dần tan đi, tay chân cũng hoạt động trở lại, trịng mắt hết
ngây dại, khơng bao lâu lại hồi phục như cũ, cây gậy trong tay trái, lá phướng bên tay
phải lại tiếp tục phất phơ đi theo đạo sĩ bình an vơ sự”


Qua ngày kế, người con hiếu nam đó muốn đem bài vị và tro xương của mẹ thỉnh về Đài
Bắc an táng, liền đến cảm tạ sư tỷ, anh ta nói: “Ngày hơm qua may mắn được sư tỷ niệm
A Di Đà Phật, nếu không thật không thể tưởng tượng được, tôi không biết niệm Phật có
lợi ích như thế”. Sư tỷ Nguyệt Nga nhân cơ hội khuyên anh ta: “Sau khi anh về nhà cần
phải niệm hàng ngày, thì có thể giải oan kết với mẹ anh, anh cũng có thể tiêu tai giải nạn,
tiền đồ rạng rỡ không lường”. Người con hiếu nam đó vừa nhận lời vừa cảm tạ mà về.
Qua ngày hôm sau nữa, sư tỷ Nguyệt Nga đem cái việc ghê sợ của ngày hôm kia kể cho
tôi nghe từ đầu đến cuối. Sư tỷ nói: “Tối hơm kia việc xong rồi, tơi vẫn cịn sợ đến nỗi
khơng dám vào nhà, ngồi một mình trên ghế ngồi cửa niệm Phật, niệm đến 11 giờ càng
nghĩ càng thấy kỳ lạ, cho dù bị cảm dịch (lúc bấy giờ đang có dịch cảm) cũng khơng thể
có cái lý chỉ hai phút mà khỏi được, khơng tránh khỏi phải mời bác sĩ chích thuốc, uống
thuốc mới có thể bình an”. Sư tỷ Nguyệt Nga là một người thơng minh, sư tỷ suy đốn có
lẽ là mẹ của người con hiếu nam kia, do vì cái chết thê thảm bất ngờ, oan hồn khơng tan,
ơm lịng hận con trai của bà đã gây gổ với bà, mới khiến bà đến Đài Trung gặp tai họa
thảm khốc này. Thế là lúc dẫn vong, liền đi đến con trai của bà tính nợ, oan hồn nẹp cứng
đầu cổ của con trai bà, làm cho anh ta gần như chết. Làm xong bà ta đi lại (hướng của sư
tỷ) sư tỷ vừa thấy liền niệm to “Nam mô A Di Đà Phật”. Ai ngờ sức đại từ bi, sức đại


thần thông của sáu chữ hồng danh này lại công hiệu lớn như thế, nhất là lúc đó sư tỷ sợ
đến niệm Phật hết sức, cũng có thể nói là nhất tâm bất loạn, cho nên mới có được hiệu
quả lớn như thế, đồng thời hồn quỷ nghe được Thánh hiệu, tâm oán hận đều được tiêu
trừ, cho nên mới thả tay ra.


Các vị! Chúng ta thử nghĩ xem, nếu như khuyên người học Phật, niệm Phật, mọi người
đều nói: “Khơng có tiền bố thí khơng dám tin Phật”. Những hạng người này sao mà
phước mỏng như thế? Bạn hãy xem sư tỷ Nguyệt Nga chỉ là niệm có mấy câu Phật hiệu,
khơng có hóa ra được đồng xu nào mà làm ra được cơng đức bố thí lớn, cứu được mạng
người còn hơn xây tháp bảy tầng. Sư tỷ Nguyệt Nga tánh tình hiền hậu, phẩm hạnh đoan
chánh, đã từng được bầu là người mẹ mẫu mực của thành phố Đài Trung, là một người
vợ hiền mẹ tốt, con cháu đầy nhà, gia đình rất là tốt đẹp.


<b>12. NIỆM PHẬT CÓ THỂ ĐỘ ĐƯỢC HUNG THẦN ÁC SÁT</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(77)</span><div class='page_container' data-page=77>

<i>thì sẽ chết”, những người tự cho mình là nhân vật tân tiến kia chẳng những khơng tin mà</i>
<i>cịn nói là mê tín, khơng phù hợp với trào lưu thời đại! Thế thì giới Phật giáo có nên, hay</i>
<i>khơng tin những việc “tương xung tương sát” này? Theo cách nhìn của tơi thì: Thà là tin</i>
<i>nó có, nhưng khơng a dua theo lễ bái, hoặc cầu họ che chở.</i>


Nếu như chí thành khẩn thiết niệm câu Thánh hiệu A Di Đà Phật, liền có thể gặp dữ hóa
lành, gặp quỷ mà được bình an vơ sự. Đầy đủ được diệu pháp cứu cánh này, hung thần ác
sát bị câu chú vương trong các chú chánh đại quang minh này, sợ đến nỗi chạy ra khỏi
chín tầng mây ln! Có lẽ một câu Thánh hiệu vạn đức hồng danh này hàng phục được cả
tâm ý của loài ác quỷ sát thần si mê không biết quay đầu hàng phục này, hàng phục một
cách tâm phục khẩu phục, được chuyển sanh về đường lành cũng không chừng, sau đây
xin dẫn ra ba câu chuyện thật để chứng minh:


Liên hữu Lý Chuẩn là phó ban trưởng ban Phương Quảng, ngụ ở đường Kiến Trung khu
Đông, thành phố Đài Trung, nhà của bà có phịng ốc dư cho tài xế chở hàng loại trung


mướn. Vợ anh tài xế đó tên A Châu, năm đó 31 tuổi. Vào buổi sáng ngày 20 tháng 12 âm
lịch năm rồi, đến một cửa hàng đồ ngoại đường Nam Kinh, muốn lấy y phục mới đặt đem
về. Lúc đó bỗng nghe tiếng trống nhạc ầm ĩ trên đường, có người lớn tiếng rằng: “Ngài
Tam Tạng Nghệ Các thỉnh kinh về rồi!”. Có người lại nói: “Vịng hoa, xe hoa nhiều
q!”. A Châu ở trong tiệm nghe như thế, khởi tâm hiếu kỳ ra xem thử, không ngờ chỉ
thấy tám người khiêng một cỗ quan tài to, A Châu liền rùng mình một cái, miệng cứ nói
suốt là đau đầu, ở ngực như có khối đá đè, liền bị hơn mê ngã xuống. Lúc đó người trong
tiệm đồ ngoại hết hồn, vội vàng kêu một chiếc xe ba bánh và phái một người hộ tống đưa
đi, ngang qua cửa bệnh viện Ngụy Bảo Thuận đường Phục Hưng thì xuống xe, đỡ bà ta
xuống, trước mời bác sĩ chích thuốc cho bà ta, sau đó đưa bà ta về nhà.


Vị liên hữu Lý Chuẩn nhìn thấy A Châu hơn mê bất tỉnh nhân sự, ngũ quan và móng tay
đều đen thâm, kinh sợ đến mức la to lên:“A Di Đà Phật đến cứu mạng!”. Lúc đó các cơng
nhân nhà kế bên của anh tài xế loại trung đó nghe tiếng người kêu la đều chạy lại, chỉ
thấy hai mắt của A Châu trắng dờ, toàn thân đều đen, hơn mê bất tỉnh, mọi người đều nói
khơng có hy vọng sống lại, có người gọi điện thoại đến miền Nam kêu chồng cơ ta về; có
người gọi điện thoại kêu má chồng của cô ta lại; chỉ có vị liên hữu Lý Chuẩn là trấn tĩnh,
cầm xâu chuỗi trên tay đặt lên ngực A Châu, miệng niệm “A Di Đà Phật”, “Quán Thế
Âm Bồ Tát ” không dứt, khẩn cầu Phật, Bồ Tát từ bi cứu giúp A Châu. Niệm được 20
phút, hai mắt và da thịt của A Châu dần hồi phục như cũ, miệng nói: “Sư cơ! Bà thật là
đại ân nhân cứu mạng tôi, tôi gần như bị đè đến muốn đứt hơi, đang lúc muôn phần đau
khổ, xâu chuỗi của bà để trên ngực của tôi, lại nghe được tiếng niệm A Di Đà Phật, sức
khỏe dần dần cảm thấy nhẹ nhàng trở lại. Cám ơn sư cô đã thi ân cứu giúp”.


</div>
<span class='text_page_counter'>(78)</span><div class='page_container' data-page=78>

không hiệu quả, rốt cuộc cũng qua đời. Nghe chuyện của người hàng xóm, mọi người đều
chúc mừng cho A Châu. Đây là chuyện trong tháng 2 năm nay, vị liên hữu Lý Chuẩn đến
Liên Xã, chính miệng nói với tơi.


<b>13. BÊN BỜ SỐNG CHẾT, ĐƯỢC CỨU SỐNG LẠI </b>



Gia đình Liên xã niệm Phật ở Đài Trung, tổng cộng có 48 ban, đều do lão ân sư Bính
Cơng tổ chức và đặt tên. Ban Song tu là một ban được lập hồi tháng 8 năm Dân quốc thứ
44, Ban trưởng Khâu Tâm Trí, Phó Ban trưởng Lâm Đức Kim, Lý Trần Trù v.v. đều là
những người rất nhiệt tâm khuyên người niệm Phật. 13 năm trở lại đây, cứ hai tuần giảng
Phật pháp một lần, chưa từng gián đoạn. Mỗi lần trước khi giảng có cư sĩ Triệu Đàm
Thuyên và phu nhân Lệ Lượng hướng dẫn khóa tụng, cho nên ban viên mọi người gần
như đều thuộc lòng kinh chú.


Ngày 20 tháng 4 âm lịch lần này lúc học nhơn (<i>lời khiêm xưng của bút giả Khán Trị</i>)
đang giảng “Khuyên tu pháp môn niệm Phật”, nhắc lại chuyện cảm ứng của vị Liên hữu
Lý Chuẩn cứu A Châu. Lúc đó, trong hội giảng có một vị liên hữu họ Tiêu tên Hiệp, nhà
ở đường Thái Bình, tức thời đứng dậy nói với mọi người: “Tơi có thể chứng minh đích
thật là có ma quan tài, do vì em gái tơi hồi hai tháng trước st nữa bị nó hại chết. Em gái
tơi tên là Tuyết ở làng Bán Bình Lịch, vào hai tháng trước, A Tuyết sau khi sanh hơn hai
mươi ngày còn chưa đủ tháng, sáng sớm hơm đó bỗng nghe một hồi chiêng trống của một
đội nhạc, bà mẹ chồng ở nhà kế bên, nhìn khơng rõ ràng, cứ mãi kêu: “Tuyết à, đi ra
nhanh xem đón thần, thật là vui nhộn quá!”. A Tuyết từ trong phịng ló đầu ra xem, thì ra
khơng phải đám rước thần, mà là đám tang khiêng một cỗ quan tài đi qua, tự dưng cảm
giác lông tóc dựng đứng, quay mình vào phịng, liền nghe đau đầu, ớn lạnh phát sốt, em
rể tôi liền mời bác sĩ chích thuốc, chẳng những khơng hiệu quả gì mà còn trầm trọng hơn.
A Tuyết liền kêu anh ta đi mượn xe hơi đến nhà tơi nhanh chóng chở tơi đến. Tơi vừa
nhìn thấy A Tuyết em tơi tim đập liên hồi, nằm trên giường rên rỉ, lập tức đứng lên thắp
ba nén hương cầu nguyện Phật, Bồ Tát gia hộ, lại cố sức niệm A Di Đà Phật và Quán Thế
Âm Bồ Tát. Niệm khoảng nửa giờ đồng hồ và niệm chú đại bi vào nước cho nó uống. Sau
khi A Tuyết uống nước chú đại bi liền nói đầu hết đau, tim cũng đập nhẹ lại nhiều, về sau
sức khỏe hồi phục dần dần.


</div>
<span class='text_page_counter'>(79)</span><div class='page_container' data-page=79>

thì đầu của bé Anh quay qua bên trái nhìn người; tiếng kêu bên phải “Anh à!”, thì đầu
của bé Anh quay qua bên phải nhìn người. Lúc đó mọi người đều khen ngợi bà chị vợ
thỉnh được Phật tổ lại cứu sống được bé Anh, về sau cho uống thuốc liền có hiệu nghiệm,


sức khỏe cũng hồi phục lại dần dần”.


Tiêu Hiệp nói đến đây, trong hội chúng mọi người đều nghe thấy, tôi liền hỏi cơ ta: “Cơ
đã biết sự lợi ích của việc niệm Phật, tại sao lại không dạy em gái cô xưng niệm danh
hiệu Phật, hai thời sớm tối để có thể ai ăn nấy no, tội nghiệp của người nào thì người đó
tự tiêu, tự mình biết niệm há chẳng lợi ích cịn lớn hơn sao?”. Tiêu Hiệp đáp: “Tơi đã có
dạy nó niệm, tơi cịn thỉnh Tây phương Tam Thánh về an vị cho nó rất trang nghiêm,
nhưng mà bốn đứa con nhỏ của nó cứ quấn lấy bên mình, khơng rảnh để nghe Phật pháp,
làm sao mà có thể niệm được như pháp đây? Tôi từ ba năm nay nghe bà giảng pháp môn
Tịnh độ không hề gián đoạn, hiện nay đi, đứng, ngồi, nằm tâm không rời Phật, Phật
không rời tâm, quyết định đời này thoát khỏi biển khổ sanh tử này”. Tôi nghe xong rất là
khen ngợi, nếu không phải cô ta dụng công em gái và cháu gái ngay nơi bờ vực sanh tử
được?


<b>14. NƠI Ở CỦA HUNG THẦN HÓA THÀNH TỐT LÀNH </b>


Từ xưa đến giờ trong nhà Phật có câu thành ngữ: “Một người con trì trai thì ngàn Phật
hoan hỉ, cửu huyền thất tổ được siêu sanh”. Câu này lại là sự thật. Một câu danh hiệu
Phật có thể tiêu tai giải ốn, nơi ở của hung thần hóa thành tốt lành. Các vị nếu không tin,
tôi xin đưa ra một việc để chứng minh.


Việc này xảy ra tại Tân Trúc Văn Nhã Bố giáo sở. Đây là một đạo tràng Tịnh độ tông ở
Đài Trung mà chúng tôi mở ra để các liên hữu trong liên xã hoằng pháp. Từ tháng 4 năm
Dân quốc thứ 44 sáng lập đến nay, cứ cách một tuần là giảng kinh một lần, chưa từng
gián đoạn. Trong hội chúng có một vị liên hữu nam, mọi người đều gọi là anh Kiềm. Có
một hơm anh Kiềm này nói với những nhân viên hoằng pháp rằng: “Pháp môn niệm Phật
thật là tốt, thật có thể lợi ích chúng sanh, chắc chắn có cảm ứng lớn”. Các nhân viên
hoằng pháp hỏi anh ta: “Anh niệm Phật được cảm ứng gì?”. Anh Kiềm liền nói: “Tổ tiên
nhà tơi có một phần mộ rất kỳ lạ, từ rất lâu đến nay không thể nào tảo mộ, cũng không
thể cúng tế được. Nếu như cúng tế thì sau khi cúng về, khơng bệnh thì cũng chết! Nếu


như có mục đồng dẫn trâu, dê ăn cỏ trên mộ hoặc là giẫm đạp trên mộ, mục đồng và trâu,
dê đó sau khi về nhà, người và vật khơng chết thì cũng bệnh nặng. Vì cớ này nên dân địa
phương đều không một ai dám chạm đến phần đất của ngôi mộ này”.


</div>
<span class='text_page_counter'>(80)</span><div class='page_container' data-page=80>

Các vị thử nghĩ xem việc này có đáng sợ hay khơng? Tơi tin rằng khơng có người nào
từng nghe qua việc quái dị như thế!


Đến sau khi nạn lụt “bát thất” năm Dân quốc 49, lại có một người anh họ đến nói với tôi:
“Ngày hôm qua tôi đi ngang qua cái nơi qi gở đó, nhìn thấy mộ bia bị nước cuốn ngã
đi, đầu mộ cũng bị nước xoáy một lỗ lớn, nếu như không sửa sang, mộ này nhất định sẽ
sụp tiêu đi, nếu sửa sang lại không dám động đến, do vì nếu như vừa động đến liền xẩy ra
đại họa! Làm sao bây giờ?”. Tơi liền nói: “Không sao đâu, chúng ta đi sửa sang đi!”.
Người anh họ đó vui mừng nói: “Chú biết cách sửa sang cứ làm đi, tất cả tiền công, cát
đá, xi măng đều do tôi lo liệu, nhưng mà chú chừng nào thì làm?”. Tơi nói “Đợi một
tháng nữa”.


Tơi từ khi nghe được pháp môn Tịnh độ, mấy năm nay hai thời khóa sáng tối chưa từng
gián đoạn. Từ lúc nhận lời chắc chắn sửa sang cái phần mộ kỳ lạ kia, hai thời khóa sáng
tối xong, tôi liền hồi hướng cho tổ tiên của phần mộ đó, đồng thời chí tâm, khẩn thiết cầu
xin Phật, Bồ Tát rằng: “Bạch Phật và Bồ Tát, xin phò hộ cho con, con sau khi biết tin
Phật, bạn bè thân thích đều nói con là mê tín, lạc hậu, con lần này nhất định muốn thỉnh
cầu Phật, Bồ Tát thi triển Phật pháp vô biên cho họ thấy, xin Phật, Bồ Tát phò hộ cho
con, sau khi sửa sang phần mộ, đừng có xảy ra những sự việc tai hại cho người và vật.”.
Tôi mỗi ngày sau khi xong hai thời khóa sáng tối, đều cầu nguyện như thế.


</div>
<span class='text_page_counter'>(81)</span><div class='page_container' data-page=81>

sang, rửa mộ bia đá cho sạch, nhìn xem tên khắc trên mặt bia tính ra chính là bà nội của
ơng nội tơi. Tơi và nhóm thợ từ đó đến giờ vẫn bình n vơ sự.


Chuyện kể đến đây, chắc có người vẫn nhất định không tin. Thọ mạng của quỷ làm sao
có dài như thế? Mời các vị xem trong kinh nói đây: “Đọa lạc vào cảnh giới quỷ, thọ mạng


ngắn nhất là năm trăm tuổi”. Mà một tháng ở nhơn gian thì chỉ bằng một ngày ở cảnh
giới quỷ thơi. Như thế tính ra thì biết thọ mạng của lồi quỷ vừa dài vừa khổ! Có người
vẫn cịn nghi hoặc: tại sao tổ tiên lại đi hại con cháu mình? Trong kinh Phật có nói:
“Chúng sanh ngã chấp ngã kiến, phải ở trong lục đạo đời đời kiếp kiếp. Ta, ngươi tranh
đoạt, ngươi giết ta, ta giết ngươi, cùng nhau gây tạo nhân quả, kết ân báo ân, kết ốn báo
ốn, địi nợ trả nợ, cứ như thế mãi không dứt!”. Tổ tiên của anh Kiềm cùng với cái quá
khứ của ngôi mộ quái lạ kia, chắc chắn là đã kết oán thù với nhau rất nặng, không cởi mở
được, cho nên mới hung ác hại người như thế, nếu như khơng có anh Kiềm chánh tín
niệm Phật, dùng sức đại từ đại bi của Phật, thì khơng cách gì tiêu giải được oán cừu này.
Do đây xin khuyên các vị cố gắng niệm “Nam mô A Di Đà Phật” nhiều lên.


<b>15. THUỐC A GIÀ ĐÀ TRỊ ĐƯỢC VẠN BỆNH</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(82)</span><div class='page_container' data-page=82>

chúng sanh có dun cũng được lợi ích, thì cơng đức của chị thật là vô lượng!”. Bà Trản
nghe xong, vui mừng nhận lời, nói: “Được! Vậy thì nhờ chị thỉnh dùm. Tiền xe hay tiền
máy bay đi lại, tôi chịu hết, nhưng chị cũng phải cùng đi tới chỗ tôi chơi mới được”.
Giao thông từ 14 năm về trước không tiện lợi như ngày nay, đi Đài Đông chỉ một ngày là
đến rồi. Lúc bấy giờ phải mất hai ngày, phải ngủ một đêm ở Cao Hùng. Cuối cùng một
đoàn ba nguời: bà Trản, bà Miến cùng với Pháp Viên. Khi ngủ lại phòng trọ ở Cao Hùng,
thì xảy ra việc linh cảm Phật, Bồ Tát phò hộ. Nguyên là trên chân của Pháp Viên có cái
mụt nhọt, đã từng trị liệu hơn một tháng, bị lầy rữa ra hai tấc, chung quanh không cịn
cảm giác đau nữa. Lúc bấy giờ vì nhiệt tình, quên đi cái mụt nhọt trên chân, nhưng đến
phịng trọ ở Cao Hùng, phát đau đến mức khơng chịu nổi, bà chủ phịng trọ nhìn thấy
chân của khách đau ghê gớm như thế, liền giới thiệu nói, ở vùng này có một loại thuốc
mỡ cỏ xanh tinh luyện rất hay, có thể trị được bệnh này, liền nhờ người mua hai hoàn.
Vừa thoa vào, thật là loại thuốc có cơng hiệu đặc biệt: hết đau, nuôi thịt, sanh da, ba phần
đều tốt, sáng hôm sau khỏi được phân nửa, ba ngày sau khỏi hẳn. Đây đều là sự linh cảm
của Phật, Bồ Tát từ bi đặc biệt gia hộ, thật là thuốc đến bệnh tiêu, nếu khơng thì đi khơng
được rồi.



<b>16. NƯỚC ĐẠI BI KHIẾN CHO THAI ĐÃ CHẾT SỐNG LẠI </b>


Pháp Viên giảng năm ngày tại chùa Hải Sơn ở Đài Đông. Ngày viên mãn, những người
nghe và người giảng sắp sửa chia tay, cái lúc lưu luyến không rời, bỗng nhiên có một bà
lão khoảng hơn sáu mươi tuổi đến, đưa ra một câu hỏi: “Những điều của cô giảng đều là
những đạo lý giải thoát sanh tử luân hồi, cho đến cải ác hướng thiện, thay đổi tâm tánh.
Nhưng bây giờ yêu cầu tiêu trừ bệnh hoạn, giải quyết những đau khổ, thì lại phải cầu
pháp như thế nào? Cơ có thể từ bi chỉ bày cho được không?”.


</div>
<span class='text_page_counter'>(83)</span><div class='page_container' data-page=83>

Ngày tháng như thoi đưa, thời gian như tên bay, thoáng một cái đã một năm trôi qua,
Lâm Trản ở Đài Đông lại đến Liên xã, lần này sắc mặt tươi rói vui vẻ, so với năm ngoái
như là hai người, bệnh chứng của bà ta đã dứt hẳn khơng cịn thấy tăm hơi gì nữa, trọng
lượng thân thể cũng tăng hơn mười kí, y phục tồn là đồ mới may, đồ cũ khơng cịn cái
nào mặc vừa nữa, bà ta nói với Pháp Viên rằng: “Thưa bậc nhân sĩ của Đài Đông, mọi
người đều yêu cầu tôi đến mời bà đến Đài Đông giảng diễn Phật pháp lần nữa, không
những tôi niệm Phật được cảm ứng, mà cịn bà Phổ Ái Cơ, trên cổ có mụt nhọt to, bà dạy
bà ta phương pháp niệm Phật và thời khóa tụng niệm, về sau lại xin nước Đại Bi chú
uống, bà ta ngày ngày đúng như pháp mà làm, cái mụt nhọt to của bà ta đã hết hẳn, cổ áo
cũng đã cài lại được rồi, ai thấy cũng đều khen là “kỳ diệu””


</div>
<span class='text_page_counter'>(84)</span><div class='page_container' data-page=84>

<b>17. TÉ XUỐNG LẦU BỊ THƯƠNG, QUA NGÀY SAU KHÔNG SAO </b>


Lần thứ hai đến Đài Đông, nơi khoảng đất trống lớn chùa Hải Sơn liên tiếp giảng năm
ngày, khuyên người niệm Phật sửa ác làm lành, những thiện tín phát tâm cả một vùng
miền Đơng đều đến ước hẹn đi kết pháp duyên, mỗi nơi đều ước định ba ngày. Năm ngày
ở Đài Đông viên mãn, liền đến Tân Cảng. Đoàn này do ba vị ở Đài Đơng phát Bồ đề tâm
lãnh đạo, đó chính là Hồng Lâm Trản, Trần Ngọc Phương và một vị lão Bồ Tát khác,
thêm vào hai vị: Pháp Viên và Huệ Lâm ở Đài Trung, tổng cộng là năm người, ngủ lại
trong một ngôi chùa kiểu Nhật thời kỳ Nhật chiếm cứ, địa thế, phong cảnh đều rất tốt,
phía sau hướng ra biển, chiều tối các thuyền đánh cá trở về thắp đèn nhấp nháy giống như


một bức tranh vẽ, cảnh sắc mê người, đến nay nhớ lại vẫn như ở trước mắt, ba ngày
hoằng pháp đều ở trong ngôi chùa này, Phật, Bồ Tát cũng ban cho một cảm ứng đặc biệt.
Sự việc là vào buổi sáng ngày thứ hai, có người đến chùa nói: “Có một bà tối qua đến
nghe Phật pháp về nhà, leo lên trên lầu liền bị té xuống, khắp mình đau nhức khó chịu,
kêu la cả đêm, khơng thể cử động, chỗ nào bị thương vơ phương chẩn đốn, xin nhờ các
vị tiêu trừ tai ách cho bà”. Pháp Viên nghe nói như tiếng sét giữa trời nắng, không biết
làm sao, đành phải cùng với vị sư đương gia ở chùa và Huệ Lâm, ba người đến nhà bà ta,
lên lầu liền nhìn thấy bà lão khoảng bảy mươi tuổi này đang nằm rên rỉ trên giường, rất là
tội nghiệp, Pháp Viên liền quỳ xuống trước tượng Phật của họ thờ một cách đơn giản,
dùng tâm chí thành khẩn thiết hướng lên Phật, Bồ Tát cầu nguyện rằng: “Vị lão tín nữ
này là người tối hôm qua đi nghe pháp về nhà té xuống lầu bị thương. Nếu như không
phải đến nghe Phật pháp thì đối với chúng tơi khơng can hệ gì, do vì chúng tơi thành tâm
thành ý đến đây khuyên người niệm Phật, sửa ác làm lành khiến cho người thốt khổ
được vui; khơng may xảy ra tai nạn ngồi ý muốn này, khiến cho tâm chúng tơi không
yên, bạch Đức Phật A Di Đà và Quán Thế Âm Bồ Tát, các ngài cũng phải chịu một phần
trách nhiệm, nhanh chóng biến hóa cứu giúp cho bà già này tức thời sức khỏe được hồi
phục mạnh khỏe, bình an vơ sự. Nếu khơng thì bà lão này nếu như bị chết thì khó tránh
khỏi người ta chê cười Phật pháp không linh!”. Sau khi khấn thầm như thế liền tụng một
phẩm Phổ Môn, niệm Thánh hiệu Quan Thế Âm Bồ Tát và gia trì một ly nước chú đại bi,
tự tay đưa cho bà ta uống, cũng dạy cho bà ta niệm Thánh hiệu Quán Thế Âm Bồ Tát.
Thật là Phật pháp vô biên không thể nghĩ bàn, đến trưa ngày hôm sau, sức khỏe của bà
lão này đã an nhiên vơ sự, tinh thần khoan khối có con dẫn đi, trong tay cầm một cây
gậy chống, đi bộ đến chùa lạy Phật và hướng về đại chúng nói lời cám ơn. Đây không
phải Phật, Bồ Tát gia bị, làm sao được hồi phục dễ dàng như thế! Đến bây giờ nhớ lại vẫn
còn cảm thấy mắc cười, lúc đó trong lịng của Pháp Viên hoảng loạn như đang có tang,
đau khổ khơng chịu nổi, vì là sợ hai chữ “Phật giáo” bị người hủy báng.


<b>18. BỒ TÁT GIA BỊ KHAI MỞ TRÍ TUỆ CHO TƠI </b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(85)</span><div class='page_container' data-page=85>

tập. Giảng đến ngày thứ hai, Phật, Bồ Tát lại hiển kỳ tích. Trưa hơm đó bỗng nhiên có


một vị cư sĩ nam ở tỉnh khác đợi tôi ở phịng khách, nói là muốn đàm luận Phật pháp, trao
đổi ý kiến. Vị cư sĩ đó trước tự giới thiệu tên họ và nói là quy y với một vị đại pháp sư
nào đó ở Đài Bắc, hiện nay thì chỉ chun nghiên cứu Thiền tơng. Nghe ơng ta nói như
nước chảy suốt hai mươi phút, thì đã biết ý định đến đây của ông ta, không phải đơn giản
có thể đối phó được!


Lúc đó trong tâm tôi khấn thầm đức Quán Thế Âm Bồ Tát gia bị khai mở trí tuệ cho tơi
để có thể ứng phó theo ý muốn, đối đáp trơi chảy, nếu khơng thì hơm nay bị xui xẻo rồi!
Vị đại đức đó thấy tơi dùng tiếng quốc ngữ lựng khựng, hỏi đâu đáp đó, gương mặt của
ơng ta hơi khẩn trương hỏi một câu: “Tối qua nghe bà giảng Tịnh độ tông, sau khi chết
thần thức vãng sanh về Tây phương. Thần thức nó ra làm sao, lấy ra đây cho tôi xem!”.
Tôi liền trả lời ông ta: “Câu ông vừa mới nóùi, nó ra làm sao, lấy ra đây cho tơi xem
coi!”. Lúc đó trong nhà khách một bầu khơng khí n tĩnh, bốn mắt nhìn nhau lặng n
khơng nói, tơi lại trả lời ơng ta một câu: “Nói cho rõ một chút, ông ban đêm nằm mộng
cái đó là thần thức”. Ông ta khựng lại một chút, rồi quay đầu mà đi. Tôi sợ ông ta xấu hổ
thành giận, lại tìm đến quấy rầy, bèn nói với vị trụ trì rằng: “Vị đại đức kia nếu lại đến
tìm tơi thì sư nói “bây giờ đang chuẩn bị giảng, xin lỗi!”, là được rồi”. Vị sư trụ trì nói
với tơi rằng: “Cái người đó rất là qi gở, có vị đại đức hay cư sĩ nào đến giảng Phật
pháp, hoặc giảng những sách thiện, ông ta đều đến vấn nạn mấy câu, khiến người ta
khơng thốt ra được, có người khơng cách gì ứng phó liền bỏ đi”.


Thật là ngồi dự liệu, ngày hơm sau, ơng ta đã cùng mười mấy người bạn nam ngồi hàng
phía trước nghe giảng một cách rất thành tâm thành ý. Sáng ngày hơm sau cịn đến nói:
“Thỉnh cư sĩ giảng thêm vài ngày nữa, ngày hôm kia tôi rất là bội phục trí huệ của bà, cho
nên đi tuyên truyền, khuyên được mười mấy người bạn đến nghe giảng, tối nay sẽ càng
tăng thêm số thính chúng”. Đến nay nhớ lại tình hình lúc đó vẫn cịn run, nếu không phải
Phật, Bồ Tát thầm gia bị cho, thì một Pháp Viên([1]) ngu ngốc từ nào, làm sao có được
tài năng đối đáp cùng vị đại đức tơng mơn đó?!


</div>
<span class='text_page_counter'>(86)</span><div class='page_container' data-page=86>

Có một hơm cư sĩ Ngọc Phương tay cầm chuỗi đến xưởng nước tương Nhựt Đông


khuyên người niệm Phật, người chủ của xưởng tên Hà Tằng Thanh, Hà phu nhân tên là
Quai, lúc đó nhà của ơng ta ở đường Nhân Ái (tên cũ là đường Thảo Lịch). Đài Đông 14
năm trước không giống như bây giờ: nhà lầu xi măng cốt thép mọc đầy. Lúc bấy giờ phần
lớn nhà vẫn còn làm bằng ván, cho nên xưởng nước tương Nhựt Đông cũng thế, cũng làm
bằng cây ván và lợp lá. Có một hơm cư sĩ Ngọc Phương tay cầm chuỗi lại đến nhà họ Hà
dạy A Quai niệm A Di Đà Phật, đang lúc nói chỗ hay của niệm A Di Đà Phật, bỗng nhiên
nghe tiếng người ầm ĩ hun náo ngồi đường, tiếng cịi hơi báo động vang lên rất khẩn
trương, có người la lớn: “Xưởng nước tương Nhựt Đông bị cháy”. Ngọc Phương và A
Quai quay đầu nhìn ra ngồi, xe cứu hỏa màu đỏ của cục Cảnh sát đã đậu ngoài cổng, lại
quay đầu nhìn ra phía sau, thì ra lửa phát lên nhà kế bên phía bên phải, đã lan đến cơng
xưởng phía sau của mình, đầy nhà khói bay mù mịt, hơm đó đang là ngày cơng xưởng
được nghỉ, người nhà và công nhân đều đã đi chơi bên ngồi, chỉ có mỗi mình Hà phu
nhân A Quai ở nhà.


Lúc bấy giờ cư sĩ Ngọc Phương và A Quai vừa thấy thế của lửa đã tràn vào nhà, đang lúc
nguy hiểm tột cùng đó, liền quỳ xuống đất chắp tay lại chí tâm niệm: “Nam mơ Ai Di Đà
Phật, Nam mô đại từ đại bi cứu khổ cứu nạn Quán Thế Âm Bồ Tát”. Niệm được chưa tới
năm phút, thật là “Năng phục tai phong hỏa. Phổ minh chiếu thế gian” (tức chỉ Quán Thế
Âm Bồ Tát ), liền tức thời nổi lên một trận gió Nam, thổi thế lửa đi thẳng hướng về phía
sau, năm ngơi nhà lá nhỏ phía sau lập tức bị đốt thành tro, may mắn là công xưởng nước
tương và cửa hàng của A Quai đều không việc gì, chỉ có lúc nhà kế bên mới phát hỏa
thiêu cháy mười mấy tấm ván vách chung với nhà kế bên thơi.


Nói đến đây, có lẽ có người sẽ hỏi: Quán Thế Âm Bồ Tát tại sao chỉ cứu người niệm
danh hiệu của Ngài, mà năm ngôi nhà lá khơng biết niệm Phật kia thì phó mặc cho lửa,
không ra tay cứu? Nên biết rằng lúc đó con đường Nhân Ái của các nhà lân cận là một
con đường nhỏ rất dài, nếu như nhà của A Quai bị lửa cháy, thế của lửa hướng về phía
Bắc thì sẽ lan ra hết con đường này và khi đã phát lửa rồi thì khơng thể thu dọn gì kịp,
như thế tổn thất khơng sao tính cho xuể, đồng thời năm ngơi nhà lá nhỏ kia cũng khơng
chắc được may mắn thốt khỏi. Thật là Phật, Bồ Tát phị hộ việc lớn hóa thành việc nhỏ,


việc nhỏ hóa thành khơng, cũng là may mắn gặp được thiện tri thức sư tỷ Ngọc Phương
từ bi, phước đức che chở.


</div>
<span class='text_page_counter'>(87)</span><div class='page_container' data-page=87>

chẳng nghe. Tuy thế bà Trần này lại là một bà chủ giỏi khéo coi sóc việc nhà vừa cần cù
vừa tiết kiệm, có lúc cịn lên núi kiếm củi, gánh một gánh củi lớn xuống núi, rồi ngồi một
chiếc xe lửa nhỏ cuối cùng về nhà. Nhưng có một lần bà Trần gánh củi xuống núi, không
ngờ mặt trời đã lặn, chiếc xe cuối cùng đã chạy rồi, chiếc xe lửa nhỏ trên núi là xe kéo
mía, khơng phải là xe chuyên chở khách, cho nên sau khi chuyến xe cuối cùng chạy đi
rồi, thì ai tự về nhà nấy, khơng có ai ở lại trạm xe cả. Trời đã tối, bà Trần trên vai gánh
một gánh củi lớn, tự mình khích lệ sức mạnh, quyết định đi bộ về nhà, một thân một mình
thuận theo con đường sắt, đi giữa đường ray tiến thẳng về phía trước. Lúc đi được nửa
đường đột nhiên thấy giữa đường ray phía trước một bóng đen của một đại hán đang
đứng, lúc ấy bà Trần càng đi thì càng gần, nhìn càng rõ, tồn thân lơng tóc dựng đứng, sợ
đến nỗi quăng gánh củi trên vai do vì bà đã hết sức gánh tiếp. Bà Trần đang lúc đêm đen
có một mình nhìn thấy bóng đen kia, trong khoảnh khắc đó, bỗng nhiên nhớ lại việc mấy
năm trời được chồng huân tập cho một câu chú vương từ nào khơng chịu đón nhận, nhứt
là không hề muốn niệm, đang lúc vô cùng nguy cấp này, việc đến mới ôm chân Phật, bà
đứng ngay nơi đó, khơng kềm được chắp tay lại, to tiếng niệm “Nam mô A Di Đà Phật”.
Niệm được vài phút, cái bóng đen của đại hán đó, dường như đã có cái dạng bước sang
một bên rồi và dần dần mất tiêu ln. Bà Trần nhìn thấy thật rõ ràng, liền vội vã đi nhanh
lên, cả đến gánh củi cũng không màng đến.


Trên đường chạy về nhà của bà Trần, trong miệng vẫn không ngớt niệm “Nam mô A Di
Đà Phật”. Nhưng đi được một hồi bỗng nhiên đơi chân khơng thể đi được nữa, lúc đó
trong bụng bà Trần cảm thấy rất lỳ lạ. Tại sao mà đôi chân bỗng nhiên không đi được
nữa, liền cố gắng tự phấn chấn tinh thần lên, khom lưng xuống tay mò xuống đất. Bà
Trần dùng tay mò dưới đất mới hay lại qua một lần đại nạn nữa, hóa ra chỉ cần tiếp tục đi
về phía trước một bước nữa thì là rớt xuống một khe suối lớn rồi! Lắng tai nghe kỹ tiếng
nước chảy trong khe rất là mạnh. Bà Trần lúc đó càng cảm tạ A Di Đà Phật đã từ bi cứu
giúp, nếu như không phải hai chân bất động, đi tiếp một bước nữa thì rơi vào trong khe,


bị nước cuốn trôi rồi, cả người nhà cũng không ai hay biết, sẽ mãi mãi ngậm hờn nơi chín
suối. Lúc bấy giờ ở khe suối đó dùng miếng ván nhỏ làm cầu, bà Trần liền dùng cả hai
tay hai chân như móc câu mà bị qua, xong mới thở ra một hơi nhẹ nhõm, thẳng lưng lên
tiếp tục chạy về phía trước, liên tục ba lần, hễ đến bên bờ khe, thì chân tự động dừng
bước, thật là không thể nghĩ bàn! Sai một bước không phải là chết đuối mà là té chết (bể
đầu gãy xương...) do vì ban đêm nhìn khơng thấy rõ, nên bà Trần về đến nhà là đã 12 giờ
khuya!


Ngày hôm sau bà Trần trở lại gánh gánh củi quăng mất hồi tối, bà đã hỏi người ở trạm xe,
bóng đen hồi tối qua nhìn thấy rốt cuộc là cái gì? Người ta liền nói với bà ta: Hồi trước có
một người bị tai nạn chết ngay chỗ đó, có lẽ âm hồn khơng tan, nên thường hiện ra nơi
đó. Câu chuyện trên đây là do Pháp Viên và cơ Hồng Chiêu Anh đến dự khánh thành
liên xã Đài Đông và tham gia giảng diễn năm ngày, nghe được từ chính miệng bà Trần kể
lại vào mồng 1 tháng giêng năm Dân quốc thứ 48.


</div>
<span class='text_page_counter'>(88)</span><div class='page_container' data-page=88>

Chuyện trên là câu chuyện thật của bà vợ cư sĩ Trần Phi Lâm niệm Phật được cảm ứng,
bây giờ lại nói một chuyện nữa: chuyện cảm ứng của cháu gái Trần Phi Lâm. Cô cháu họ
này mới đầu cũng không tin Phật và cực lực phản đối lịng thành tin Phật của ơng chú.
Nhưng Trần cư sĩ rất từ bi, hễ gặp mặt là khuyên cô ta niệm Phật, giảng cho cô ta nghe về
đời người ở thế gian khổ nhiều, vui ít, tai nạn nhiều, nghịch cảnh nhiều, phiền não nhiều,
muốn lìa khổ được vui cần phải niệm A Di Đà Phật, lúc nguy cấp, sợ hãi càng phải cố
sức niệm A Di Đà Phật. Nhưng cô cháu của ông cũng chỉ như đàn khảy tai trâu, không
chịu nghe theo!


Mười mấy năm về trước, cháu gái của Trần Phi Lâm muốn dời nhà đến Hoa Liên kinh
doanh buôn bán, cư sĩ Phi Lâm liền thỉnh tượng Tây phương Tam Thánh, lộng kiếng, tự
mình đem đến bến xe Đài Đơng cho cơ ta. Lúc chia tay ơng cịn ân cần dặn đi dặn lại cơ
cháu phải chí tâm thành ý niệm A Di Đà Phật. Cô cháu họ Trần sau khi dời đến ở Hoa
Liên kinh doanh buôn bán rất tốt, có một hơm do việc làm ăn cơ đi vào làng, đến nửa
đêm mới cỡi xe đạp về nhà, đi qua một con kênh bên đường lúc không để ý cả người lẫn


xe đồng rơi xuống con kênh. Con kênh này chỉ sâu hơn người một chút mà thơi, tự mình
rất dễ leo lên. Lúc đó cơ cháu họ Trần phủi bụi đất trên mình, rồi xem lại tứ chi, khơng có
bị thương chút nào hết, liền lo kéo chiếc xe đạp lên, lúc muốn kéo lên đó, lại rất kỳ qi,
phía sau dường như có người kéo xe trở xuống. Cứ thế, hễ muốn kéo lên lại bị kéo trở
xuống mấy lần. Lúc đó cơ cháu họ Trần sợ đến nỗi lơng tóc dựng đứng, sợ đến nỗi hồn
bất phụ thể. Vào lúc tiến thối lưỡng nan, khơng có cách nào, liền nhớ đến việc ông chú ở
Đài Đông thường dạy cô niệm A Di Đà Phật, khi gặp lúc tai nạn nguy cấp càng phải to
tiếng niệm Phật. Cô cháu họ Trần liền chắp hai tay lại, cố sức to tiếng niệm “Nam mô A
Di Đà Phật”. Thành tâm thành ý niệm được khoảng nửa tiếng đồng hồ thân tâm cảm thấy
an nhiên, tâm sợ hãi đã khơng cịn nữa. Bỗng nhiên trên đường có một chiếc xe ba bánh
chạy đến, người đánh xe đến trước mặt cô cháu họ Trần, liền thắng xe lại, khơng nói một
tiếng nào, liền kéo chiếc xe đạp lên, lại mời cô cháu họ Trần lên xe ba bánh, đưa xe đạp
đặt lên trên xe ba bánh, người đánh xe liền chở cả cô cháu họ Trần lẫn xe đạp về đến
cổng nhà của cô.


