Tải bản đầy đủ (.doc) (14 trang)

TAU SAN BAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (445.41 KB, 14 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

<b>Tàu sân bay</b>


Tàu sân bay lớp Nimitz sử dụng năng lượng hạt nhân USS Harry S. Truman (CVN 75)


Tàu sân bay USS Dwight D. Eisenhower, tháng 10/2006


Nhân viên điều hành trên tháp quan sát của chiếc USS Ronald Reagan của Hoa Kỳ


<b>Tàu sân bay, hay còn gọi là hàng không mẫu hạm, là một loại </b>tàu chiến được thiết kế để triển khai và thu hồi lại
máy bay—trên thực tế hoạt động như một căn cứ khơng qn trên biển. Vì vậy các tàu sân bay cho phép lực lượng
hải quân triển khai không lực ở các khoảng cách lớn không phụ thuộc vào các căn cứ ở gần đó để làm căn cứ trên
mặt đất cho máy bay. Các lực lượng hải quân hiện đại với những con tàu như vậy coi chúng là trung tâm của hạm
đội, vai trị trước đó do tàu chiến đảm nhận. Sự thay đổi này, một phần vì sự phát triển của chiến tranh trên khơng
thành một phần quan trọng trong chiến tranh, đã diễn ra trong Thế chiến thứ hai. Các tàu sân bay khơng có hộ tống
được coi là dễ bị các tàu khác, máy bay, tàu ngầm hay phi đạn tấn cơng và vì thế phải di chuyển trong một đội tàu
sân bay. Trong lực lượng hải quân của nhiều nước, đặc biệt là Hải quân Hoa Kỳ, một tàu sân bay được coi là tàu
chính.


<b>Hình dạng sàn bay</b>



USS Saratoga năm 1935


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

tốc độ cần thiết của máy bay so với con tàu. Trên một số chiếc, một hệ thống phóng máy bay hoạt động bằng hơi
nước được sử dụng nhằm đẩy máy bay về phía trước trợ giúp thêm vào sức mạnh của động cơ máy bay, cho phép
máy bay cất cánh ở một khoảng cách ngắn hơn bình thường, thậm chí với hiệu ứng của gió ngược chiều từ phía
trước tới. Trên các tàu sân bay khác, máy bay không cần trợ giúp để cất cánh – yêu cầu trợ giúp cất cánh liên quan
tới thiết kế máy bay và đặc điểm của nó. Ngược lại, khi hạ cánh trên một tàu sân bay, một số máy bay chỉ dựa vào
một móc đi để ngoắc vào các dây hãm chạy ngang sàn bay của tàu để giữ chúng dừng lại trong một khoảng cách
ngắn hơn bình thường. Một số loại khác dùng khả năng lơ lửng của nó để hạ thẳng đứng và vì thế cần phải giảm
tốc độ khi hạ cánh. Từ cuối Chiến tranh thế giới thứ hai việc hướng đường băng hạ cánh chéo một góc so với trục
chính của con tàu đã trở nên phổ thông. Chức năng đầu tiên của kiểu đường băng chéo là cho phép máy bay nào
khơng móc được dây hãm, gọi là "bolter" (chú ngựa bất kham), tiếp tục cất cánh mà không gặp phải nguy cơ lao


vào các máy bay đang đỗ ở khu vực phía trước sàn bay. Đường băng chéo cũng cho phép hạ cánh một máy bay
cùng lúc với việc phóng một máy bay khác ở đường băng trước.


Các vùng sàn bay bên hông của tàu chiến (đài chỉ huy, tháp kiểm sốt bay, hệ thống thốt khí của động cơ và các
thứ khác) được tập trung ở một vùng khá nhỏ được gọi là một "đảo". Rất hiếm tàu sân bay được thiết kế hay được
chế tạo mà khơng có một đảo và kiểu thiết kế như vậy chưa từng được thấy trên bất kỳ một tàu sân bay cỡ hạm đội
nào.