Cô cháu họ Trần trong lòng rất cảm tạ người đánh xe trẻ tuổi mạnh khỏe nầy, sau khi
xuống xe, muốn lấy tiền nhiều một chút cho anh ta, nhưng lúc quay đầu lại thì khơng biết
đã đi đâu mất rồi! Lúc đó đã là nửa đêm, cũng khơng biết tìm ở đâu. Qua ngày hôm sau,
sáng sớm cô vẫn cứ nhớ cái ân của người đánh xe ba bánh, muốn đưa tiền cho anh ta, liền
đến bãi xe ba bánh tìm trong mấy người phu xe, hỏi tới hỏi lui cả ngày, mọi người đều
nói tối hơm qua khơng có ai chở cả người lẫn xe ở đó. Sau đó cơ liền nghĩ lại sự cảm ứng
lúc đang nguy cấp cố sức niệm A Di Đà Phật mới có sự hóa hiện xe ba bánh đến cứu
mình. Cơ ta lại nhớ đến tượng Phật của ơng chú đưa cho ở bến xe Đài Đông, liền về nhà
lục tìm xem, chỉ thấy tướng hảo trang nghiệm của Phật A Di Đà rất giống với phước
tướng của anh phu xe ba bánh. Lập tức treo lên, rất là cung kính mua về hương hoa quả
phẩm, đèn cầy để cúng dường lễ bái. Lại nhớ đến tinh thần từ bi của ơng chú, đích thật là
ân sâu như biển, liền từ Hoa Liên đi về Đài Đơng đến chú Trần Phi Lâm nói ra việc cảm
ứng này. Câu chuyện trên đây là do chính miệng Trần cư sĩ nói với tơi.


</div>
<span class='text_page_counter'>(89)</span><div class='page_container' data-page=89>

“Có bạn từ xa đến, không phải cũng là điều vui vẻ sao?”. Câu nói này đích thật rất đúng.


Mồng 5 tháng này, cư sĩ Trần Phi Lâm đột nhiên đến liên xã ở Đài Trung, phước tướng
trang nghiêm hơn trước, khiến tôi mới gặp nhận không ra, tôi cịn hỏi anh ta tên họ là gì?
Anh ta nói “Trần Phi Lâm”, tơi liền vui mừng ra mặt nói với anh ta: “Tháng trước tơi viết
chuyện cảm ứng độc đáo của quý phu nhân (vợ anh) và cháu gái của anh trên tờ nguyệt
san Cây Bồ Đề, nhưng quên mất tên của hai người, thật là có lỗi quá!”. Cư sĩ Phi Lâm
liền nói: “Đứa cháu tôi tên là Trần Khánh Huy, nhà tôi (vợ tôi) họ Đường tên là Cảnh
Hịa, tơi lần này đã được nghỉ hưu ở hãng đường, hãng thưởng cho tôi một chuyến du lịch
miền Tây, hôm nay nhân tiện đến thăm bà”. Bấm tay tính ra đã tám năm, có lẽ là do đồng
đạo đồng chí, chỉ chun nói chuyện về đạo, anh ta từ khi may mắn gặp được Phật pháp
không thể nghĩ bàn, lại được nhiều việc cảm ứng khơng thể nghĩ bàn, anh ta lại nói ra
mấy việc cảm ứng nữa, nay kể ra một trong mấy chuyện ấy để độc giả thưởng thức.
Cư sĩ Trần Phi Lâm nguyên quán là người Khê Hồ ở Chương Hóa. Vào thời Nhật chiếm
cứ, sớm đã vượt trùng dương, đi đến địa phương sông Tùng Hoa, nước Cáp Nhĩ Tân ở
Đông Bắc, làm việc ở cục Bưu Chính, vào năm hai mươi tám tuổi kết hơn với người con
gái ở vùng đó tên là Đường Cảnh Hòa, năm sau sanh ra đứa con gái đặt tên là Nguyệt
Hương, bà ngoại và cả nhà rất là thương yêu. Nguyệt Hương có thể nói là một đứa con
may mắn, vừa mới sanh, đúng vào lúc kháng chiến thắng lợi, Đài Loan được thu hồi trở
lại, trả về cho bờ cõi của tổ quốc, cư sĩ Phi Lâm liền dắt vợ con trở về cố hương, làm việc
ở hãng đường.


Vào hồi năm năm trước đây, có một hơm bà Trần bỗng nhiên đau bụng dữ dội, Trần cư sĩ
nói: từ hồi kết hơn đến nay chưa từng thấy qua cô ta đau đớn như thế, liền mời về mấy vị
Đơng y Tây y chích thuốc, bổ thuốc, dùng các cách trị liệu đều không thấy hiệu quả! Lúc
cả nhà đang bó tay, bà Trần bỗng nhiên từ trên giường bệnh bò dậy dường như chẳng có
bệnh gì hết, ngồi trên ghế dựa nói chuyện, bà ta dùng quốc ngữ khẩu âm miền Đơng Bắc
nói: “Mau mau đi kêu cháu Nguyệt Hương lại đây, tao muốn thăm nó, do vì cách nhau đã
mười tám năm rồi, tao rất nhớ nó, mau mau đi kêu nó đi!”. Lúc đó Nguyệt Hương đã lấy
chồng, cũng may là ở gần, vừa kêu liền đến, đi đến trước mặt mẹ liền kêu: “Má à! Má
kêu con lại có việc gì vậy?”. Mẹ của Nguyệt Hương liền nói: “Tao khơng phải là má
mày, tao là bà ngoại mày, mười tám năm không gặp mày rồi, nên rất muốn xem mày ra


sao”. Nguyệt Hương liền hỏi: “Bà ngoại, bà ăn cơm rồi chưa?”. “Tao ăn rồi”. Nguyệt
Hương hỏi tiếp: “Bà ngoại! Con cúng cho bà ngoại một bài vị được không?”. Bà Trần lại
đáp: “Không cần! Không cần!”. Cư sĩ Trần Phi Lâm thấy tình trạng đó, biết là mẹ vợ dựa,
liền dùng Phật pháp khai thị cho bà rằng: “Má à! Má đã đọa lạc vào quỷ đạo, chắc chắn
phải là khổ sở lắm, má nhất định phải niệm A Di Đà Phật, cầu sanh Tây phương Cực lạc
thế giới, mới có thể lìa khổ được vui, con chỉ cho má niệm, má phải niệm theo con. Bèn
chắp tay lại niệm “Nam mô A Di Đà Phật”


</div>
<span class='text_page_counter'>(90)</span><div class='page_container' data-page=90>

gì hết. Trần cư sĩ hỏi tiếp: “Em vừa rồi bụng đau dữ dội như thế, bây giờ thế nào rồi?”.
Bà Trần nói: “Em đâu có đau bụng đâu!”.


Nghe nói từ ngày hơm đó đến giờ bà Trần và cả nhà đều bình an vơ sự, hưởng được sự an
lạc tự nhiên của một gia đình Phật tử thuần thành.


<b>23. NIỆM PHẬT: NƯỚC RÚT, NGƯỜI VÀ VẬT ĐỀU BÌNH AN </b>


Có một tín đồ của cơ sở hoằng pháp ở Vụ Phong tên Đoạn Tỷ, bà ta ở làng q Vạn Đẩu
Lục Tử. Có một hơm bà ta đến cơ sở hoằng pháp nghe kinh, bà ta nói với tơi: “Bà thật là
cơng đức vơ lượng, tơi có một người bà con có đứa con dâu, vì chồng nhập ngũ đi lính, ở
nhà khơng giữ đạo đàn bà, về sau bị bắt giam trong ngục sáu tháng, hết hạn tù, sau khi ra
ngục, mang về tượng Phật Tây phương Tam Thánh, thời khóa sớm tối niệm Phật, lạy
Phật, đối đãi với bố mẹ chồng, chồng, con cái so với hồi trước như là hai người, trở thành
một người vợ hiền, một người mẹ tốt, hiếu thuận với bố mẹ chồng, hơn nữa còn biết
khuyên người trong nhà niệm Phật và nói một chút chuyện ngắn cho mọi người nghe.
Người ta hỏi cô ta: “Cô hồi trước không tin Phật, hiện nay tại sao có thể tin Phật và tin
sâu thành khẩn như thế?”. Cơ ta nói là ở trong ngục có một vị sư tỷ ở liên xã, mỗi chủ
nhật đều đến giảng Phật pháp, dạy người niệm A Di Đà Phật, sửa ác làm lành, nghe rất có
đạo lý, đồng thời tặng cho kinh Phật, tượng Phật, chuỗi v.v… khiến cho người sau khi về
nhà an phận giữ mình, sống hạnh phúc. Bà Đoạn Tỷ lại nói: “Tôi nghĩ vị sư tỷ ở Liên xã
đến nhà giam nữ giảng Phật pháp đó nhất định là bà. Cả nhà người bà con đó của tơi đều


rất cảm tạ bà, kêu tôi đại diện cho họ đến nói lời cảm ơn bà”. Tơi nói: “Đây là căn lành
của cô ta, nhân duyên Phật pháp đã đến, đối với tơi đâu có can hệ gì”.


</div>
<span class='text_page_counter'>(91)</span><div class='page_container' data-page=91>

Tôi thật nghĩ không ra việc cảm ứng của Phật, Bồ Tát này! Thật là ít có! Do vì một vùng
trên hai bờ của cây cầu ở cửa Nam này bị nước lụt cuốn mất hơn một trăm căn nhà mặc
dù là nhà tường đất, nhưng cũng có rất nhiều ngôi nhà lớn xây cất kiên cố, cũng đều bị
nước cuốn đi, chết rất nhiều người, tại sao căn nhà tranh cũ nát bên bờ khe dưới cầu lại
khơng bị nước cuốn đi? Trên nóc nhà chẳng những chịu đựng mấy người cả nhà, lại còn
có cả mười tám con heo to nữa, rốt cuộc người và vật đều an nhiên vô sự! Điều khiến tôi
càng nghĩ càng lấy làm kỳ quái là heo mà cũng biết leo thang, thật là mầu nhiệm vô cùng
không thể nghĩ lường!


Khi đến ngày chủ nhật, tôi lại đến nhà giam nữ giảng pháp, tôi liền đem chuyện chí thành
niệm Phật Bồ Tát được cảm ứng, giải cứu được cái nguy khổ vì nước lụt, được tiêu tai
khỏi nạn này giảng cho các nữ tù nghe, trong đó có một người đứng dậy nói: “Cơ ấy
chính là cơ số mười sáu ở đây với chúng tơi, cơ ta cũng từng nói có bố mẹ chồng ni vịt
dưới cầu cửa Nam”. Cơ này lại nói: “Sau khi cô ta ra ngục bèn muốn sửa lỗi làm mới lại,
cố gắng làm người tốt, tạm thời nuôi mấy con heo, sau này sẽ đổi nghề”. Mời các vị thử
nghĩ xem, Phật, Bồ Tát thật là từ bi, bình đẳng, bất cứ người nào chỉ cần chịu chí thành
xưng niệm, liền được lợi ích rất lớn.


<b>24. XE LẬT, ĐƯỢC BÌNH AN VƠ SỰ</b>


Lại nói tiếp có một vị lão sư tỷ cũng ở Vạn Đẩu Lục tên là Hồng Liên Di, bà ta có một
đứa cháu gái tên là Hoàng Mẫn, năm nay mười tám tuổi. Cô ta từ nhỏ chịu sự hun đúc
của bà ngoại, trong thức thứ tám đã trồng được hạt giống Phật. Sau khi tốt nghiệp tiểu
học ở trường Quốc Dân năm mười ba tuổi, lúc muốn thi vào trung học, tự cô ta đã cầu
Phật Bồ Tát gia hộ có thể thi đậu vào trường trung học Thảo Đồn, cô ta đã phát nguyện
trọn đời niệm A Di Đà Phật và ăn ngọ, do vì trường trung học Thảo Đồn gần nhà, cho
nên cô ta mong muốn thi đậu vào trường trung học Thảo Đồn. Thật là Phật, Bồ Tát khơng


phụ người có tâm, cơ Hồng Mẫn này cuối cùng đã đạt được hy vọng của cô ta. Sau ba
năm cô tốt nghiệp, năm mười sáu tuổi cô đến làm việc ở một y viện tổng hợp tại Đài
Trung, làm y tá. Cô ta làm việc rất cẩn thận, cố gắng học tập, đối với người bệnh rất thân
thiết, mặc dù bận rộn với công việc suốt cả ngày, hai thời khóa sớm tối cũng niệm Phật
khơng gián đoạn, do vì cơ mang theo tượng Phật nhỏ có lộng khung kiếng theo mình, hai
thời khóa sớm tối thỉnh ra lễ bái, niệm Phật xong rồi cất vào lại.


</div>
<span class='text_page_counter'>(92)</span><div class='page_container' data-page=92>

Đức Phật A Di Đà thật là linh cảm, đã phò hộ cho con”. Liền đem chuyện kinh sợ xe lật
vào đám lau hơm qua nói cho bà ngoại nghe, cơ ta cịn nói “Con mỗi lần lên xe, trong tâm
đều nhứt tâm niệm A Di Đà Phật, cho nên hôm qua ngồi trong xe cũng đang niệm Phật,
sau khi xe lật gọng, con đỡ ông bác già ngồi kế bên dẫn ra, cùng về Đài Trung, đến Đài
Trung xuống xe con liền mua trái cây về cúng dường lễ bái Phật A Di Đà, cảm tạ ân đức
cứu mạng con để bày tỏ chút lịng thành kính”.


Chuyện trên đây là vào mùng 1 tháng 5 tôi đến cơ sở hoằng pháp ở Vụ Phong giảng kinh,
lão sư tỷ Hồng Liên Di nói với tơi, lúc đó sư tỷ Ngân Tiếu cũng có ở đó.


<b>25. XE BA BÁNH RỚT XUỐNG KHE, MỘT PHEN THẤT KINH HỒN VÍA </b>
Một niệm chân thành, nhờ Phật gia bị, anh phu xa Trần Phong Nam nhà ở đường Trung
Sơn ở Vụ Phong, đêm khuya ngày rằm tháng 6 năm Dân quốc thứ 49, chở vợ con đầy xe
trên đường từ Đài Trung về Vụ Phong xảy ra tai nạn xe. Muốn rõ như thế nào, xin mời
xem chuyện dưới đây:


Mỗi năm vào ngày rằm tháng 6 là ngày lễ đản sinh của đức Thành hoàng ở Đài Trung,
ngày này, ngoài những đệ tử nhà Phật chánh tín ra, phần lớn người ta đều đại khai sát
giới, mời mọc bạn bè thân hữu đến ăn tiệc, nhất là những bà con bạn bè ở ngoại ô hoặc
ngoài thành phố, đều không hẹn mà đến, lại còn mỗi người đều mang cái tâm lý và tục lệ
“không say không về”; đương nhiên anh Trần Phong Nam cũng thế, không ngoại lệ, lúc
mặt trời sắp lặn, liền lấy xe ba bánh của mình chở người vợ u của mình tên là Ái (lúc
đó đang mang thai được tám tháng) và hai đứa con trai, lòng tràn đầy vui sướng đi đến


Đài Trung dự tiệc. Lúc sắp nửa đêm mới cáo biệt chủ nhân ra về. Trong đêm trăng thanh
gió mát đạp xe từ từ về nhà.


Lúc gần đến Thảo Hồ, cô Ái (vợ anh ta) liền nghĩ: nghe nói vùng phụ cận Thảo Hồ ban
đêm thường xảy ra tai nạn xe và những việc khơng tốt, mình nên nhanh chóng niệm Phật,
cầu Phật, Bồ Tát gia hộ mới đúng. Cô ta liền ở trong tâm một mạch niệm thầm mãi “Nam
mô A Di Đà Phật”.


Xe đến trên cầu, bỗng nhiên không biết tại sao cả người lẫn xe rơi xuống đáy khe sâu đến
mấy trượng! Trong lúc ngàn cân treo sợi tóc này cơ Ái lớn tiếng hét to lên: “A Di Đà
Phật! Độ chúng con vãng sanh Tây phương”. Thật là không thể nghĩ bàn, chiếc xe ba
bánh không nghiêng không ngã, rơi xuống đáy khe một cách ngay ngắn, chồng vợ con cái
bốn người cũng vẫn ngồi trên xe y nguyên như trước, chẳng những không có bị trọng
thương mà ngay cả da cũng khơng có trầy sướt gì cả, chỉ là bị một phen thất kinh hồn vía
mà thơi, sau đó cịn phải nhờ mấy người bạn đi đường kéo giúp chiếc xe lên, về đến nhà
đã hơn 2 giờ rồi.


</div>
<span class='text_page_counter'>(93)</span><div class='page_container' data-page=93>

khác lạ hết, không cần khám đâu”. Những người hàng xóm sau khi hay tin lăng xăng lại
hỏi thăm anh Trần tình hình tai nạn xe xảy ra lúc đó, anh ta nói: “Tơi đến trên cầu thì rất
cẩn thận điều khiển xe, nhưng phía sau làm như có người bẻ quẹo xe tơi đẩy xuống đáy
khe. Lúc đó tơi cũng cố gắng dùng sức muốn quẹo xe trở lại nhưng lại khơng có cách,
may nhờ vợ tơi cố gắng niệm Phật, nếu khơng thì làm gì có được dễ dàng như thế, có thể
bình an vơ sự được?”.


Lúc cơ Ái bồng đứa con trai mập mạp trắng trẻo của cô ta đến cơ sở hoằng pháp ở Vụ
Phong lễ Phật thì cơ Trần Giang Đào dẫn cả nhà của anh lại giới thiệu với tơi (Khán Trị),
nói ra sự thật cảm ứng cảm động lịng người này.


Lợi ích của niệm Phật, chẳng những hiện đời có thể được tiêu tai khỏi nạn, chỉ cần tín
tâm kiên cố, niệm Phật khơng có trễ nãi, về sau sẽ được vượt ra tam giới, vãng sanh Tây


phương Cực Lạc thế giới, lợi ích càng lớn, khơng gì so sánh đặng. Tơi lúc đó chúc phúc
cho cả nhà anh Trần đạo nghiệp tinh tấn, hạnh phúc mãi mãi và niệm Nam Mô A Di Đà
Phật nhiều hơn nữa.


<b>26. NHÀNH DƯƠNG RẢI VÀO THÂN, CÁI ĐAU Ở NGỰC LIỀN TIÊU </b>


“Thiên xứ sở cầu thiên xứ ứng” (ngàn nơi cầu thì ứng hiện ngàn nơi). Đây là việc xảy ra
trong tháng 5 năm Dân quốc thứ 49. Cô Trần A Quyên ở số 4 hẻm Tân Lịch thôn Tứ Đức
ở Vụ Phong, năm ba mươi tám tuổi vào tháng 5, bộ ngực bên trái phát đau và xương sườn
khắp người đau nhừ hết, đau đến nói khơng nổi. Nhứt là điều khiến cho cô lo rầu hơn hết
là: Nhà kế bên có cơ gái năm kia cũng mắc phải chứng bệnh quái ác “nhũ cao” (sưng vú)
này mà đến nỗi phải chết, nghe nói chứng bệnh này cịn ghê gớm hơn cả chứng ung thư
vú nữa. Nhìn thấy một bầy con cái trước mắt, nếu như không khỏi, về tương lai thật là
không thể tưởng tượng được! Mặc dù đã trải qua rất nhiều tay Đông Tây y nổi tiếng trị
liệu, nhưng không hiệu quả, trái lại càng ngày càng nặng. Về sau bộ ngực bên trái đã
sưng trướng lên hơn cả thước (thước Tàu), ngay cả cánh tay trái cũng khơng cịn nhúc
nhích được, áo chỉ có thể mặc bên tay phải thơi!


</div>
<span class='text_page_counter'>(94)</span><div class='page_container' data-page=94>

uống, và tặng cho cô ta tượng Tây phương Tam Thánh, dạy cô ta phương pháp lễ bái,
niệm Phật sớm tối.


A Quyên từ sau lần lễ bái này, về mặt tinh thần có được chỗ dựa rất lớn, khơng cịn giống
như hồi trước, suốt ngày âu sầu khổ não, hiện giờ lúc nào cũng hết sức niệm Phật, lại
niệm Quán Thế Âm Bồ Tát, tự suy nghĩ nếu như bệnh này có thể hết thì tốt, cịn như nếu
khơng hết, thì cũng nhất tâm nhất ý cầu sanh Tây phương Cực Lạc thế giới. Cứ thế trải
qua mười mấy ngày, có một đêm nọ trong mộng thấy Quán Thế Âm Bồ Tát áo trắng, tay
phải cầm nhành dương, tay trái cầm tịnh bình, lấy nước nhành dương rải khắp người cô
ta, vừa tỉnh dậy cảm thấy thân thể nhẹ nhàng thoải mái, khắp người mát mẻ. Về sau trong
một tuần, mỗi ngày có mấy lần thân thể bỗng nhiên mát mẻ như mới tắm ra, chứng bệnh
đau vú càng ngày càng bớt, khơng đầy một tháng thì khỏi hẳn.



Cảm ứng của Phật, Bồ Tát thật là không thể nghĩ bàn, việc này cịn chưa được tính là
hiếm lạ, những chuyện hiếm lạ cịn ở phía sau.


Sau khi A Qun hết bệnh, khoảng hai tháng cũng là lúc nạn lụt bát nhất (ngày 1 tháng 8)
đến, ngôi nhà nhỏ trong làng nơi ở của A Quyên bị nước ngập mấy thước (thước Tàu), A
Quyên vẫn cứ toàn tâm niệm Quán Thế Âm Bồ Tát cầu nguyện gia bị, bỗng nhiên có
người nói với cơ ta: “Ruộng dưa của chúng ta bị nước ngập ba, bốn thước, tất cả dưa đã
chín sắp thâu hoạch, nhứt định bị nước lớn cuốn mất hết!”. A Quyên nghe nói bất giác
khóc to lên, do vì mồ hơi nước mắt suốt nửa năm đổ vào ruộng dưa, nếu như bị nước
cuốn đi thì tình hình quá nghiêm trọng rồi! A Quyên mặc dầu lo rầu nhưng cũng khơng
có cách gì, chỉ còn biết thắp hương bạch lên cầu nguyện đức Quán Thế Âm Bồ Tát cứu
khổ cứu nạn cho nhà cửa không bị sập, dưa không bị cuốn trôi.


Trải qua một ngày một đêm, nước dần rút hết, A Quyên lo cho ruộng dưa của mình, nên
mặt mày âu sầu vừa chạy vừa niệm Quán Thế Âm Bồ Tát, đến ruộng dưa xem thì thấy
dưa đầy đất, chẳng những khơng bị trơi mất, mà cịn khơng biết từ đâu trôi đến chồng
chất rất nhiều dưa, lại cịn có rất nhiều cây tạp trơi lại nữa! vây quanh ruộng dưa lại, qua
hai ngày sau hai mẹ con của A Quyên ra gánh những cây tạp về để làm củi, gánh suốt
ngày còn chưa gánh hết.


Câu chuyện thật trên đây là vào ngày giảng kinh ở cơ sở hoằng pháp ngày 19 tháng 9
năm ngoái, cũng là ngày Quán Thế Âm Bồ Tát thành đạo, mấy trăm liên hữu tụ tập lại
một nhà, A Quyên cảm tạ sâu sắc lòng đại từ đại bi của Phật, Bồ Tát, tức thời đứng dậy
hướng về đại chúng nói ra câu chuyện cảm ứng của chính cơ ta. Lúc đó cịn có bảy, tám
vị liên hữu ở Đài Trung nữa. Cô ta khuyên mọi người nên niệm nhiều Thánh hiệu A Di
Đà Phật và Quán Thế Âm Bồ Tát.


</div>
<span class='text_page_counter'>(95)</span><div class='page_container' data-page=95>

Đức Phật A Di Đà, quang minh vô lượng, chiếu mười phương cõi, khơng gì chướng ngại
được. Đây là một sự thật đích xác một trăm phần trăm. Bây giờ đơn cử ra đây một


chuyện lúc lâm chung nhờ Phật phóng quang tiếp dẫn để chứng minh khiến cho chúng
sanh khổ não trong cõi ngũ trược ác thế, nghiệp chướng sâu nặng này tin sâu khơng cịn
nghi ngờ nữa để niệm Phật cầu sanh Tây phương Cực Lạc Thế giới.


Cư sĩ Lý A Minh vào năm Dân quốc thứ 52, bốn mươi tám tuổi, ở thôn Bắc Cấu, làng Vụ
Phong, nhà có mẹ già, vợ, năm con trai, bốn con gái. Pháp danh anh ta là Khoan An, là
đoàn trưởng đoàn niệm Phật của cơ sở hoằng pháp Vụ Phong Liên xã Đài Trung. Những
khi Bính công ân sư giảng kinh, ngày thứ tư anh đều đi dầu cho có mưa gió thế nào đi
nữa, anh vẫn chạy chiếc xe đạp đến nghe kinh. Do đó có thể thấy tinh thần cầu pháp nhiệt
tâm này của anh ta, thật là khiến cho người khâm phục, mọi người đều gọi anh ta là
“huynh A Minh”


Nhưng mà mạng người vô thường, vạn pháp vô thường, huynh A Minh bỗng nhiên mắc
chứng bệnh bất trị, tự biết bệnh nặng hết phương cứu chữa nên một tháng trước, anh đã
kêu vợ lại dặn dò hậu sự: phải hiếu thuận với mẹ, dạy dỗ con cái; những việc lớn nhỏ
v.v… đã dặn dị xong, tự mình lên trên núi ở Bắc Cấu, ở nhờ nhà người chị để dưỡng
bệnh.


Người chị của huynh A Minh và hai người cháu gái: cô Chơn và cô Phụng đều là tín đồ
thuần thành của cơ sở hoằng pháp, cho nên hầu hạ cho cậu các việc ăn uống thuốc thang,
săn sóc bệnh… thật là châu đáo, từng ly, từng tí cũng như chính bản thân mình khơng
khác. Mỗi ngày ngồi thời khóa tụng sớm tối ra, đều là chí tâm niệm Phật hồi hướng cho
cậu, được tiêu trừ những tội nghiệp trong các đời trước. Nhưng mà lý do của huynh A
Minh ở dưỡng bệnh ở nhà của chị là vì để có thể buông bỏ vạn duyên, nhứt tâm niệm
Phật cầu sanh Tây phương, vì ở nhà thì e rằng mẹ già, vợ, con lúc anh sắp lâm chung
trong khoảnh khắc gào khóc kêu la làm nhiễu loạn, mất đi chánh niệm, thì khơng thể
vãng sanh Tây phương, cho nên mới lên trên núi, đi nhờ hai đứa cháu gái hiền. Nhưng
lúc lâm chung cũng như chiến trường, người ni bệnh vừa hơi khơng cẩn thận thì bệnh
nhân liền có khả năng bị ma dắt đi. Huynh A Minh bốn ngày trước khi vãng sanh, bệnh
trạng biến đổi rất xấu, thần trí hơn trầm, tay chân múa lung tung. Cơ Chơn thấy cảnh giới


khơng bình thường, liền ở bên giường to tiếng niệm Thánh hiệu A Di Đà Phật và nói với
cậu mình rằng: “Nếu Đức Phật A Di Đà đến tiếp dẫn, mới có thể đi theo ngài, ngoài Phật
A Di Đà ra, bất cứ người nào đều không thể đi theo họ”, tiếp theo lại niệm Phật hai giờ
nữa, huynh A Minh liền tỉnh táo lại, khơng cịn hơn mê nữa, qua ngày sau, bà mẹ già tám
mươi tuổi của anh ta liền thuê một chiếc kiệu lên núi thăm anh.


</div>
<span class='text_page_counter'>(96)</span><div class='page_container' data-page=96>

Chánh niệm của huynh A Minh thật phân minh, có thể nói là đã chiến thắng được ma, lại
có thể biết trước thời khắc đến, qua tiếp ba ngày nữa chính là mồng 7 tháng 6 âm lịch, tối
hơm đó Sở trưởng (<i>cơ sở hoằng pháp gọi là Bố giáo sở. Vị Sở trưởng này là trưởng ban </i>
<i>của cơ sở hoằng pháp),</i> cư sĩ Hoàng Hỏa Triều và cư sĩ Triệu Đàm Thuyên từ Đài Trung
đến trên núi thăm bệnh, an ủi các thứ, lúc đó rất là vui, nói chuyện cả một tiếng đồng hồ,
lúc chia tay cịn nói là muốn đưa sở trưởng xuống núi. Đến giữa trưa anh nói với người
chị rằng: “Tại sao trời đất tối đen, giống như sắp mưa vậy?”. Cô Chơn cùng mẹ và em gái
ở bên giường bắt đầu trợ niệm, chỉ niệm Thánh hiệu A Di Đà Phật, niệm khoảng hơn hai
giờ, cơ Chơn liền hỏi: “Cậu à! Bây giờ có cịn trời đất tối đen nữa khơng?”. Huynh A
Minh liền đáp: “Bây giờ khơng cịn trời đất tối đen nữa rồi, chỉ thấy ánh sáng rực rỡ”.
Cô Chơn liền hiểu rõ Phật lực không thể nghĩ bàn, tiếp tục trợ niệm không gián đoạn, các
vị liên hữu trong cơ sở hoằng pháp đều nhanh chóng đến tham gia trợ niệm, chờ đến 3
giờ rưỡi chiều bỗng nhiên một đạo hào quang ánh vàng rực rỡ chiếu xuống, trong khoảnh
khắc đầy nhà ánh sáng vàng sáng rỡ. Lúc đó cô Chơn gọi lớn: “Cậu à! Đức Phật A Di Đà
đến tiếp dẫn cậu đấy, cậu nhanh chóng đi theo ngài đi!”. Huynh A Minh thở gấp một hơi,
liền nương hào quang của Phật tiếp dẫn, an tường mà đi. Từ đây biển khổ Ta Bà bớt đi
một chúng sanh phiền não, ao báu ở Cực Lạc tăng thêm một vị hành giả thanh tịnh.
Câu chuyện thật trên đây là thứ ba, ngày giảng kinh định kỳ ở cơ sở hồng pháp, chị em
cơ Chơn đến nghe kinh nói với tơi. Thật là “khơng cần đến ba A tăng kỳ kiếp tu phước
huệ, chỉ dùng sáu chữ mà vượt ra khỏi tam giới”. Xin khuyên các vị độc giả hãy chí tâm
niệm “Nam mơ A Di Đà Phật” nhiều vào.


<b>28. CON KHỈ SẮP BỊ GIẾT ĐƯỢC CHUỘC MẠNG BIẾT LẠY PHẬT </b>



Trên đây đã nói kỳ tích của cư sĩ A Minh, lúc lâm chung nhờ Phật phóng quang tiếp dẫn
vãng sanh, có thể chứng minh tất cả chúng sanh đều có Phật tánh, chúng sanh nếu chịu
vâng làm theo lời dạy, tinh tấn khơng có giải đãi, thì có thể thành tựu được đạo nghiệp,
nhưng cái điều quan trọng nhất cịn cần phải có sự trợ dun của thiện tri thức. Huynh A
Minh nếu chẳng có sự dẫn dắt của cô Chơn và cô Phụng, khiến không mất chánh niệm,
chưa chắc có thể vãng sanh. Do đây có thể thấy thiện tri thức là điều quan trọng vô cùng.
Nói đến hai chị em cơ Chơn và cơ Phụng, chẳng những từ bi thân thiết đối với loài người,
ngay đối với lồi động vật khơng chân, bốn chân… cho đến các loại quỷ, cơ hồn, đều có
thể phương tiện khéo léo giúp cho, tế độ. Dưới đây sẽ cử ra vài chuyện để làm chứng
minh.


</div>
<span class='text_page_counter'>(97)</span><div class='page_container' data-page=97>

chế nước sơi lên trên mình, tự nó vừa vuột lơng vừa kêu khóc, kêu khóc đến rất là thê
thảm! Lơng nó bị tự nó vuột ra hết rồi vẫn còn chưa chết, người bán thịt khỉ kia bèn dùng
con dao nhọn bén đâm vào cổ con khỉ, máu tươi phún ra, trong chớp mắt anh ta chặt ra
từng miếng, từng miếng, mọi người tranh nhau mua.


Nhìn lại lần nữa con khỉ chưa chịu tội kia, chính mắt nhìn thấy đồng bọn chết thê thảm
như thế, nó hãi sợ đến nỗi hai tay ơm đầu, “chít chít” kêu thảm, bộ dạng như đang cầu
người giải cứu. Cơ Chơn mắt nhìn thấy cảnh này, cảm thấy tàn nhẫn thái quá, liền hỏi
người chủ con khỉ: “Cái con còn sống kia cần bán bao nhiêu tiền? Tơi muốn mua để
phóng sinh”, người kia nói: “Một trăm đồng, do vì cơ muốn mua để phóng sinh, tính rẻ
một chút, nửa giá tiền, 50 đồng bán cho cơ được rồi”. Cơ Chơn liền móc ra 50 đồng đưa
cho anh ta, dùng một sợi dây bện bằng cỏ cột nó lại, bỏ lên phía sau xe đạp của mình để
chở nó về nhà. Người bán khỉ kia liền nói “Con khỉ này hung dữ lắm, vừa mạnh vừa dữ,
cô phải dùng một sợi dây xích, chớ dùng dây cỏ bện này nó sẽ chạy mất”. Khơng ngờ con
khỉ này khơng cịn sợ hãi gì hết, nó ngồi trên baga phía sau xe rất là ngoan. Cơ Chơn nói
với khỉ rằng: “Khỉ à, mày kiếp trước khơng có tu, mới đọa lạc vào lồi súc sanh, súc sanh
thì khó tránh khỏi cái chết thảm máu rơi thịt nát! Mục đích tao cứu mày là muốn mày lìa
khổ được vui, mày phải ngoan ngỗn theo tao lên núi, để quy y Tam Bảo”.



Cô Phụng là một sư phụ xuất gia giới hạnh trang nghiêm, nghe nói chị giải cứu một con
khỉ, rất là hoan hỉ. Lập tức đốt đèn thắp hương lên, quy y Tam Bảo cho nó, đặt tên là Ngộ
Khơng, mở dây ra cho nó và dạy nó cách lạy năm vóc sát đất, để cho nó được tự do tự tại,
chạy đi cũng được, khơng chạy thì ni cũng được. Ai ngờ khỉ dầu súc sanh, lại biết ân
báo ân, khơng có chạy vào rừng sâu sống nữa, mỗi ngày lúc thời khóa sớm tối đều đi theo
chủ nhân, lạy Phật năm vóc sát đất, khi người ta niệm Phật trong miệng nó cũng lẩm bẩm
như có nói và niệm theo “Phật, Phật, Phật…” khơng ngừng. Khóa tụng xong, nó đều nhất
định đến vườn trái cây, leo lên một cây cao nhất, nhìn khắp bốn phía coi có ai đến trộm
trái cây khơng? Nếu như bị nó nhìn thấy, nó liền chạy đến nắm chặt, làm dữ khơng có
bng, mãi đến khi ăn trộm bỏ trái cây xuống nó mới bng ra. Ngộ Khơng hằng ngày
đều đi canh gác như vậy mấy lần.


</div>
<span class='text_page_counter'>(98)</span><div class='page_container' data-page=98>

bất mãn, ý muốn nói: tơi lần trước ngồi trên bàn Phật đánh mõ đánh khánh, mấy người
nói là khơng được, khơng có cung kính đối với Phật, bây giờ tôi ngồi trên ghế đánh
chuông trống, lẽ nào cũng khơng được? Cơ Chơn hiểu tâm lý của nó, liền lại nói với nó
rằng: “Ngộ Khơng, mày hơm nay vẫn là phạm tội bất kính, đây là những pháp khí ở trước
Phật là những thứ khơng thể đánh lung tung bậy bạ được, về sau không cho mày đánh
một thứ pháp khí nào nữa. Lại đây! Lại đây quỳ hương tiếp!”. Nhưng lần này quỳ không
bao lâu, nó liền bẻ gãy cây nhang rồi đứng dậy bỏ đi.


Chúng sanh từ vơ lượng kiếp lại đây, điều khó tiêu trừ nhất là tập khí tham muốn, Ngộ
Khơng cũng thế, mắt nhìn thấy những trái bắp trên ruộng của nhà hàng xóm (tục gọi là
lúa nước phiên), từng cây từng cây lúc chín quằn xuống ba thước (thước Tàu), đợi buổi
trưa lúc người ta nghỉ, qua hái bắp của người ta lặt ra từng hột từng hột, có trái chín rồi,
có trái chưa chín, rải đầy đất khiến cho người ta cười dở khóc dở, nhưng mà bắp Ngộ
Khơng hái đi cũng chỉ có hai trái. Cơ Chơn vì việc này phải xin lỗi nhà hàng xóm và bồi
thường tổn thất cho người ta. Cô Chơn rất là thông cảm cho Ngộ Không, nhưng cũng
phải lên lớp dạy bảo cho nó một trận đàng hồng.


Lại có một lần Ngộ Khơng nghịch phá đến mức quá lớn làm cho người ta ai nấy thấp


thỏm khơng n, sợ đến mức tốt mồ hơi lạnh cả người! Nguyên là nhà của cô Chơn và
của hàng xóm đều là nhà tranh, có một hơm Ngộ Khơng lấy được một cái hộp quẹt cây,
nó phóc lên trên giữa nóc nhà, mở hộp quẹt ra, quẹt lên một cây, nhìn thấy ngọn lửa,
dùng miệng thổi lửa nó rất là khối, quẹt từng cây, từng cây như thế rồi dùng miệng thổi,
nó chơi rất là thích thú, nhưng lại khiến cho người ta nhìn thấy ai nấy đều thót tim hết, cơ
Chơn và cơ Phụng kêu thế nào nó cũng khơng xuống, mãi đến khi nó quẹt hết hộp quẹt
mới thơi. Nhưng hành vi nghịch lửa lần này của Ngộ Không do vì cái tính nguy hiểm q
lớn, khiến cho bà con hàng xóm rất là bất mãn, khơng trừ nó đi không được, việc này
khiến cho chủ nhơn rất là mệt óc, khơng biết như thế nào mới tốt (?)


</div>
<span class='text_page_counter'>(99)</span><div class='page_container' data-page=99>

được nửa đường, tự nó nhảy phóc xuống, chạy về nhà. Cơ Chơn về đến nhà thì thấy Ngộ
Không đã bưng nồi cơm đặt xuống đất rồi, và nó đang ngồi đó bốc cơm dư trong nồi của
buổi trưa ăn sắp hết rồi. Ngộ Không trải qua bài học lần này, dù cho lúc chủ nhơn đi ra
ngồi khơng có ở nhà, cũng khơng cịn nghịch phá tổn hại đến người khác, càng không
dám nghịch lửa nữa!…


<b>29. CON CHÓ ĐẦY ĐỦ CĂN LÀNH, THEO CHỦ NGHE PHÁP </b>


Lại nói về lúc cư sĩ A Minh cịn sống, đã có ni một con chó dữ, cư sĩ cũng đã quy y
Tam Bảo cho nó. Đây là một con vật rất trung thành với chủ, đã có trồng căn lành. Lúc
huynh A Minh ở trên núi dưỡng bệnh <i>(nhà cô Chơn, cô Phụng truyện 27)</i>, con chó này
mỗi ngày phải đi lại bốn lần từ trên núi xuống Bắc Cấu một đoạn đường dài. Mỗi ngày
vào buổi sáng cô Chơn dùng khăn tay bao lại cái đơn thuốc của A Minh đưa cho con chó
ngậm lấy đi đến tiệm thuốc bắc ở Bắc Cấu hốt thuốc. Trước đó đương nhiên cơ Chơn
phải có thỏa ước với chủ tiệm thuốc phải ghi nợ, và việc con chó sẽ đến lấy thuốc, cho
nên chủ tiệm coi đơn hốt thuốc xong vẫn cứ dùng khăn tay đó bao gói thuốc lại, đưa cho
con chó ngậm quay trở về. Trên đường nhất định phải đi qua một khe nước lớn, có lúc
nước trong suối vừa lớn vừa chảy mạnh, con chó do vì miệng ngậm gói thuốc, sợ thuốc bị
ướt, nó ngẩng đầu cao lên trời lội qua, về nhà để gói thuốc xuống, chủ nhơn xem, quả
nhiên khơng có ướt một chút nào hết.



Trưa mỗi ngày huynh A Minh đều phải tắm và thay đồ. Đồ dơ thay ra cơ Chơn vẫn dùng
cái khăn gói lại, dặn dị con chó ngậm chạy về nhà ở Bắc Cấu đưa cho vợ của huynh A
Minh, vợ huynh A Minh sau khi giặt sạch đồ xong, gói lại như cũ đưa cho con chó ngậm
quay về trên núi, nhưng buổi trưa lúc quay về con chó nhất định phải tắm một lần trong
dịng suối trong mát, con chó thơng minh tha bao đồ lựa một hịn đá sạch và khơng ướt để
xuống, rồi tự mình nhảy xuống nước tắm, tắm xong lại ngậm bao đồ về trên núi. Trong
mấy tháng huynh A Minh dưỡng bệnh, ngày nào cũng như thế, đi, về bốn lần, so với
mướn người giúp việc còn tiện lợi và biết nghe lời hơn.


</div>
<span class='text_page_counter'>(100)</span><div class='page_container' data-page=100>

này đi đâu mất không biết. Hai chuyện trên đây là sự thật của động vật bốn chân, nhờ
duyên của Phật mà hun đúc nên.


<b>30. KHÓA TỤNG SỚM TỐI, RẮN ĐẾN NGHE </b>


Có một lần cơ Chơn đi ra ngồi có cơng việc, trên đường trở về nhà nhìn thấy một người
bắt rắn, vai mang hai túi vải, ở trong đựng hai con rắn. Cô Chơn vừa thấy liền hỏi anh ta
bắt ở đâu, anh bắt rắn đó mới trả lời với cơ Chơn, thì ra là bắt được gần bên nhà cơ Chơn.
Cơ Chơn nói “Hai con rắn này là của tơi ni, anh phải trả cho tơi”. Người bắt rắn đó làm
sao chịu trả, anh ta nói: “Lạ chưa! Tơi bắt rắn đã mấy chục năm, từ nào tới giờ chưa nghe
người nào trên núi nuôi rắn, cô nuôi rắn làm cái gì?”. Cơ Chơn nói với anh ta: “Chúng tơi
sáng tối lên khóa lễ tụng kinh, hai con rắn này đều đến nghe, nếu có cơm thì cho nó ăn
cơm, như thế đã mấy năm rồi, thôi bây giờ tôi đưa cho anh 30 đồng, mau thả nó ra đi”,
anh chàng bắt rắn vẫn khơng chịu, nói: “Khơng được! khơng được, 30 đồng dùng được
cái gì? Da hai con rắn đáng bao nhiêu rồi, hai cái gan của nó cũng được mấy chục đồng,
thịt rắn lại là món người ta tranh nhau mua!”. Cơ Chơn lúc đó nói to tiếng rằng “A Di Đà
Phật, A Di Đà Phật, thật đáng thương thay!”. Nào ngờ ngay lúc đó, hai con rắn kia đang ở
trong túi vải nghe được tiếng niệm Phật của cô Chơn, ở trong túi vải quẩy động mãi
không thôi, dùng hết sức công phá muốn chun ra, anh chàng bắt rắn kia cũng khơng cịn
cách nào tiếp tục mang nó đi!… liền nhận 30 đồng của cô Chơn và hỏi muốn thả ở đâu?


Cô Chơn bảo anh ta thả ngay đây được rồi. Anh ta mở túi ra, hai con rắn đó vui mừng bị
về hướng núi. Tất cả lồi động vật vốn dĩ khơng có lồi nào khơng tham sống sợ chết, hai
con rắn kia sau khi trải qua lần sợ hãi này, ban ngày hết dám bò ra nữa. Sự thật chính là
chứng minh: rắn, người ta rất sợ mà cũng biết thích nghe người ta tụng niệm nhờ đó mà
được cứu, khỏi tai nạn chết thảm bị người ta lột da rút gân, máu rơi thịt nát!


<b>31. CƠ HỒN CĨ TÁNH LINH THEO NGƯỜI NGHE KINH </b>


Lại nói một chuyện về cơ Chơn. Cơ Chơn tâm địa quang minh chính đại. Tục ngữ nói
“Tâm chánh khơng sợ tà”.


</div>
<span class='text_page_counter'>(101)</span><div class='page_container' data-page=101>

ngươi ngoan ngỗn đi theo ta nghe kinh, cũng có thể khai phát được trí huệ, lìa khổ được
vui”.


Cơ Chơn sau khi nói xong mấy câu trên, tức thời lên xe. Nói cũng lạ, dường như chiếc xe
tự nó chạy được, cũng khơng dùng chân đạp, xe chạy như bay đến Vụ Phong, thường thì
cũng phải hơn 20 phút mới có thể đến, bây giờ chưa đến 10 phút mà đã đến rồi… Cơ
Chơn liền biết có quỷ hồn cùng đến, xuống xe sắp vào cửa tường liền nói: “Này cơ hồn,
đã đến Vụ Phong Bố giáo sở rồi, nhà ngươi từ cửa sắt này mà đi vào”. Vào đến đại điện
lại nói: “Này cơ hồn, bây giờ bắt đầu giảng kinh, nhà ngươi đi theo ta vào bên trong nghe
kinh”. Cơ Chơn bảo với tơi, từ đó về sau trong mấy năm nay, người đi đường qua lại chỗ
đó, khơng cịn thấy gì nữa hết (có lẽ được siêu rồi).


Mấy chuyện ở trên đây đều là chính miệng cơ Chơn nói với tơi. Bút giả viết đến đây thật
là cảm khái vô lượng, cô Chơn có thể nói là đấng trượng phu trong giới nữ, tinh thần quả
là vĩ đại, trí dũng gồm đủ.


<b>32. MỘT ĐẠO BẠCH QUANG TIẾP DẪN NGƯỜI MẤT </b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(102)</span><div class='page_container' data-page=102>

con gái, năm, sáu người vẫn ở lại trợ niệm. Đến hơn 2 giờ khuya, bỗng có một thanh niên


quân nhân ở trong tỉnh cùng xin đến trợ niệm, vị thanh niên này được cái tiếng tốt, lại
thành khẩn, cùng với sư tỷ Tú, mọi người phấn khởi tinh thần, chánh niệm đến mức có
thể nói là “nhứt tâm bất loạn”. Bỗng nhiên mọi người nhìn thấy một vầng sáng trịn trắng,
giống như mặt trời từ ngồi cửa lớn bay vào trong nhà. Do vì nhà của sư tỷ Hạc tọa ở
hướng Đông quay sang hướng Tây, chính là đối với con đường lớn của đường Trung
Chánh ở Vụ Phong cho nên anh thanh niên kia chạy ra xem, cho rằng xe nào mà đậu
ngay cửa? Nhưng vào lúc nửa đêm nửa hôm, bốn bề vắng lặng, một màn đen dầy đặc, chỉ
thấy một đường ánh sáng từ hư khơng hướng Tây phóng thẳng vào trong cửa. Anh thanh
niên kia vừa thấy cảnh giới không thể nghĩ bàn như thế, không hiểu ra sao, lại quay vào
trong xem vừa đúng ngay khoảnh khắc đó, người sắp mạng chung diện mạo tươi vui, thở
ra một hơi mạnh bèn cùng với vầng ánh sáng như mặt trời kia đồng thời biến mất, trong
nhà tức thời sáng sủa trở lại như thường. Bà vợ của ông ta và con trai, con gái, A Tú, mọi
người… đều nhìn thấy kỳ tích Phật A Di Đà phóng quang tiếp dẫn này, do đó mà tiếng
niệm Phật cứ y nhiên không dứt, cứ niệm mãi đến trời sáng. Các vị liên hữu Trương
Thẩm, Bảo Vân ở Bố giáo sở qua ngày hôm sau lại đến trợ niệm, niệm mãi đến hơn 11
giờ trưa, đến sau lúc người mất hết thở 8 tiếng đồng hồ, tiếng niệm Phật mới dứt. Mọi
người xúm lại xem tướng lành của người mất còn hảo tướng trang nghiêm hơn lúc còn
sống nữa, thử thăm dò đỉnh đầu vẫn cịn ấm, thân thể mềm như bơng, các vị liên hữu buổi
sáng trở lại trợ niệm nghe nói sự việc người mất lúc lâm chung nhờ Phật phóng quang
tiếp dẫn, mọi người đều không khỏi một phen đại thất vọng, ln miệng nói xấu hổ, chưa
có thể chính mắt nhìn thấy quang minh của Phật.


Phàm việc gì đều có nhân dun quả báo, cho nên nhà Phật nói nhân quả là xác thật
khơng sai một mảy nào cả. Chúng ta phải biết sư tỷ A Tú suốt đêm trợ niệm cho ông ta,
vốn là vị liên hữu trung thành của Bố giáo sở, nhưng phát tâm niệm Phật cho ông ta như
thế, cũng khơng phải khơng có nhân dun.


Cư sĩ Lý Thanh Ngun khi còn sanh tiền, lúc làm tài xế xe, mỗi sáng sớm lúc đi ngang
Thảo Hồ, đều có một đám nam nữ học sinh trèo lên xe muốn đến Đài Trung, những
người đến trạm xe khơng kịp thì cư sĩ Lý Thanh Nguyên thường dừng xe lại để cho đám


học sinh đó lên xe. Tâm địa của Lý Thanh Nguyên tốt lành như thế đó là nhân, đến lúc
ông mắc bệnh hết chữa, con cái của sư tỷ A Tú nghe nói chú Lý sắp lìa đời, cần người trợ
giúp niệm Phật, liền nhớ lại cảnh lúc còn đi học vội vội vàng vàng lên xe và chú Lý thì
dừng xe lại, hiện rõ ở trong đầu, thế là liền thúc giục mẹ: “Mẹ à! Nhanh lên đi trợ niệm
cho chú Lý. Chú Lý đối với chúng con rất tốt, mẹ nhất định phải niệm đến lúc chú vãng
sanh Tây phương mới thôi”.


</div>
<span class='text_page_counter'>(103)</span><div class='page_container' data-page=103>

niệm Phật đi thẳng đến nhà họ Lý đường Trung Chánh ở Vụ Phong, chỉ thấy cửa mở, có
rất nhiều người đang niệm Phật, anh ta liền tự động tham gia trợ niệm. Anh thanh niên
này nhất định có căn lành rất lớn, nếu khơng thì trợ niệm hơn một tiếng đồng hồ làm sao
có thể thấy được quang minh của Phật? Tôi lúc đến Bố giáo sở giảng kinh, anh thanh
niên này cũng đến nghe, các vị liên hữu vì tơi giới thiệu gặp mặt với anh ta, do vì anh ta
giúp đỡ một phàm phu sanh tử đang ở trong biển khổ được Phật thương xót phóng quang
tiếp dẫn vãng sanh Tây phương Cực lạc thế giới, khiến tôi vừa thấy, trong lịng vơ cùng
cảm kích, tặng cho anh ta một xâu chuỗi và mấy quyển sách Phật, sau hơn một tháng anh
ta được điều đi nơi khác. Tiếc một điều lúc đó tơi qn hỏi chỗ ở và tên họ của anh ta!


<b>33. TRỢ NIỆM CHO NGƯỜI VÃNG SANH TÂY PHƯƠNG, CƠNG ĐỨC VƠ </b>
<b>LƯỢNG </b>


Lại nói về một chuyện cười: các vị trong ban kia của Bố giáo sở lúc bấy giờ trợ niệm cho
Lý cư sĩ (chuyện trên), chỉ có sai đi 3 tiếng đồng hồ, do vì về nhà trước đi ngủ mà khơng
thấy được việc Phật A Di Đà phóng quang tiếp dẫn, đều hối hận mãi khơng thơi. Sau đó
mọi người liền ở lại Bố giáo sở bàn bạc: lần sau nếu như lại có người bệnh nặng sắp qua
đời, chúng ta nhất định phải đi trợ niệm, muời mấy người đều một lịng một dạ, khơng
thấy quang minh, thề không chịu thôi. Sau khi phát nguyện như thế xong, liền đi tìm
kiếm khắp nơi trong làng, chưa được mấy ngày, quả thật tìm được một vị là bà mẹ già
tám mươi lăm tuổi của ông Lâm Kim Châu.


Những người vì tâm hiếu kỳ mong muốn thấy được quang minh của Phật này, liền thuyết


pháp với con trai và con dâu của bà ta: “Chúng tơi đều là khơng có điều kiện gì hết, niệm
Phật cho mẹ các vị, trợ giúp cho bà vãng sanh Tây phương, khơng cịn lại ln hồi trong
lục đạo”. Đồng thời tuyên thuyết niệm Phật tốt thế nào, thế nào… tốn hết một phen mồm
mép, người con trai và người con dâu kia mới bằng lòng cho chúng tôi trợ niệm cho bà ta.
Phải phân làm hai ban thay phiên nhau trợ niệm, khi ăn cơm cũng thay phiên nhau về nhà
ăn, ăn cơm xong lại đến đổi ban niệm. Mọi người vì sợ khơng thấy được quang minh của
Phật, cho nên trước sau không dứt tiếng niệm Phật, niệm mãi một ngày một đêm nhưng
người bệnh vẫn cứ thở đều, còn chưa dứt thở. Bà ta có một người con gái lớn ở xa về,
thấy người ta niệm Phật cho mẹ mình, khơng được vui lắm, lại cịn nói với cha cơ ta rằng:
“Niệm Phật làm cái gì? Ngược lại làm nhiễu loạn tâm của má con thôi, kêu họ về đi!”,
may mà anh trai và chị dâu của cơ ta cịn hiểu biết, vội nói: “Khơng được, khơng được!
Mẹ từ lúc nhờ họ niệm Phật đến giờ, trong lòng đã thanh thản nhiều, khơng cịn khổ não
như trước đây nữa!”. Người con gái kia sau đó cũng khơng cịn nói bậy nữa, biết được
thành ý của mọi người, trái lại trong lòng bắt đầu biết mang ơn.


</div>
<span class='text_page_counter'>(104)</span><div class='page_container' data-page=104>

trợ niệm của mọi người là chân thật ngay thẳng, giúp người thì phải giúp cho đến nơi đến
chốn, liền lại niệm thêm 8 tiếng đồng hồ nữa <i>(đúng nghi thức trợ niệm</i>) thăm dò trên đỉnh
đầu vẫn còn một chút hơi ấm, sắc diện như sống, thân thể vẫn mềm như bơng. Đây cũng
chính là tướng lành được vãng sanh Tây phương. Điều không thể nghĩ bàn nhứt là: niệm
xong 8 tiếng đồng hồ rồi, con cháu của bà ta mở những chăn mền đắp cho bà ta ra thì
thấy hai tay của bà đang chắp ngay ngắn.


Sư tỷ Thẩm <i>(Trương Thẩm, bài trước)</i> nói với tôi: “Con dâu của bà ta thấy chúng tôi
niệm Phật cho mẹ chồng của cô ta được thành khẩn như thế, mỗi đêm đều ba lần nấu món
điểm tâm mời chúng tôi ăn, mới đầu mọi người không dám ăn, do vì thầy Lý dạy chúng
tơi lúc trợ niệm cho người, không được ăn đồ ăn của người ta, ba bữa phải về nhà ăn,
cũng không được ăn đồ điểm tâm, do vì người ta đang gặp lúc không may, không nên
làm phiền người ta thêm. Nhưng con dâu bà ta với ý tốt nói: “Thời tiết mùa đông lạnh
như thế này, các vị có lịng tốt như thế đến cứu cho mẹ chồng tôi, cả nhà chúng tôi rất là
đội ơn đội đức, có chút xíu để bày tỏ tấm lịng, các vị đừng nên khách sáo!”. Cho nên mỗi


đêm đều tiếp nhận ba lần điểm tâm của họ. Tôi liền cười nói với họ rằng: “Tâm của các
vị bất tịnh, chứa đầy những tham muốn, muốn thấy quang minh của Phật, lại nào có thấy
được đâu? Sư tỷ Tú cùng với anh thanh niên kia, lúc đó niệm Phật là một lòng một dạ,
trong tâm thanh tịnh, niệm đến cùng Phật cảm ứng đạo giao, cho nên mới thấy được Phật
A Di Đà phóng đại quang minh đến tiếp dẫn. Hơm nay các vị vì tham muốn xem quang
minh mà vì người niệm Phật, nhưng cũng giúp được một chúng sanh ở Ta bà vãng sanh
về quốc độ an lạc ở Tây phương tu hành, ngày kia thừa nguyện tái lai, có thể độ được vô
lượng vô biên chúng sanh khổ não. Công đức này cũng đều là do các vị phát tâm muốn
thấy quang minh của Phật mà được ban cho như thế”.


<b>34. BÀN LUẬN TRỐNG RỖNG VƠ ÍCH, QUỶ THẦN TÍNH NỢ </b>


Lại nói về sư tỷ Trương Thẩm ở Vụ Phong là một vị đệ tử Tam Bảo đầy đủ trí huệ, vào
tám năm trước mới nghe Phật pháp đã trồng được hạt giống kim cang trong ruộng thức
thứ tám, về sau đầy đủ chánh tri chánh kiến. Tin Phật chưa được mấy tháng, lại có một
lần ở trong cảnh giới nửa tỉnh nửa mê, tranh biện cùng với quỷ lớn quỷ nhỏ, nguy hiểm
chút nữa là bị quỷ đánh chết tươi rồi.


Nguyên là A Thẩm lúc trước khi chưa tin Phật, từng bị bệnh ba năm, khơng có ngày nào
khơng chích thuốc, uống thuốc. Ở Vụ Phong chín năm trước cịn chưa có một ngôi miếu
thần nào, hay một ngôi chùa nào, chỉ có một ngơi miếu chung của dân rất nhỏ, thờ cúng
là một bài vị thần chủ bằng ván. A Thẩm vì cầu cho bệnh được mau khỏi, khơng khỏi cầu
thần, cầu quỷ phị hộ, tự mình thường hay mang giấy tiền vàng mã đến lễ lạy cầu thần
ông phù hộ sức khỏe của bà sớm được bình an vô sự, nhưng cầu liên tiếp mấy năm vẫn
cứ như thế.


</div>
<span class='text_page_counter'>(105)</span><div class='page_container' data-page=105>

khóa sớm tối rất thành khẩn không gián đoạn, đối với ngôi miếu chung của dân kia khơng
cịn đi nữa, biết được tự thân họ (thần) cịn khơng cứu được, làm sao có thể cứu người,
cho nên sau khi A Thẩm tin Phật, sức khỏe liền dần dần hồi phục mạnh khỏe.



Có một hơm vị Lâm Thái Thái là bạn tri kỷ tốt đến muốn A Thẩm dẫn bà ta cùng đi vái
cúng ngôi miếu chung của dân kia. A Thẩm liền cùng đi bái với bà ta, bà Lâm lễ xong
nói: “Hơm nay chúng ta quên mua tiền vãng sanh và giấy vàng mã rồi!”. A Thẩm nói
“Đốt giấy vàng và tiền vãng sanh làm cái gì? Bạn khơng nên mê tín, nếu như cần đốt tiền
vãng sanh, chi bằng niệm vài biến chú vãng sanh bố thí cho họ cịn hay hơn”. A Thẩm
gần như nói chơi thơi, rồi cũng không niệm chú vãng sanh, thắp hương lễ xong, ai về nhà
nấy.


Đến tối vào lúc nửa đêm nửa hôm, A Thẩm như tỉnh mà không phải tỉnh, như mộng mà
khơng phải mộng, bỗng nhiên nhìn thấy mấy con quỷ đến nói với bà ta “Đại vương của
chúng tơi muốn mời bà đi nói chuyện”. A Thẩm hỏi nó: “Đại vương các người là ai? Ta
khơng đi”. Mấy con quỷ đó cũng chả nói lý lẽ gì, khơng đi thì cưỡng bức lơi đi, lơi đến
ngôi miếu chung của dân kia, thấy trước miếu đứng rất nhiều người nam, nữ, lớn, bé,
chính giữa ngồi một vị quỷ, thân thể to lớn, mặt mày hung ác, mấy con quỷ nhỏ kêu A
Thẩm quỳ xuống, A Thẩm trong lòng linh cơ sáng suốt, liền to tiếng nói rằng: “Ta là đệ
tử Tam Bảo, Phật pháp vô biên, các ngươi quỷ đạo chúng sanh, còn phải cần đến Phật
pháp cứu giúp cho các ngươi nữa là!”. Lời nói chưa dứt, ơng đại vương kia nổi giận xung
thiên lớn tiếng qt rằng: “Lơi nó ra đánh chết tươi nó đi, nó dám nói lớn lối, lại không
cho chúng ta tiền vàng”. Đang lúc cả một bầy quỷ ra tay sắp đánh bà ta, A Thẩm nói:
“Khơng sợ nhà ngươi đâu! Ta thỉnh Bồ Tát lại!”. Tức thời chắp tay xưng niệm “Nam mô
cứu khổ cứu nạn Quán Thế Âm Bồ Tát ”. Niệm hết thảy chưa đến mười tiếng, trên hư
khơng hiện ra một hình tượng Bạch y Qn Thế Âm Bồ Tát, tay phải cầm bình cam lồ,
tay trái cầm nhành dương liễu, đạp mây mà xuống. A Thẩm xem thấy rất rõ ràng, bầy quỷ
lớn nhỏ kia thấy được Quán Thế Âm Bồ Tát đều quỳ xuống hết, đầu mặt dập xuống đất.
Khi đó A Thẩm vẫn cứ lớn tiếng niệm “Nam mô Quán Thế Âm Bồ Tát”. Lúc đó chồng
của A Thẩm là cư sĩ Trần Thiên Trụ nghe tiếng vợ mình niệm Quán Thế Âm Bồ Tát quá
lâu, nghĩ chắc là nằm thấy quái mộng gì rồi, liền kêu A Thẩm thức dậy. A Thẩm thức dậy
liền đem cảnh giới trong mộng tranh biện cùng quỷ kể cho cả nhà nghe. Nếu như không
biết niệm “Cứu khổ cứu nạn Quán Thế Âm Bồ Tát” có lẽ tiêu mạng rồi, âm dương vĩnh
viễn cách biệt. Câu chuyện trên đây cũng là tự miệng A Thẩm nói với tơi. Tục ngữ có


câu: “Bệnh tùng khẩu nhập, họa tùng khẩu xuất”. Thánh nhơn cũng có nói “Kính quỷ
thần mà xa họ ra”. Xin khuyên chư vị là đệ tử của Phật, ngàn vạn lần chớ nên tự khoe
mình hay giỏi, nói giỡn chơi với quỷ thần. Nếu lâm vào tình trạng giống như A Thẩm,
trong mộng biết niệm Thánh hiệu Bồ Tát thì khơng sao, cịn như cơng phu chưa đến, thì
tự rước lấy phiền tối vào thân rồi.


</div>
<span class='text_page_counter'>(106)</span><div class='page_container' data-page=106>

Pháp môn niệm Phật, không luận là già, trẻ, nam, nữ, sang, hèn, giàu, nghèo, chỉ cần tin
sâu Phật là đạo sư của ba cõi, cha lành của bốn lồi, tin và niệm đó thì diệt tội hằng sa,
được phước vô lượng. Dưới đây sẽ cử ra chuyện thật được cảm ứng để làm chứng minh.
Mười hai năm trước ở đường Trung Hoa khu Bắc Đài Trung có một gia đình nhỏ là
người từ Sa Lộc dời đến Đài Trung ở, chủ nhân là Trần tiên sinh, vợ ông ta họ Lâm tên là
A Kiều, bà này ở quê từ lâu đã bị bệnh triền miên, đứa con lớn là Chấn Trung tuy mới
tám tuổi, lại rất biết chuyện, hầu hạ thuốc men v.v… chẳng rời khỏi bên mẹ. Có một hơm
ban trưởng ban niệm Phật là sư tỷ Trần Kim Chi đến nhà của nó (Chấn Trung), nhìn thấy
A Kiều nằm trên giường rên rỉ, có trạng thái của bệnh tình rất nguy kịch, đứa con Chấn
Trung kia đang ở bên mẹ rơi nước mắt, sư tỷ Trần Kim Chi thấy rồi, lòng từ bi tự nhiên
phát sanh, liền nói với bà Trần rằng: “A Kiều à! Cơ nên niệm Thánh hiệu cứu khổ cứu
nạn Quán Thế Âm Bồ Tát, cầu nguyện Bồ Tát khiến cho bệnh tình sớm hồi phục, mạnh
khỏe trở lại”. Lúc đó A Kiều thều thào nhỏ giọng “Tôi không biết niệm”. Sư tỷ Trần Kim
Chi nói: “Cơ khơng biết niệm, con cơ niệm cũng vậy, cô chỉ cần lắng tâm nghe, trong tâm
duyên theo tiếng niệm là được rồi”, Sư tỷ Kim Chi lại đi thỉnh về một bức tranh Tây
phương Tam Thánh lộng trong khung kiếng, treo trên bức tường đối diện với chỗ A Kiều
nằm, rồi dạy cho Chấn Trung chắp tay, học niệm A Di Đà Phật và Quán Thế Âm Bồ Tát.
Đứa bé này rất thông minh, không bao lâu đã học được rồi. Cứ như thế niệm hơn hai
tiếng đồng hồ, lại còn dạy nó hồi hướng, cầu nguyện Phật Bồ Tát mau đến cứu giúp cho
bệnh của mẹ mau được bình phục. Chấn Trung đều có thể nhất nhất y giáo phụng hành,
bèn luôn luôn ở trước Phật niệm Phật van cầu, trước mắt A Kiều, mặt thì đối Thánh
tượng vạn đức trang nghiêm, bên tai lại nghe được Thánh hiệu vạn đức hồng danh, trong
tâm bèn cảm nhận được có chỗ nương tựa.



Xưng niệm Thánh hiệu Phật Bồ Tát là việc chẳng thể nghĩ bàn. Đứa con Chấn Trung kia
vì cầu cho mẹ khỏi bệnh, hàng ngày thành khẩn niệm Phật, chưa đến một tuần lễ, quả
nhiên xuất hiện kỳ tích. Có một hơm mới sáng sớm nó kêu lên rất vui sướng: “Má à! tối
qua con chiêm bao thấy một người nữ mặc áo trắng cầm một bó cỏ thuốc dài như cây rau
hẹ cho má ăn, má nhận qua tay liền cho vào trong miệng, con nhìn thấy rất là rõ ràng.
Ngài cịn nói với con ngài là Qn Thế Âm Bồ Tát, do vì bệnh của má chỉ cần ăn loại cỏ
thuốc này, liền được bình an”. A Kiều nghe xong cảm thấy rất là kỳ lạ, bà ta cũng nói với
con rằng: “Chấn Trung à! Mẹ đêm qua cũng chiêm bao thấy một người nữ cầm một bó cỏ
thuốc dài kêu má ăn, má liền lấy cỏ thuốc cho vào trong miệng nhai và nuốt xuống. Sáng
sớm vừa thức dậy, trong lòng mát mẻ, cảm thấy bệnh tình nhẹ đi rất nhiều”. Từ đó bệnh
của A Kiều ngày càng hồi phục mạnh khỏe, mẹ con đồng hưởng niềm vui tự nhiên của
đạo. Hơn nữa trong tâm linh nhỏ của Chấn Trung đã gieo trồng được căn lành rất là sâu
dày, cho nên mỗi ngày trước khi đi học, nó nhất định đến trước Phật xin phép, chắp tay
đảnh lễ nói: “A Di Đà Phật! Con phải đi học đây”. Tan học về nhà lại nhất định trước tiên
đến trước bàn Phật vẫn cứ chắp tay đảnh lễ nói: “A Di Đà Phật! Con về rồi”. Ngày nào
cũng thế, tập hoài thành quen.


</div>
<span class='text_page_counter'>(107)</span><div class='page_container' data-page=107>

A Kiều từ lúc được sự cảm ứng của Phật, Bồ Tát gia bị khỏi bệnh rồi, bèn tiếp tục hàng
ngày lạy Phật, niệm Phật không có gián đoạn, thời gian trơi qua rất nhanh mới đó đã hai
năm rồi. Chồng của cơ ta vốn là cai thầu xây dựng, lúc đó tiếp nhận thầu một cơng sự
tháo giở nhà, chính ở ngay chỗ giao lộ của đường Tự Do và đường Trung Chánh, một tòa
kiến trúc hai tầng, thỏa thuận cùng người ta định kỳ một tháng nhất định phải tháo giở
xong, nếu như tới hạn làm không xong phải bồi thường gấp đơi và điều kiện trên khế ước,
nếu có bất cứ người nào do công việc mà bị thương, hoặc là té chết bên thầu phải tự chịu
trách nhiệm, bên kia vơ can. Nhưng mà tịa viện bảo tàng từ thời Nhật chiếm cứ đó xây
dựng vơ cùng kiên cố, thật khơng dễ gì tháo giở, bốn bức vách đều xây bằng gạch rất dày,
sắt miếng và xi măng, mười mấy người công nhân dùng chùy sắt và đục đập một tuần lễ
chỉ mới đập được một lỗ lớn mà thôi, nguyên bức tường vẫn chưa phá đổ được, ông Trần
lúc ấy rất là lo lắng, tự nguyện đền một vạn đồng để bên kia chịu bỏ khế ước, nhưng bên
kia cũng không chịu, không thế thì phải bồi thường mấy vạn đồng! A Kiều suốt cả ngày


lo rầu, cùng với Chấn Trung hai người, chỉ còn biết hướng Phật A Di Đà và Quán Thế
Âm Bồ Tát nhiều lần cầu khẩn mong rằng khơng phải đền tiền. Có một ngày sáng sớm
Chấn Trung bỗng kêu lên một tiếng: “Má! Má không phải khóc nữa, việc lãnh thầu tháo
giở nhà lầu không phải lo nữa, con đêm qua mộng thấy Tam Tạng pháp sư tay cầm cây
chổi đuổi ruồi dẫn đến một đám vượn màu vàng, chỉ huy giữa không trung, trong khoảnh
khắc tháo giở hết tòa nhà chúng ta bao thầu tháo giở kia, thật là Phật lực vô biên, con
vượn vàng kia thật là đẹp. Má, vị Tam Tạng pháp sư kia đội cái mão chính là trong phim
tháng trước con đến rạp hát nào xem nè, trông Tam Tạng đi lấy kinh giống như nhau”.
Chấn Trung ngây thơ nói với mẹ, hai mẹ con lại đến trước Phật A Di Đà và Quán Thế
Âm Bồ Tát quỳ xuống cầu nguyện và phát nguyện sẽ bỏ ra 500 đồng cho thầy Lý lúc đó
đang muốn lập ra nhà ni trẻ cơ nhi. Thật là phúc chí tâm linh (phúc đến tâm sáng ra),
ơng Trần nghe những điều Chấn Trung nói trong mộng, tiếng Đài Loan con khỉ (hầu chừ)
cùng với móc câu (câu chừ) phát âm hơi giống nhau, liền nghĩ đến dùng móc câu sắc lớn
câu tường lại dùng máy điện quấn dây, chỉ một chút xíu kéo đổ xuống một miếng tường
lớn, như thế trong một ngày kéo đổ xuống rất nhiều bức tường dầy, không đầy mấy ngày
hồn thành xong tồn bộ. Ơng Trần lần này làm công sự giở nhà, đã không trái với khế
ước, lại khơng có bồi thường tiền, lại cịn trong khi làm việc kéo tường phát sanh ra hai
việc khơng thể nghĩ bàn: có hai người cơng nhân ở trên lầu hai té xuống lại không bị
thương một chút nào hết, ở dưới đất toàn là gạch bể, bê tông, làm sao không hề bị
thương? Thật là khó mà tin. Lại cịn có một việc là mỗi trước khi câu tường đổ xuống,
nhất định phải xem xét bốn phía coi có cơng nhân ở gần hay không? Để khỏi phải đổ
tường xuống đè bị thương. Có một lần sau khi ơng Trần xem xét xong, đột nhiên có một
nữ cơng nhân đi lại, muốn đến công tác, vừa vặn một miếng vách tường bị kéo đổ xuống,
xê xích có hai tấc, thấy gần như là bị đè chết rồi! Có rất nhiều cơng nhân hỏi bà Trần (A
Kiều): “Ơng thổ địa nhà của ông bà sao mà linh thế? Lần nào cũng đều phù hộ cho các vị
hết à!”. A Kiều nói: “Nhà tơi khơng phải thờ ơng thổ địa, chúng tôi thờ phụng là Tây
phương Tam Thánh: một vị Phật hai vị Bồ Tát, mỗi ngày đều niệm A Di Đà Phật và
Quán Thế Âm Bồ Tát”.


</div>
<span class='text_page_counter'>(108)</span><div class='page_container' data-page=108>

nghe, nói đến chỗ Chấn Trung mộng thấy Tam Tạng pháp sư dẫn một bầy khỉ màu vàng


kim, chỉ huy tháo giở nhà, tơi liền giải thích cho cô ta: “Chấn Trung cho là Tam Tạng
pháp sư ở trong phim, có lẽ chính là hóa thân của Quán Thế Âm Bồ Tát, ở trong tay cầm
đó chính là cây phất trần hoặc là nhành liễu, khơng phải đồ đuổi ruồi”. Lúc đó ban viên
trong ban song tu, đều đồng lời khen ngợi pháp lực Phật, Bồ Tát vô biên không thể nghĩ
bàn, và khen ngợi lòng thành khẩn của mẹ con A Kiều.


<b>37. TRONG MỘNG NIỆM PHẬT, GẶP DỮ HÓA LÀNH </b>


Lại qua đi một năm, chồng của A Kiều là ông Trần, có một đêm trong mộng nhìn thấy
một cảnh giới: có một ơng già để râu trắng dài dẫn ơng ta đi đường, đi được rất lâu, rất xa
đến một địa phương lạ ở trong một cánh đồng hoang, bốn bề khơng có một người, chỉ có
một cái hịm gỗ dài. Ơng già kia nói: “Ơng Trần, ơng phải ngã ở đó”. Ơng Trần nghĩ ngã
vào trong cái hịm đó tức là tiêu đời rồi! Trong lịng khơng khỏi cảm thấy sợ hãi nổi lên,
liền chắp tay lại to tiếng niệm liên tiếp “Nam mô A Di Đà Phật!”. Niệm chưa được vài
chục tiếng, bỗng nhiên có một người con gái ở trong làng khoảng mười bảy, mười tám
tuổi đi đến, dùng tay chỉ tôi nói (tơi: ơng Trần) “Ơng mau đi về đi thơi”. Vừa tỉnh dậy, thì
ra là một giấc mộng Nam Kha, sáng sớm thức dậy liền nói với vợ ơng ta A Kiều, giấc
mộng dữ tối qua, may mà ở trong mộng biết niệm Phật, nếu khơng thì khơng biết sẽ ra
sao! A Kiều tức khắc đến trước bàn Phật thắp hương đốt đèn cầu nguyện Phật, Bồ Tát từ
bi gia bị khiến cho việc lớn hóa thành việc nhỏ, việc nhỏ hóa thành khơng.


</div>
<span class='text_page_counter'>(109)</span><div class='page_container' data-page=109>

chồng cô ta uống. Thật là linh nghiệm dị thường, nước vào thì bệnh dứt, tinh thần của
chồng cơ ta dần dần hồi phục như cũ, không cần thuốc mà khỏi bệnh.


Chuyện kể đến đây, chắc có người sanh nghi vấn: “Phật, Bồ Tát là bực đại từ đại bi, tại
sao chỉ cứu có một người, cái chết của anh công nhân đáng thương kia lại không ra tay
cứu?”. Mọi người chúng ta nên biết: tâm có thể tạo nghiệp, tâm cũng có thể chuyển
nghiệp. Ơng Trần nhờ sự huân tập niệm Phật của vợ, mà trong tàng thức đã gieo được hạt
giống kim cang A Di Đà Phật, cho nên những cái tốt xấu chưa đến mà đã có điềm trước.
Trong giấc mộng đêm đó, một ông già dẫn ông ta đi đến cảnh giới khác bảo ơng ta chun


vào trong cái hịm, may mà hạt giống Phật A Di Đà trong tàng thức của ông ta phát khởi
hiện hành, bỗng nhiên khiến ông ta chắp tay lại niệm Phật, đây là gặp dữ hóa lành, tiêu
tai giải nạn, việc lớn hóa thành việc nhỏ, việc nhỏ hóa khơng.


Đến như anh cơng nhân kia, không phải là Phật, Bồ Tát không cứu anh ta; do vì phàm
phu đều là nhận giả làm chân, lấy khổ làm vui, cứ hưởng thụ những cái trước mắt, suốt
ngày mê hoặc điên đảo, chẳng kể gì việc tốt xấu đến, Phật, Bồ Tát có chỉ điểm như thế
nào thì cũng vẫn cứ mơ mơ hồ hồ, như thế làm sao có thể chắp tay xưng niệm Thánh hiệu
của Phật, Bồ Tát được? Không biết niệm Phật thì khơng có thể chuyển nghiệp, lúc sắp
đến thành của vua Diêm la báo hiện diện thì phải đi thơi. Tục ngữ có câu “Diêm vương
chỉ định canh ba chết thì khơng cho lưu đến canh năm!”. Như thế có thể suy ra cái chết
của người công nhân kia cũng không ngoại lệ, đây là định nghiệp khơng thể chuyển!
Có lẽ vẫn cịn có người sanh nghi vấn: Tại sao ông Trần mấy năm trước lúc bao thầu
công sự xây dựng nhờ Phật, Bồ Tát cảm ứng đã không bị lỗ vốn lại vẫn được bình an; lần
này lại tổn thất quá nhiều và bị một phen nguy hiểm sợ hãi, Phật, Bồ Tát sao không gia
bị? Nên biết phàm người tu hành lúc mới phát tâm phần nhiều rất thành khẩn, nhưng qua
một thời gian, hoàn cảnh thay đổi đều là tùy theo nhân quả thuận cảnh, nghịch cảnh của
mỗi người tự làm thì tự chịu. Lúc đó vợ chồng của A Kiều, cả đứa con, cả nhà là sơ phát
tâm, dùng lịng chí thành, ngày đêm do vì thành kính khẩn thiết xưng niệm. Về sau, lần
này như thế là do vì đời người tai nạn, nghịch cảnh phiền não nhiều, những tai nạn,
nghịch cảnh phiền não này luôn hiện ra trước mắt, giống như cái tai họa đột nhiên này,
ông Trần mặc dù có bị kinh sợ, hao của, vẫn là từ trọng báo chuyển thành khinh báo,
cũng là cái may lớn trong cái xui xẻo, trong sâu xa vẫn có Phật, Bồ Tát ngầm phị hộ.


<b>38. CON MÈO ĐỊI NỢ, YÊU CẦU SIÊU ĐỘ </b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(110)</span><div class='page_container' data-page=110>

lớn trách nhiệm ở nơi quyến thuộc và những người trợ niệm, cho nên người niệm Phật tu
hành nhất thiết không nên ỷ vào mình tu hành nhiều năm, cơng phu rất tốt, các thứ cơng
đức bố thí v.v… nhiều. Ngồi các bậc hành giả thật sự nắm chắc được việc tự tại muốn đi
thì đi; cịn lại, lúc sắp mạng chung vẫn phải lấy trợ niệm làm quan trọng. Bây giờ đơn cử


ra một vị liên hữu vào tháng trước vãng sanh để chứng minh.


Vị liên hữu Hồng Hoàn trưởng ban của ban 48 nguyện kiêm ban trưởng của ban thí tài ở
Liên xã Đài Trung, năm nay sáu mươi hai tuổi. Trong hai mươi năm gần gũi, đồng tu với
ân sư Bính Cơng, có thể nói là người có phước báo nhứt, thành khẩn nhứt, phát tâm lớn
nhứt, khơng có ai là sánh được với bà. Phước báo của bà ta là gia đình thanh nhàn nhứt,
con cái, dâu rể, cháu ngoại đều hiếu thuận, cả nhà tin Phật, niệm Phật và của cải dư dã, bố
thí từ nào đến giờ khơng có lận tiếc, cho nên sư phụ cho bà ta làm ban trưởng ban thí tài.
Lịng thành khẩn đối với việc tin Phật của bà là mỗi khi sư phụ giảng kinh hoặc mở hội
v.v… thì bà đều đi đủ khơng có mưa gió gì có thể ngăn trở; chẳng những tự tu tự lợi như
thế, mà còn tâm tâm niệm niệm luôn nghĩ đến việc “lợi tha”. Tôi thường khen ngợi Hồng
Hoàn với mọi người, hạng mà khó độ nhứt là bà con trong gia đình và những người hàng
xóm, nhưng mà Hồng Hồn thì sao? Thật có thể nói bà là bậc “bi trí song vận” (bi trí đầy
đủ), phương tiện khéo léo, khơng những trong gia đình bà con đồng chí đồng đạo, ngay
đến bà con hàng xóm xa gần, cả đến trong những ngõ hẻm ngóc ngách, hầu như nhà nào
cũng đều phụng thờ tượng Tây phương Tam Thánh, có thể độ được cả một con hẻm đều
tin Phật, thật là hiếm thấy! Đây đều là cái thành quả phát Bồ đề tâm của bà. Chẳng những
như thế, bà lại còn đảm nhiệm làm cán sự hội phụ nữ khu Bắc thành phố Đài Trung, đã
từng khuyên dứt mười mấy gia đình bất hịa, năm đó có cặp vợ chồng trẻ, cảm tình sắp bị
tan vỡ, lúc chồng vợ con cái sắp chia tay, thì nhờ biện tài vơ ngại của bà khun bảo, gia
đình trở lại tốt đẹp, và tốt hơn nữa là đều quy y Tam Bảo. Cho nên ai cũng đều khen ngợi
hoàn cảnh gia đình của sư tỷ Hồng Hồn là tốt đẹp, cùng với tinh thần từ bi ưa xả thí của
bà, trong đời có thể nói là “thập tồn thập mỹ” (mười phân vẹn mười).


</div>
<span class='text_page_counter'>(111)</span><div class='page_container' data-page=111>

nhiễu loạn nhĩ căn của người sắp mạng chung”. Sau khi tôi dặn dò xong, liền cùng các
liên hữu ai về nhà nấy.