Một hình dạng gần đây hơn, gọi là kiểu nhảy cầu (<i>ski jump</i>), được Hải quân Hồng gia Anh sử dụng, có một đầu
dốc lên ở phía trước đường băng. Nó được phát triển đễ có thể phóng được các máy bay VTOL (máy bay cất cánh
và hạ cánh thẳng đứng) hay STOVL (máy bay cất cánh đường băng ngắn và hạ cánh thẳng đứng) như kiểu Sea
Harrier. Mặc dù máy bay có thể bay lên thẳng đứng ở trên boong, nhưng việc sử dụng bờ dốc sẽ tiết kiệm nhiên
liệu. Vì sẽ khơng cần tới các máy phóng và dây hãm nữa, các tàu sân bay kiểu này sẽ giảm được trọng lượng, tính
phức tạp, và khoảng khơng cần thiết để bố trí thiết bị.


<b>Các kiểu thơng thường</b>



Trong thế kỷ vừa qua, đã có nhiều kiểu tàu sân bay được thiết kế, một số chúng hiện đã lỗi thời. Nói chung, chúng
có thể được phân loại như sau:


<b>Các thiết kế ban đầu và những phát triển giữa hai cuộc chiến</b>



 Những chiếc Tàu tiếp liệu thủy phi cơ, như HMS Engadine , đã bị loại không được sử dụng trên chiến


trường sau thập niên 1920 khi những tàu sân bay có thể chứa các máy bay quy ước được biên chế vào các
hạm đội và ưu thế của các loại máy bay trên mặt đất so với các loại thủy phi cơ trong các chiến dịch hải
quân đã rõ ràng.


 Những tàu sân bay tiêu chuẩn, như HMS Ark Royal , đặc trưng 20.000 đến 65.000 tấn. Thường được gọi là



"những tàu sân bay hạm đội"


 Tàu sân bay chở máy bay; tàu sân bay có thể mang mọi loại máy bay. Gồm cả USS Akron và USS Macon


<b>Những phát triển trong Thế chiến thứ hai</b>


Tập tin:Hmcs bonaventure.jpg


HMCS Bonaventure , tàu sân bay Majestic của Hải quân Hoàng gia Canada


 Các tàu sân bay hộ tống, như USS Barnes , chỉ được chế tạo trong Thế chiến thứ hai, và được Hải quân


hoàng gia Anh và Hải quân Hoa Kỳ sử dụng.


 Các tàu sân bay hạng nhẹ, như USS <i>Independence</i>, được thiết kế để chỉ chở các máy bay chiến đấu.


 Các tàu chở máy bay cải tiến từ tàu hàng, như SS Michael E , tàu chở hàng, có thể phóng máy bay chiến đấu


nhưng không thu hồi được. Những tàu này được dùng lúc khẩn cấp trong Thế chiến thứ hai.


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

khác, lắp thêm đường băng vào các tàu buôn chở hành.


 Các Tàu chiến chở máy bay được sáng tạo bởi Hải quân Đế quốc Nhật để bù lại một phần tổn thất về hàng


không mẫu hạm sau Trận chiến Midway. Hai chiếc trong số chúng được làm từ Thiết giáp hạm lớp Ise vào
cuối năm 1943. Những tháp nhỏ ở đuôi tàu bị dời đi và được thay thế bằng một kho chứa máy bay, sàn bay
và máy phóng. Tàu tuần dương hạng nặng Mogami cũng được cải tạo kiểu như vậy.


 Các Tàu ngầm chở máy bay, như kiểu Surcouf của Pháp, hay tàu ngầm lớp I-400 của Nhật có thể mang 3


máy bay Aichi M6A Seiran . Chiếc đầu tiên trong số chúng được chế tạo vào thập niên 1920.



Một số tuần dương hạm và tàu chỉ huy thời giữa hai cuộc chiến thường có máy phóng dành cho máy bay trên biển
để trinh sát và phát hiện điểm rơi của các loại súng. Nó được phóng bằng một máy phóng và thu hồi bằng cần cẩu
từ trên mặt nước sau khi hạ cánh. Đa số chúng đã bị bỏ đi trong Thế chiến thứ hai, nhưng chúng cũng có một số
thành cơng trong thời gian đầu cuộc chiến như chiếc Walrus của HMS Warspite trong các chiến dịch ở vịnh Fio
năm 1940.