Đến sáng ngày hôm sau, nhớ nghĩ người bạn tri âm sắp từ biệt cõi đời, không khỏi ngậm
ngùi nhớ tiếc, tức khắc chạy đi xem coi tối qua như thế nào? Lúc tơi mới vào cửa A Hồn
nghe được tiếng tôi liền lớn tiếng kêu lên: “Sư tỷ Khán Trị lại đây, lại đây!”, tôi liền ngồi


trên mép giường của bà, bà nói với tơi “Chiều hơm qua may mà có các sư tỷ niệm Phật
cho tơi, do vì lúc đó dường như đang bị cái chụp muỗi đen đè cứng, cái chụp đó nặng có
mấy ngàn ký, đè đến nỗi tôi không thở nổi, chỉ cịn có hai tay cịn tự do, nên hai tay giở
lên giở xuống muốn đẩy nó ra, nhưng lại đẩy không nổi”. Tôi hỏi bà ta “Tại sao chị
khơng niệm A Di Đà Phật?”. Bà nói: “Khắp mình bị đè thở khơng ra hơi, khơng những
miệng niệm không ra, ngay cả trong tâm cũng không niệm được! May mà cịn có thể
nghe được tiếng niệm Phật của các chị, tiếng vừa to vừa rõ ràng, cái chụp muỗi đen đó
dần dần biến mất, tơi mới cảm thấy thân thể nhẹ nhàng, từ từ tỉnh lại”.


Hồng Hồn lại nói: “Sư tỷ Khán Trị à! Tơi hơm qua lại cịn nhìn thấy một cảnh giới nữa,
kể ra rất dài”. Tơi hỏi bà muốn nói cái gì, bà nói: “Tối qua khoảng 2 giờ, tơi nhìn thấy
một đứa bé khoảng chưa đầy tám tuổi mặc đồ trắng hiện ra trong phịng tơi, tơi hỏi nó:
“Mày là ăn trộm đến trộm đồ phải không?”, thằng nhỏ liền phủ nhận: “Không phải,
không phải!”. Tôi hỏi tiếp nó: “Vậy mày ở đâu đến đây? Đến làm cái gì?”. Nó nói: “Tơi
từ lục đạo ln hồi đến, muốn đến địi nợ bà, tính sổ với bà”. Tơi nói: “Ta làm người
thanh bạch, chưa từng thiếu nợ của người nào”. Thằng nhỏ đó lại nói: “Khơng phải đời
này, mà là nợ đời trước. Do vì bà đời trước ở Đài Bắc làm người hiếu sát (hay giết, ưa
giết), đã giết bốn mươi con mèo rồi đều vứt bỏ xuống sông Cô Long (tên cũ), khơng tin,
bà đi kiểm tra lại thì biết, tơi là một con trong đó, do vì sau khi bà giết chết tôi bà vẫn cứ
ném vào trong sông, tơi rớt xuống bên bờ, có một người họ Hứa cứu tôi, nhưng tôi đã
không thể sống tiếp, nên đã dùng một sợi dây cột tôi lại, treo lên trên cây, tôi nhờ tinh
hoa của mặt trời mặt trăng cho nên có thể được hình người này, nhưng cịn ba mươi chín
anh, chị, em của tơi vẫn cịn hình dáng mèo chịu khổ ở nơi đó. Tơi đến đây là muốn bà
siêu độ cho bầy mèo anh chị em của tơi thốt khổ.” Tơi vội vàng nói: “Được, được! Liên
xã chúng tơi trong tháng sắp cúng tế Tổ, thuận tiện sẽ siêu độ cho các ngươi ln”. Đứa
bé đó lại nói: “Khơng được khơng được! Nhất định phải làm hai cái giỏ tre đi đựng ba
mươi chín con mèo kia. Chính bà tụng kinh siêu độ tại nhà bà.” Tôi liền nhận lời, sáng
hôm nay kêu Canh Thân viết thư cho một người bà con ở Đài Bắc hỏi thăm rồi”.


Qua ba ngày, người bà con ở Đài Bắc gởi thư hồi âm nói: trước đây rất lâu ở Đài Bắc thật


có con sơng này. Việc này của Hồng Hồn khơng những nói với tơi, cịn nói với rất nhiều
liên hữu nữa. Bà liền thỉnh cư sĩ Triệu Đàm Thuyên, Vương Thanh Hán, mười mấy vị
liên hữu đến nhà bà tụng Kinh Địa Tạng, tụng kinh sám ba ngày để siêu độ cho bốn mươi
con mèo kia. Buổi tối ngày cuối cùng lại làm một nhà “phổ thí” (thí khắp) để mở hết
những oan kết cho bà.


</div>
<span class='text_page_counter'>(112)</span><div class='page_container' data-page=112>

vẫn chưa được vãng sanh; má con trước đây từng có dặn dò con: cần phải trước khi vãng
sanh, trước nên thay đồ dùm cho bà, không biết phải hay không là chưa thay đồ, nên
không chịu vãng sanh? Sư tỷ! Bây giờ thay đồ cho má con được khơng?”. Tơi nói:
“Khơng được, khơng được! Bây giờ động dời bà ta e rằng gây cho bà ta phiền não thì
khơng được vãng sanh”. Thế là lại niệm hơn nửa tiếng đồng hồ, vẫn cứ như thế, tôi nghĩ
có lẽ bà ta thật sự chấp phải thay đồ trước, liền kêu mọi người tạm ngừng niệm Phật, tơi
đến bên tai của bà lớn tiếng nói: “Sư tỷ A Hoàn, chị niệm Phật hai mươi năm, tâm tâm
niệm niệm đều là muốn vãng sanh Tây phương, chị đã hiểu thế giới Ta bà này là giả, là
khổ, đời người ở đời trong mấy chục năm, mỗi con người cuối cùng đều phải chết, chỉ là
trước sau mà thôi, thế giới Cực Lạc mới là quê nhà an ổn của chúng ta; Phật A Di Đà là
cha lành của chúng ta, sắp đến tiếp dẫn chị, chị phải buông bỏ hết vạn duyên, nhứt tâm
niệm Phật, mọi người chúng tôi sẽ tiếp tục giúp chị niệm Phật, đưa chị vãng sanh Tây
phương Cực lạc thế giới, sau này chị còn phải thừa nguyện lực trở lại quảng độ chúng
sanh. A Hoàn! Chị phải buông bỏ tất cả, chúng tôi thỉnh Phật A Di Đà đến tiếp dẫn chị,
chị phải niệm Phật theo đại chúng!”. Thật là không thể nghĩ bàn, mọi người đều nhìn thấy
lúc tơi nói chuyện với bà, mắt của bà mở ra, đầu thì gật khơng ngớt, bày tỏ dáng điệu rất
hài lịng, chúng tơi bèn niệm tiếp được năm phút, bà liền mỉm cười ra đi. Lúc đó là 11 giờ
trưa ngày mồng 5 tháng 3. Sau khi bà dứt thở chúng tơi lại cịn niệm tám giờ nữa mới để
con cháu bà tắm rửa thay đổi y phục và lo đám tang.


Từ chuyện đơn cử có thật trên đây, chúng ta thấy: trước khi Hồng liên hữu lâm chung
nhìn thấy một cái chụp đen nặng cả ngàn ký đè bà ta đến nỗi đau khổ vơ cùng, tự mình
khơng cách gì đẩy ra được; nếu như khơng có các vị liên hữu bên mình bà niệm Phật cho
bà, thì làm sao có thể hồi dương được hơn mười ngày, dùng Phật pháp làm những cơng


đức giải oan thích kết (mở bỏ những oan trái) cho những con mèo nhỏ kia. Mà những oan
hồn kia biết Hồng liên hữu thường ngày niệm Phật, sẽ sanh Tây phương thì món oan trái
này sẽ khơng cịn cách gì địi cho được, bèn hiện thân ra đứa nhỏ thẳng thắn nói ra đoạn
oan nghiệp bị giết hại đời trước, yêu cầu tụng kinh siêu độ cho chúng thốt khổ. Có thể
nhìn thấy nhân quả đáng sợ, rất nguy hiểm biết bao! Tơi viết đến đây tự nhiên lơng tóc
dựng ngược, cảm thán mãi! Thật là “Thân này không lo tu ngay trong đời này, còn đợi
đến đời nào mới độ được thân này!”.


<b>39. CHÁU GÁI NÓI CHUYỆN PHẠM LỖI VỚI MA QUỶ, NHỜ NIỆM PHẬT </b>
<b>GIẢI OÁN </b>


Bảy năm trước lúc tôi đang giảng Kinh Di Đà ở nhà ban trưởng Lý Thủy Cẩm, ban Kim
Cương ở đường Nam Kinh, lúc đó có vị thính chúng rất thành khẩn họï Dương tên
Khuyến, hơn ba mươi tuổi, cô ta rất giỏi làm ăn, đã từng kết hôn, do vì hai vợ chồng trẻ
cá tính khơng hợp nên chia tay nhau. Nhưng cô Khuyến này là người rất biết giữ đạo của
người phụ nữ, cho nên sau khi hai ông bà già chồng qua đời, mặc dù đã ly hôn với chồng,
cô Khuyến vào tiết Thanh Minh hàng năm, vẫn về nhà mình ở Lộc Cảng sắm sửa những
đồ bánh lễ, rượu, đồ tế v.v… đi đến mộ của cha mẹ chồng cúng bái.


</div>
<span class='text_page_counter'>(113)</span><div class='page_container' data-page=113>

hoang đó cúng vái cha mẹ chồng có duyên mà không nợ, cô ta đang phủ phục lạy và nhớ
lại ngày trước, bỗng nhiên nghe đứa cháu gái mười tuổi đứng bên mộ bia kêu lên: “Cô ơi!
Hôm nay cô đi cúng mộ cúng sai rồi, chúng ta là họ Dương, cịn cái mộ này họ Hứa,
khơng đúng rồi. Cô à! Chúng ta về nhà đi, về sau không cần phải lại đây cúng bái mộ họ
Hứa này nữa”. Do vì con bé này nhìn thấy họ ở bia đá trên mộ, khơng biết nội tình. Tơi
hỏi cơ Khuyến: “Cơ có giải thích cho nó khơng?”. Cơ Khuyến nói: “Đối với con nít làm
sao nói những chuyện q khứ như thế này! Tơi liền chia bánh trái cho đám mục đồng,
thôn nữ, mang rượu, thức ăn, đồ tế về chia cho mấy đứa nhỏ đi theo ăn, tơi thì đi vội về
Đài Trung”.


Sau khi cô Khuyến về Đài Trung 12 giờ đêm đó, người em trai ở Lộc Cảng đột nhiên vội


vã đến, rất lo lắng hỏi rằng: “Chị à, chị hơm nay dẫn cháu đi đến mộ, có làm cái gì khơng
đúng khơng? Tại sao ăn cơm tối xong, em đang viết bài, bỗng nhiên cháu nó kêu to đau
đớn lên, cứ nói: “Ba ơi! Má ơi! Có rất nhiều quỷ từ ngoài cửa sổ vào, đều vươn dài tay ra
muốn bắt con đi, họ mắng con hay xía vơ chuyện người ta, biểu người ta sau này đừng đi
cúng bái nữa, ba má ơi, con sợ q!”. Em trai cơ lại nói: “Chẳng những như thế mà lại
còn phát sốt cao nữa! Cho nên cả nhà kêu em nhanh chóng đến hỏi chị, hơm nay ra mả,
rốt cuộc là chuyện như thế nào?”. Cô Khuyến liền đem việc ở mả nói với em trai. Cơ ta
nói: “Có lẽ là những hồn quỷ bị nói là khơng phải nhà họ của mình đó, chị sáng ngày mai
nhờ các vị liên hữu đi tụng kinh siêu độ là được rồi”.


Qua sáng hôm sau, cô Khuyến liền đến nhà ban trưởng nói với Lý Thủy Cẩm rằng: “Hôm
qua cúng mộ, đứa cháu gái không biết nên nói những lời có lỗi với người chết, tối hơm
qua liền đến gây chuyện, làm cho thằng em tôi ngay đêm hơm đến nói với tơi. Hơm nay
đến đây thỉnh cầu ban trưởng nghĩ cách dùm”. Ban trưởng Lý Thủy Cẩm thật từ bi liền
cùng phó ban trưởng Lâm Ngọc Kính, ln cả cơ Khuyến, ba người đi đến Lộc Cảng
tụng một quyển kinh Di Đà, hai mươi mốt biến chú vãng sanh và chú đại bi, Tâm kinh
v.v… cho con bé, tiêu tai giải nạn cho nó, và cho nó uống nước chú đại bi, lại bảo cả nhà
niệm A Di Đà Phật nhiều vào. Thật là không thể nghĩ bàn, nhiệt độ của con bé hạ dần,
bình an vơ sự như thường. Cơ Khuyến từ đó cảm thấy Phật pháp vơ biên, càng phát tín
tâm sâu chắc, tinh tấn hơn gấp bội.


</div>
<span class='text_page_counter'>(114)</span><div class='page_container' data-page=114>

<b>40. VIỆC SANH TỬ CỦA AI, TỰ NGƯỜI ĐĨ GIẢI QUYẾT </b>


Lại nói cơ Khuyến vào một buổi sáng chủ nhựt tháng trước đến liên xã nói với tơi rằng:
“Sư tỷ Khán Trị! Nhất định phải học biết khóa tụng, tụng kinh niệm Phật, tụng chú vãng
sanh của hai thời khóa sớm tối, để một khi tai nạn đến, thì tự mình biết niệm, mới có thể
tự cứu” Cơ ta lại nói: “Do vì hai tháng trước, tơi ở Chương Hóa có một người ông bà con,
nửa năm trước bị mắc một chứng bệnh, theo lời bác sĩ ở một bệnh viện lớn ở Đài Bắc nói
là bị ung thư đường ruột, đã từng mổ ở một bệnh viện lớn, theo bác sĩ nói ruột già của
ơng ta như vẩy cá không thể cắt bỏ, kêu con trai của ông nhanh chóng đưa ơng về nhà,


muốn ăn thứ gì mua cho ổng ăn là tốt rồi!”. Tơi nghe nói ơng mắc chứng bệnh bất trị liền
đi đến Chương Hóa thăm ơng. Đến gặp bà, bà nói với tơi: “Ơng của con đã có dặn: Lúc
ơng ta sắp lâm chung, cần phải trợ niệm tám tiếng đồng hồ cho ông ta, không được khóc,
đám tang phải làm chay, tồn bộ phải làm theo nghi thức Phật giáo”. Tơi nói: “Mọi người
ở đây chưa từng thấy qua người ta trợ niệm, làm sao mà biết trợ niệm? Nếu như lúc cần
hộ niệm, bà gọi điện thoại cho con, con ở Đài Trung mời thêm mấy vị liên hữu đến trợ
niệm giúp cho bà”.


Vào đầu tuần tháng hai, tôi nhận được điện thoại của bà tôi ở Chương Hóa nói ơng sắp
vãng sanh rồi, tơi vội vàng đi mời hai vị liên hữu nữa cùng tôi đến Chương Hóa, thì chỉ
thấy ơng ngồi dựa trên ghế dựa nhà khách, đã hơn mê khơng cịn biết gì, khắp mình mồ
hơi nhễ nhại, hơi thở khó khăn, tôi liền cùng hai vị liên hữu bắt đầu niệm Thánh hiệu A
Di Đà Phật. Một điều khiến cho người ta yên lòng nhất là cả nhà con gái, con trai, các
cháu đều vây quanh lại đồng thanh niệm Phật, niệm đến trưa ông đã tỉnh táo trở lại, liền
nói với mọi người rằng: “Vừa rồi có rất nhiều hung thần ác quỷ muốn bắt tôi đi, nhưng
pháp lực của Phật A Di Đà chúng ta vô biên, bây giờ đã đi hết rồi, tôi muốn vào phịng
n nghỉ một chút”. Cơ Khuyến thấy ơng ta nói chuyện đã như người bình thường rồi,
liền dẫn hai vị liên hữu cùng đến, đi ra quán chay gần đó ăn cơm trưa, sau đó mua hai vé
xe đưa họ về Đài Trung trước.


Cô Khuyến do vì buổi chiều lại đến nhà người bà con thăm ông nên không cùng hai vị
liên hữu cùng về, cơ Khuyến lại có một bà dì ở cửa Nam, liền trước đến bà dì nói ý muốn
nghỉ một chút, bà dì đương nhiên rất hoan nghênh, liền dọn một phịng khách sạch sẽ,
n tĩnh cho cơ nghỉ. Cơ Khuyến một mình ngồi trên giường, lúc cịn chưa nhắm mắt,
bỗng nhiên nhìn thấy rất nhiều hung thần ác quỷ đi đến, túm chặt đầu tóc của cơ dộng
xuống giường túi bụi, làm cho cô Khuyến đau đến nỗi ngay cả đến niệm Phật cũng niệm
không ra tiếng, đành dùng tâm niệm A Di Đà Phật, tâm niệm không ngừng, bọn ác quỷ
kia đương cự không lại, mới buông ra chạy đi.


</div>
<span class='text_page_counter'>(115)</span><div class='page_container' data-page=115>

Khuyến được bình an vơ sự, người ơng bà con cũng lần lần mạnh khỏe lại như thường, đã


có thể đi bộ đến chợ gần đó đi tản bộ hóng mát, mãi đến ngày 23 tháng Tư, 3 giờ đêm
bỗng nhiên dứt thở, nhứt thời không kịp mời người đến trợ niệm. Đây chứng minh, lúc
bình thường khơng có cái nhân niệm Phật, lúc lâm chung khơng có được cái duyên trợ
niệm, mặc dù mong được người trợ niệm, nhưng cũng khơng thể được!


Cho nên nói: “Ai ăn nấy no, việc sanh tử của ai người đó giải quyết”. Độc giả nếu muốn
tiêu tội nghiệp cầu vãng sanh, thì nhất định phải tự mình niệm Phật cho nhiều, bảo đảm
nơi ở được bình an, đi ra đường được vô sự. Đồng thời thân này lúc mạng chung, được
gặp duyên lành, vãng sanh Cực lạc.


<b>41. THƯỜNG NIỆM PHẬT ĐƯỢC THOÁT KHỎI TAI NẠN </b>


Một câu A Di Đà Phật, vốn là thuốc A Già Đà, có thể trị bá bệnh tiêu tai khỏi nạn, thật sự
rất tốt. Ở đây lại kể ra một vị niệm Phật thành khẩn được cảm ứng. Nhà vị cư sĩ này ở
đường Tam Dân Đài Trung, nguyên quán Phúc Châu, tên là Tôn Phụng Anh tuổi khoảng
hơn ba mươi. Cô ta lúc trẻ ở Đại lục đã tin Phật, đã trồng căn lành. Lúc kháng chiến
thắng lợi, Đài Loan được khôi phục, sau khi cô ta chuyển về Đài Trung, bắt đầu niệm
Phật, do vì là hàng xóm của bà Vạn, đã từng tham gia ban Phục Hưng của liên xã, nhưng
cô ta cách ban Song tu rất gần, buổi giảng kinh các ngày chủ nhựt thường đều tham gia.
Có một hơm cơ ta nói với tôi: “Sư tỷ! Tôi niệm Phật A Di Đà được cảm ứng như thế, sao
mà khuyên người ta niệm Phật, người ta đều chẳng chịu niệm?”. Tôi hỏi cô ta từng được
cảm ứng như thế nào? Cô ta liền đem một đoạn sự thật bảy năm trước nói với tôi.


</div>
<span class='text_page_counter'>(116)</span><div class='page_container' data-page=116>

cũng niệm Phật, lúc quét nhà cũng niệm Phật. Tôi cứ như thế luôn luôn niệm trong tâm
tơi. Gặp người hàng xóm liền khun họ niệm Phật, khuyên họ đi nghe giảng kinh, đáng
tiếc là họ đều khơng tin, có người cịn cho tơi là ngu mê, cho nên xem họ suốt ngày đều
nói chuyện tào lao luống qua ngày tháng, rất là tội nghiệp cho họ”. Tôi liền an ủi cô ta,
nói rằng: “Cơ dụng cơng như thế, tâm khơng rời Phật, cuối cùng nhất định được giải
thoát. Đời này khơng có biện tài độ chúng sanh, phát nguyện vãng sanh Cực lạc, lúc đầy
đủ biện tài, thừa nguyện lực trở lại, cứu độ hết thảy chúng sanh”.



Cư sĩ Tơn Phụng Anh có một hơm lại nói với tơi: “Tơi vào mùa hè năm ngối, cũng từng
nhờ Phật gia bị, thoát khỏi được tai nạn một lần”. Tiếp theo cơ ta nói: “Việc xảy ra vào
tháng 5 năm ngối, có một đêm khoảng hơn 2 giờ, ở trên mạch đập của cánh tay trái tôi,
đang ngủ bỗng nghiên bị con gì cắn một cái, đau thấu tim phổi, lập tức lớn tiếng kêu đau,
chồng tôi và đứa con lớn thức dậy thì thấy một con trùng lớn đang bị trên cánh tay tơi,
hai cha con liền tóm lấy con trùng to đó dán chặt trên tường. Tơi lúc đó đau muốn chết,
chỗ bị cắn dường như có cái gì đó, nó chạy khắp người, thẳng lên đau đến trên óc, có cảm
giác như cái đầu phình to lên như cái đấu, nhưng trong lịng rất hiểu cái đau nhức dữ dội
đó, nếu như đau đến trong tim thì bỏ mạng, do vì ngực ngạt đến nỗi thở không được, tôi
tự nghĩ nhứt định số mạng đã định sống đến đây là hết, e khơng có cách gì cứu được! Lúc
tơi bị cắn, thì cảm thấy sanh mạng khó giữ, do vì đau quá, tôi liền nhứt tâm to tiếng niệm
“A Di Đà Phật”. Mặc dù cái đau đã chạy đến trên óc, cho dù nó chạy đến trong tim, tơi
vẫn cứ một mực nhứt tâm niệm Phật, hy vọng Đức Phật A Di Đà đến tiếp dẫn tôi đi”. Lúc
đó tơi bèn hỏi cơ ta: “Chạy đến trong tim là mất mạng, nhưng cơ uống thuốc gì hay chích
thuốc gì mà cứu được vậy?”. Cơ ta đáp: “Đêm hơm khuya khoắt, đi đâu mời thầy thuốc?
Khơng có chích cũng khơng có uống thuốc gì hết, tơi tự mình một lịng một dạ chỉ muốn
vãng sanh Tây phương, cứ niệm Phật mãi không dứt, niệm đến không cịn sợ gì nữa hết,
trong tâm khơng cịn vướng mắc chút gì, chỉ có một câu “A Di Đà Phật”. Ngay lúc đó,
bỗng nhiên thân thể cảm thấy nhẹ nhàng dễ chịu lại, khơng những đầu khơng cịn đau,
ngực cũng khơng cịn ngạt nữa, chưa đến sáng đã tỉnh táo lại, tinh thần cũng vẫn như cũ,
nhưng cũng cịn rất mỏi mệt, hơm sau nằm nghỉ trên giường một ngày thì bình an vơ sự”.
Tơi lại hỏi cơ ta: “Con trùng đó nó ra làm sao? Bao lớn? Tại sao cắn người đau ghê gớm
vậy?”. Cơ ta nói: “Hiện giờ vẫn cịn dính trên vách dài khoảng một thước (thước Tàu), có
rất nhiều chân”. Tơi hỏi cơ ta màu gì? Cơ ta nói màu đỏ nhạt. Tơi nói: “Đó chẳng phải là
con rít sao? Cơ thật là có căn lành, gặp lúc nguy cấp cịn biết nhứt tâm niệm Phật, nếu
khơng thì bị rít cắn rất là nguy, cịn nguy hơn là rắn độc nữa, thường hay gây ra cho
người ta đến chết!”.


Hai chuyện cảm ứng kỳ dị trên đây là chính miệng liên hữu Tơn Phụng Anh nói với tơi.



</div>
<span class='text_page_counter'>(117)</span><div class='page_container' data-page=117>

Sư tỷ Trần Thường Nga là một người rất thú vị, rất từ bi trong làng lão liên hữu chúng
tơi. Bà đã có con cháu đầy nhà, ở đường Đốc Hành trung tâm thành phố, hiện đã bảy
mươi tám tuổi, nhưng tai mắt vẫn tinh tường, trí nhớ rất tốt, cho nên từ hồi trẻ đã học biết
phân các loài cỏ thuốc, mỗi thứ cỏ thuốc nào trị bệnh gì bà nhớ rất rõ ràng. Có một lần tôi
hỏi bà: “Sư tỷ! Bà lạy Phật thành khẩn như thế không biết đã từng được cảm ứng chưa?”.
Bà ta nói rất nhiều, thế là bắt đầu kể việc cảm ứng niệm Phật của chính bà đã trải qua.
Sư tỷ Thường Nga nói: “Khoảng 18 năm trước, lúc tơi ở Ơ Nhựt đã quy y Tam Bảo, sớm
tối rất thành kính lạy Phật. Có một hơm ngủ trưa, chiêm bao thấy một thiếu nữ mặc đồ
trắng, tay cầm cành trúc dài khoảng bốn thước (thước Tàu), hai đầu dùng vải đỏ bịt lại,
rất là đẹp. Thiếu nữ áo trắng nói: “Tuổi thọ đã đến rồi! Cầm cành trúc này, cho bà trị
bệnh đó!”. Nói xong liền biến mất. Đến khi tôi thức dậy, cảnh trong chiêm bao vẫn cứ
như trước mắt. Liền nói với con dâu việc trong mộng, con dâu cũng ngơ ngác khơng biết
gì!


Đến hơn 5 giờ chiều, đứa cháu nội nói với tơi là ơng bác nhà kế bên bị cảm nặng, muốn
bà nội tìm cỏ thuốc cho ông ta uống, tôi liền lấy một cái giỏ, đi tìm cỏ thuốc, nửa đường
gặp một thằng nhỏ, nó nói: “Bà ơi! Phía trước có một con chó dữ hay cắn người ta, bà
nên đề phịng”. Tơi liền thuận tay bẻ một cành trúc bên đường, rồi nói với thằng nhỏ:
“Cám ơn cháu, bà đã có cành trúc này, chó đến khơng có sợ”. Thật tình con chó nó sợ
cành trúc, ngay cả khơng dám sủa một tiếng.


Đợi đến lúc tơi tìm cỏ thuốc đủ rồi, ở bên con rạch, bỗng có một đứa mục đồng, dắt một
con bò bụng rất to, lúc con bò đó đi đến gần tơi, đột nhiên nó hất đầu một cái làm cho tơi
ngã nhào, lộn mình té vào trong con rạch, nước sâu hơn một trượng. Lúc đó trong tâm tơi
tự nghĩ nhất định khơng cịn sống được, vì nước sâu hơn trượng chảy mạnh, chân đạp
không tới đáy, lúc thân nổi lên, giỏ thuốc đã bị nước cuốn đi, nhưng cành trúc vẫn còn
nắm cứng không buông, tôi lại không biết bơi thành ra cứ uống nước ồng ộc. Trong lúc
nghìn cân treo sợi tóc, chú bé mục đồng rất thơng minh, liền lớn tiếng kêu: “Bà ơi, cành
trúc nắm trong tay bà, đưa qua bên này đi tôi kéo bà lên!”. Tôi nghe xong liền đưa cành


trúc qua cho mục đồng, hai tay nắm chặt lấy, chú mục đồng cũng rất cố sức, cũng hai tay
nắm chặt lấy cành trúc, từ từ kéo tôi lên, cuối cùng cứu được tơi lên bờ.


Người ta nhìn thấy y phục tơi ướt sũng hết, thật giống như con gà mắc nước, đều khen tơi
có phước. Nghe nói tại chỗ đó người ta rớt xuống đều bị nước cuốn đi, khơng có người
nào được cứu, đã có mấy chục người chết nơi đó, tơi mới nhớ lại giấc mộng kỳ diệu, cành
trúc và thiếu nữ bạch y cho tôi thấy trong mộng, cùng với cành trúc bẻ bên đường dài như
nhau, chỉ là trúc ở nhơn gian khơng có đẹp như thế.


</div>
<span class='text_page_counter'>(118)</span><div class='page_container' data-page=118>

điềm báo trước cho bà được bình an, có thể thấy được Phật pháp vơ biên, khơng thể nghĩ
bàn.


<b>43. Ở CÕI ĐỜI NÀY TRƯỚC ĐƯỢC NGHE THIÊN NHẠC Ở HƯ KHƠNG </b>
Lại nói về sư tỷ Thường Nga, từ sau khi biết đi chùa lạy Phật, hai thời khóa sớm tối tụng
Kinh Di Đà, tụng đến rất thuộc, từng chữ rõ ràng, cho nên có mấy vị lão liên hữu đều
thích nhờ bà dạy học Kinh Di Đà, khi bà tụng đến đoạn “thường tác thiên nhạc, xuất vi
diệu âm” bà thường nghĩ: “Nếu như trước khi chưa vãng sanh, trong đời này, ở cõi này
mà có thể nghe được âm thanh vi diệu của thiên nhạc, khơng biết sẽ thích thú như thế
nào?”. Trong một mùa hè mười năm trước, phía sau nhà ở của sư tỷ Thường Nga có trồng
một giàn dưa leo, từng trái từng trái vừa to vừa non lủng lẳng, lão sư tỷ mắt nhìn dưa vừa
chín, muốn ăn thử quả dưa tươi mới, bèn kêu con dâu vào nhà bếp chuẩn bị trước, tự bà
đi ra giàn dưa, leo lên trên thùng phuy xăng muốn hái dưa, đang lúc hái hết trái này qua
trái khác, vừa hơi không cẩn thận, cái thùng phuy xăng không chịu được nặng, lão sư tỷ
và cả thùng ngã lăn ra, nằm im dưới giàn dưa khoảng mười mấy phút, con dâu của bà đợi
trong bếp thấy lâu quá, nghĩ sao mà má chồng đi hái dưa lâu như thế mà chưa vào, liền
đến giàn dưa xem, vừa trông thấy sợ hãi thất sắc, liền miệng la lên “Má, má!”. Lại cho là
bà bị chấn thương não, hôn mê ngã trên đất không biết gì nữa! Lúc đó đột nhiên sư tỷ
chặn lại sự huyên náo của con dâu: “Đừng kêu nữa! Ta đang yên tĩnh nghe tiếng nhạc hay
ho kỳ diệu, nghe đến tinh thần sảng khoái, bị ngươi kêu, làm mất tiêu hết rồi!”. Con dâu
của bà nói: “Âm nhạc ở đâu, sao con không nghe thấy?”. Sư tỷ lại nói với tơi: “Lúc đó tơi


ở dưới đất đứng dậy, dựng thùng phuy xăng dậy xong, lại leo lên hái tiếp hai trái dưa,
xong mới cùng con dâu đi vào nhà bếp”.


Bà lại nói: “Cho dù bây giờ nhớ lại lúc đó, thì âm thanh vi diệu của thiên nhạc, thật là ở
thế gian chưa từng nghe qua, cho nên nói là một âm nhạc khơng thể nghĩ bàn!”. Tôi hỏi
bà ta “Cái âm thanh vi diệu đó từ hư khơng đến, hay là âm nhạc phát ra từ chỗ nào đó?”.
Sư tỷ nói: “Lúc đó cảm giác như là ở trên đầu, nghe rất gần”. Tơi nửa đùa nửa thật nói:
“Vạn pháp do tâm tạo, hồi xưa có một họa sĩ vẽ ngựa, ông ta suy nghĩ rất lâu về cách cấu
tạo và động tác của ngựa, tự mình lại biến thành ngựa, chính là cái đạo lý này, do vì chị
suốt ngày nhớ tưởng, muốn nghe được thiên nhạc ở hư không của thế giới Cực lạc ở Tây
phương, lâu dần bèn thật sự nghe được, có lẽ là tác dụng của tâm lý!”.


Sư tỷ lập tức cải chánh nói: “Đích xác là cảm ứng của Phật A Di Đà, nếu khơng thì lúc
tơi ngã, dưới đất đều là đá gạch vỡ, lại ngay cả một vết trầy sướt cũng khơng có, lúc đó
tơi đã là bà già sáu mươi tám tuổi rồi. Nếu như không phải Phật A Di Đà đại từ đại bi gia
hộ, làm gì có được êm thắm như vậy?”.


</div>
<span class='text_page_counter'>(119)</span><div class='page_container' data-page=119>

Vị lão sư tỷ Thường Nga này cịn có một người con gái lớn tên là Nhung, mọi người đều
gọi cô là A Nhung, năm nay 43 tuổi, chồng cô là kỹ sư xây dựng, nhà ở Đài Đông. Cô A
Nhung này từ lúc trẻ đã bị chứng bao tử thịng, thầy thuốc Đơng Tây trị hàng chục năm;
những phương pháp bí mật hay những loại thuốc đặc trị đều không hiệu quả, bệânh mãi
đã đến gầy như que củi. Năm năm trước sư tỷ Thường Nga đến Đài Đơng thăm, nhìn thấy
con gái bị bệnh bao tử nặng như thế, liền nhớ đến thuốc A già đà trị được muôn bệnh,
liền khuyên con gái chí tâm niệm Phật và kể rất nhiều truyện cảm ứng không thể nghĩ bàn
nhờ niệm “A Di Đà Phật”. Dạy con gái phải gắng sức niệm Thánh hiệu A Di Đà Phật làm
cách trị liệu có hiệu quả nhất về mặt tinh thần. Sư tỷ ở Đài Đông mười mấy ngày thì nghe
nói gần đó có một cơ sở liên xã Phật giáo, liền dẫn con gái đi đến đó lạy Phật, niệm Phật
và quy y Tam Bảo. Từ đó về sau, con gái của bà đã là đệ tử Tam Bảo, làm một vị tín đồ
thuần thành của Phật giáo, hai thời khóa sớm tối, dù bận gì cũng đều tham gia đầy đủ.
Khơng biết lúc nào, bệnh bao tử đau khổ nhiều năm nay, rốt cuộc tiêu mất hết, sức khỏe


hồi phục. Chỉ có trong một năm, do sự dẫn dắt của sư phụ và các liên hữu, cô ta chẳng
những biết tụng kinh, xướng tán, tụng niệm hai thời sớm tối ở liên xã, ngay cả đến các
pháp khí cũng đều học biết rành rẽ. Tục ngữ nói: “Phật pháp khơng phải việc khó, chỉ sợ
tâm khơng chun” thật là rất đúng!


Sau khi A Nhung mạnh khỏe trở lại, gia đình ngày càng hưng long, mua thức ăn, làm
việc gì thì dùng xe đạp đi, hai năm gần đây, xe đạp bị chê và bị đào thải, liền mua một
chiếc xe gắn máy màu đỏ 50 phân khối, muốn đi đâu thì đi, vừa tiện vừa khỏe, suốt ngày
rất vui vẻ, vừa làm Phật sự, vừa giúp nghiệp vụ cho chồng, nhất là nhiệm vụ người đàn
bà trong gia đình, trong ngồi đều tươm tất.


Vào tháng 3 năm ngối, một hơm hơn 8 giờ sáng A Nhung như thường lệ chạy xe gắn
máy muốn đến chợ mua đồ, đi được nửa đường bỗng nhiên máy xe xảy ra sự cố, thắng
chân thắng tay đều hư, không thắng lại được, liền tức thời xe như con ngựa hoang, xông
xáo bừa bãi, đại khái mỗi con đường ở Đài Đông đều chạy qua như giơng như gió, nguy
hiểm st đụng chết một cơ gái vùng núi, may mà cô gái né rất nhanh, chưa bị tai nạn.
Lúc nguy hiểm ngàn cân treo sợi tóc này, A Nhung trong lịng sợ đến nỗi mơ mơ màng
màng, cũng khơng có cách gì, cứ chạy mãi. Lúc sắp xông vào một cửa hàng, trong
khoảnh khắc sắp đụng vào cây cột to trước cửa, thì trong miệng A Nhung bỗng nhiên kêu
to một tiếng “A Di Đà Phật”. Nói ra cũng thật kỳ lạ, chiếc xe gắn máy đó lập tức thụt lùi
lại, lùi đến chính giữa đường lộ, chiếc xe tự động dừng lại, A Nhung vội vã xuống xe, sợ
đến nỗi mặt khơng cịn chút máu, tim đánh thình thịch, trong miệng thì vẫn cứ niệm “A
Di Đà Phật” khơng ngớt.


Lúc đó rất nhiều người vây lại xem, người và xe khơng việc gì, mọi người đều chúc phúc
cho cơ ta, nói là: đại nạn mà khơng chết, nhất định là có phước dày. A Nhung sau khi trải
qua lần tiêu tai khỏi nạn này, liền nhớ lại mẹ có tâm từ bi khun cơ niệm Phật, trước thì
hết chứng bệnh quái ác, tiếp theo lại được giải thoát lần tai hoạ ghê gớm này, cho nên vô
cùng cảm tạ, bèn nhờ người đến Đài Trung mời mẹ của cô đến ở chơi vài tháng.



</div>
<span class='text_page_counter'>(120)</span><div class='page_container' data-page=120>

<b>45. ĐỊA TẠNG BỒ TÁT CHỈ ĐIỂM BÌNH AN </b>


Thân là cội gốc của các khổ, vốn không đáng tiếc; nhưng thân có thể tải đạo, cũng khơng
thể không trân trọng. Những lời này là những lời của các bậc Đại đức thuở xưa tả về cái
thân này của chúng ta là cái thân nghiệp báo chứa nhóm những tội ác, sống trên cõi đời
chẳng qua chỉ vài mươi năm ngắn ngủi, đâu đáng quý trọng. Nhưng nếu muốn được giải
thốt thì phải mượn giả tu chân, chẳng kể là tu học Phật pháp hay lạy Phật, niệm Phật,
đều phải nhờ vào thân này; lúc tự mình gặp phải tai nạn nguy khổ thì tự mình niệm Phật,
tự mình được cứu. Khơng tin, hãy xem chuyện dưới đây:


Vào 3 giờ chiều ngày chủ nhật 12 tháng 6 âm lịch là ngày hội giảng kinh định kỳ của ban
Song tu của Liên xã. Đến 5 giờ giảng xong, sau khi niệm kệ hồi hướng bỗng có một vị
thính chúng mới, đứng dậy hướng về mọi người nói: Nhà tơi ở Hợp tác Tân thơn, chồng
tơi họ Hồng, tơi hiện muốn đem chuyện cảm ứng chính tơi đã trải qua báo cáo cho mọi
người nghe, để đáp tạ ân đức của Phật A Di Đà và Địa Tạng Bồ Tát.


Bà Hoàng kể: Vào tháng 2 năm Dân quốc thứ 54, tơi có một lần đi du lịch ở Đài Bắc, ở
chợ gặp một người gánh một gánh rùa mời chào, hỏi tơi muốn mua rùa khơng? Tơi liền
nói với anh ta: “Tôi là người xứ khác, mua rùa làm gì?”. Tơi chơi ở Đài Bắc hai ngày về
đến Đài Trung, qua ngày sau thì ở chợ Đệ Nhất lại gặp người bán rùa ở Đài Bắc, bị anh ta
nhìn thấy, lại kêu tơi và nói: “Bà ơi! Ở Đài Bắc bà nói bà là người xứ khác, bây giờ bà đã
về nhà rồi, bà nên mua đi!”. Tôi liền bỏ ra 50 đồng mua bốn con rùa đem về nhà, đưa cho
con dâu bảo nó đem bỏ ở miếng đất trống phía sau nhà để ni, hằng ngày cho ăn lá cải
và cơm. Có một hơm lúc tơi khơng có ở nhà, con dâu tơi liền bắt một con rùa ra giết, đứa
con gái nhỏ mười lăm tuổi của tơi, ở bên nhìn thấy thì sợ q, co rút hai tay ra phía sau
nói với con rùa rằng: “Rùa ơi! Tay của tao bị người ta cột rồi, nên không thể cứu mày
được”. Lúc tôi về nhà thấy một con rùa bị giết liền quở trách con dâu rằng: “Mua rùa về
là để phóng sanh, khơng phải để cho cơ giết ăn”. Đêm đó tơi nằm mộng thấy một người
nói với tôi: “Tai họa của bà đến rồi”. Lúc thức dậy trong lịng cảm thấy thắc thỏm khơng
n.



</div>
<span class='text_page_counter'>(121)</span><div class='page_container' data-page=121>

“A Di Đà Phật” luôn ba lần, rồi mới chảy nước dãi, và hôn mê luôn. Xin bác sĩ nhanh
nhanh chích thuốc cấp cứu dùm”


Lúc cơ bé cấp cứu ở bệnh viện may mà có một nhân viên trong cửa hàng bán gạo nhận
biết nó, liền chạy đến nhà tôi ở hợp tác xã Tân Thôn cho chúng tôi hay việc tai nạn xe, vợ
chồng tôi tức thời đến bệnh viện xem, chăm sóc, lúc đó con bé cịn có hơi thở thoi thóp
yếu ớt, máu trong lỗ tai vẫn cịn chảy ra mãi. Lúc đó người làm cha mẹ mắt nhìn thảm
trạng của con gái như thế, thật đau lịng, khơng dám nghĩ sẽ hồi phục lại như cũ; bác sĩ
cũng không dám bảo đảm chắc về tính mạng, tất cả bà con bạn bè đến thăm hỏi an ủi
cũng đều nói lành ít dữ nhiều, mãi đến ngày thứ sáu tính từ hôm vào viện, vẫn cứ trầm
trọng như thế, khơng có một chút biến đổi nào khả quan.


Nhưng kỳ tích khơng thể nghĩ bàn, khiến người khó tin nổi, cuối cùng đã xảy ra. Vào cái
ngày thứ sáu đó, trong đêm lúc tơi đang nửa thức nửa ngủ, thì nhìn thấy một vị Bồ Tát
tướng mạo trang nghiêm, đến bên giường bệnh nói với tơi: “Ta là Địa Tạng Bồ Tát đến
báo tin cho ngươi, con gái của ngươi rất có căn lành, hiện đang ở chỗ của Phật tổ, ngày
mai sẽ trở lại, nó sẽ còn mau lành bệnh hơn những người bệnh khác trong phịng nữa,
ngày mai có thể xuất viện, sau này thân thể mạnh khỏe, bình an vơ sự”. Nói xong phất
phới bay đi.


Lúc tôi đem cảnh trong mộng này nói với chồng tơi, hai người đều nửa tin nửa ngờ hầu
như cho là khơng thể có việc dễ dàng cho mình như thế. Qua ngày thứ bảy, con nhỏ vẫn
cứ hôn mê chưa tỉnh, nếu như thế tôi là kẻ nằm mộng mê mờ, nhưng ông ta lại nói với tơi
là Địa Tạng Bồ Tát đến chỉ điểm cho tơi mà, nói nghe rõ rõ ràng ràng!… Lúc đó chồng
tơi đang ngồi một bên giường của con gái, thì bỗng nhiên cánh tay phải đã một tuần
khơng có nhúc nhích, giở lên rờ rờ mặt của ba nó, tay trái cũng đồng thời giở lên, hai tay
rờ rờ mặt ba nó một hồi, lúc rờ đến cái cà vạt, liền cuốn tròn cái cà vạt lại, rồi mở mắt ra,
mặt mày hớn hở kêu lên “Ba!”. Lúc đó người làm cha mẹ nhìn thấy con gái đã nói
chuyện được, con ma bệnh như biến mất, nỗi vui trong lịng thật khó tả. Con nhỏ lại nói:


“Con khơng có bệnh gì hết, tại sao lại nằm bệnh viện?”, liền liếng thoắng địi về nhà.
Ngay trong buổi chiều ngày hơm đó, cuối cùng thật sự xuất viện về nhà. Con bé từ sau
khi về nhà, tinh thần mãi đến nay rất tốt, trí huệ lại tăng trưởng, hiện học trung học thành
tích lại hạng ưu, dung mạo cũng thay đổi xinh đẹp phước tướng. Phật, Bồ Tát đại từ đại
bi khiến cho nó khởi tử hồi sinh, thật là khơng thể nghĩ bàn.


</div>
<span class='text_page_counter'>(122)</span><div class='page_container' data-page=122>

liền nói: “Khơng được! Khơng được! Để hơm khác tơi đi tìm một xâu cho bà”. Bà Hồng
lúc đó cười cười nói: “Tơi thật sự lúc đó có chút bỏn sẻn!”.


Qua mấy ngày sau lúc hơn 5 giờ sáng đứa con trai kế của bà Hoàng vừa mở cửa liền lớn
tiếng kêu lên: “Má à, xâu chuỗi của má làm sao mà rớt bên cửa nè!”. Bà Hoàng vừa ngồi
dậy bước xuống giường, bèn chân không chạy đến cửa xem, đúng là một xâu chuỗi, hai
tay nhặt lên xem kỹ đúng là một xâu chuỗi hạt Bồ đề thật 108 hạt, lại có đính một miếng
nhỏ tượng Tây phương Tam Thánh. Lúc đó trong tâm bà Hồng nghĩ: Hôm nay là ngày
mùng 2 tháng giêng, không biết người tu hành ở đâu đánh mất xâu chuỗi, hiện chắc chắn
đang rất lo, bà nghĩ tới nghĩ lui, hay là đem xâu chuỗi đến bến xe công cộng đưa cho
nhân viên làm việc ở đó và cơ trưởng trạm xe nói: Xin đem xâu chuỗi này treo lên trên
lồng đèn sắt mời nhận, nếu như người nào đánh rơi lại nhìn, thì trả lại cho người ta.
Nhưng qua ba ngày, lúc bà Hoàng trở lại bến xe xem, thì xâu chuỗi vẫn cịn treo y
nguyên chỗ đó. Có một anh tài xế nói với bà: “Bà ơi! Tơi muốn xâu chuỗi đó, bà cho tơi
được khơng?”. Bà Hồng nói: “Khơng được! Khơng được! Xâu chuỗi này là của mẹ ba
chị em xin. Có lẽ là Phật A Di Đà đưa đến cho bà ta đấy”. Nói chưa dứt lời, thật rõ khéo,
mẹ của ba chị em đã đến trước mặt, bà Hoàng liền lấy xâu chuỗi cho bà ta, bà mẹ của ba
chị em hai tay tiếp lấy, vui mừng hớn hở, ln miệng cảm tạ lịng từ bi của Phật.


Lại nói về ba chị em đó cịn có một bà nội đã tám mươi bốn tuổi, bệnh tật triền miên suốt
mấy tháng, đã đến lúc nguy kịch khó chữa, khoảng năm ngày rồi khơng ăn được gì, ngày
qua đêm lại tinh thần rối loạn điên đảo, kêu nói lung tung. Mẹ của ba chị em liền nghĩ
đến phải mời bà Hoàng đến nhà hỏi thăm ý kiến xem phải làm thế nào? Bà Hoàng đến
ngay nhà họ, vừa xem người sắp mạng chung, hiện ra những tướng xấu như thế, tức thời


gọi con cháu cả nhà tề tựu lại, nói với họ rằng: “Tất cả đều phải chí thành chắp tay ở bên
bà cụ niệm A Di Đà Phật, nếu ai không biết niệm, chỉ cần niệm theo tôi, từng câu từng
câu khơng được lộn lạo, niệm phải cho rõ ràng, có quy củ!”. Thật là Phật pháp vô biên,
không thể nghĩ bàn. Mọi người niệm được hơn một tiếng đồng hồ, thì gương mặt nhăn
nhó khó coi của bà già lúc nãy, bỗng nhiên đổi ra vui vẻ, hòa nhã, trong miệng cũng niệm
theo “A Di Đà Phật”. Cả nhà trơng thấy cảnh này trong lịng ai nấy đều rất vui mừng,
niệm tiếp mãi hơn mười phút sau thì bà được an nhiên vãng sanh. Bà Hồng lại dạy họ:
người mất, sau khi hết thở tám tiếng đồng hồ, tiếng niệm Phật không được gián đoạn. Cả
nhà ba chị em đối với bà Hoàng thật là mang ân vơ cùng, bởi vì bà đã cứu được bà nội
của họ thoát ly được biển khổ.


<b>47. DIÊM VƯƠNG CŨNG SỢ PHẬT A DI ĐÀ </b>


Nói tiếp về bà Hoàng này, bà lại kể với mọi người một chuyện <i><b>“Sự vĩ đại của Phật A Di </b></i>
<i><b>Đà, cả vua Diêm La cũng phải sợ”</b></i>.


</div>
<span class='text_page_counter'>(123)</span><div class='page_container' data-page=123>

tiếng người ngoài cửa trả lời: “Ta là sứ giả vua Diêm La phái đến tìm một người”. Bà
Hồng lại to tiếng nói: “Nhà này của chúng tơi là người theo Phật A Di Đà, khơng có
quan hệ gì với vua Diêm La của các người, đi khỏi đây nhanh đi!”. Nói xong bà liền to
tiếng niệm “A Di Đà Phật”, được một lúc bà ngừng lại lắng nghe, bên ngồi đã khơng
cịn động tĩnh gì nữa hết, bà liền mở cửa ra xem thử, thì thấy có một đám đông người
đang đi hướng ra đường lộ lớn, có người khua chiêng đánh trống, có người mang cờ, lệnh
bài, cuối cùng là một người mặc đại bào xanh ngồi một cái kiệu to bốn người khiêng, cả
đám đang vội vã chạy. Bà Hồng lúc đó càng gắng sức niệm Phật hơn. Vừa thức dậy hóa
ra chỉ là một giấc mộng nhưng trong miệng vẫn còn niệm “A Di Đà Phật”.


Nguyên là hai mẹ con cô gái nhà kế bên bà Hồng, cơ con gái năm nay mười tám tuổi, vì
trên cổ nổi lên một cái nhọt to bằng trứng chim bồ câu, muốn vào bệnh viện mổ cắt bỏ đi,
hai mẹ con liền cùng đến một bệnh viện ở thành phố Đài Trung, không may sau khi mổ
thì chết! Ngày đó đúng là ngày thứ ba sau cái đêm trong giấc mộng bà Hoàng thấy do


nhờ câu A Di Đà Phật mà đuổi được bọn quỷ sai của vua Diêm La, bà Hồng nói bà rất
tiếc cho cơ gái, do vì trước khi xảy ra việc bà không biết được hai mẹ con đi nằm viện
mổ. Nếu như bà biết thì đã cản, kêu họ khơng cần đi. Nhưng ba ngày trước bà khơng dám
nói với họ về giấc mộng “vua Diêm La sai quỷ đến đây tìm người” do vì khơng biết hư
thật thế nào, sau khi nói ra e rằng người ta nói dùng lời nói yêu ma mê hoặc người, cho
nên khơng dám nói để nhắc họ chú ý. Đáng tiếc là họ khơng có tin Phật, cũng không biết
niệm Phật để giải mở oán kết. Một mai vô thường đến, người không biết niệm danh hiệu
Phật, sẽ chịu sự chi phối của vua Diêm La, khơng cách gì chỉ đành đi theo ông ta thôi.
Mọi người chúng ta thử nghĩ xem: người trì danh niệm Phật có vơ lượng vơ số chư Phật ở
sáu phương nhiều như số cát sông Hằng đều hộ niệm người này. Tất cả quỷ thần và vua
Diêm La làm sao dám đến gần người niệm Phật. Nói như thế thì người niệm Phật sẽ
khơng chết ư? Như thế cũng không đúng. Người niệm Phật, nếu như đến lúc thọ mạng
hết, thì chỉ có Tây phương Tam Thánh theo âm thanh mà đến tiếp dẫn vãng sanh về nước
Phật, một đời thành tựu, vĩnh viễn khơng có đọa lạc trong lục đạo thọ cái khổ luân hồi
này nữa, cho nên xin khuyên các vị độc giả đến với mơn trì danh niệm Phật nhiều vào, tự
mình niệm Phật, tự mình được cứu.


<b>48. TRONG MỘNG NIỆM PHẬT, CỨU MẸ THOÁT HIỂM </b>


Cơ sở hoằng pháp Vụ Phong của liên xã ở Đài Trung có một vị liên hữu niệm Phật rất
cung kính, họ Hầu, tên Anh Mãn, lại có tên là Ngân Tiếu, năm nay 38 tuổi, nguyên quán
ở làng quê Tân Dinh miền Nam, 4 năm trước theo chồng dời về ở thôn Thảo Hồ ở Vụ
Phong. Cô gái này đời trước trồng nhiều căn lành, sau khi nghe được pháp mơn Tịnh độ,
tín tâm kiên cố, hai thời khóa sớm tối chưa từng gián đoạn, có được công phu lớn mạnh
hơn người: tâm không rời Phật, Phật không rời tâm, cho nên mới được cảm ứng ở trong
mộng niệm Phật cứu được mẹ cô ta thốt được nguy hiểm hung dữ.


</div>
<span class='text_page_counter'>(124)</span><div class='page_container' data-page=124>

khơng thể nghĩ bàn, chỉ cần thành kính niệm Phật thì ai cũng được lợi ích, được cảm ứng
to lớn. Tơi, một năm trước, có một đêm trong mộng, thần thức khơng biết sao vơ tình đi
về nhà của mẹ ở Tân Dinh, bỗng nhìn thấy một con quỷ hung ác, tay cầm một sợi dây trói


mẹ tơi lại, đang sắp lơi đi; tơi lập tức níu mẹ tơi lại không buông, lớn tiếng la to “A Di Đà
Phật đến cứu mẹ con!”. Vừa cố sức kêu A Di Đà Phật vừa mở dây ra, con ác quỷ đó
không biết bỏ đi lúc nào, không thấy nữa.


Sáng sớm thức dậy, Anh Mãn đem cảnh giới không lành trong mộng nói cho chồng cơ
biết, nếu như khơng phải Thánh hiệu “A Di Đà Phật” có sức oai thần như thế, thì mẹ chắc
khơng cứu trở lại được. Mặc dù đã nói như thế, nhưng trong lịng vẫn khơng n, nói
chung cảm thấy khơng n tâm lắm. Đến hơn 10 giờ, lúc Anh Mãn đang vo gạo trong
bếp, người áo xanh <i>(áo của bưu điện)</i> đưa đến một lá thư nhanh, bóc ra xem mới biết là
mẹ đêm qua bỗng nhiên bị chứng xuất huyết não, hiện cịn đang hơn mê. Anh Mãn tức
thời sửa soạn đồ đạc để về Tân Dinh, ngồi trên xe tạm nén nỗi âu sầu, nhất tâm khẩn thiết
niệm Thánh hiệu “Nam mô A Di Đà Phật”. Lúc xe đi ngang qua Chương Hóa, vơ tình
ngẩng đầu lên trên khơng thì thấy Tây phương Tam Thánh hiện trên hư khơng rất là sáng
rỡ. Lúc đó Anh Mãn càng niệm mạnh hơn không buông lơi lục tự hồng danh một hơi nào
hết, niệm mãi đến Tân Dinh xuống xe nhìn lại trên khơng thì khơng cịn thấy nữa.


Anh Mãn về đến nhà thì thấy mẹ mình, miệng mắt đều méo lệch, bất tỉnh nhân sự. Tay
trái, chân trái, nửa bên thân đã bị liệt. Cô liền ngồi bên mẹ niệm Phật mãi không ngớt.
Đến ngày thứ ba bà mẹ tỉnh lại và nói chuyện lại được. Anh Mãn mỗi ngày đều cầu nước
chú đại bi cho mẹ uống và bảo mẹ cũng niệm A Di Đà Phật. Đến ngày thứ bảy tính từ
ngày Anh Mãn về, thì miệng mũi của mẹ đã dần dần hồi phục. Về sau mỗi tháng đều về
thăm mẹ, mỗi lần về đều khích lệ mẹ niệm Phật, đồng thời dẫn mẹ đến chùa quy y Tam
Bảo, gieo trồng căn lành.


Đến ngày 26 tháng 8 năm nay, bà cụ đã niệm Thánh hiệu được hai năm, cuối cùng ra đi
an tường trong tiếng niệm Phật trợ niệm của Anh Mãn. Chuyện kể tới đây các vị liên hữu
ai nấy đều khen Anh Mãn là người con hiếu, thần thức ở trong mộng còn biết niệm Phật
đẩy lùi được quỷ, khiến mẹ khỏi rơi vào tam đồ; lại còn biết hướng dẫn cho bà biết thành
kính niệm Phật, khi lâm chung trợ niệm cho vãng sanh Tây phương, thật là hy hữu ít có
được. Tơi nói chỉ đáng tiếc là lúc cơ ta ở trên xe niệm Phật, đi ngang qua Chương Hóa


thấy được Tam Thánh thị hiện, không mang theo máy chụp hình! Nếu như chụp được
tấm ảnh ấy, há khơng phải là thật chứng cho Phật, Bồ Tát đích xác có thật ư? Dùng để
cảm hóa những chúng sanh cang cường khó hóa độ!


<b>49. LÚC GIẢI PHẪU KHOÉT THỊT Ở CÁNH TAY, THẦN THỨC DẠO CHƠI </b>
<b>THIÊN ĐƯỜNG </b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(125)</span><div class='page_container' data-page=125>

Phật nghe pháp. Nhưng đời người tai nạn nhiều. Vào mùa thu năm đó, có một buổi chiều
Tấn Lễ đang đứng trước cửa nhà mình, bỗng một chiếc xe tải lớn muốn tránh ba đứa nhỏ
đang giỡn ở giữa đường, đột nhiên khẩn cấp quẹo sang bên phải lập tức xông vào Tấn Lễ
đang đứng trước cửa. Thật là tai họa từ trời giáng xuống bất ngờ, cái móc trong lịng bánh
xe quấn chặt quần áo của nó, lơi nó đi một khoảng hai cột đèn, xe lại thắng khơng dừng.
Lúc đó Tấn Lễ tự nghĩ tánh mạng khó giữ được, trong cơn nguy cấp phát sanh trí huệ,
trong miệng nó bỗng nhiên nói vọt ra: “Mẹ con là người tin Phật, xin đức Quán Thế Âm
Bồ Tát mau đến cứu con đi!”. Kêu liền ba lần như vậy; nói ra cũng thật kỳ lạ, chiếc xe
liền thắng đứng lại, chỉ cịn một chút xíu nữa là bị bánh xe cán chết rồi! Nhưng cánh tay
trái đã bị xây xát nặng, từ trên khuỷu tay đến bàn tay, máu thịt và cát đá lẫn lộn không
phân biệt được. Liền đưa vào bệnh viện tỉnh lập Đài Trung.


Tấn Lễ tội nghiệp, nhập viện được ba, bốn ngày thì cánh tay đó sưng phù lên đen thui do
vì cát đá lẫn lộn vào trong da thịt hơi nhiều, nhứt thời lấy ra khơng hết, bác sĩ liền nói với
Khoan Phụng rằng: “Cánh tay này của con cô phải cưa bỏ mới an tồn, nếu khơng thì
nguy đến tính mạng!”. Khoan Phụng liền thương nghị với bác sĩ rằng: “Tôi xem cánh tay
này, ngón tay động đậy được, gân cốt cịn tốt khơng bị thương, hiện giờ chỉ là da thịt bị
hư rữa thôi, xin bác sĩ cố gắng giúp cho cháu khỏi bị cưa tay, chỉ khoét da thịt hư rữa đó
bỏ đi là được rồi”. Bác sĩ cũng liền theo lời yêu cầu của cô ta, đánh thuốc mê cho Tấn Lễ
mê đi, rồi bắt đầu phẫu thuật, khoét đi cả mâm thịt lẫn lộn cát đá. Khoan Phụng thì ở một
bên cứ niệm: “Cứu khổ cứu nạn Quán Thế Âm Bồ Tát”.


Cuộc phẫu thuật của Tấn Lễ hoàn thành thuận lợi. Sau khi thuốc mê giã, tỉnh táo trở lại,


Tấn Lễ liền nói với mẹ nó rằng: “Má! Con vừa rồi nằm trên bàn mổ, sau khi mất hết tri
giác (mê) thì thấy một ơng bác sĩ mặc đồ trắng bồng con đến nơi rất là đẹp. Con hỏi ông
ta đây là đâu? Ông ta đáp là thiên đường, lại bảo rất nhiều cô gái đẹp nhảy múa cho con
xem; con lại hỏi ông ta: những cô gái đẹp này là người ở đâu? Ơng ta nói với con là thiên
nữ. Má! Con rất là sung sướng, có thể đi đến thiên đường, xem được những cảnh giới
nầy”. Sư tỷ Khoan Phụng liền biết đây là sự cảm ứng do cô cố sức niệm Quán Thế Âm
Bồ Tát mà được, nhất định là phương tiện khéo léo của Quán Thế Âm Bồ Tát khiến cho
tinh thần của Tấn Lễ được an ủi, quên đi sự đau đớn.


</div>
<span class='text_page_counter'>(126)</span><div class='page_container' data-page=126>

băng đổi thuốc gì đau muốn chết, tôi không cần các người làm nữa. Quán Thế Âm Bồ Tát
lúc trị liệu cho tơi thì lại mát mẻ dễ chịu vô cùng!”. Mỗi ngày lúc thay băng đổi thuốc đều
như thế, vừa nói vừa khóc thảm, khiến các bác sĩ và các y tá đều ngơ ngác cười dở khóc
dở!


Thằng bé Tấn Lễ này, do bởi đời trước có nhiều căn lành, đời này có duyên với Phật, Bồ
Tát, nhiều lần được pháp lực vơ biên hộ trì, cánh tay trái đã dần dần đầy đặn da thịt hồi
phục như cũ. Mấy ngày trước khi sắp xuất viện, lúc ngủ trưa bỗng nhiên lại to tiếng kêu
lớn lên rằng: “Bồ Tát Địa Tạng, ngài sắp đi đâu vậy? Ngài sắp đi độ yêu nhền nhện hả?
Con muốn đi theo ngài xem!”. Sư tỷ Khoan Phụng ngồi bên mình nó, nghe rất là rõ ràng,
liền lay nó tỉnh dậy, hỏi nó: “Mới vừa rồi con thấy những gì?”. Tấn Lễ nói “Vừa rồi Bồ
Tát Địa Tạng tới thăm con, con hỏi ngài sắp đi đâu? Ngài nói sắp đi độ yêu nhền nhện.
Con xin Bồ Tát dẫn con cùng đi, đang đi đến một cánh đồng liền bị má lay tỉnh dậy, thiệt
uổng ghê!”.


Trên đây là Tấn Lễ sau khi bị tai nạn được Bồ Tát cảm ứng ba lần. Đây cũng là chính
miệng sư tỷ Khoan Phụng kể với tôi.


<b>50. NGHIỆP LỰC CẢN TRỞ KHIẾN NHÂN HẾT QUẢ DỨT </b>


Sư tỷ Trần Kiết ban trưởng ban Bát Nhã có một người em trai tên là Trần Thu Tuyền, nếu


cịn sống thì năm nay 48 tuổi, nhưng đây là việc của ba năm trước. Sư tỷ nói: Em trai và
em dâu của bà khơng có chút căn lành nào, khuyên tụi nó niệm Phật ngay một câu cũng
khơng chịu niệm. Hai chị em có thể nói là chí khơng đồng, đạo khơng hợp, nhưng sức
khỏe của nó khơng được mạnh khỏe, thường bị đau dạ dày, nếu không mổ sớm chắc chắn
sống không lâu! Cái ngày quyết định sẽ mổ, sư tỷ Kiết với tâm từ bi cố sức thuyết phục
khuyên em mình niệm Thánh hiệu Quán Thế Âm Bồ Tát và nói về những sự lý trong
phẩm Phổ Môn Quán Thế Âm Bồ Tát có nhiều cách tầm thanh cứu khổ, nói cho anh ta
nghe, khuyên anh ta phải thành kính niệm Cứu khổ cứu nạn Quán Thế Âm Bồ Tát, cầu
Bồ Tát gia bị, chuyển nguy thành an.


</div>
<span class='text_page_counter'>(127)</span><div class='page_container' data-page=127>

Nhưng thiên hạ vốn vô sự, mà kẻ dung tục thì lại tự quấy nhiễu, chuốc lấy tai họa. Lúc
cịn khoảng ba ngày nữa xuất viện, thì một người bệnh khác cùng nằm viện nói với vợ
anh: “Chồng của chị mới khỏe, cần chất dinh dưỡng, chị cần mua cá tươi về chưng với
gừng xắt nhỏ cho chồng chị ăn để bồi bổ thân thể”. Sư tỷ Kiết nghe được lời này, vội
vàng ngăn lại nói: “Khơng được! khơng được! Em ta là nhờ Qn Thế Âm Bồ Tát thay
ruột cho nó, khơng giống như những người khác, từ đây về sau không được giết hại sinh
vật cho nó ăn. Nếu muốn bồi bổ dinh dưỡng thì có thiếu gì, như sữa bột nè, đậu bì, đương
quy, sâm Cao Ly,… <i>(các chất bổ trong thuốc Bắc)</i> đều là những dược phẩm có dinh
dưỡng phong phú”. Sư tỷ Kiết nói một lơ bao nhiêu đồ bổ dưỡng, nhưng “lời thật thì
mích lịng”, em dâu nghe rồi, hình như có dáng điệu khơng lọt tai tí nào, nhưng nể bà chị
chồng, mấy ngày sư tỷ Kiết ở bệnh viện, cô ta không dám đi mua cá tươi (cá sống), đợi
lúc sư tỷ về nhà tắm, liền chạy ra chợ mua cá, thịt tươi về nấu cho chồng cô ăn, khi sư tỷ
Kiết trở lại thì em cơ đã ăn hết một tô. Do đây mà sự việc hỏng bét! Trời làm ra điều
nghiệt ngã, cịn có thể khơng tn, tự mình tạo tội nghiệt, khơng thể sống! Em trai cơ ăn
tơ cá đó xong, ghê gớm giống như uống phải thuốc rầy, bụng bắt đầu đau dữ dội, vết mổ
lớn dài một thước (<i>thước Tàu</i>) đã khâu lại như bình thường, chưa đến mấy giờ bắt đầu
biến đổi quái lạ, đường khâu bên trong bị tốc ra! Sư tỷ Kiết nói: Chính mắt thấy như thế,
sợ hãi vô cùng, da bụng banh ra giống như chiếc thuyền độc mộc, sức khỏe biến đổi xấu
vô cùng, tính mạng nguy hiểm trong sớm tối, đến bác sĩ cũng bó tay khơng có cách gì! Sư
tỷ tự nghĩ: Thật rất có lỗi với sự gia bị của Quán Thế Âm Bồ Tát, việc thế này, không


dám cầu xin lại nữa, liền đổi Thánh hiệu, xưng niệm Địa Tạng Vương Bồ Tát! Mong
được Địa Tạng Bồ Tát phị hộ được bình an hồi phục trở lại. Liền vẫn cứ như thế, ở bên
cạnh em xưng niệm Thánh hiệu Địa Tạng Bồ Tát. Thật là không thể nghĩ bàn! Thu Tuyền
đang trong trạng thái hôn mê, lại thấy cảnh giới, trên mặt bỗng lộ nét vui, lẩm bẩm nói
nhỏ, khơng biết nói những gì? Bỗng nhiên lại nói to lên “Ngài Địa Tạng Bồ Tát à! Ngài
dẫn tôi đi chơi cả buổi, rất là vất vả, cây thiết trượng ngài đang cầm trong tay rất nặng,
đưa tôi cầm dùm cho ngài được không? Đừng có khách sáo mà, đưa tơi cầm dùm cho
ngài đi!”. Vợ anh ta liền hỏi: “Thu Tuyền! Anh nói những gì vậy?”. Anh ta đáp: “Ngài
Địa Tạng Bồ Tát muốn dẫn tôi đến một chỗ rất đẹp, tơi đi chơi rất là vui!”.


Tối hơm đó, lúc sư tỷ như thường lệ niệm Thánh hiệu Địa Tạng Bồ Tát bên cạnh em trai,
thì bỗng ở nhà có việc gấp, người nhà đến kêu sư tỷ về nhà. Sáng sớm hơm sau, Thu
Tuyền lại tự nhiên nói với đứa con gái: “Ba rất cám ơn cô của con, bây giờ sắp từ giã cô
con, ba muốn đến nhà cơ con để nói lời cám ơn, nhanh nhanh kêu xe lại cho ba đi”. Nói
xong thì… chết! Tội nghiệp một tráng niên mới 45 tuổi đã xong một cuộc đời! Lúc lâm
chung thiện tri thức là bà chị cũng khơng có dun trợ niệm cho anh ta, giúp cho anh ta
có thể đới nghiệp vãng sanh!


</div>
<span class='text_page_counter'>(128)</span><div class='page_container' data-page=128>

hiệu của Phật, Bồ Tát cũng khơng có niệm, một khi mạng chung, lúc chủng tử ác nghiệp
khởi hiện hành, tướng luân hồi lục đạo hiện ra, nói đi liền đi, khơng được chần chờ! Em
của cô lúc cuối cùng được kết duyên lành với Địa Tạng Bồ Tát, cũng là sự cảm ứng do cô
xưng niệm Thánh hiệu Bồ Tát, van cầu Bồ Tát cứu anh ta, nhưng vì cơ tối đó có việc phải
về nhà, đây chính là chướng ngại của anh ta, khơng có dun xưng niệm liên tục, nhân
hết thì quả dứt, đâu cịn nhờ vào đâu giúp đỡ vãng sanh Tây phương nữa chứ? Nhưng mà
gặp được Địa Tạng Bồ Tát nắm tay dắt đi, tính ra cũng là đại hạnh trong bất hạnh!”.
<b>51. VỢ CHỒNG THỔ ĐỊA QUY Y TAM BẢO </b>


Lại nói về chuyện của sư tỷ Trần Kiết, tám năm trước có một ngơi chùa ở vùng ngoại ơ
của Đài Trung, năm đó vẫn chưa có một sư phụ xuất gia nào đến ở, tuy nhiên những tín
đồ tới lui lễ bái cũng khá đông. Sư tỷ Trần Kiết liền phát đại từ bi tâm, mỗi khi đến ngày


mùng 1 và rằm (15) thì đến quét dọn sạch sẽ chánh điện và dạy người niệm A Di Đà
Phật, cố gắng hết sức bổn phận của người đệ tử Tam Bảo là lợi mình lợi người. Sư tỷ có
tinh thần đại bi như thế, do đó mà rốt cuộc có thể cảm hóa và giới thiệu thần thổ địa quy
y Tam Bảo. Xin mời quý vị xem chuyện sau đây:


Ở gần ngơi chùa đó có một cái miếu thổ địa, do vì lâu năm khơng có sửa sang, đã hư cũ
rất nhiều, cho nên những thiện tín ở vùng đó họp lại bàn, kết quả là quyết định dở bỏ cái
cũ, xây dựng cái mới. Nhưng sau khi bốc dở miếu cũ ra thì có hai tượng thổ địa ông và
thổ địa bà phải dời đi đâu? Nhất định phải tìm một chỗ để thờ phụng tạm thời. Có một
người bàn: “Nhờ một chùa nào đó để thờ tạm, đợi xây cất xong lại thỉnh trở về. Như thế
há chẳng phải là lưỡng toàn kỳ mỹ ư?”. Mọi người đều vui vẻ tán thành biện pháp đó, sau
khi lấy biểu quyết xong, liền theo đó mà làm.


Nhưng tập quán lễ bái thổ địa từ nào đến giờ của địa phương đó là vào ngày mùng 2 và
16 đều dùng tam sanh (<i>ba thứ thịt bò, dê, heo</i>) và rượu để lễ bái. Hiện giờ thần thổ địa đã
tạm thời dời vào trên bàn thờ trong giảng đường của chùa, những người tin và cúng thổ
địa lâu nay vẫn khó sửa đổi được tập quán của họ. Sư tỷ Kiết nhìn thấy người ta mang
theo những thức ăn tanh (đồ mặn) như thế ra vào cửa Tam Bảo, mặc dù là không phải
đem đi cúng Phật, Bồ Tát, nhưng cũng rất là xốn mắt. Có một hơm sư tỷ đến chùa, lúc
quét dọn giảng đường, liền đối với tượng thổ địa nói: “Ơng thổ địa! Bà thổ địa! Các vị có
lẽ đời trước khơng được nghe Phật pháp cho nên không biết những điều hay tốt của việc
quy y Tam Bảo và việc tin Phật, học Phật, niệm Phật. Các vị hiện nay mặc dù làm thần,
được người ta sát sanh hại vật, dùng những rượu thịt tanh hơi đó đến cúng cho các vị ăn,
các vị cũng khơng biết là mình đã tạo tội, các vị không biết thời hạn làm thần một khi hết
thì vẫn phải đi theo con đường luân hồi lục đạo, một mai đọa vào tam đồ thọ khổ, đến lúc
đó hối hận thì đã khơng kịp! Vợ chồng già các vị nếu có thể đồng tu, quy y Tam Bảo,
niệm A Di Đà Phật cầu sanh Tây phương Cực lạc thế giới, tức là đạt được con đường giải
thốt sinh tử, lìa khổ được vui một cách rốt ráo vậy”.


</div>
<span class='text_page_counter'>(129)</span><div class='page_container' data-page=129>

với quỷ thần không?”. Sư tỷ nghĩ tới nghĩ lui, nhớ được ngày hơm đó, cả lơ cả lốc lời nói


với thần thổ địa, nói ra cho con dâu nghe. Con dâu rất thơng minh, lập tức nói: “Đúng
rồi! Má độ người phải độ cho tới nơi tới chốn, má đã chỉ điểm cho họ quy y, lại vẫn chưa
có giới thiệu sư phụ cho họ, chỉ nói lời trống rỗng, họ nghe má nói nhất định cũng lọt tai,
nhưng muốn má hướng dẫn giới thiệu, cho nên đến tìm má quấy rối”.


Trần Kiết nghe con dâu nói có lý, chẳng kể đúng hay không, cũng đều phải trở lại chùa
đó lo việc quy y cho thần thổ địa. Khơng đến mấy ngày, sức khỏe của sư tỷ đã bớt rất
nhiều, liền đi đến chùa, thật là pháp duyên thuận lợi, có một vị đại pháp sư mới đến chùa
(nhận trụ trì) sư tỷ liền nói rõ ý mình đến đây hơm nay, đem cái việc quy y này ra thỉnh
giáo pháp sư. Pháp sư rất từ bi luôn miệng nhận lời. Sư tỷ liền chuẩn bị nghi thức sắm
sửa hương hoa quả phẩm v.v… Lúc bấy giờ liền đem tượng thần của thổ địa ông, thổ địa
bà ra nhờ sư tỷ Trần Kiết, tay trái bưng tượng thổ địa ông, tay phải bưng tượng thổ địa bà
quỳ trước Phật lãnh thọ pháp quy y và thay họ làm các nghi thức lễ bái cho đến xong.
Pháp sư còn thuyết pháp cho họ nghe rất lâu. Sau khi hoàn tất, sư tỷ liền hướng vào thần
thổ địa nói rằng: “Hơm nay các vị đã quy y Tam Bảo Phật Pháp Tăng rồi, là đệ tử chính
thức của Tam Bảo, nhất định phải ủng hộ Phật giáo, làm nên thành pháp vương và phải
niệm Thánh hiệu A Di Đà Phật, cầu sanh Tây phương, về sau khơng cịn can hệ gì với tơi,
khơng được trở lại tìm tơi quấy phá”. Sự thật trên đây là hồi năm ngoái sư tỷ đến Hội
Liên Nghị nói với tơi.


Theo dân gian nước ta (Trung Quốc) các vùng nông thôn nghèo hoang vắng khắp nước ở
đâu cũng đều có miếu thổ địa, họ như thân phận của vị trưởng thôn trong làng ở nhơn
gian, niên hạn đến, mãn nhiệm kỳ, vẫn cứ phải đi luân hồi đầu thai, khó có thể gặp được
duyên lành quy y Tam Bảo. Mặc dù thần thổ địa chưa có mở miệng yêu cầu được quy y,
nhưng sư tỷ Trần Kiết với một tấm lòng lành cũng thật khiến người khâm kính!


<b>52. CƠ DÂU NIỆM PHẬT, LẬT XE ĐƯỢC VƠ SỰ </b>


Tục ngữ nói: “Nhà muốn hưng thịnh nhìn xem con cháu”. Trong Phật giáo cũng thế, nếu
muốn Phật pháp hưng long, nhất định nhờ vào lớp thanh niên phát tâm học Phật, đây là


cùng một đạo lý. Gần đây “Giác Uyển học xã” của Hoằng Quang Hộ Chuyên thành lập ở
Sa Lộc tiếng tăm thật vang dội. Nên biết học xã này với hơn một trăm học viên là do hai
cô nương trẻ 17 tuổi, không ngại gian khổ, với tâm từ bi khuyên gọi vận động, dũng cảm
tổ chức mà thành tựu được. Tinh thần vĩ đại của họ, khiến người bội phục sát đất. Hai vị
tiểu cô nương phát tâm đại bi này là tiểu thơ của nhà ai vậy? Thì ra là thiên kim tiểu thơ
Úc Thanh, con của ơng Vương Diệu Dân trưởng phịng hành chánh của nhà máy đường ở
Tân Dinh, vị kia là cô Kim Chi bạn học của Úc Thanh.


</div>
<span class='text_page_counter'>(130)</span><div class='page_container' data-page=130>

từng có mời tơi đến chơi. Nhưng bảy năm trước đây lại chuyển đến làm ở nhà máy đường
Long Nham, vợ chồng họ Vương lại tổ chức một hội niệm Phật ở vùng đó, lại một lần
nữa hẹn tơi đến đó tùy hỷ cơng đức, đồng thời kết pháp duyên (giảng pháp). Bậc làm cha
mẹ mà phát tâm lớn như thế, nên trong tâm linh nhỏ bé của Úc Thanh nhờ nghe được
chánh pháp mà trồng được căn lành.


Thời gian như nước chảy, trong nháy mắt vào một ngày ba tháng trước, một cô học sinh
đứng đắn lịch sự dáng thanh mảnh đi đến hội liên nghị của liên xã, lúc cô kêu lên “sư cô
Khán Trị”, tôi nhứt thời nhớ không ra là ai, cơ ta lúc đó mới nói: “Con là con gái của bà
Vương ở nhà máy đường ở Tân Dinh nè!”. Cơ ta do vì mong muốn thành lập một xã đoàn
nghiên cứu Phật học ở trong trường, muốn tơi giúp đỡ, thì ra hiện cơ đang học ở Hoằng
Quang Hộ Chuyên.


Tôi sau khi nghe được tin tức này, thật là vui mừng hớn hở, lập tức giới thiệu cho cơ ta
mấy người bạn học ở Trí Hải học xã của trường đại học Trung Hưng, sẽ chỉ dẫn cho họ
những gì nên làm khi thành lập Học Xã và phải làm như thế nào … Nhưng tơi vì tâm
hiếu kỳ nên hỏi cơ ta: “Tuổi tác như thế này của cơ <i>(ý nói q trẻ</i>) mà đã phát tâm như
thế, cô biết được những điều hay tốt của việc học Phật, niệm Phật không? Úc Thanh đáp:
“Con đã từng tận mắt thấy hai lần niệm Phật được cảm ứng, lại thường xem tờ nguyệt san
Cây Bồ Đề (<i>giống báo Giác Ngộ ở VN</i>). Con nghĩ: Nếu muốn được tốt đẹp trong đời
người ở hiện tại và có thể lìa khổ được vui trong đời sau, nhất định phải học Phật và niệm
Phật”.



Tôi liền hỏi cô ta: “Hai lần cảm ứng cô đã được thấy, có thể nói cho tơi nghe được
khơng?”. Úc Thanh liền nói: “Lúc ba má con ở nhà máy đường Long Nham có lập một
niệm Phật đường nhỏ, các vị liên hữu vào hai thời khóa sớm tối đều khơng hề có gián
đoạn. Lúc bấy giờ có một vị liên hữu tên Ấu hai mươi tuổi. Hơm đó đúng vào ngày cơ
xuất giá, nhưng buổi sáng cô vẫn cứ đến niệm Phật đường niệm Phật thời khóa sáng,
khóa lễ xong cơ mới đi sắm vai cơ dâu, sau đó theo chàng rể, bà mối đến rước dâu về nhà
chồng. Ba người đó tính cả tài xế là bốn người ngồi một chiếc xe con (xe bốn chỗ),
nguyên là cô Ấu được gả cho một vị giáo sư ở Đàm Tử quốc hiệu (trường cấp quốc gia).
Mấy chục vị liên hữu chúng tôi đi đưa cô dâu cũng ngồi một chiếc xe giao thơng (như xe
đị) đi đến Đàm Tử, mọi người đều rất vui, suốt đường ca bài “Lô Hương Tán”, bất giác
đã đến Viên Lâm. Hơm đó đúng là ngày tốt hồng đạo nhưng ơng trời lại khơng làm tốt
mà lại đổ mưa! Xe đến Viên Lâm gần một ngơi trường làng, do vì mưa đường trơn, xe cô
dâu đột nhiên bị lật nhào, bốn bánh quay lên trời, xe lật chỏng gọng bên đường lộ. Các vị
liên hữu chúng tơi trên xe giao thơng phía sau vừa thấy ai nấy đều kinh sợ thất sắc!
Nhưng trong nháy mắt, chú rể, cô dâu, tài xế, bà mối từ cửa xe chun ra từng người một,
mọi người nhìn nhau, xem xét kỹ, bốn người đều khơng có bị thương gì cả, thật là khơng
thể nghĩ bàn, ngay cả kiếng trên cửa xe cũng không có bể miếng nào.


</div>
<span class='text_page_counter'>(131)</span><div class='page_container' data-page=131>

sẽ có phước về sau. Cơ dâu nói: “Tơi ngồi trên xe trong lịng cứ niệm Phật miết!”. Úc
Thanh lại nói “Đây là việc chính mắt con nhìn thấy, vì con và má cũng có tham dự trong
đồn đưa dâu này”


Úc Thanh nói tới đây, tơi liền hỏi tiếp cơ ta cịn một chuyện cảm ứng nữa thế nào? Úc
Thanh lại nói: “Hiện nay ở gần nhà con có một ngơi chùa, má con thường đi lạy Phật, còn
giảng chút chút về những điều hay tốt của việc tin Phật, niệm Phật cho người ta nghe nữa,
và lấy nguyệt san Cây Bồ Đề cho người ta xem, khuyên người ta niệm A Di Đà Phật.
Trong những người nghe đó có một ơng bác già, nghe xong cảm thấy rất có đạo lý, chẳng
những tự thân ông niệm Phật rất cung kính mà cịn khun cả bà con trong thân thuộc
đều niệm Phật. Ơng có một cơ cháu gái mới mười sáu tuổi, được sự hun đúùc của ông


nội, cũng rất cung kính niệm Phật; người con gái này hồi năm ngối học năm thứ hai
Trung học, có một hôm sáng sớm lúc cô cỡi xe đạp đi học, muốn chạy qua một cây cầu
hẹp, cô gái đó nhìn trước nhìn sau chỉ có một chiếc xe taxi chạy qua, cô liền an tâm cũng
chạy qua, bất ngờ phía trước có một chiếc xe tải nặng chạy lại nhanh như giơng như gió,
ở trong cây cầu hẹp mn phần nguy hiểm. Lúc đó, tiến thối lưỡng nan, cô bị kẹt cứng
giữa hai chiếc xe, thật là cái chết trước mắt, may mắn là lúc bình thường niệm Phật, nên
lập tức nghĩ tới danh hiệu Phật, liền to tiếng niệm A Di Đà Phật. Lúc đó chiếc xe đạp của
cơ đã bị chiếc xe tải nặng cán gãy nát, cô cũng bị xe tải lôi đi đến mấy chục thước (<i>thước </i>
<i>Tàu</i>) mới ngừng lại. Lúc đó những người thấy cái thảm trạng đó, cho là cơ kia đã bị thịt
nát xương tan, nhứt định chết rồi. Không ngờ lúc chiếc xe ngừng lại, cơ gái kia đã trở
mình đứng dậy, tự xem kỹ lại mình, chẳng những khơng có gãy xương, ngay cả máu
cũng khơng có chảy giọt nào, chỉ có hơi bị xây xát trên cánh tay mà thơi”.


Câu chuyện sự thật trên đây có thể nói là một kỳ tích! Niệm Phật có thể được tiêu tai khỏi
nguy như thế, việc lớn thành nhỏ, việc nhỏ thành khơng, thật là khơng thể nghĩ bàn.
Có rất nhiều người nói tin Phật, lạy Phật là được rồi, cần gì phải niệm Phật? Lời nói này
có lỗi rất lớn, nên biết Phật pháp là tâm pháp, vạn pháp duy tâm. Trong tâm niệm Phật,
tâm được thanh tịnh; tâm khơng niệm Phật thì là niệm ngũ dục, lục trần, tâm sẽ vẩn đục.
Tâm nếu bất tịnh, thì làm sao có thể cảm ứng được? Như nước đục trong ao, làm sao có
thể chiếu hiện được cảnh vật và trăng sáng trên trời trong mặt nước? Nếu nước trong ao
lắng trong thì tự nhiên cảnh vật và trăng sáng trên trời đều hiện rõ ràng trong nước, đây là
cái đạo lý cảm ứng, sự và lý không khác, cho nên muốn có cảm ứng, nhất định phải niệm
Phật nhiều!


<b>53. SÁT SANH PHẢI BỊ QUẢ BÁO ĐOẢN MẠNG </b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(132)</span><div class='page_container' data-page=132>

Vào trung tuần tháng 2 năm ngối có một vị đồng tu trong ban niệm Phật rất thành khẩn
tên là Khoan Kim ở đường Hồ Bắc trong thành phố này, đã sáu mươi tám tuổi. Có một
hơm bà ta đến hội Liên nghị, nói với tơi: “Đời người ở cõi thế, lúc chưa học Phật, mê
hoặc điên đảo, thường tạo tội tạo nghiệp nhưng lại không biết là khởi tâm động niệm suốt


ngày tạo tội tạo nghiệp. Từ sau khi niệm Phật nghe pháp mới biết đạo lý: “Nghiệp do tâm
tạo, nghiệp theo tâm chuyển”. Tôi liền hỏi bà ta: “Bà làm thế nào mà giác ngộ được đạo
lý vi diệu của hai câu này?”. Sư tỷ Khoan Kim liền nói lại chuyện cũ hai mươi năm trước,
lúc bà còn ở dưới q: Ngơ Thê.


Bà có ba đứa con trai, năm đó đứa con thứ hai đã hai mươi tuổi. Một buổi sáng sớm,
người con thứ hai đi ra ngoài tản bộ, lúc trở về vui mừng hớn hở, hai tay cầm một con cá
hồng giãy đành đạch, dài khoảng một thước (thước Tàu) rất phấn khởi nói với tôi: “Má!
Con cá này con bắt được trong con rạch cạn, má mau mau chưng gừng cho con ăn đi”.
Tập khí của phàm phu thường cho là được ăn những con vật cịn tươi sống là có phước
của cái miệng, không biết rằng một bước sa chân để hận ngàn đời! Người con thứ hai từ
sau khi ăn con cá tươi sống đó, tối đêm ấy nằm mộng thấy một cô gái mặc áo hồng
khoảng mười bảy, mười tám tuổi, cầu hôn với anh ta rằng: “Anh đã chịu nhận lời kết thân
với tôi, tôi phải kết hơn với anh”. Từ đó về sau, đêm nào hồn cơ gái đó cũng đến quấy
rầy, người con thứ hai liền bị bệnh không dậy nổi, các thầy thuốc Đơng, Tây y đều bó tay
khơng có cách gì, thuốc men không hiệu quả, chưa đầy mười ngày, tội nghiệp cho tuổi
hoa niên mới hai mươi, rốt cuộc bị đoản mạng!


Sư tỷ Khoan Kim nhớ lại thảm cảnh về cái chết của đứa con thứ hai lúc bấy giờ, rất đau
lịng nói: “Tội nghiệp sống ở q hương cịn nghèo nàn hoang vắng, khơng có thiện tri
thức tuyên dương chánh pháp cho nên ngu si quá đỗi, không biết sát sanh phải bị quả báo
đoản mạng, cho nên khơng biết dạy con phóng sanh cho con cá kia, đừng ăn thịt nó, thì
đâu có kết ốn với con quỷ nữ kia, bị nó dắt đi trong ba đường ác, chịu đau khổ lớn. Hành
vi hồ đồ này chính là nghiệp do tâm mình tạo ra, do bởi trước kia chưa nghe Phật pháp,
sát sanh hại mạng, tạo ra ác nghiệp này, nên chính tôi phải chịu báo ứng mất con!”.


<b>54. DÁT VÀNG TRANG NGHIÊM TƯỢNG PHẬT, LỬA NHẢY QUA KHỎI </b>
<b>NHÀ </b>


Sư tỷ Khoan Kim là một người có đầy đủ căn lành từ kiếp trước, từ lúc mất con, quá đau


buồn, liền tính kế dời chỗ ở, thay đổi hồn cảnh, cho nên mười tám năm trước, lưu con
trai trưởng ở lại quê, quản lý tài sản, mình thì dẫn đứa con thứ ba là Tấn Truyền dời đến ở
xứ Hạn Khê ở Đài Trung, mướn nhà ở. Hai mẹ con nương nhau mà sống, tự lực cánh
sinh, đến một nhà máy giày dép cao su làm thuê để sống, không bao lâu liền cùng với
những vị liên hữu của vùng Hạn Khê, mỗi thứ hai cùng đến liên xã niệm Phật, thứ bảy
cũng đến liên xã nghe kinh, làm một vị đệ tử Tam Bảo rất cung kính.


</div>
<span class='text_page_counter'>(133)</span><div class='page_container' data-page=133>

lập tức tìm mẹ nó nói: “Kê Thỉ, cô không nên tạo tội, tại sao lại để con nít giỡn chơi
Thánh tượng Bồ Tát như thế? Như vậy sẽ tạo ra tội nghiệp rất lớn!”. Kê Thỉ liền đó trả
lời sư tỷ rằng: “Đây là tượng mà mẹ chồng tơi hồi cịn sống thờ cúng, tơi là người khơng
có tin và lạy khúc gỗ đó đâu, tơi khơng cần, bà cần thì bà lấy đi là được rồi”. Sư tỷ Khoan
Kim hớn hở ra mặt, thỉnh qua xem thì là một tượng Bồ Tát cao sáu, bảy tấc (Tàu) khắc
bằng cây, mặt mũi đã hư hết, liền thỉnh tượng đó đến cửa hàng làm tượng Phật, dùng hơn
100 đồng dát vàng cho tượng Bồ Tát, rồi an vị trong nhà thờ cúng, sớm tối lễ bái cung
kính, xưng niệm Thánh hiệu Bồ Tát, thật là pháp hỷ sung mãn, tâm không rời Phật, Phật
không rời tâm. Tôi liền hỏi thêm sư tỷ: “Cịn người nữ khơng có căn lành kia hiện thế nào
rồi?”. Sư tỷ nói: “Tội nghiệp người nữ tên hợp với đời thực này (<i>Kê Thỉ tức là cứt gà</i>)
không bao lâu của cải tán thất, người không biết hiện giờ dời đi ở xứ nào rồi?”. Tơi nghĩ:
Đây là một sự thật do vì ngu si không biết mà tạo nghiệp, nên chịu lấy ác báo.


Qua hơn một năm, một hôm lúc sư tỷ làm việc ở cơng xưởng, bỗng có một người hớt hải
đến nói rằng: “Bà ơi, Bà! nhà gần bên nhà của bà bị cháy, hiện lửa lớn đang cháy lan sắp
sửa cháy nhà của bà rồi”. Sư tỷ vừa nghe thật là hồn phi phách tán, vội vã chạy về nhà,
trên đường bị té một cái, vừa bò dậy lại bị té nữa nhưng trong miệng của bà vẫn cứ niệm
riết “Quán Thế Âm Bồ Tát”, thầm khấn Bồ Tát cứu khổ cứu nạn, may sao gặp một người
đàn ông chạy xe đạp, xem thấy bà đáng thương như thế, hỏi rõ tình hình, liền dùng xe đạp
chở đưa sư tỷ về nhà. Vừa đến nhà vừa xem thật là không thể ngờ, tại sao lửa biết nhảy
qua khỏi nhà mình? Những nhà bên trái, bên phải đều bị lửa cháy thành tro, mà nhà của
mình chính giữa lại cịn ngun? Nhiều người xúm lại chúc phúc cho sư tỷ, nói nhờ sư tỷ
cung kính lạy Phật, Bồ Tát mà được cảm ứng. Điều kỳ lạ nhứt là mọi người đều nói:


“Cửa của nhà bà khóa lại, tại sao lại có khói trắng thơm phức từng lọn từng lọn bay ra từ
trong khe cửa, mọi người chúng tôi từ sanh ra đến giờ đều chưa từng ngửi qua mùi thơm
nào như thế”. Sư tỷ nói: “Đây nhứt định là kỳ tích của Quán Thế Âm Bồ Tát hiển thị”.
Câu chuyện trên đây là một trong những chuyện cảm ứng mà sư tỷ Khoan Kim do niệm
Phật được chuyển nghiệp.


<b>55. CHUYỆN CẢM ỨNG CHUYỂN NGHIỆP KỲ DIỆU NHẤT </b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(134)</span><div class='page_container' data-page=134>

đều cầu xin như thế. Quán Thế Âm Bồ Tát thật là linh nghiệm vô cùng, không phụ sự cầu
xin của người chí thành. Có một đêm, sư tỷ bỗng nhiên nằm mộng thấy một cô gái
khoảng mười lăm, mười sáu tuổi nói với bà: “Khoan Kim! Bà muốn có một cơng việc tốt,
sáng mai lúc cầm hộp cơm đi làm, phải đi đường nhỏ không được đi đường lớn, sẽ có
quý nhơn giúp đỡ cho bà”. Nói xong thì biến mất. Sáng hơm sau, lúc sư tỷ mang hộp cơm
ra cửa, nhớ lại cảnh trong mộng đêm trước, nửa tin nửa ngờ. Nguyên là mỗi ngày đi ra
khỏi nhà đều đi theo đường lớn, nhưng hôm nay đổi hướng đi đường nhỏ thử xem. Đi
được nửa đường thì ở bên bờ tường của một ngơi nhà cao cấp có một cơ gái cười cười
đến hỏi bà: “Bà tên là Khoan Kim muốn đi đến hãng giày dép cao su làm phải khơng? Bà
vội vàng đáp phải, nhưng trong lịng lại rất lấy làm lạ: cô gái làm sao lại biết rõ thế? Cơ
gái lại nói: “Chủ tịch Hội đồng Quản trị của chúng tôi sáng sớm kêu tôi đợi bà ở đây, ơng
ta mời bà vào trong có chuyện muốn nói với bà”.


Sư tỷ Khoan Kim lúc đó trong lịng vô cùng ngạc nhiên đi theo cô gái vào trong. Ông
Chủ tịch Hội đồng Quản trị hỏi bà một cách rất thân tình: “Bà tên là Khoan Kim, con trai
bà sắp vào lính ba năm, cho nên bà muốn tìm một chỗ làm có lương tương đối khá phải
khơng?”. Bà liền đáp phải. Ơng Chủ tịch lại nói: “Nhà máy của chúng tơi có một cơ nhân
viên làm tạp vụ, chuyên lo về công việc nấu nước pha trà, nhưng cơ này lại để móng tay
q dài, lại sơn đỏ chót, cho nên bình trà, chung trà, mâm đều rất dơ, tại cô ta sợ gãy
móng tay, cho nên rửa cái gì cũng khơng sạch. Bây giờ cần đổi người khác, chỉ cần hàng
ngày rửa sạch những dụng cụ uống trà là được rồi, mời bà đến đảm nhiệm công việc. Thế
nào? Lương mỗi tháng là 450 đồng, cuối năm lại thưởng một tháng lương nữa”. Sư tỷ


nghe ơng Chủ tịch nói thao thao một hồi, vui mừng vơ cùng nói: “Cám ơn ơng Chủ tịch
rất nhiều có lịng tốt giúp đỡ”


Sư tỷ Khoan Kim từ lúc bỏ nơi làm việc mỗi ngày 5 đồng chuyển vào nơi tiền lương mỗi
tháng 450 đồng, bà làm việc rất chăm chỉ. Nhưng trào lưu của thời thế những hãng xưởng
lớn mà mướn mấy bà già làm nhân viên tạp vụ như thế rất là ít có, cho nên trong xưởng
có một số viên chức mắt nhìn thấy một bà già bưng trà đi ra đi vơ ở văn phịng có hơi
ngứa mắt, liền nửa đùa nửa thật kiến nghị với ông Chủ tịch rằng: “Thưa ông Chủ tịch!
Ông mướn bà già này bưng trà, thật không hay chút nào!”. Có người cịn nói xen vào:
“Thưa ơng Chủ tịch! Nếu như khơng tìm được người trẻ tuổi, tơi ngày mai lập tức dẫn
đến một cô vừa thông minh vừa lanh lợi đến thay thế cho”.


Ông Chủ tịch vội vàng nói: “Khơng được! Khơng được! Việc này xin các anh tha cho, do
vì tơi đã hứa với Qn Thế Âm Bồ Tát rồi, Bồ Tát kêu tôi giúp bà ta ba năm”. Lúc đó
mọi người trong văn phịng đều cười rộ lên, cho là ơng Chủ tịch nói chuyện thần thoại,
liền hỏi ông ta: “Bồ Tát làm thế nào ước hẹn với ông bảo ông giúp cho bà già này ba năm
chớ?”.


</div>
<span class='text_page_counter'>(135)</span><div class='page_container' data-page=135>

dùng ba năm, trong thời gian đó, nếu như có người phản đối, ông cũng không được nản
lòng, giúp ba năm đến nơi đến chốn. Lúc bấy giờ tôi liền hỏi cô gái đó rằng: “Vị lão tín
nữ đó tơi lại không quen biết bà ta, làm sao đây?”. Cô gái đó lại nói: “Lão tín nữ tên là
Khoan Kim, hơn 7 giờ sáng mai, trong tay cầm hộp cơm đi đến làm ở nhà máy giày dép
cao su, sẽ đi ngang qua cửa nhà của ông, ông chỉ cần phái người theo giờ đó đứng đón
ngồi cửa là được rồi”. Nói đến đây thì cơ gái biến mất.


Lúc đó sư tỷ Khoan Kim nói với mọi người: “Thì ra là lịng từ bi của Qn Thế Âm Bồ
Tát, chẳng những báo mộng cho ông Chủ tịch, đồng thời cũng chỉ điểm cho tôi, kêu tôi
lúc đi làm buổi sáng, không được đi đường lớn mà đi theo đường nhỏ sẽ có quý nhơn
giúp đỡ, không ngờ thật sự gặp được nhân duyên đặc biệt này. Hồi lúc trước ông Chủ tịch
kêu vào làm một cách thân tình như thế, trong bụng tơi hết sức hoang mang: ông Chủ tịch


làm sao biết tôi rõ như thế?… Qua lần giải thích đó mới biết là lịng đại từ đại bi cứu khổ
cứu nạn của Quán Thế Âm Bồ Tát đã giải quyết dùm cho tôi. Thật là Phật pháp vô biên
không thể nghĩ bàn!”. Sư tỷ cảm động nói: “Từ hơm đó, sau khi ông Chủ tịch giải thích
chuyện kỳ diệu không thể nghĩ bàn, trong ba năm trời, khơng cịn người nào nói ra nói
vào gì nữa”. Chuyện kể tới đây, tơi liền hỏi sư tỷ: “Ơng Chủ tịch đó là ai, tên họ là gì?”,
sư tỷ nói: “Ơng ta họ Trương tên Kiết, ông là Chủ tịch Hội đồng Quản trị của nhà máy
bột mì Quảng Nguyên. Trên đây hoàn toàn là sự thật. Đây là chuyện cảm ứng chuyển
nghiệp thứ hai của sư tỷ Khoan Kim do niệm Phật mà được.


<b>56. NIỆM PHẬT CHUYỂN NGHIỆP ĐƯỢC HƯỞNG THỌ PHƯỚC BÁO </b>
Phật là bậc đạo sư của ba cõi, cha lành trong bốn loài. Những người quy hướng tin theo
diệt được tội như cát sông Hằng; những người xưng niệm được phước vơ lượng. Lại nói
về Tấn Truyền, người con trai thứ ba của sư tỷ Khoan Kim, từ khi nhận được sự hun đúc
của mẹ thì tin sâu Phật pháp, hiểu rõ những điều hay tốt của việc niệm Phật, niệm Bồ Tát,
cho nên sau khi nhập ngũ huấn luyện, nghiêm thủ quy luật của quân đội, thời gian rảnh
liền niệm Thánh hiệu A Di Đà Phật và Quán Thế Âm Bồ Tát, thường được nhờ Phật, Bồ
Tát từ bi gia hộ, như có lúc đang bơi, trong hư khơng trên đỉnh đầu từng thấy Bạch y Đại
sĩ (Quán Thế Âm Bồ Tát ) hóa hiện, nói ra thật khiến người khó tin.


</div>
<span class='text_page_counter'>(136)</span><div class='page_container' data-page=136>

một phát triển. Năm năm trước đây đã giở bỏ căn nhà cũ, làm lại một căn nhà lầu mới bê
tông cốt thép, trên lầu thờ Phật, Bồ Tát. Sư tỷ sớm tối càng tu hành lễ bái tinh tấn hưởng
thọ cái vui đoàn viên trong đời. Cứ như thế, mọi người đều nói là nhờ sự che chở của
Phật, Bồ Tát. Đây cũng chính là phước báo có được sau khi chuyển nghiệp.


<b>57. PHẬT, BỒ TÁT KHƠNG PHỤ NGƯỜI CHÍ TÂM </b>


Sư tỷ Khoan Kim trong ba năm, có một hơm nhận được một lá thơ hẹn giờ, là thơ của
con trai lớn ở dưới quê Ngô Thê gởi lên. Trong thơ nói với bà đứa cháu nội mười tuổi bị
bệnh viêm màng não đã mười ngày, thuốc thang trị liệu không hiệu quả, hiện đang trong
trạng thái hôn mê, tánh mạng nguy hiểm trong sớm tối, mời mẹ về nhanh. Sư tỷ nghe tin


tức, liền đi thỉnh một bức tượng Tây phương Tam Thánh và một quyển Kinh Di Đà,
mang theo mõ chuông vội vàng về quê. Đến nhà trời đã tối, thấy một thầy thuốc đang
khám bệnh cho cháu, lại thấy cháu đang trong cơn nguy cấp muôn phần, tay chân bị co
giật không ngớt, chỉ thấy bác sĩ (thầy thuốc) lắc đầu nói: “Đáng tiếc! Đáng tiếc! Lớn như
thế này mà gặp không may sốt cao 40 độ, lại bị co giật, sinh mạng đứa nhỏ này khó mà
giữ lại được, tối đa chỉ kéo dài đến sáng mai!… So với thằng bé họ Trần ở gần bên, mặc
dù cũng đồng một chứng viêm màng não, nhưng thằng nhỏ kia sốt chỉ có 38 độ và khơng
có bị co giật, hy vọng trị khỏi được nhiều hơn”. Bác sĩ nói xong liền đi.


Sư tỷ Khoan Kim mặc dù nghe những lời nói đó của bác sĩ, nhưng vẫn khơng nản lịng,
lập tức treo tượng Tây phương Tam Thánh lên, thắp hương đốt đèn, trước tụng một
quyển Kinh Di Đà và xưng niệm Thánh hiệu Di Đà khơng dứt, cịn kêu con trai, con dâu,
ba người ln phiên nhau niệm. Người già thì có nhiều kinh nghiệm, nhìn thấy miệng
mũi của thằng nhỏ khơ khốc, lại niệm một ly lớn nước chú đại bi, chế vào miệng nó,
miệng mồm liền được thấm nhuần tươi tắn. Thật đúng niệm Phật chỉ sợ tâm không
chuyên, nếu có thể chuyên, người nào cũng đều có thể được cảm ứng. Đang lúc ba người
niệm đến nửa đêm, thì con dâu bỗng nhiên kêu mẹ chồng một tiếng, nói: “Lúc con đang
nhắm mắt niệm Phật, thì nhìn thấy ba tượng Phật, Bồ Tát rất là cao lớn, đều ở trong
phòng, nhưng lúc mở mắt ra thì khơng thấy nữa, nhắm mắt lại thì lại nhìn thấy. Thật là
khơng thể nghĩ bàn! Má! Má có nhìn thấy khơng?”. Sư tỷ nói: “Rất tốt, rất tốt. Có lẽ
thằng nhỏ này được cứu rồi, do vì tâm con cung kính niệm, khẩn thiết cầu xin, cho nên sự
cảm ứng được giao thơng. Con xem nó bây giờ đã hết co giật rồi đó ư? Chúng ta tiếp tục
thành tâm niệm nữa đi!”.


Sư tỷ Khoan Kim, con trai và con dâu, ba người gắng sức van cầu Phật, Bồ Tát, suốt đêm
tiếng niệm Phật không hề gián đoạn. Phật, Bồ Tát thật là khơng có phụ người chí tâm, khi
trời vừa sáng, con bệnh đã xuất hạn mồ hôi và hạ sốt, con mắt đã có thể chuyển động, tứ
chi cũng đã cử động được rồi, bỗng nhiên mở miệng kêu lên một tiếng: “Bà nội!”. Lúc đó
bà nội và ba mẹ của thằng nhỏ đều mừng rỡ, cảm động đến muốn khóc…



</div>
<span class='text_page_counter'>(137)</span><div class='page_container' data-page=137>

nữa rồi, đã khỏi hơn phân nửa. Nói ra thật có kỳ tích! Người bệnh nặng thì chuyển nguy
thành an, còn thằng nhỏ bệnh nhẹ họ Trần ở gần bên thì ngược lại đã chết! Tơi vừa được
họ mời đến, làm giấy khai tử cho nó. Theo lời cha mẹ nó nói nửa đêm biến chứng, khơng
bao lâu thì tắt thở, do đây sẵn tiện đến thăm thằng bé nhà các vị”.


Sư tỷ nói với tơi: “Thằng cháu trưởng của tơi hồn tồn nhờ Phật, Bồ Tát giáng hiện điềm
lành mới được may mắn sống lại. Đến giờ thằng nhỏ này tinh thần bình thường, ngũ quan
tứ chi đoan chánh. Nhưng có điều khiến người ta khó hiểu là tại sao trong ba người của
chúng tơi, chỉ có mình con dâu thấy được Phật, Bồ Tát hiện ra, cịn hai mẹ con tơi lại
khơng nhìn thấy? Tơi nghe xong giải thích cho bà ta nghe như thế này: “Do vì sư tỷ lúc
đó đang bận trì niệm nước chú đại bi và rót từng giọt từng giọt vào miệng thằng nhỏ, cho
nên tâm niệm Phật không được chuyên; đến như con trai lớn của bà, do vì chưa từng
nghe qua pháp môn Tịnh độ, không biết được điều hay tốt của niệm Phật, nên chỉ niệm
bằng miệng, còn trong tâm thì tán loạn nên khơng thể thấy được. Cịn con dâu của sư tỷ
nó biết nghe lời của sư tỷ, hơn nữa cái tâm muốn cứu con tha thiết, niệm được tâm và
Phật hợp nhau, nhứt tâm bất loạn, giống như nước trong trăng hiện, cảm ứng do bởi cái
tâm cô ta thành khẩn, cho nên không bị cái đau mất con. Đây là một chuyện thật của sư tỷ
Khoan Kim dạy con dâu niệm Phật mà được chuyển nghiệp.


<b>58. TAI NẠN BỊ TREO Ở SƯỜN NÚI, NGUY HIỂM KINH SỢ, RỐT CUỘC </b>
<b>KHÔNG SAO </b>


Tấn Truyền, người con thứ ba của sư tỷ Khoan Kim, có thời gian anh ta vừa làm ông chủ
vừa làm cơng việc đối ngoại, hồi năm rồi có một hơm anh cỡi một chiếc xe mô tô đến
vùng quê ở trong núi sâu thuộc đất Khai Phong để thâu nợ. Lúc sắp về nhà đi ngang qua
một ngọn núi bên trái là vách núi, bên phải là vực sâu mấy trượng, xe chạy ngang qua
chỗ này, bỗng nhiên “bùm” một tiếng lớn (bể bánh?); trong chớp mắt chiếc xe rơi xuống
vực sâu, nhưng Tấn Truyền tay mắt nhanh nhẹn, hai tay túm chặt được một bụi cỏ trúc
treo trên sườn núi không bị rớt theo xe xuống vực sâu. Đất ruộng ở dưới vực có bốn, năm
người nơng phu đang cày ruộng ở đó, mắt thấy xe rơi xuống, liền la to: “Xong rồi, xong


rồi!”. Đợi đến lúc lại dựng xe lên xem: thật là kỳ lạ, chiếc xe này vẫn còn tốt y ngun,
khơng có hư chút nào hết, những người nơng phu đó liền cứu Tấn Truyền đang hơn mê
nằm treo trên sườn núi, sau khi tỉnh lại Tấn Truyền nhìn sườn núi chỗ mới treo trên đó,
ngạc nhiên nói: “Ơ! Tơi mới vừa rồi rõ ràng nắm cứng bụi cỏ trúc treo ở sườn núi đó mà,
mới không bị ngã rơi xuống đáy vực”. Mấy người nông phu đó nói: “Sườn núi này từ nào
tới giờ láng lẩy, cỏ trúc ở đâu mà có? Chắc là mắt anh hoa nhìn lộn đấy thơi. Nhưng anh
thật là may mắn, từ trước tới giờ bất kể là đi xe mô tô hay xe đạp, mà bị sự cố ở đây, đều
khơng có ai sống sót hết! Trước đây mấy hơm lại có một cơ gái cỡi xe đến đây bị sự cố,
chết ngay đây nè!”.


</div>
<span class='text_page_counter'>(138)</span><div class='page_container' data-page=138>

nạn xe vừa rồi và lời kể của những người nơng phu ở đó, nếu khơng phải Qn Thế Âm
Bồ Tát hóa hiện ra một bụi cỏ trúc lớn cho con nắm lấy, thì con và xe đã cùng rơi xuống
vực sâu, sớm đã tan xương nát thịt rồi”. Cả nhà nghe đến nỗi đổ mồ hôi lạnh ra cả nắm
tay, nếu không phải Bồ Tát phị hộ cùng với những người nơng phu tốt bụng, thì chiếc xe
rơi xuống đáy vực như thế làm sao có thể kéo lên được?…


Sau khi Tấn Truyền thuật lại chuyện nguy hiểm, kinh sợ vừa trải qua xong, thì có hơi
mệt, lúc ngã nằm xuống trên giường nghỉ, thì thần thức liền phấp phới bay đến nơi vừa
rơi xe, chỉ thấy một con quỷ nữ mặt mày hung ác, trên đầu kết một xâu tiền mã lớn, chạy
tới chạy lui nơi đó, Tấn Truyền sợ quá bất giác chắp tay lại và xưng niệm “Nam mô cứu
khổ cứu nạn Quán Thế Âm Bồ Tát ” (<i>ở trong mộng mà thần thức có thể niệm Phật được, </i>
<i>thì có thể tiêu tai giải nguy</i>) Tấn Truyền ở trong mộng niệm chưa đến mười tiếng, thì
Quán Thế Âm Bồ Tát hiển linh trên hư không, đến gần phía trước dán tờ giấy viết “Án
ma ni bát di hồng” trên trán của Tấn Truyền, rồi dùng cây phất trần cầm trên tay phẩy con
quỷ nữ biến mất tiêu. Tấn Truyền vừa tỉnh lại, hóa ra là một giấc mộng, nhưng cảnh giới
trong mộng anh nhớ rất rõ ràng. Chuyện này chứng minh: “Ai ăn nấy no, tội nghiệp của
ai thì người đó phải tự tiêu trừ!”. Nếu như Tấn Truyền tự mình khơng có niệm được
Thánh hiệu Phật, Bồ Tát, thì khơng thể tưởng được truyện ra sao rồi! Đây cũng là chuyện
cảm ứng của sư tỷ Khoan Kim dạy con niệm Phật mà được nghiệp theo tâm chuyển.



<b>59. ĐỨNG CHẮP TAY MỈM CƯỜI VÃNG SANH TÂY PHƯƠNG </b>


Việc đau xót thống khổ nhất trong đời khơng gì hơn CHẾT, khơng ai là khơng biết cũng
khơng ai có thể tránh khỏi. Do đây Đức Thế Tôn với tâm từ bi vô hạn, khơng hỏi mà tự
nói, giới thiệu ra pháp môn Tịnh độ, dạy người tin sâu, nguyện thiết, chuyên cần niệm
Phật cầu sanh Tây phương. Nên biết việc vãng sanh Tây phương cần phải ở nơi một niệm
cuối cùng của tự bản thân là chủ yếu, đồng thời cũng phải cần các liên hữu trợ niệm đúng
pháp, nhưng mà lục thân quyến thuộc, thường khơng có biết trợ giúp niệm Phật để đưa
thần thức của người mất vãng sanh Tây phương Cực lạc thế giới, hưởng thọ sự an lạc mãi
mãi, mà ngược lại đau xót khóc lóc kêu la, đẩy thần thức của người mất rơi xuống ba
đường ác: địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, chịu sự khổ sở lâu dài, đau thương vô cùng! Nay
lại đưa ra đây một truyện niệm Phật được vãng sanh, một truyện thật, đứng mà hóa sanh
Tây phương như sau:


</div>
<span class='text_page_counter'>(139)</span><div class='page_container' data-page=139>

bao nhiêu tiền, con may cho má, hoặc mua là được rồi, không cần bán chiếc nhẫn vàng
đâu!”. Sư tỷ Ấu nói cần 200 đồng.


Sáng sớm ngày thứ nhất của kỳ Phật thất, sư tỷ Ấu liền tắm rửa, mặc chiếc áo tràng mới
may, chuẩn bị, trước thắp hương, đốt đèn lạy Phật ở nhà, rồi đi chùa Linh Sơn đả Phật
thất. Lúc đó, gần nhà có một vị liên hữu là A Tam Muội, dậy sớm, liền đến hẹn với sư tỷ
cùng đi đả thất. Sư tỷ Ấu nói: “A Tam Muội, cô đi trước đi, tôi phải lạy Phật ở nhà
trước”. Sau khi A Tam Muội đi, sư tỷ Ấu mặc áo tràng vô cùng vui vẻ, quỳ xuống lạy
Phật ba lạy, xong ngẩng đầu lên chiêm ngưỡng Thánh tượng, thì thấy tượng Tam Thánh
chuyển động vịng trịn, đồng thời khói hương trong lị hương cũng chuyển động, trong
lịng khơng khỏi càng nghĩ càng cảm thấy kỳ lạ, mà càng nhìn thì càng chuyển.


Sư tỷ Ấu nghĩ không ra tại sao, mặc nguyên áo tràng đến mấy nhà liên hữu ở gần mời họ
đến xem tại sao Tây phương Tam Thánh và lư hương đều quay vòng? Bốn, năm vị liên
hữu theo bà đến xem, mọi người đều nói khơng thấy gì. Lúc các vị liên hữu cùng nhau
đồng lời nói, nhưng không thấy sư tỷ Ấu trả lời, quay lại nhìn, thì thấy sư tỷ Ấu đứng n


khơng nhúc nhích, hai tay chắp lại mỉm cười quy Tây rồi, các vị liên hữu tức thời đúng
như pháp, trợ niệm cho sư tỷ và bảo người nhà khơng được khóc, mà cùng trợ niệm, lại
kêu con rể của sư tỷ đến chùa Linh Sơn mời A Tam Muội đồng về trợ niệm. Lúc con rể
sư tỷ đến chùa gặp được A Tam Muội nói với cơ: “Má tơi đã vãng sanh Tây phương, mời
cơ về trợ niệm”, thì A Tam Muội làm sao chịu tin, do vì cơ ta sáng nay còn gặp sư tỷ Ấu,
lại còn hẹn với sư tỷ đồng lên chùa Linh Sơn tham gia Phật thất mà! Truyện kỳ tích vãng
sanh Tây phương này, tơi cũng có hỏi qua sư tỷ A Tam Muội, chứng minh đích xác,
khơng có nửa câu giả dối.


<b>60. HIỆN BỐN THỨ TƯỚNG LÀNH, NHẤT ĐỊNH VÃNG SANH TÂY PHƯƠNG </b>
“Người không tin Phật, không sanh vào nhà ta. Ông Lữ dạy con, đời đời được vinh hoa”.
Hai câu trước là nói về ơng Lữ Mơng Chánh đời Tống, ông là một vị Phật tử thuần thành.
Mỗi ngày vào sáng sớm, khi lạy Phật lạy Tổ đều lấy hai câu này làm câu cầu nguyện sau
cùng của thời khóa hàng ngày. Hai câu sau là đời người sau khen ngợi ơng Lữ dạy con có
phương pháp, tứ đại đồng đường (<i>4 thế hệ: ông bà cố, ông bà nội, bố mẹ, con cái ở </i>
<i>chung trong một gia đình</i>) hưởng lộc đều là đệ tử Tam bảo, vinh hoa phú quý làm quan
đến chức Tể Tướng.


</div>
<span class='text_page_counter'>(140)</span><div class='page_container' data-page=140>

hiện được tướng lành không thể nghĩ bàn, thật đáng quý, khó thể có được, sự thật như
sau:


Lão cư sĩ Lâm Thanh Giang, quê của ông ở một làng bên bờ biển ở Ngô Thê, hiện ở số
15 đường Đại Trí, thành phố Đài Trung. Ông tự kể lại khi mới vừa sinh ra đời, liền đã
chịu một tai nạn lớn. Do vì nhà ông ở bên bờ biển, ông mới sanh hai mươi ngày bị trời
mưa lâu, nước biển dâng lên, có mấy làng đã bị nước biển dâng lên cuốn đi, biến thành
biển cả mênh mơng, nhìn khơng thấy bờ mé! Cả nhà ông ta vội vã dùng chiếc bè tre đánh
cá, chất hết người cả nhà và lương thực lên trên chiếc bè tre đó, mặc cho nước cuốn trơi,
trong đó có một người sản phụ bồng một đứa trẻ chưa đầy tháng, đó là Lâm Thanh
Giang. Ở trên chiếc bè tre đó trơi nổi 20 ngày, thật là chín phần chết, một phần sống.
Vượt qua lần tai nạn này có người nói: “Nạn lớn mà khơng chết, ắt có phúc về sau”. Cái


hạnh phúc đó của Lâm lão cư sĩ là cái gì? Có lẽ chính là việc về già được sự lợi ích do
học Phật nghe pháp.


Lâm lão cư sĩ tư chất thông minh tự nhiên, tuổi thiếu niên đi học rất có trí nhớ, phần lớn
những sách đọc qua rồi thì khơng qn, cho nên những thứ ơng đã học như: địa lý, y học,
số mạng, bốc thuật (coi bói), tướng thuật và thơ văn, thảy thảy đều giỏi, có thể cùng với
người nói chuyện trên trời dưới đất gì cũng được. Mặc dù nghề nghiệp của ông là buôn
bán, nhưng nếu có thời gian rảnh, ông liền khám bệnh bốc thuốc cho người bất kể là trị
những chứng bệnh khó khăn gì, phần nhiều là thuốc đến là hết bệnh, cho nên những bệnh
nhơn được trị khỏi khắp nơi rất nhiều, hết thảy đều là kết duyên, không bao giờ nhận tiền
của ai, cho nên ở trong làng những bà con bạn bè đều khen ông là: “đệ nhất thiện nhơn”.
Do bởi nhân duyên làm lành mà vốn dĩ y theo ngày tháng năm sanh của ơng tự coi số thì
thọ mạng tối đa của ông là năm mươi bốn tuổi, so với lúc ơng vãng sanh hồi năm ngối là
bảy mươi chín tuổi, tính ra thọ thêm được hai kỷ, nếu như khơng thọ thêm hai mươi bốn
năm thì cũng đã sớm giống như những người thường, đi vào luân hồi lục đạo rồi!


Cơ duyên học Phật của Lâm lão cư sĩ là vào lúc nhà ông ở đường Dân Tộc, thành phố
Đài Trung làm hàng xóm với cư sĩ Giang Ấn Thủy. Giang cư sĩ mới rủ ông đi nghe kinh,
niệm Phật với lão ân sư Lý (Lý Bính Nam), rồi thọ đại giới Bồ Tát. Từ đó hai thời khóa
sáng tối khơng gián đoạn, đều là cùng ông bạn già đồng ra vào cùng nhau tu trì. Ơng
chẳng những tự tinh tấn tu hành, đối với việc dạy dỗ con cái, ông cũng rất chăm chỉ, tạo
thành một gia đình Phật tử thuần thành, nhất là đối với đứa cháu nội Diệu Đường càng
chú trọng, đặc biệt mỗi sáng chủ nhựt vào tuần lễ Đức dục Nhi đồng của liên xã, ông đều
bảo cháu nội Diệu Đường đến tham gia niệm Phật, nghe chuyện. Về sau lại khích lệ cháu
nội gia nhập lớp bổ túc Quốc văn, sau khi học xong lớp bổ túc Quốc văn lại tham gia đại
hội diễn giảng của thanh niên tân xuân ở Liên xã. Diệu Đường trước sau đã có bốn lần
kinh nghiệm, đây đều là do sự hun đúc của ông nội, Diệu Đường chẳng những ăn nói
lanh lợi mà cịn do cội gốc gia đình có ăn học (có gien) được truyền thừa y bát của ơng
nội (những sở đắc của ơng nội), chí nguyện sau này cũng muốn hành nghề chữa bệnh làm
nghĩa giúp đời, cứu giúp những người bệnh.



</div>
<span class='text_page_counter'>(141)</span><div class='page_container' data-page=141>

sau các người trong nhà bèn chia ban ra niệm Phật suốt ngày đêm khơng ngớt và thỉnh ân
sư Bính Cơng về khai thị cho ông, dạy cho ông buông bỏ vạn duyên, nhứt tâm niệm Phật.
Đến ngày 22 tháng 12 ÂL lúc nửa khuya, Diệu Đường nhắm mắt niệm Phật bên ông nội,
bỗng nhiên nhìn thấy một đám người muốn xơng vào cửa lớn, nhưng hai bên cửa lớn:
phía bên trái có Bồ Tát Già Lam Thánh chúng đứng, tay cầm đại quan đao, phía bên phải
có Hộ pháp Vi Đà Tôn Thiên Bồ Tát đứng, tay cầm hàng ma chữ. Hai vị Bồ Tát này dùng
đại quan đao và hàng ma chữ chận đứng đám người đó lại rồi đuổi đi; nhưng khơng bao
lâu lại có một đám người khác đến nữa, liên tiếp ba lần đều như thế, Diệu Đường nhìn
thấy cảnh này rất rõ ràng, liền biết là oan nghiệp đời trước đến đòi nợ bị thần hộ pháp của
Phật giáo chặn đứng đuổi đi… Sáng sớm lão cư sĩ nói với con dâu (mẹ của Diệu Đường)
rằng: “Tối nay Ba sẽ vãng sanh Tây phương”.


Diệu Đường liền chạy đến Liên xã thỉnh các vị trợ niệm, có ban trưởng ban Vũ Đức là
Hoàng Thái Vân và một số người đến trợ niệm cho ơng, từ sáng sớm ngày đó bắt đầu
niệm, niệm đến hơn 10 giờ tối. Sau khi các vị trong ban hộ niệm đi về, thì cả nhà do Diệu
Đường hướng dẫn niệm Phật, khơng bao lâu, bỗng nhìn thấy một đạo hào quang từ cửa
xẹt vào đối thẳng với tượng Phật A Di Đà, liên tiếp ba lần phóng ánh sáng như thế, lúc đó
lão cư sĩ Thanh Giang trên mặt lộ vẻ khoan thai vui vẻ, miệng mỉm cười vãng sanh Tây
phương, lúc đó đúng 11 giờ đêm. Vì phải sắp đặt bàn linh đang lúc Diệu Đường muốn đi
ra ngoài cửa để đi mua đèn cầy, thì thấy hào quang rực rỡ trên hư khơng từ hướng Tây
chiếu thẳng vào nhà, vì nhà của ông tọa vị hướng Đông, quay về hướng Tây. Lúc Diệu
Đường về nhà thì người anh đang niệm Phật bên ơng nội nói với Diệu Đường rằng: “Lúc
em đi ra ngoài mua đèn cầy, anh đang niệm Phật ở đây thì bỗng có một làn hương thơm
bay lại, không phải mùi của đàn hương, cũng không phải là mùi thơm của hoa, mà là mùi
thơm rất lạ ở thế gian này ít có!”. Cả nhà đều chuyên tâm nhứt ý niệm Phật mãi đến trời
sáng không dứt đoạn. Đã trợ niệm được tám giờ, lúc đó bà nội của Diệu Đường muốn
đến bên người bạn đời đã từ giã cõi trần, khó tránh khỏi buồn thương liền nhè nhẹ vén cái
mền đang đắp ra thì bỗng nhiên một mùi thơm lạ sực nức mũi! Con cháu, mọi người cả
nhà, ai cũng đều khen ngợi Phật pháp vô biên không thể nghĩ bàn!



Do bốn tướng lành ở trên, suy ra thì biết lão cư sĩ Lâm Thanh Giang, chắc chắn vãng
sanh Tây phương khơng cịn nghi ngờ gì nữa. Con dâu của ông càng khen ngợi may nhờ
Phật, Bồ Tát gia bị nên vãng sanh vào ban đêm, trợ niệm trịn đủ tám giờ, khơng có động
đến thân thể ông, cũng không có ai khóc, được sự thuận lợi cho việc trợ niệm vãng sanh,
nếu khơng thì lục thân quyến thuộc mấy chục người thân thiết nhưng họ chưa từng biết
niệm Phật nghe pháp, vừa nghe người thân qua đời, chắc chắn chen chúc mà đến, làm sao
có thể ngăn được họ khơng gào khóc om sịm. Đây cũng là phước báo thù thắng của Lâm
lão cư sĩ lúc lâm chung vãng sanh Tây phương không có chướng ngại.


<b>61. BỆNH CŨ MƯỜI NĂM, KHƠNG THUỐC MÀ KHỎI </b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(142)</span><div class='page_container' data-page=142>

tên là Kim Tinh. Đứa bé này từ lúc lọt lòng mẹ đến 3 tuổi thân thể gầy cịm yếu đuối
khơng như những trẻ bình thường khác, hầu như khơng có ngày nào khơng khám bác sĩ
và uống thuốc, suốt ngày đêm mẹ đều bế trong lịng. Một hơm vào buổi chiều bệnh của
thằng nhỏ này đến mức rất nghiêm trọng, lúc chỉ cịn chút hơi thở thoi thóp, mẹ của nó
bỗng nhiên nhìn thấy ba, bốn quỷ thần hung ác muốn giựt lấy đứa con cơ đang bế trong
lịng, nhưng cô bất kể thế nào cũng ôm chặt không chịu buông ra. Trong khoảnh khắc
sống chết muôn phần nguy hiểm đó, thì thấy từ trên hư khơng hiện xuống một người nữ,
dung mạo trang nghiêm tay cầm phất trần, hướng về những quỷ thần hung ác nói: “Thằng
nhỏ này phải sống trên dương thế, các ngươi không được bắt nó đi”. Nói xong vung phất
trần lên phẩy một cái, những quỷ thần đó liền biến mất. Người nữ trang nghiêm đó liền
hướng về mẹ con của Kim Tinh nói: “Ngươi phải nên niệm Phật A Di Đà thì con của
ngươi sẽ dễ ni”. Từ đó về sau sức khỏe thằng bé Kim Tinh được chuyển đổi từ ốm yếu
thành mạnh mẽ, vui vẻ dễ ni. Sư tỷ A Thun kể đến đây, lại nói với tôi: “Sư tỷ Khán
Trị à! Sư tỷ xem, nếu không phải là Quán Thế Âm Bồ Tát đại từ đại bi cứu khổ cứu nạn
hiện thân đến giải cứu, thì làm sao có được Kim Tinh ngày nay? Chắc đã chết non năm 3
tuổi rồi”. Tôi liền hỏi bà ta: “Quán Thế Âm Bồ Tát dạy cô ta phải niệm A Di Đà Phật, cô
ta có niệm hay khơng?”, A Thun đáp: “Em gái tơi vốn không hiểu được A Di Đà Phật
và Quán Thế Âm Bồ Tát là gì? Do vì nó hỏi tơi việc này. Tơi liền nói cho nó nghe những


điều hay tốt và ý nghĩa của việc niệm A Di Đà Phật, từ đó mới bắt đầu niệm Phật”. Ngày
tháng thoi đưa, thời gian như tên, mới nháy mắt mà Kim Tinh đã 17 tuổi rồi, và là một
thanh niên hiền lành, siêng năng làm việc. Từ sự giới thiệu của Diệu Đường, anh gia
nhập lớp bổ túc Quốc văn của liên xã ở Đài Trung, thành tích học thuộc hạng giỏi, và anh
cũng tham gia bốn lần đại hội giảng diễn của thanh niên Phật giáo Tân Xuân và tham gia
hoằng pháp ở thành phố, đều do từ một tấm lòng thành mà ra, tài ăn nói lanh lợi, chẳng
những tự thân được pháp hỷ sung mãn, anh lại còn tâm tâm niệm niệm muốn độ cho mẹ
anh nữa. Vào năm Dân quốc thứ 55 lúc tôi đến giảng phẩm Quán Thế Âm Bồ Tát Phổ
Môn ở viện nuôi trẻ Từ Quang, thì cậu học sinh Kim Tinh mỗi lần như thế đều đạp xe
chở mẹ đi nghe giảng và niệm Phật.


Theo lời Kim Tinh thì gia đình của cậu trước đây làm ruộng, mẹ cậu là một người đàn bà
giỏi giang, cần cù và tiết kiệm, nên sanh con chưa đầy tháng đã ra ruộng làm việc; vì cực
khổ quá mức như thế nên sau lần sanh cậu ta thì mắc chứng bệnh chân bị co giật đau, đi
đứng không được tự nhiên; nhưng từ sau khi nghe giảng phẩm Phổ Môn, biết được sự
linh cảm của việc niệm Thánh hiệu Quán Thế Âm Bồ Tát và việc Bồ Tát tầm thanh cứu
khổ, bà liền thờ tượng Tây phương Tam Thánh trong nhà, sớm tối thành kính lễ bái. Có
một đêm 2 giờ khuya thức dậy, hai chân bị gân rút đau quá, đau đến tồn thân đều đau.
Đang lúc đau khơng chịu nổi bà chỉ một mực to tiếng niệm Quán Thế Âm Bồ Tát đến lúc
trời sáng, thì cái bệnh cũ hơn 10 năm, rốt cuộc không thuốc mà khỏi, gân cốt đau nhức
hết thảy đều tiêu sạch. Sự thật trên đây là do Kim Tinh nói với tôi.


</div>
<span class='text_page_counter'>(143)</span><div class='page_container' data-page=143>

Một lần nữa kể về một thanh niên Phật giáo, họ Dương tên là Nghĩa Hoàng, năm nay
mười tám tuổi. Ba năm trước lúc tôi giảng “Lương Hoàng Bảo Sám” ở liên xã, do cậu
học sinh Kim Tinh giới thiệu đến liên xã nghe giảng. Mỗi lần nghe những câu chuyện
cảm ứng về niệm Phật thì cậu thanh niên Nghĩa Hồng này về nhà đều kể lại một cách
say sưa hứng thú cho ba mẹ và những bà con bạn bè hàng xóm nghe, và xin được sự đồng
ý của ba mẹ thỉnh bức tượng Tây phương Tam Thánh lớn về lập bàn thờ phụng, mỗi sáng
nhất định phải thành khẩn lễ bái niệm Phật xong mới đi làm.



Đây là sự việc của mùa hè năm ngối, gần nhà của Nghĩa Hồng có một nhà nọ dọn về
quê ở làng Sa Lộc ở, bà chủ của nhà này đã được sự huân tập của Nghĩa Hoàng, hiểu
được niệm một câu A Di Đà Phật có thể tiêu tai giải nguy, cho nên trong tàng thức đã
gieo trồng hạt giống kim cang; nhưng trong nhà của bà từ chồng bà trở xuống mọi người
đều không chịu niệm Phật. Chồng của bà làm thợ rèn trong một công xưởng ở Đài Trung.
Có một hơm vì trong cơng xưởng có nhiều việc, ông chủ kêu ông ta về quê tìm mướn
công nhân dẫn lên.


Ông này cũng là người hiền hậu siêng năng, tranh thủ lúc làm việc ca đêm xong liền ngồi
chuyến xe 11 giờ đi về Sa Lộc, nhưng muốn về đến nhà, nhất định phải đi bộ một tiếng
đồng hồ, lại phải đi qua một con đường sắt xuyên dọc theo bờ biển. Ông này đến Sa Lộc
đã hơn 12 giờ muốn thuê taxi, xe đòi giá 20 đồng. Nhưng ông từ trước đến giờ rất hà tiện,
khơng cam lịng tiêu xài 20 đồng, nên tự đi bộ về nhà. Lúc đi đến chỗ xa xa phía trước là
con đường sắt thì nghe tiếng nỉ non khóc lóc của một người con gái, lúc đi đến gần đường
sắt thì thấy cơ gái đó khoảng mười sáu, mười bảy tuổi ngồi giữa đường sắt, cô gái này
mặc đồ trắng, trên lưng mang một bao vải, ông này vội vàng đi qua thì cơ gái ngồi giữa
đường sắt đó lại từ phía sau kêu theo khơng ngớt: “Chú ơi! Tôi muốn theo chú về nhà!”.
Lúc đó ơng này nghe tiếng kêu của cơ gái đuổi theo càng lúc càng gần, khơng khỏi lơng
tóc dựng đứng, khơng biết u ma quỷ qi gì, quay mình lại xem thử một cái, thì thấy cơ
gái đó chỉ mặc có một chiếc áo lót, thấy ơng quay lại nhìn cơ ta mạnh bạo kéo áo cho lộ
ngực ra. Ơng sợ q quay đầu lại phóng chạy riết về nhà, lúc kêu cửa đã hơn 1 giờ khuya.
Ông này chạy đến nhà hốt hoảng gõ cửa, vợ ông ta vừa mở cửa thấy chồng xông vào ngã
trên ghế dựa hơn mê, bất tỉnh nhân sự lại cịn thở gấp hổn hển. Bà vợ khôn ngoan cảm
thấy việc này nhất định phải có dun cớ gì đây, tức thời ngồi bên mình ơng lớn tiếng
niệm “A Di Đà Phật”, niệm chưa đến nửa tiếng đồng hồ, thần trí của chồng bà dần dần
tỉnh lại, khi bình tâm tĩnh trí liền đem việc ở bên đường sắt nhìn thấy âm hồn nữ quỷ truy
đuổi kêu réo kể lại cho vợ ơng nghe.


Vợ ơng nói: “Con người ơng như vậy vừa hồ đồ vừa mê tín, bình thường trước ngực ơng
có đeo cái bùa bát qi gì đó có thể đuổi tà được mà! Nghĩa Hồng dạy chúng ta niệm A


Di Đà Phật, ơng lại không tin, nếu như không phải sau khi về nhà, tơi cố sức niệm Phật,
có lẽ đến giờ ông vẫn còn hôn mê chưa tỉnh nữa là!”.


</div>
<span class='text_page_counter'>(144)</span><div class='page_container' data-page=144>

Ba vị thanh niên trên đây có thể làm ra được công đức không thể nghĩ bàn như thế: Diệu
Đường trợ niệm cho ông nội vãng sanh và khuyến độ được Kim Tinh học Phật. Kim Tinh
do lòng hiếu, cảm được đức Quán Thế Âm Bồ Tát trị khỏi được bệnh cũ nhiều năm cho
mẹ, lại khuyến độ thêm được Nghĩa Hoàng niệm Phật, tinh thần từ bi của Nghĩa Hoàng,
khéo dẫn dắt cho bà hàng xóm niệm Phật, cứu được chồng bà ta được khỏi bị nữ quỷ
chọc phá. Chả trách ông Lữ Mông Chánh phát nguyện “Người không tin Phật, không
sanh nhà ta”. Có thể thấy được con em biết học Phật cũng có thể cảm hóa được người
lớn. To lớn thay Phật pháp, thật không thể nghĩ bàn!


<b>63. TÀI XẾ NIỆM PHẬT, TAI ƯƠNG TIÊU TRỪ </b>


Vào mỗi chủ nhựt có tuần lễ Nhi đồng Đức dục ở Liên xã, người đứng đầu phụ trách (chủ
nhiệm) là Lại Tuyết Hà, mọi người đều gọi bà là Bà giáo Lại. Mỗi sáng chủ nhựt, các em
bé ở chung quanh gần đó đều tập họp đến Liên xã, bà tập cho hát tiếng Phạn, niệm Phật
và kể những câu chuyện ngắn có quan hệ về Đạo đức, Nhân nghĩa, khiến tâm linh của trẻ
được gieo trồng những hạt giống lành. Bà giáo Lại rất là từ bi, chẳng những tận tâm với
nghĩa vụ, nhiệt tâm dạy dỗ các em… nếu gặp vào những ngày lễ vía của Phật, Bồ Tát bà
lại cịn tự móc hầu bao mua ít kẹo để kết duyên với các em nhỏ, hơn mười năm vẫn cứ
phát tâm như thế, các bậc phụ huynh của các em được thọ ân huệ của bà, ai cũng đều cảm
kích.


Bà giáo Lại hiện nay đang làm việc ở một nhà máy ga lớn ở thành phố Đài Trung, làm
chức chủ nhiệm phòng hành chánh tổng hợp, bà làm việc rất chăm chỉ, người trên kẻ
dưới thảy đều rất tơn kính.


Hồi năm rồi ngày 17 tháng 11, vía Đức Phật A Di Đà, bà giáo Lại đến hội Liên Nghị, sau
khi bái tổ tiên xong, bà nói với tơi: “Trong nguyệt san Cây Bồ Đề, tơi xem được những


sự tích cảm ứng của sư tỷ viết, cảm tạ từ ân của Phật, Bồ Tát, trong lịng thật hoan hỷ vơ
lượng!”. Bà giáo Lại lại nói: “Nhà máy của chúng tơi có một nhóm tài xế trẻ, mỗi buổi
sáng, lúc ngồi sau tay lái sắp chở hàng đi, tôi liền dạy họ niệm mười câu “A Di Đà Phật”
trước, rồi mới để họ lái xe đi, và dặn đi dặn lại nhiều lần nếu như gặp phải nguy hiểm, thì
nên nhanh chóng niệm “A Di Đà Phật” to lên. Ngày ngày đều dặn dò, chỉ bảo như thế,
lâu dần thành quen, tự nhiên đều như thế không cần phải dặn dò chỉ bảo nữa, tự họ đều
biết niệm cả.


</div>
<span class='text_page_counter'>(145)</span><div class='page_container' data-page=145>

quá sức!”. Anh tài xế do đó mà cảm ơn vơ cùng việc dạy niệm Phật hàng ngày nhờ đó mà
được gặp dữ hóa lành, nhặt lại được mạng sống.


Bà giáo Lại lại nói: “Cịn có một lần nữa, một anh tài xế khác có một hơm mặt mày hớn
hở đến nói với tơi: “Phật A Di Đà thật là hay!”. Tôi liền hỏi anh ta: “Anh được cảm ứng
gì mà vui vẻ thế?”. Anh tài xế này liền nói: “Tơi ngày hơm nay nếu như không biết niệm
A Di Đà Phật chắc là đã sớm gây ra án mạng! Do vì hôm nay lúc lái xe trên một đại lộ,
bỗng có một đứa nhỏ băng ngang đường, chạy ngay đến trước xe tôi, tôi đạp thắng gấp
cũng không kịp, tức thời vọt miệng niệm lớn tiếng A Di Đà Phật! Trong bụng nghĩ đứa
nhỏ chắc chắn đã chết thảm dưới bánh xe, cho nên sợ đến nỗi toàn thân tháo mồ hôi hột,
nhưng khi xe dừng lại rồi, nhìn xuống thì thấy thằng nhỏ đó khơng có sao hết, đang vội
vội chạy chuồn đi”. Anh tài xế này cũng cảm ơn tơi rối rít.


Bà giáo Lại nói tiếp: “Lại có một lần trong nhà máy có một viên chức già đến hỏi tơi, ơng
ta nói phịng ốc ở nhà ơng rất khó ở, mỗi lần đến đêm khuya mọi người yên tĩnh hết,
thường có những âm thanh quái đản lại có vẻ gấp rút, có nhiều lúc bị quấy rầy đến suốt
đêm không yên được! Không biết phải làm thế nào mới được đây? Tôi liền chỉ ông ta
phương pháp niệm A Di Đà Phật và nói thêm với ơng ta: “Chẳng những sớm tối phải
niệm mà còn trước khi ngủ cũng phải niệm, nếu lúc phát giác có gì lạ, thì càng phải niệm
to hơn”. Thật là một thang thuốc A Già Đà trị hết được muôn bệnh, vài tháng sau ơng già
đó đến cám ơn nói với tơi rằng: “Hiện nay nhờ phước ấm của bà mà mỗi đêm ngủ thẳng
giấc tới sáng, đã yên ổn hết rồi”.



Tinh thần to lớn của bà giáo Lại, ở trong Phật môn tâm tâm niệm niệm đều là muốn cứu
độ chúng sanh, ở trong xã hội đối đãi với mọi người từ tốn lịch sự, làm việc thì chân thực,
ở trong gia đình thì hịa thuận tốt đẹp, đích thật là một người vợ hiền mẹ tốt. Có thể nói từ
gia đình ra đến xã hội cho đến cơng sở làm việc cả ba đều tốt đẹp, đáng được xưng là bậc
trượng phu trong nữ giới, khiến mọi người đều kính phục.


<b>64. NIỆM PHẬT CẢM ỨNG ĐƯỢC QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT ỨNG HÓA CỨU </b>
<b>ĐỨA EM </b>


Nhớ lại từ mười lăm năm trước, hội viên hoằng pháp của liên xã Trì Huệ Lâm đến Qn
Cơng Liêu ở khu Bắc Đồn hoằng dương chánh pháp, tổ chức một ban niệm Phật gia đình,
Bính Cơng ân sư đặt tên cho là “Ban Di Đà”. Lúc đó Huệ Lâm nói với tơi: Có một cơ gái
trẻ trong ban Di Đà tên là Ngọc Chi, chẳng những thành khẩn hai thời sớm tối, lại còn rất
nhiệt tâm giúp đỡ trong ban làm việc, do đây được cảm ứng đạo giao với Quán Thế Âm
Bồ Tát mà cứu được mạng đứa em trai bốn tuổi của cô ta.


</div>
<span class='text_page_counter'>(146)</span><div class='page_container' data-page=146>

mẹ liền biết nhất định là té xuống trong ao sâu, bà mẹ liền hỏi nó: “Con làm sao cho ướt
nhẹp cả người đến thế này?”. Thằng nhỏ liền nói: “Con đang chơi bên ao, sơ sẩy bị té
xuống trong nước!”.


Bà mẹ vừa vội vã tắm thay đồ cho nó, trong lịng vừa cảm thấy kỳ lạ hỏi nó: “Con đã té
vào trong ao, lại như thế nào mà bò lên được vậy?”. Thằng bé lại nói: “Lúc con té trong
ao sâu thì thấy có một vị nữ nhân nhảy vào trong nước bế con lên, đặt xuống bên ao, rồi
lại dẫn con về nhà, lúc về đến cửa thì lại khơng thấy đâu”. Mẹ của nó liền dẫn nó đến bên
ao xem, trên đất một vũng nước ướt cịn chưa khơ, bà ta liền hỏi những người phụ nữ bên
ao: “Trong các vị, ai là người nhảy vào nước cứu được thằng bé nhà tơi?”. Mọi người đều
nói khơng có, hỏi ai cũng không biết, bà lại kêu thằng bé đi nhận diện người, hỏi nó là vị
nào cứu nó, nhưng thằng bé này đều lắc đầu nói khơng phải. Vì muốn tri ân báo ân nên
đã hỏi khắp hết các phụ nữ trong làng, vẫn hỏi không ra người nào.



Trải qua khoảng mấy tháng, có người từ Nhật Bản mang về hạt đầu của xâu chuỗi (quả
bầu), có một lần mang đến ban Di Đà bán, mỗi hạt là 10 đồng tiền mới của Đài Loan.
Một mắt nhắm, một mắt mở xem thì thấy ở trong hạt pha lê nhỏ đó có một tượng Quán
Thế Âm Bồ Tát trang nghiêm vô cùng, Ngọc Chi cũng thỉnh một hạt về nhà, cả nhà nam
nữ già trẻ, như được vật chí bảo, mọi người đều tranh nhau muốn xem, thằng bé cũng
giựt lấy đem đi xem, vừa lúc nhìn thấy liền nhảy nhót vui mừng, reo to lên: “Má ơi! Con
khi trước té vào trong ao, người bế con lên chính là người trong hạt chuỗi này”. Lúc bấy
giờ cả nhà Ngọc Chi mới bừng tỉnh, ngộ ra, thật vô cùng cảm tạ từ ân của đức đại từ đại
bi cứu khổ cứu nạn Quán Thế Âm Bồ Tát.


Câu chuyện thật Quán Thế Âm Bồ Tát ứng hóa giải cứu đứa em trai của Ngọc Chi thoát
khỏi nạn nước trong ao sâu trên đây là Huệ Lâm kể lại với tôi.


<b>65. NHÂN DUYÊN TIN PHẬT CỦA HAI BÀ CHÁU </b>


Mười hai năm trước, có một thời kỳ lúc liên xã niệm Phật vào mỗi thứ Hai, mỗi lần như
thế đều có một em bé khoảng mười tuổi tham gia.


Sư tỷ Khoan Phụng nói với tơi: “Thằng bé này gần đây bị hai người chú đã mất của nó,
dẫn đi âm phủ, được Phật A Di Đà giành lại cứu đem về”. Những lời này khiến tôi ngạc
nhiên không hiểu gì hết, liền hỏi thăm nguyên nhân, sư tỷ Khoan Phụng liền nói ra sự
thật sau đây:


</div>
<span class='text_page_counter'>(147)</span><div class='page_container' data-page=147>

Phật, Bồ Tát phò hộ và thỉnh một ly nước chú đại bi cho nó uống”. Bà nội của nó vốn là
người không tin Phật, nhưng hiện đang bị khổ não bức bách q khơng cịn cách gì,
khơng biết làm thế nào nữa, nên liền theo lời của sư tỷ, hai người đến liên xã khấn vái
trước Phật, Bồ Tát cầu nguyện được bình an và thỉnh một ly nước chú đại bi đem về, lấy
muỗng, từng muỗng, từng muỗng rót vào trong miệng thằng bé. Xong, sư tỷ trở lên lầu
niệm Phật.



Sư tỷ ở trên lầu niệm Phật chưa đến mười phút, bỗng nhiên nghe thấy những âm thanh
hỗn loạn dưới lầu: tiếng kêu réo, khóc la… sư tỷ vội vã xuống lầu xem, tồn thân tốt mồ
hơi lạnh, sư tỷ sợ đến nỗi gần như hồân phi phách tán, do vì mới vừa thỉnh nước chú đại
bi cho nó uống xong, bây giờ lại biến chứng co giật, hai mắt trợn đứng, tim đập loạn xạ;
sư tỷ tức thời lấy xâu chuỗi trong tay đặt vào chỗ co giật, miệng cứ to tiếng niệm A Di Đà
Phật, niệm được chưa đến hai mươi phút, co giật đã dần dần giảm nhẹ, tim cũng hồi phục
lại bình thường, Thánh hiệu vạn đức hồng danh, chỉ sợ không chuyên, nếu như chuyên
tâm nhứt ý niệm, có niệm tất linh. Lúc đó thằng nhỏ bệnh thở ra một hơi, liền mở miệng
nói chuyện: “Hai chú, một người lơi tay của con, bắt con đi theo mấy chú, con không
chịu đi, lại rất sợ, mấy chú liền ép lôi kéo con đi, mãi đến lúc nghe tiếng niệm A Di Đà
Phật của bà cô ở trên lầu, mới buông tay ra, chạy ra ngồi cửa, hiện mấy chú vẫn cịn ở
ngồi cửa, mắt cứ nhìn con chằm chằm thật sợ quá đi! Mau thỉnh bà cô niệm A Di Đà
Phật tiếp đi!”.


Lúc đó bà nội của nó liền nhớ lại con mình chết hồi ba năm trước, liền kêu tên của hai
người và nói: “Các con khơng được cưỡng ép bắt cháu đi, các con phải phò hộ cho sức
khỏe của nó được bình an, thì mẹ sẽ nhận nó làm con thừa tự cho các con, sẽ viết trên bài
vị của các con thờ phụng, và đến ngày Tết, ngày giỗ sẽ cúng tế cho các con”. Nói ra cũng
lạ, từ đó về sau sức khỏe của thằng bé này dần dần được khôi phục như cũ, tứ chi, ngũ
quan, tinh thần đều trở lại bình thường, hồn tồn khơng có trạng thái gì khác lạ, bà nội
của thằng bé lại nói với sư tỷ: “Chả trách mấy tháng lại đây thường ở trong chiêm bao
nhìn thấy hai đứa con ba năm trước nối nhau qua đời, tụi nó địi tơi cho con thừa tự (con
nối dõi để cúng bái). Tôi vốn không tin việc này, việc trong mộng làm sao mà có thật?
Đây chính là lỗi của tơi. May mà có sư tỷ cứu được mạng của cháu tôi, thật là cảm ân vô
cùng”.


<b>66. OAN HỒN THEO ĐUỔI BỊ SỐT CAO, NIỆM PHẬT HẾT SỐT </b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(148)</span><div class='page_container' data-page=148>

Người già thường có nhiều kinh nghiệm, nhìn thấy cháu nội đi chơi bên ngoài về liền ngã


ra ngủ khơng tỉnh, trong lịng cảm thấy khơng an, nên cũng không ngủ được, liền ở bên
cạnh cháu, thường dùng tay sờ trán của cháu thăm dị tình hình lạnh nóng; đến hơn 2 giờ
khuya, cảm thấy cháu bắt đầu phát sốt cao, liền cung kính niệm một ly nước chú đại bi,
kêu nó dậy cho nó uống. Nó uống xong một ly lớn nước chú đại bi, liền nói: “Bà nội!
Con hơm nay đi chơi bên ngoài, sau khi ăn cơm dưới một gốc cây, chơi một chút sức
khỏe liền rất không thoải mái, do vì có một thằng nhỏ đi theo con về nhà, nó nói với con,
nó cũng 9 tuổi, nó là thằng nhỏ hồi năm ngối cũng chơi ở đó bị té chết, nó bây giờ cũng
cịn mặc đồ học sinh, nó nói bây giờ nó rất buồn tẻ, nó muốn con cùng nó làm bạn. Bà
nội! Nó hiện vẫn cịn đứng trước giường muốn con đi chơi!”.


Lúc đó lão sư tỷ nghe đứa cháu nói những lời đó rồi, bất giác run lên, lơng tóc dựng
đứng, nhưng không thể không tự phấn chấn tinh thần, tự nâng cao dũng khí nói: “Nhà của
ta khơng ốn khơng thù gì với ngươi, nếu như có ốn thù đi nữa, thì ốn nên mở mà
khơng nên buộc, giờ ta niệm chú vãng sanh bố thí cho ngươi, để ngươi có thể siêu sanh
thốt khổ, ngươi nên chú ý nghe!”. Lão sư tỷ liền niệm ba xâu chuỗi liền không gián đoạn
đã hơn ba trăm biến, lại niệm tiếp Thánh hiệu A Di Đà Phật, không biết niệm được mấy
ngàn câu, đứa cháu nội lại kêu lên: “Bà nội! Lúc bà nội niệm chú vãng sanh, nó liền đi ra
ngồi cửa, vẫn cịn dùng tay ngoắc con, kêu con đi ra. Mãi đến lúc bà nội niệm A Di Đà
Phật thì khơng thấy nữa”.


Lão sư tỷ nói:“Tơi liền rót một ly nước nóng nữa cho thằng bé này uống cho nó trấn tỉnh
tinh thần, nó liền ngồi dậy nói muốn đi tiểu, nó lúc đó trong bụng vẫn còn run, hai mắt
vẫn cứ chằm chằm nhìn ra cửa, sợ đến nỗi hai tay ơm chặt lấy chân của bà nội. Đến nhà
vệ sinh, khơng dám đóng cửa, lại cịn kêu bà nội đứng ngay cửa”. Lão sư tỷ nói: “Nếu
khơng phải thiệt nhìn thấy ma quỷ, vì sao mà sợ đến như vậy? Sau khi đi tiểu về đến
phòng, lại tháo mồ hơi đầy mình, sốt cũng đã lui rồi, ngủ một giấc ngon lành trời sáng
thức dậy, lanh lợi lại như thường, bình an vơ sự”. Lão sư tỷ lại nói tiếp: “Tơi rất cảm ơn
sư tỷ, vì sư tỷ đến dạy chúng tôi niệm A Di Đà Phật, cho nên tơi mới nói cho sư tỷ nghe”.
Tơi liền hỏi: “Đang lúc thằng bé sốt cao, quỷ phá rất nghiêm trọng, sao bà không kêu con
trai và con dâu bà dậy?”. Lão sư tỷ đáp: “Vì tụi nó ngủ trên lầu, oan nghiệp đeo đuổi từ


bên ngoài đến, người khơng tin theo Phật, khơng cách gì giải quyết được, nên kêu cũng
vô dụng, cho nên không có kêu tụi nó”. Lão sư tỷ đã hơn 70 rồi, từ lúc nghe được pháp
môn Tịnh độ, tinh thần rất tốt, căn lành sâu dày phát trí huệ lớn, luôn giữ tâm không rời
Phật, Phật không rời tâm. Gần đây nghe cư sĩ A Thẩm nói: Lão sư tỷ đã vãng sanh hồi 4
năm trước rồi.


<b>67. Ở TRONG TÙ ĐƯỢC NGHE PHÁP, KÍNH TU TỊNH NGHIỆP ĐƯỢC KẾT </b>
<b>QUẢ </b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(149)</span><div class='page_container' data-page=149>

chí nguyện tha thiết, thật tâm niệm Phật, cầu sanh Tây phương, chắc chắn đều được Phật
tiếp dẫn vãng sanh Tây phương. Bây giờ cử ra kỳ tích về một người phạm tội vào tù, phát
tâm niệm Phật, lúc lâm chung được vãng sanh Tây phương để làm chứng thật.


Lâm Phúc là người ở khu Đông của Đài Trung, từ nhỏ nhà nghèo, thất học, lớn lên sống
bằng nghề làm thuê, tính nết lỗ mãng, không am hiểu sự lý. Vào mùa xuân Dân Quốc
năm thứ 37 sau một trận mưa bão lớn, anh bị bạn xấu đến dẫn đi ăn cắp dây điện bị đứt
rơi bừa bãi loạn xạ (do mưa bão). Bị bắt đưa ra tòa, ở tòa án bị phán xử mười năm tù, vào
nhà tù Đài Trung.


Vào tháng 6, Dân Quốc năm thứ 40, Liên xã ở Đài Trung phái cư sĩ Giang Ấn Thủy và
Lại Luyện Lương đến nhà tù giảng pháp, do đây mà Lâm Phúc được nghe sự mầu nhiệm
của pháp môn Tịnh độ, liền tin sâu, không nghi, ngày đêm chí thành niệm Phật, nguyện
cầu tiêu trừ nghiệp chướng, phát nguyện sanh Tây phương. Đến tháng 12 Dân Quốc năm
thứ 42, thời hạn tù đã hơn phân nửa, Lâm Phúc được tạm tha về nhà. Về sau, mỗi chủ
nhật đều đến chùa Linh Sơn nghe pháp với ân sư Bính Cơng, mỗi thứ Hai đều đến Liên
xã niệm Phật, mỗi thứ Bảy cũng đến Liên xã nghe kinh. Giang cư sĩ giới thiệu cho anh ta
vào làm ban viên của ban Hàn Hương, trở thành một đệ tử Tam Bảo rất thành kính.
Thân người là thể máu thịt do tứ đại giả hợp thành, không ai tránh khỏi mắc bệnh thọ
khổ. Cư sĩ Lâm Phúc thành kính tu trì niệm Phật này cũng thế, khơng bao lâu mắc bệnh
nặng. Bác sĩ chẩn đốn là chứng nghẽn tim, sưng thận, cả người đều đau, nhưng tâm của


Lâm Phúc chẳng những không thối chuyển, mà càng tinh tấn niệm Phật hơn. Đến năm
Dân Quốc thứ 43, bắt đầu từ tháng 10, mỗi khi nghe mùi đồ mặn thì nơn mửa mãi, liền đó
tịnh khẩu ăn chay và càng tinh tấn niệm Phật hơn.


Lâm Phúc mặc dầu nhất thời hồ đồ làm việc sai trái, nhưng bản tánh vốn là người con
hiếu, đến tháng 12 thì bệnh anh quá nặng hết chữa, nhưng trong lòng cứ mãi nghĩ đến mẹ
già 80 tuổi ở với người em trai thứ hai ở Cao Hùng. Nói ra cũng lạ, cũng vào ngày hơm
đó, bà mẹ ở Cao Hùng ngồi đứng không yên, cũng tâm tâm niệm niệm mong muốn thăm
con trưởng Lâm Phúc. Do tâm nghĩ nhớ tha thiết không nén được, bà lão 80 tuổi này vào
ngày 20, một thân một mình đến Đài Trung, mẹ con gặp nhau buồn vui lẫn lộn, Lâm
Phúc liền nói rất nhiều về niệm Phật là việc quan trọng nhất của đời người, và khuyên mẹ
nên niệm Phật.


</div>
<span class='text_page_counter'>(150)</span><div class='page_container' data-page=150>

<b>68. KHÔNG GIEO NHÂN PHẬT, ĐÂU ĐƯỢC QUẢ PHẬT </b>


Phàm tất cả sự việc có nhân ắt có quả, định luật nhân quả khơng sai tơ hào nào cả. Cũng
giống như trồng dưa được dưa, trồng đậu được đậu, tuyệt khơng có cái đạo lý trồng dưa
được đậu, trồng đậu được dưa. Người mong muốn vãng sanh Cực lạc thế giới cũng như
thế, trồng cái nhân niệm Phật thì được cái quả vãng sanh Tây phương, tự mình khơng
gieo trồng nhân Phật, dù có thiện tri thức trợ niệm cũng không nương nhờ được, lúc vãng
sanh đến, phát sanh chướng ngại, tạm đưa ra một sự thật để chứng minh:


Vào 18 năm trước, vị liên hữu Vạn Trương Bội Hoàn, chúng tơi đều gọi bà là Vạn sư
huynh, nói với tơi: Có một vị đồng hương ở Đơng bắc, đã hơn tám mươi tuổi, thọ mạng
sắp hết, thỉnh người giúp đỡ trợ niệm. Tôi liền hỏi bà ta: “Người này lúc bình thường có
tin Phật, niệm Phật khơng?”. Vạn sư huynh nói: “Khơng có, nhưng ơng ta khi trước từng
làm lãnh tụ hội đạo đức Vạn quốc, tơi khun ơng ta niệm Phật là tìm được nơi trở về an
ổn, là vãng sanh Tây phương, ông ta mới biết được điều tốt đẹp của Tây phương, nên mới
muốn thỉnh người trợ niệm, xin sư tỷ giúp cho tìm mấy vị liên hữu ngày mai đến trợ
niệm”. Sáng sớm hôm sau, tôi hẹn ba vị liên hữu cùng với Vạn sư huynh đồng đi. Ông ta


ở một căn nhà nhỏ phía sau cơng viên. Vừa nhìn ơng lão đó, thấy ơng râu tóc bạc phơ và
mặc một bộ đồ trắng nằm trên giường, hơi thở thoi thóp, bên mình chỉ cịn một bà vợ già,
chúng tôi liền bắt đầu lục tự hồng danh cứ thế niệm mãi, niệm đến trưa Vạn sư huynh liền
dẫn chúng tôi về nhà, thành ý chiêu đãi ngọ trai, sau giờ ngọ lại đi niệm, niệm đến tối
mới nghỉ.


Ngày hơm sau Vạn sư huynh lại đến nói: “Lâm sư huynh (Lâm Khán Trị), ông lão hôm
qua chúng ta niệm cho nghe danh hiệu Phật một ngày, bây giờ đã tỉnh táo, tự trong tâm
ông ta cũng đã biết niệm rồi, lại cịn nói trưa ngày mai Phật A Di Đà sẽ đến tiếp dẫn,
quyết định là 12 giờ sẽ đi, xin sư huynh sáng mai hẹn nhiều nhiều vị liên hữu đến nhà
ông ta niệm Phật, đưa ông ta vãng sanh Tây phương, được khơng ạ?”. Tơi lập tức nhận
lời, do vì lịng hiếu kỳ thúc đẩy, tơi liền đến tun truyền với các vị liên hữu nói ơng ta
biết trước giờ đi, mời hẹn ngày mai đi trợ niệm, để xem tướng lành vãng sanh Tây
phương của ông ta.


</div>
<span class='text_page_counter'>(151)</span><div class='page_container' data-page=151>

Ai có ngờ được trong giây phút ngàn cân treo sợi tóc và phân biệt Thánh phàm này lại
xẩy ra chướng ngại. Đang lúc chúng tôi nhứt tâm niệm Phật, thì người hầu nam kia đi lấy
một vật trong đống giấy tờ đã được chuẩn bị xong, rất nhanh nhẹn đốt trước mặt ông già,
trong nháy mắt đã đốt xong. Bà vợ già của ông như giựt mình, khơng kềm được lịng,
bước xơng lên vội vàng đưa tay ra sờ sờ mặt của chồng bà, vừa khóc vừa nói: “Ơng đi
Tây phương bỏ tơi ở lại một mình, phải sống thế nào đây?”. Vạn sư huynh lập tức ngăn
bà ta lại nói: “Tôi đã dặn với bà rồi, lúc ông sắp vãng sanh, bà khơng được khóc lóc lưu
luyến, hoặc là động đến mình ơng ta, bà qn rồi sao?”. Đúng ngay lúc 12 giờ, ông lão
mở to mắt ra nói: “Thưa Phật A Di Đà, tơi khơng đi Tây phương nữa đâu, do vì nếu tơi đi
Tây phương, để bà bạn tơi ở lại có một mình thì làm sao? Cho nên tơi khơng đi nữa!”.
Lúc đó các vị liên hữu vẫn cứ gắng sức niệm nhưng cũng không sao chuyển được ông ta!
Mặc dù rất là thất vọng, cũng tiếp tục niệm hơn nửa giờ nữa, lúc đó nhìn xem ơng lão nói
năng lộn xộn, trạng thái tinh thần đã trở nên rối loạn không cịn rõ ràng nữa! Ai cũng tội
nghiệp cho ơng ta, tiếc than cho ông ta, rồi ai về nhà nấy.



Đêm đó khoảng hơn 10 giờ, Vạn sư huynh lại đến nhà tôi kêu tôi đi niệm Phật cho ông ta,
tơi hỏi: “Ơng ta sao rồi?”. Bà nói: “Tâm thần tán loạn, sức khỏe biến đổi xấu, đại khái có
dáng rất đau khổ, nhưng ơng ta vẫn cịn rất hy vọng nghe người niệm Phật”. Tôi liền lại
cùng Vạn sư huynh đi đến nhà ông lão, vào cửa liền nhìn thấy ơng lão đang khạc ra máu
và dùng tay móc trong miệng ra máu từng cục từng cục, làm dơ đầy giường vết máu tanh.
Tôi và Vạn sư huynh hai người lập tức lại niệm Phật to tiếng lên, niệm đến hơn 11 giờ,
thấy ông ta cứ mê mờ, khơng cịn cách nào liền trở về nhà. Khi trời chưa sáng thì ơng ta
vẫn cứ mờ mờ mịt mịt như thế về âm phủ!


Trong kinh nói: Thân người khó được, thiện hữu tri thức khó gặp. Ơng lão này thân
người khó được, đã được lại trường thọ, càng khó được hơn là sự nhiệt tâm chỉ dạy của
thiện tri thức Vạn sư huynh. Nhưng cái điều không may nhất là cái khoảnh khắc giáp giới
giữa Thánh nhơn và phàm phu, lại bị vợ không nghe lời dặn, khởi ra chướng ngại, tội
nghiệp cho ơng ta lại bị trở vào chìm nổi trong ln hồi, đây cũng giống như: “Lúc bình
thường khơng thắp hương, đến khi gặp chuyện ôm chân Phật cầu cứu”. Mặc dù lúc bình
thường là người chánh nhân quân tử, đạo đức, tâm tốt thì tốt, nhưng chưa gieo nhân Phật
thì đâu được quả Phật! Lấy như chuyện này có thể chứng minh.


<b>69. NHỜ THIỆN TRI THỨC KHAI ĐẠO, NGƯỜI MÙ ĐƯỢC SANH TÂY </b>
<b>PHƯƠNG </b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(152)</span><div class='page_container' data-page=152>

nhỏ, ăn cơm tối xong bắt đầu nói chuyện. Tôi hỏi: “Sư phụ, thầy xuất gia nhiều năm rồi,
thầy có từng thấy qua chính xác người được vãng sanh Tây phương chưa?”. Sư phụ nói
liên tiếp: “Có! Có! Thầy đã từng thấy qua người vãng sanh thật, lúc lâm chung hiện ra kỳ
tích có hai người”.


Sư phụ nói: “Trước đây khơng lâu, lúc thầy đang nhập thất ở động Kim Cang, có một bà
già hơn 70 tuổi, là người xuất gia ở trong chùa, bà là một người mù, đến lúc bị bệnh toàn
thân sưng phù, bà đến động kêu khóc ầm ĩ nói là sắp chết, kêu thầy cứu bà ta thoát khổ.
Thầy không biết thế nào đành phải ra thất về chùa, mắt nhìn thấy liêu phịng của bà cứt


đái bẩn thỉu hôi khai không chịu nổi, lại thấy bà lớn tiếng kêu gào rằng: “Chẳng kể ngày
đêm gì đều có mười mấy người đánh bà, lại kêu ra tên của những hồn oan gia. Có một lần
có người bà con ngoài đời của bà đến, sư phụ liền hỏi: “Mấy cái tên mà thím kêu gào ra
đó, cơ có biết khơng?”. Cơ ta nói: “Biết! Những người đó đều là những người bị bà hại
chết lúc bà còn trẻ”. Chả trách bị oan hồn đánh đến toàn thân sưng phù tét da đổ máu.
Sư phụ đại từ đại bi liền nghĩ ra phương pháp cứu bà ta, quét dọn căn phòng trống, khoét
một lỗ trên tấm ván của giường, phía dưới đặt một cái thùng, có thể đi vệ sinh được tiện
lợi. Mặc dù đã đổi phòng như thế cho bà rồi, bà vẫn kêu la có mười mấy người đánh bà,
thầy Vơ Thượng nói: “Điều kỳ lạ nhất là cái người trước khi sắp chết không thể hoạt
động này, lại tự mình tại sao lộn đầu trồng chuối xuống được, đầu mặt chun qua cái lỗ
trên giường đụng thùng phân ở dưới”. Sư phụ mặc dù học Thiền tông, đến lúc đó cũng
khơng có cách gì, bèn phương tiện khéo léo kêu tên bà: “Phổ Kiết Cô à! Bà phải niệm A
Di Đà Phật mới vãng sanh Tây phương lìa khổ được vui”. Lúc đó Phổ Kiết Cơ nói: “Một
màn tối đen à, tơi niệm khơng được”, Sư phụ nói: “Tơi niệm một câu A Di Đà Phật, bà
niệm theo tôi một câu A Di Đà Phật”.


Đúng y như vậy, sư phụ niệm một câu, bà ta liền niệm một câu, niệm khoảng hơn nửa
giờ, Phổ Kiết Cô bỗng nhiên lộ nét cười, kêu một tiếng: “Sư phụ! Bây giờ thì đã là một
màn ánh sáng, mười mấy oan hồn “vô hảo tử” kia vẫn còn đứng đàng kia cười!”. Trong
khoảnh sát na mười mấy oan hồn kia liền mượn miệng của Phổ Kiết Cơ nói: “Cám ơn
lịng từ bi của sư phụ rất nhiều! Một bà già mù tội ác to lớn, hôm nay cuối cùng mười
mấy người, chúng tôi thoát khổ rồi”. Sư phụ tức thời đáp rằng: “Đúng, oan gia nên mở
không nên buộc, các ngươi cũng phải niệm A Di Đà Phật theo để được đới nghiệp vãng
sanh mới thoát ly được cái khổ lớn của sanh tử”. Sư phụ lại kêu Phổ Kiết Cô nói: “Bà
phải bình tâm tĩnh trí niệm A Di Đà Phật, tiếp tục niệm theo tôi đi!”. Lại niệm mãi
khoảng hơn một giờ, Phổ Kiết Cơ lại nói: “Sư phụ! Bây giờ đã ánh sáng đầy trời, ở trong
mây có những người mặc đồ trắng cầm cờ trắng muốn tiếp dẫn tôi đi Tây phương Cực lạc
thế giới”. Lúc đó bà chắp hai tay lại hướng lên hư không mỉm cười, an tường mà đi, từ
đây, một kẻ phàm phu tội nghiệp đầy mình, thốt ly được biển khổ Ta Bà, đới nghiệp
vãng sanh Liên bang tiêu diêu tự tại.



</div>
<span class='text_page_counter'>(153)</span><div class='page_container' data-page=153>

phù, chảy máu chảy mủ như vậy mà tức thời sạch sẽ tiêu mất hết, khơng có chút mùi hơi
nào, thật là một tướng lành không thể nghĩ bàn”.


Tôi nghe xong câu chuyện thật vãng sanh Tây phương của sư phụ kể khiến chánh nhơn tu
trì của tơi về tịnh nghiệp được tăng trưởng, tín tâm rất nhiều, do đó mà vui mừng hớn hở,
sau khi trở về Đài Trung liền đến nhà cư sĩ Hoàng Hỏa Triều kể lại cho hai vợ chồng họ
nghe. Ai ngờ vợ chồng họ vì tâm hiếu kỳ thúc đẩy, kêu tơi dẫn họ lại hồ Thanh Thảo lần
nữa, đích thân nghe việc đó với sư phụ. Sư phụ lại cịn kể một chuyện vãng sanh khác, tơi
vì nhớ khơng rõ nên khơng dám ghi ra.


Chúng sanh từ vô lượng kiếp đến nay tạo các ác nghiệp, nổi chìm khơng ngớt trong lục
đạo, người khơng thốt ly được, chính là oan nghiệp làm chướng ngại, nhân duyên hội
ngộ, báo ân báo ốn, địi nợ trả nợ vướng mắc mn kiếp khơng hết. Nếu muốn cởi mở
oan kết, ngoài niệm Phật ra, tuyệt khơng có đường khác. Học nhơn (khiêm xưng) từ khi
được ở trong hàng học trị của Bính Công ân sư, được thầy dạy dỗ hơn 20 năm pháp môn
Tịnh độ thật vô cùng may mắn, mỗi khi nghĩ nhớ ơn thầy sâu như biển, nặng như núi,
khơng lấy gì báo đáp được, khơng biết thế nào mà thời gian tàn phá con người, bỗng chốc
mà tóc bạc da mồi, dáng già lọm khọm tuổi đã 63, số ngày cịn lại khơng nhiều, một hơi
thở khơng trở lại thì đã qua đời khác, tiếp tục đầu thai lại không biết sẽ vào thai lừa hay
vào bụng ngựa, luôn luôn thấp thỏm lo âu sợ hãi và cảnh giác nhiều, cho nên đem những
điều mắt thấy tai nghe nhiều năm, không nệ văn chương vụng về, căn cứ theo sự thật mà
viết ra, nguyện cùng với người niệm Phật đồng sanh Cực lạc quốc, đồng thời nguyện đem
công đức này hồi hướng cho ân sư Bính Cơng, ở đời vạn năm dạy dỗ quần sanh, thì pháp
mơn được may mắn lắm, chúng sanh được may mắn lắm!


<b>70. TRONG MỘNG ĐƯỢC BÁC SĨ CẮT LÁ GAN CỨU CHỮA, VÀ CHUYỆN </b>
<b>CỨU ĐỘ NHỮNG CON RỆP </b>


Liên tiếp mấy tháng có một vị buôn cải họ Trương tên là Xuyên Dã, nhà ở đường Đại Trí


khu Đơng thành phố Đài Trung, thường đưa rất nhiều trái cây và rau xanh đến liên xã của
Phật giáo ở Đài Trung để cúng dường, số lần đem đến như thế rất nhiều, các vị liên hữu
không cầm được mới đối mặt anh ta cám ơn những ân đức cúng thí đó. Anh ta đáp lại
rằng: “Tôi đến là để đáp tạ ân Phật, đây là điều nguyện tôi đã phát trong khi bệnh, do vì
Phật A Di Đà trị lành bệnh của tơi, ân đức đó thật q lớn”.


</div>
<span class='text_page_counter'>(154)</span><div class='page_container' data-page=154>

Lúc đó tơi mướn một căn nhà ở, giường ở trong nhà, đầy giường và cột rệp quá chừng,
mới đầu tơi bắt từng con đạp chết, nhưng càng đạp nó lại càng nhiều. Lúc đó đang xem
đến một đoạn trong Ấn Quang đại sư văn sao, trong phòng của đại sư cũng rất nhiều rệp,
có một đệ tử thỉnh ý xin dọn sạch, đại sư không chịu, người đệ tử sau mấy tháng lại xin
một lần nữa và hỏi đại sư về tình hình của rệp. Ấn Quang đại sư nói: “Hết thảy ra khỏi
khổ hết rồi, bây giờ khơng có nữa”. Tơi xem đến đoạn nhỏ này thì khơng cịn bắt rệp đạp
chết nữa mà bắt từng con ra hố phân thả. Nhưng sau khi đem rệp đi thả thì có nhiều phiền
tối, khơng dám giết hại, không dám rải thuốc diệt trùng tiêu diệt thì nó lại lộng đến mức
đụng chỗ nào cũng rệp, thật không biết làm thế nào? Đang trong tình hình khơng biết làm
thế nào đó thì bỗng nhiên nghĩ đến bắt chước ngài Ấn Quang pháp sư, thế là hướng vào
các con rệp nói rằng: “Này rệp! Nếu ta thành Phật sẽ độ các ngươi thoát khổ trước, nhưng
ta bây giờ là phàm phu, là người niệm A Di Đà Phật, ta nay dạy các ngươi cũng niệm A
Di Đà Phật, cầu sanh Tây phương. Rệp! Ta niệm các ngươi cũng niệm theo: “A Di Đà
Phật”… cứ thế niệm mãi. Dạy cho rệp niệm A Di Đà Phật như thế chưa quá hai tuần, kỳ
tích khiến người khó mà tin được xuất hiện. Có một hơm dọn dẹp làm sạch sẽ phịng, giở
chiếc chiếu lên, nói ra cũng thật lạ, những con rệp đếm không hết kia, không biết nhảy đi
đâu hết rồi, không thấy một con nào. Việc không thể nghĩ bàn như thế, khiến tôi cũng
không hiểu ra sao”.


Cư sĩ Trương Xun Dã lại nói: “Tơi trước kia mê rượu như mạng sống, mỗi ngày phải
uống hai, ba bình rượu. Năm năm trước bị bệnh gan, Đơng Tây y gì cũng đều đã trị qua
nhưng khơng thấy chút hiệu quả nào, nằm bệnh viện triền miên mấy tháng. Lúc bệnh hết
cách cứu chữa, trong lòng chỉ có cầu Phật tiếp dẫn vãng sanh Tây phương, có mấy lần đã
cận kề với cái chết, ngồi trên giường niệm Phật, lúc niệm không ra tiếng, liền dùng tâm


niệm thầm, kỳ tích thật khơng thể nghĩ bàn lại xuất hiện. Tối hơm đó lúc nửa tỉnh nửa mơ
nhìn thấy một vị bác sĩ mặc đồ trắng tay mặt cầm một con dao bén, tay trái cầm một lá
gan, dùng dao mổ banh dưới ngực bên phải của tôi ra, rồi lấy kéo cắt lá gan, bác sĩ mỉm
cười cầm lá gan vừa hôi vừa nát rữa đưa cho tôi xem, rồi lại lấy lá gan mới của bác sĩ
mang lại đặt vào trong bụng của tôi, rồi đi. Vừa thức dậy tôi cảm thấy nhẹ nhàng dễ chịu
rất nhiều, tôi liền phát nguyện: Nếu tôi được mạnh khỏe, nhất định sẽ báo đáp ân Phật,
làm nhiều việc cúng dường Bồ Tát, nếu như có khả năng sẽ xuất tiền ra đắp áo vàng cho
Phật. Từ năm ngoái đến nay dần dần bình phục lúc nào khơng hay, mạnh khỏe lại như
thường”.


</div>
<span class='text_page_counter'>(155)</span><div class='page_container' data-page=155>

<b>71. SỰ LINH ỨNG MẦU NHIỆM LÚC TRỢ NIỆM CHO MẸ VÃNG SANH TÂY </b>
<b>PHƯƠNG </b>


Cơ sở hoằng pháp Vụ Phong của Liên xã Phật giáo ở Đài Trung có một vị liên hữu tên
Tằng Lâm Hiệp, mọi người đều gọi cô là sư tỷ Hiệp. Nhà ngoại của cô ở số 57 thôn Đồ
Thành, làng Đại Lý huyện Đài Trung, mẹ tên là Lại Vật, do được con gái khuyên dắt
không ngừng nên thâm tín Phật giáo, là một vị lão tu hàng ngày niệm Phật cầu sanh Tây
phương.


Sư tỷ Hiệp có một người em trai tên là Lâm Vạn Thành, ưa thích săn bắn, bà mẹ từ sau
khi tin Phật thường khuyên dạy con trai rằng: “Vạn Thành à! không luận là những con
vật lớn hay nhỏ, đều biết tham sống sợ chết, chúng nó với con khơng ốn khơng thù, con
làm hại nó, bắn giết nó, sao nhẫn tâm làm vậy? Điều làm mẹ bận tâm, chính là con sát hại
sanh mạng tạo nghiệp như thế!”. Nhưng mà tập khí của Vạn Thành khó sửa, nói như gió
thổi qua tai ngựa, căn bản là khơng nghe những lời nói này của bà mẹ.


Đời người có sanh ắt có tử. Thời kỳ vãng sanh của lão tín nữ Lại Vật đã đến, sư tỷ Hiệp
thỉnh sáu vị liên hữu ở cơ sở hoằng pháp Vụ Phong phân ban ra phụ trách trợ niệm. Lão
tín nữ Lại Vật hưởng thọ bảy mươi chín tuổi, mỉm cười quy Tây vào lúc 3 giờ chiều ngày
17 tháng 5 ÂL, các nhân viên trợ niệm sau khi lão tín nữ vãng sanh, niệm tiếp tám giờ


nữa, niệm xong mọi người lưng đẫm mồ hôi. Sư tỷ Hiệp lúc đó đang đứng hóng mát ở
dưới cây trước cửa lớn, liền thắp nhang khấn thầm rằng: “Má! Má có thể an tâm đi Tây
phương được rồi, nhưng lúc này cần phải hiển bày một chút kỳ tích khiến cho Vạn Thành
và con Ngọc (con dâu) biết sửa lỗi lại tu hành”. Đang lúc đó bỗng nhiên “Pằng! Pằng!
Pằng!”, ba tiếng nổ to như sấm chói lỗ tai, mọi người đều hoảng sợ giật mình! Thì ra là
cây súng săn để trong tủ áo trong phòng của em trai Vạn Thành bị cướp cò (tự nhiên nổ)
và bốc cháy, ngọn lửa trong tủ áo cháy lan ra ngoài, đến cái mùng trên giường, mọi người
đều vội vã đi lấy nước lại cứu hỏa. Tháng 5 năm đó là trời hạn, mấy lu nước đều dùng
sạch, đang lúc ngàn cân treo sợi tóc đó thì có một người chở một xe bò nước đến trước
cửa, nhờ đó hóa giải được nguy hiểm. Tra xét lại xem thì là cây súng săn phát hỏa, quần
áo đồ đạc bị đốt thành tro, bươi tìm trong đống tro được một cái bao giấy, mở ra xem thì
là giấy tờ quyền sở hữu nhà đất và tiền mặt 20.000 đồng, đây là tiền chuẩn bị sẵn lo đám
cho mẹ của sư tỷ Hiệp, vẫn còn nguyên phong chưa bóc ra, khơng có bị cháy hư một chút
nào hết.


</div>
<span class='text_page_counter'>(156)</span><div class='page_container' data-page=156>

Ngọc đáp: “Giống như bức tượng vẽ lớn Đức Phật A Di Đà mà chúng ta cúng dường,
nhưng Đức Phật A Di Đà trong hư không, trang nghiêm, đẹp hơn nhiều”.


Các vị bằng hữu, Phật pháp vô biên thật là không thể nghĩ bàn! Tại sao cây súng tự nhiên
phát hỏa? Tiền và giấy tờ sở hữu nhà đất tại sao lửa không cháy được? Lại cảnh Phật A
Di Đà tiếp dẫn người mất khiến cho người con dâu khơng có căn lành được chính mắt
nhìn thấy lâu đến mười phút? Nếu như chỉ có đốt cây súng, khơng thấy được kim thân
Phật A Di Đà thì khơng thể độ được A Ngọc phát tâm tin Phật như hiện nay, riêng một
mình A Ngọc chính mắt thấy mẹ chồng vãng sanh, nếu như khơng đốt tiêu cây súng săn
thì cũng khơng trừ hết được tập khí ác săn bắn của Lâm Vạn Thành đổi ác làm lành, thật
là sự linh cảm kỳ diệu tột bậc.


Chúng sanh nổi chìm trong biển khổ sanh tử rất là đáng thương. Mong rằng mọi người
thật tâm niệm Phật, khuyên người niệm Phật, phát tâm Bồ đề cứu nhân độ thế, lấy tự thân
mình làm chiếc thuyền độ sanh trong đời này, chở khắp hết chúng sanh đồng đến Hải hội


Liên trì.


Hãy niệm: Nam mơ A Di Đà Phật!


<b>72. VONG HỒN QUẤN QUÝT THEO QUẤY PHÁ, NIỆM PHẬT ĐƯỢC GIẢI </b>
<b>OÁN KẾT </b>


Một câu Nam mô A Di Đà Phật là thuốc A Già Đà trị hết muôn bệnh. A Di Đà Phật lại là
đại chú vương, xưng niệm hoan hỷ thì giải được ốn kết, gặp dữ hóa lành. Đoạn văn dưới
đây chính là câu chuyện niệm A Di Đà Phật giải thoát được vong hồn quấn quýt theo
quấy phá.


Năm năm trước ở một khu đất phồn hoa náo nhiệt ở thành phố Đài Bắc có một thanh niên
phóng xe như bay chở một cơ gái đẹp, chạy như giơng như gió lạng lách ẩu tả, đến nỗi cơ
gái chở phía sau bị té xuống chết cũng khơng hay, lúc đó có rất nhiều nam nữ hiếu kỳ vây
lại xem, mọi người đang lúc tội nghiệp cho cô gái này, bỗng có một người đi đến kêu to:
“A Tam! A Tam!”, trong những người đứng xem có người tên A Tam liền ứng thinh đáp
to: “Tôi đến đây, tôi đến đây!”. Nguyên vị A Tam này là thợ hớt tóc trong tiệm hớt tóc
gần đó, do vì có khách muốn hớt tóc cho nên ơng chủ cho người học việc đi kêu A Tam
về hớt tóc cho khách.


</div>
<span class='text_page_counter'>(157)</span><div class='page_container' data-page=157>

Quê của A Tam ở trên núi, thôn Đồng Lâm, Bắc Cấu Khanh, Vụ Phong, Đài Trung. Nhà
có một mẹ già mù lịa và mấy anh em. A Tam về nhà qua ngày sau phụ giúp với ông anh
cả, dùng xe tải hàng ra ngoài chở hàng cho người ta, đến tối về nhà. Bà mẹ liền kêu A
Tam đến trước mặt nói: “Con mỗi lần lúc sắp ra ngồi. Mẹ đều dặn dị bảo con ở bên
ngồi khơng nên kết giao tùm lum với con gái, con lại cứ không nghe. Con mới về ngày
hôm qua, hôm nay đã có con gái đến kiếm, cái tiếng đi mang giày cao gót, lại cịn miệng
kêu A Tam, A Tam khơng ngớt! Mẹ hỏi là ai muốn tìm A Tam cũng không trả lời”. A
Tam liền đáp với mẹ mình rằng: “Mẹ à! Con từ nào đến giờ ở bên ngồi sống có khn
phép đàng hồng, chưa từng kết giao với cô gái nào”. Tức thời liền cùng với mấy anh em


của anh ta đi tìm kiếm bên trong bên ngồi nhà đều tìm khơng ra bóng dáng cơ gái nào.
Nhưng tối hơm đó vào nửa đêm thì cơ gái lại đến cùng A Tam mở cửa sau ra ngoài chơi,
sáng sớm A Tam lại ngồi ngủ gật dưới cây, thế là lại bị người kêu tỉnh dậy. A Tam ở Đài
Bắc trong một tuần lễ, mỗi đêm đều bị chuyện như thế xảy ra, nhưng tự mình khơng biết
là thế nào, bây giờ về ở nhà quê cũng là như thế, khơng biết có cách gì mới có thể giải
quyết?


Lúc bấy giờ ở trên núi thôn Bắc Đồng Lâm, mọi người đều tin thờ một tượng Vương Gia
Công. Mẹ của A Tam liền đi mời đồng cốt và thỉnh Vương Gia Công về hỏi bệnh của A
Tam là bệnh gì? Thì ra thần cũng có chút thần thơng, thần dựa vào đồng cốt nói: “Bệnh
của A Tam là do mười ngày trước đây ở chỗ nào đó của Đài Bắc nhìn thấy một cơ gái té
chết bên đường, người bạn trai dùng xe chở cô gái này tên là A Tam. Lúc đó có người gọi
to A Tam thì vị A Tam này của chúng ta cũng to tiếng trả lời “Đến


đây! Đến đây!”. Lúc đó hồn cô gái bị té chết đang trong lúc mênh mang mù mịt khơng có
chỗ nương, nghe được cái tên A Tam, tức thời quấn theo không buông”. Đồng cốt nói
tiếp: “Cách tốt nhất là đưa u hồn của cô ta về Đài Bắc”. Mẹ của A Tam lại nói “Phải dùng
cách gì để đưa?”. Đồng cốt lại nói: “Phải dùng hình nộm (rơm)”. Tức thời dùng rơm làm
thành một hình người, cao khoảng bốn thước (thước Tàu) mặc áo đỏ quần đen, chân cũng
mang giầy, trên đầu buộc một chiếc khăn bông, vẽ mày, mắt, miệng, mũi, vào lúc sau nửa
đêm, Vương Gia Công với đồng cốt đưa hình nộm này đến bên trạm xe, buộc vào dưới
cột điện, đồng cốt liền đốt rất nhiều giấy vàng bạc ở đó kêu u hồn ngồi chuyến xe thứ
nhứt đến Đài Bắc tìm người yêu của mình là A Tam.


</div>
<span class='text_page_counter'>(158)</span><div class='page_container' data-page=158>

phần đau đớn, trong một ngày mời về mấy vị Đông, Tây y bác sĩ, đều chẩn đốn khơng ra
bệnh.


Người dân trên núi nơi A Lập ở này đều tin thờ Thái Tử Gia. Cha của A Lập liền đi thỉnh
Thái Tử Gia đến cầu xin đạp đồng lên chỉ bảo. Thái Tử Gia này có thể nói là khá thơng
minh, ơng ta dựa vào đồng cốt nói: “Cái đầu đau của A Lập thuốc men trị không hết được


đâu, ta cũng không có cách nào trị lành được, do vì có một con quỷ nữ quấn theo quấy
phá, thần khơng có cách đuổi đi, cần phải thỉnh bậc chân tu đến tụng kinh niệm Phật, siêu
độ cho nó thốt khổ, đó mới là biện pháp rốt ráo (tốt nhất)”. Cha của A Lập lại hỏi Thái
Tử Gia rằng: “Phải đi đến nơi nào thỉnh bậc chân tu?”. Thái Tử Gia dựa vào đồng cốt nói:
“Gần thì trước mắt, xa thì ngàn dặm”. Cha của Chu A Lập tức thời nghĩ đến sư phụ Phổ
Độ ở trên núi đối diện (em gái của cô Chơn tức cô Phụng đã thế phát thọ giới, truyện 27,
28, 29) và cô Chơn, hai người là chân tu hành. A Lập vẫn cứ đau đầu chịu không nổi, cha
và anh của cô hai người liền đỡ cô đi gặp sư phụ Phổ Độ và cơ Chơn, rồi nói rõ lại những
lời của Thái Tử Gia lên đồng đã nói, xin nhờ giúp cho việc tiêu tai bạt độ.


Sư Phổ Độ và cô Chơn tức thời tụng một quyển Kinh Di Đà, 49 biến chú vãng sanh, tụng
chú đại bi, Bát nhã Tâm kinh mỗi thứ 7 biến, hồi hướng bố thí cho nữ quỷ được siêu sanh
thoát khổ, và cho A Lập một xâu chuỗi, dạy cô cách niệm “Nam mô A Di Đà Phật”, niệm
một câu lần một hột. Lại thuyết minh tiếp: “Một câu A Di Đà Phật chính là đại chú
vương, muốn tránh tà tự mình niệm mới kết quả, tự mình liền có thể tiêu tai khỏi nạn do
vì tà ma quỷ qi khơng dám lại gần”. A Lập nghe xong thấy rất có đạo lý, vô cùng cám
ơn, về nhà liền gắng sức niệm Thánh hiệu “A Di Đà Phật” mãi, niệm luôn mấy giờ, đầu
nhẹ nhàng như thường lúc nào không hay. Ngược lại, mẹ của A Lập kêu to đau đầu, liền
kêu A Lập đem xâu chuỗi đến cho mẹ mượn niệm. Cũng lần từng hột niệm một câu A Di
Đà Phật… niệm được mấy giờ khỏe rồi, nhưng cái đầu của A Lập lại đau trở lại, lại đòi
xâu chuỗi trong tay của mẹ lại niệm. Cha của A Lập liền chạy qua cô Chơn lần nữa nói rõ
sự việc và xin thỉnh xâu chuỗi nữa, cơ Chơn một lần nữa dặn dị ơng: “Niệm Phật, khơng
phải tay cầm chuỗi mới có thể niệm được. Khơng có chuỗi và ở bất cứ chỗ nào, bất cứ lúc
nào đều có thể niệm, chỉ ở trong giấc ngủ hoặc đang trong nhà xí thì khơng thể niệm ra
tiếng, nhưng phải nhớ niệm thầm, cũng không phải đợi lúc đau mới niệm, lúc bình
thường khơng kể là nam hay nữ, già hay trẻ đều phải niệm, càng niệm càng tiêu tai, tăng
thêm phước thọ”. Về sau cả nhà A Lập bình an, đối với sư Phổ Độ và cô Chơn rất là cảm
đội ơn đức và tin sâu Phật pháp vô biên, không thể nghĩ bàn.


</div>
<span class='text_page_counter'>(159)</span><div class='page_container' data-page=159>

Cực Lạc thế giới, vĩnh viễn thoát khỏi cái đau khổ lớn của luân hồi sanh tử, đây mới là


cứu cánh cho ngươi”. Nói xong, liền tụng một quyển Kinh A Di Đà, chú vãng sanh, chú
đại bi, Bát nhã Tâm kinh, v.v… lúc niệm lại Thánh hiệu A Di Đà Phật, thuận tiện liền mở
hình nộm xuống, tháo bung hết tồn thân, lấy lửa đốt, trong khoảnh khắc biến thành một
đống tro. Cuối cùng lại hồi hướng rằng: “Nguyện công đức thù thắng của kinh chú này
hồi hướng cho cô hồn được siêu thăng”. Tiếp theo quét đống tro đó xuống khe nước lớn,
nước cuốn trơi đi. Từ đó những người dân nam nữ già trẻ trong thôn Đồng Lâm này đã
biết được điều hay tốt của việc niệm Nam mơ A Di Đà Phật, có rất nhiều người phát tâm
quy y theo Phật.


<b>73. TÁC GIẢ CỦA SÁCH NÀY NIỆM PHẬT VÃNG SANH TÂY</b>


<b>PHƯƠNG TRUYỆN KÝ CỦA LÃO CƯ SĨ LÂM KHÁN TRỊ VÃNG</b>



<b>SANH</b>



( <i>Kẻ hậu học Tây Liên hết lịng thành kính ghi lại. Thơ của Tuyết Lơ lão nhân (Lý Bính </i>
<i>Nam) tặng cư sĩ Lâm Khán Trị.</i>


<i>Dịch âm: </i>


Kim trì hạn đàm tứ biên khai
Hỷ thị Lâm quân thứ đệ tài


Thỉ tín Tây phương chư thượng thiện
Chơn năng thừa nguyện hóa thân lai.
<i>Dịch giả tạm dịch:</i>


Ao báu sen vàng rộ nở hoa
Đón mừng Khán Trị trở về nhà
Đồng hàng Bồ Tát ngôi thượng phẩm
Thừa nguyện hóa thân lại Ta bà.



</div>
<span class='text_page_counter'>(160)</span><div class='page_container' data-page=160>

tầm thường) nương vào tín nguyện niệm Phật, cầu sanh Tây phương, nhờ đó ra khỏi được
cuộc đời ngũ trược mà lên được cửu phẩm liên hoa, nhiều khơng thể tính đếm. Trong đó
có lão cư sĩ Lâm Khán Trị, vị liên hữu ở liên xã Đài Trung, tín nguyện kiên cố thật tâm
niệm Phật, vào ngày 15 tháng 4 năm Dân quốc thứ 81 (13 tháng 3 năm Nhâm Thân ÂL)
biết cả giờ đi, chánh niệm rõ ràng, vãng sanh nhẹ nhàng tốt đẹp, hưởng thọ được tám
mươi sáu tuổi. Nay xin kính thuật lại sự tích vãng sanh của bà để lợi ích cho người có
duyên, thấy người giỏi, suy nghĩ cố gắng sao cho bằng, đồng niệm A Di Đà, đồng sanh
An Dưỡng, và cầu nguyện Lâm lão cư sĩ, sớm thừa nguyện trở lại, quảng độ chúng sanh
mãn Bồ Đề nguyện.


Lão cư sĩ Lâm Khán Trị sinh tại trấn Lộc Cảng, huyện Chương Hóa, tỉnh Đài Loan vào
ngày mùng 7 tháng 3, năm năm trước Dân quốc, tức năm 1906 (1911 - 5 = 1906) nhằm
ngày 18 tháng 2 năm Đinh Mùi ÂL, cha là Lâm Luyện Công, mẹ họ Thái, thuộc gia đình
có danh vọng, đáng tiếc cho Lâm lão cư sĩ tuổi nhỏ đã mất cha, kế tiếp lại mất mẹ, nếm
đủ cái khổ vô thường của thế gian. Lâm lão cư sĩ từ lúc vỡ lịng ở tư thục đã có tâm ham
học không biết mệt, học thuộc Tứ Thư Ngũ Kinh, nhờ đó mà đạt được nền móng tốt đẹp
của Hán học, đối với việc học Phật sau này rất có ích.


Lâm lão cư sĩ căn lành đời trước sâu dày, năm 35 tuổi nghe được một cao tăng ở Đài
Loan là pháp sư Bân Tông tuyên giảng Phật pháp, thể hội được cái khổ của luân hồi lục
đạo, liền phát tâm học Phật, ăn chay, và bà đã từng quy y với pháp sư Vô Thượng, được
pháp danh là Pháp Viên. Năm Dân Quốc thứ 38, nhờ lão cư sĩ Lại Luyện Lương giới
thiệu được học với ân sư Tuyết Lơ Lý Bính Nam, được ân sư ban cho tên tự là Huệ Trị,
mùa đông năm Dân quốc thứ 41 vâng mệnh ân sư tham gia lần truyền giới đầu tiên kể từ
sau khi Đài Loan được khôi phục ở chùa Đại Tiên ở Đài Nam, cầu thọ tại gia Bồ Tát giới
với lão hòa thượng Khai Tham làm vị Ưu Bà Di Bồ Tát giới trọn đời. Từ đó thường đi
theo thầy rộng kết pháp duyên, đến khắp nơi trong toàn tỉnh tuyên dương pháp môn Tịnh
độ, phụ tá trợ giúp ân sư tạo dựng những đạo tràng hoằng pháp lợi sanh như liên xã của
Phật giáo ở Đài Trung v.v… và do được nhiều người trọng vọng nên bà được suy cử làm


hội trưởng Liên nghị của mấy chục ban niệm Phật <i>(Hội liên nghị: liên kết hữu nghị giữa </i>
<i>các ban),</i> bà được hầu hết các liên hữu đều quen biết.


</div>
<span class='text_page_counter'>(161)</span><div class='page_container' data-page=161>

Lâm lão cư sĩ do vì đầy đủ cả nền tảng Phật và Nho, cho nên ngài Tuyết Công gởi gắm
hy vọng rất nhiều vào bà, trơng mong có thể cùng nắm tay hoằng dương pháp môn Tịnh
độ thù thắng, do đó mà cố gắng dạy và giao cho nhiều trách nhiệm quan trọng hơn. Ngài
Tuyết Công dạy: “Một kinh thông rồi các kinh đều thông”. Trước khi học giảng phải có
sự chuẩn bị dồi dào đầy đủ (hiểu rõ giáo lý cơ bản) trước khi giảng, tự viết bài nháp,
những điều nói ra phải có căn cứ, nên theo các bản các Tổ đã chú giải, không được nói
bừa bãi ý riêng của mình, nên theo khuôn phép của việc học giảng, phải rất cẩn thận và
có tinh thần trách nhiệm, mới khơng trái với nhân quả. Lâm lão cư sĩ phát tâm học giảng
“Kinh Phật thuyết A Di Đà”. Tuyết Công đề cập kinh này là kinh sâu nhất, khó giảng
nhất, có được danh xưng tốt là “Kinh Hoa Nghiêm tiểu bản”. Lâm lão cư sĩ từng có lần
đang lúc học giảng có chỗ lệch lạc, lúc đó Tuyết Cơng ân sư quát cho một tiếng và thuận
tay lấy cây quạt xếp ở trong tay gõ lên đỉnh đầu một cái, lúc đó Lâm lão cư sĩ xấu hổ đến
nước mắt chảy dài, do đó mà cố cơng học tập. Qua mấy ngày sau cuối cùng bỗng nhiên
hiểu rõ cái đoạn kinh văn khó hiểu kia, các vị liên hữu cười nói: “Đây là ân sư giúp cho
chị tiêu nghiệp chướng, khai phát trí huệ đó!”. Lâm lão cư sĩ thì càng cảm nhận sự quan
trọng của việc học Phật ắt phải có sự truyền thừa của thầy.


Lâm lão cư sĩ nhờ được sự chăm sóc dạy bảo nghiêm khắc của ân sư, hơn nữa tự bản thân
có tâm từ bi tha thiết, thể hình cao lớn (thể lực tốt), âm thanh to rõ, biện tài vô ngại, cho
nên từ năm Dân quốc thứ 40 lúc liên xã thành lập hai đoàn hoằng pháp của hai chúng
nam và nữ, bà trở thành một nữ kiện tướng hoằng pháp khéo giỏi thuyết pháp độ chúng.
Lúc bà thuyết pháp, nắm chắc và chú trọng về nhân quả và hai nguyên tắc lớn về lợi ích
của niệm Phật, khơng nói những lời huyền hoặc, lạ kỳ, chú trọng vào việc làm thực tế và
sự hành trì chân thật. Mặc dù vì chúng sanh căn tánh không đồng, cho nên rộng thuyết
các kinh pháp, nhưng nhứt định tuân theo lời dạy của thầy, các chỗ giảng dạy đều quy
nạp về Tịnh độ để hiển bày cái chỗ thù thắng của pháp môn niệm Phật, nhưng chúng sanh
chủng loại muôn ngàn sai khác, trên đường thuyết pháp cũng có khi gặp phải những nhà


chuyên môn (các tông phái khác) đến vấn nạn. Như có một lần nọ lúc thuyết pháp ở Ngọc
Lý, có một người không tin Tịnh độ đến vặn hỏi rằng: “Bà nói người niệm Phật sau khi
mạng chung, thì thần thức vãng sanh Tây phương, thần thức hình dạng ra sao đem đây
cho tôi xem!”. Bà đáp: “Những lời ơng vừa nói đó, hình dạng ra sao đem đây cho tơi
xem!”. Người kia ngậm miệng khơng nói được, bà lại đáp thêm: “Nói cho rõ một chút,
như ban đêm ông nằm mộng thấy cái này cái kia, đó là thần thức vậy”. Người kia do đó
mà trở lại phát tâm dẫn người đến nghe pháp, những việc độ người học Phật giống như
thế, được nghe nói ln”.


</div>
<span class='text_page_counter'>(162)</span><div class='page_container' data-page=162>

nhờ ân sư đặt tên là cơ sở hoằng pháp Luân Tự. Đó là cơ sở hoằng pháp sáng lập đầu tiên
của Liên xã, Lâm lão cư sĩ tự đảm nhiệm làm chủ giảng, lãnh chúng niệm Phật và nghiên
cứu Phật pháp. Mãi đến trước khi vãng sanh, hơn ba mươi năm thuyết pháp khơng ngớt,
các liên hữu, những bà con hàng xóm, con cháu quyến thuộc… được nhờ lợi ích khơng ít.
Lâm lão cư sĩ từ năm Dân quốc thứ 25, kết hôn với lão sư sĩ Lý Cư, vợ chồng rất tơn
trọng kính nhường nhau, năm năm mươi lăm tuổi có được ba con vừa trai vừa gái, cháu
chắt có hơn ba mươi người, cả nhà tài giỏi, thành đạt, an vui, xứng đáng làm điển hình
cho “Phật hóa gia đình”. Những cơng đức về ngơn giáo và thân giáo của Lâm lão cư sĩ
không thể kể hết. Vào tháng 2 năm Dân quốc thứ 80, ông Lý chồng của bà mệnh chung
an lành và tốt đẹp tại nhà cao, thọ chín mươi lăm tuổi, tồn thể con cháu hết sức vâng lời
của Lâm lão cư sĩ y theo Phật dạy như pháp trợ niệm và tiết kiệm, xử lý tốt những việc
còn lại, bà con hàng xóm và các liên hữu đều kính phục vơ cùng.


Lâm lão cư sĩ ngồi việc tự tu và hóa độ người, lại cịn có quyển “<i>Những Truyện Niệm </i>


<i>Phật Cảm Ứng Mắt Thấy Tai Nghe</i>” mà bà đã thâu thập ghi chép rất cần mẫn không mệt


mỏi, được nhờ ân sư Tuyết Công viết chữ kỷ niệm và ban cho lời tựa (lời đầu sách), từ
tháng 8 Dân quốc thứ 58, xuất bản lần đầu là 5.100 quyển, đến trước khi vãng sanh, tổng
cộng xuất bản 56 lần, số sách hơn trăm ngàn quyển, cịn các nơi khác ấn hành kết dun
cũng khơng tính đếm được, nội dung trong sách này cũng có được mấy truyện được sát


nhập vào quyển “Tịnh độ Thánh hiền lục”, đồng thời có người nương theo nội dung sách
này mà chế tác ra băng cát-sét và phát thanh trên đài truyền thanh, có thể nói là rộng kết
nhân duyên với Tây phương được hàng vạn người và những người đọc sách này mà phát
tâm niệm Phật cũng nghe thấy rất nhiều, thậm chí có người ở ngồi nước xa xơi cũng
nhân xem đọc sách này mà riêng đến Đài Loan cầu kiến sách này cảm hóa người rất sâu,
từ đây mà ta có thể thấy một phần, những sách cịn lại của bà để lại cịn có: “<i>Phật thuyết </i>
<i>A Di Đà Kinh Khẩn thuyết</i>”, “<i>Khuyến tu niệm Phật pháp môn thiển giảng</i>”, v.v…


Lâm lão cư sĩ nhiều năm kinh nghiệm tu hành, bà cho là người có thể biết niệm Phật cầu
sanh Tây phương, đó là căn lành phước báo lớn nhất trong đời người, bà thường nói: “Tu
hành khơng có tu gì khác, chỉ cần biết được mối đường, nếu biết được mối đường thì việc
sanh tử đồng thời dứt”. Và thường tán thán: “Pháp môn niệm Phật là vơ thượng chí bảo”.
Lão cư sĩ sớm đã tùy duyên thuyết pháp độ chúng, tuổi già càng thêm gắng sức cơng phu
niệm Phật, tự nói tu hành nên nhân lúc trẻ, tự biết mình lúc tuổi trẻ may mắn nhờ ân sư
chỉ đạo, đặt được nền móng niệm Phật, nếu khơng thì tuổi tác ngày càng cao, thể lực suy
yếu dần, sẽ hay có cảm giác lực bất tòng tâm. Bà lại khuyên những người già càng nên
gấp rút niệm Phật, cầu sanh Tây phương, nếu khơng thì số ngày cịn lại khơng nhiều, nếu
vơ thường chợt đến thì là bỏ lỡ việc lớn vãng sanh, quả báo sau này không thể lường
được!…


</div>
<span class='text_page_counter'>(163)</span><div class='page_container' data-page=163>

ý phật lòng, đều là nghiệp chướng hiện tiền, càng phải niệm Phật mạnh hơn, cầu Phật gia
bị. Bà thích nhất câu nói này của Ấn Quang tổ sư: “Phải nên phát nguyện nguyện vãng
sanh, du sơn ngoạn thủy mặc người tham, Tịnh độ Cực lạc tự do mình khơng chịu về, nếu
muốn về liền được, trăng gió của q mình có ai tranh!”. (ngun âm chữ Hán bài kệ này:
“<i>Ưng đương phát nguyện nguyện vãng sanh. khách lộ khê sơn nhậm bỉ luyến. Tự trị bất </i>
<i>quy, quy tiện đắc. Cố hương phong nguyệt hữu thùy tranh”</i>). Bà đặc biệt đặt bài kệ này ở
đầu án thư để nhắc nhở mình, là làm khách ở Ta Bà, Cực lạc mới là quê hương. Và ở liêu
phịng của bà, bốn vách chung quanh khơng có gì, chỉ có đặt bản viết của ẤÂn Quang đại
sư đã viết: “Nhất tâm niệm Phật” để sách lệ tự thân tinh tấn niệm Phật, và bà đã hiểu sâu
sắc câu nói của ân sư Tuyết Cơng trước khi vãng sanh đã nhiều lần nhắc nhở: “Ít nói một


câu chuyện. Nhiều niệm một câu Phật. Đánh chết được vọng niệm. Pháp thân ngươi hiển
lộ”. Thật là một minh chứng tu hành ở hoàn cảnh ác liệt trong thời mạt pháp này!


Lâm lão cư sĩ vào năm 60 tuổi đã chuẩn bị xong những công việc sau khi mất. Hai năm
trước khi vãng sanh lại dặn dò các việc phải chú ý lúc lâm chung, một tuần lễ trước lúc
vãng sanh liền hướng vào các liên hữu nói: “Tơi sắp về nhà rồi”. Lại liên tục khen rằng:
“Thật sự là có thế giới Cực Lạc”. Hai ngày trước lúc vãng sanh, tự biết sức khỏe đã suy
yếu, do con cháu thỉnh về nhà, các liên hữu và quyến thuộc niệm Phật đưa bà cùng về
nhà. Sau giờ ngọ một ngày trước khi vãng sanh, bà nói với các liên hữu: “Đã thấy Phật A
Di Đà, chắc chắn được nhờ Phật tiếp dẫn vãng sanh”. Cuối cùng, 7 giờ 20 phút sáng ngày
hơm sau, ở tại nhà một mình, trong tiếng trợ niệm “A Di Đà Phật” của các liên hữu và
quyến thuộc, bà chánh niệm rõ ràng, trong khoảnh khắc bà quy Tây một cách nhẹ nhàng
và tốt đẹp, đến sau khi vãng sanh hai mươi bốn giờ, trong thời gian đó tiếng niệm Phật
khơng ngớt, lúc thay y phục ai nấy đều rất vui nhìn thấy mặt mày bà tươi vui cũng như
dung mạo hiền lành lúc còn sống, những người thấy nghe khen ngợi mãi, chúc mừng bà
đã được như nguyện vãng sanh Cực Lạc. Lâm lão cư sĩ vào ngày 26 tháng 4 năm Dân
quốc thứ 81 được cử hành lễ cáo biệt và trà tỳ, các liên hữu hẹn nhau đến niệm Phật đông
đến đường sá bị tắt nghẽn, đủ thấy sự tu trì lúc bình thời của bà cơng phu khơng có uổng,
sức cảm hóa người rất sâu. Sau khi hỏa táng lại được mấy trăm viên xá lợi. Đây cũng
hiển lộ cho thấy công phu niệm Phật của bà rất sâu dầy, nhân quả khơng sai!


</div>

<!--links-->
Thực trạng phát triển các khu di tích lịch sử trong việc phát triển du lịch ở Hà Nội
  • 31
  • 1
  • 8
  • Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

    Tải bản đầy đủ ngay
    ×