<b>Những phát triển thời hậu chiến</b>



 Tàu sân bay tấn công đổ bộ , như USS Tarawa , thường được dùng cho mục đích chở quân đổ bộ và điều


khiển một liên đội máy bay trực thăng lớn cho mục đích đó. Chúng cũng được gọi là "tàu chở lính đặc
cơng" hay "tàu chở máy bay trực thăng".


 Các tàu sân bay chống tàu ngầm, như HMS Ocean , cũng được gọi là "tàu chở máy bay trực thăng."


 Các Siêu hàng không mẫu hạm, như USS Nimitz , đặc trưng 75.000 tấn hay lớn hơn. Được trang bị động cơ


bằng các lò phản ứng hạt nhân và là trung tâm của một hạm đội được thiết kế hoạt động xa nhà.


Nhiều tàu chiến hiện đại có khả năng đỗ máy bay trực thăng và các tàu chở máy bay trực thăng là một loại tàu sân
bay tấn công đổ bộ kiểu mới.


<b>Lịch sử và cuộc chạy đua</b>


<b>Nguồn gốc</b>



Ely phóng lên từ USS <i>Birmingham</i> ngày 14 tháng 11 năm 1910
Tập tin:Ely-landing.jpg


Ely đạp xuống USS <i>Pennsylvania</i> ngày 18 tháng 1 năm 1911



</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

huy Charles Samson, RN, trở thành người đầu tiên cất cánh từ một tàu chiến đang chạy vào ngày 2 tháng 5 năm
1912. Ông cất cánh trong một Short S27 từ tàu chiến HMS Hibernia khi nó đang chạy với tốc độ 10,5 knots (19
km/h) trong cuộc Thao diễn hạm đội hoàng gia ở Weymouth.


HMS Ark Royal là chiếc tàu sân bay đầu tiên. Ban đầu nó là một chiếc tàu bn, nhưng được hốn cải lại để trở
thành một tàu sân bay chở máy bay trên biển. Được đưa vào sử dụng năm 1914, nó phục vụ trong chiến dịch
Dardanelles đến hết Thế chiến thứ nhất.


Cuộc tấn công đầu tiên từ một tàu sân bay là tấn công một mục tiêu trên đất liền diễn ra ngày 19 tháng 7 năm 1918.
Bảy chiếc Sopwith Camel được phóng từ HMS Furious đã tấn cơng căn cứ zeppelin của Đức tại Tondern, với hai
quả bom 50 lb mỗi quả. Nhiều khí cầu và bóng khí bị phá huỷ, nhưng vì tàu sân bay khơng có cách nào để thu hồi
máy bay một cách an tồn, hai phi cơng đã bỏ máy bay trên biển cạnh tàu trong khi những người khác bay tới nước
Đan Mạch trung lập.


<b>Những năm giữa hai cuộc chiến</b>



Sàn phẳng đầu tiên, HMS <i>Argus</i> năm 1918


Tàu sân bay đầu tiên thực sự được phát triển, <i>Hosho</i> của Hải quân Đế quốc Nhật Bản năm 1922


Hiệp ước Hải quân Washington năm 1922 đã đặt ra những giới hạn chặt chẽ về sức mạnh hải quân sau Thế chiến
thứ nhất, các giới hạn khơng chỉ về tổng kích thước của các tàu sân bay, mà còn về giới hạn tối đa là 27.000 tấn
cho mỗi chiếc. Mặc dù đã có một số sửa đổi về tổng kích thước (chỉ tính những chiếc trong hạm đội, khơng tính
những chiếc thử nghiệm), khơng được vượt q tổng kích thước. Tuy nhiên, trong khi các cường quốc hải quân lớn
vượt quá kích thước đối với những chiếc tàu chiến, thì họ khơng vượt kích thước đối với các tàu sân bay. Vì thế,
nhiều tàu chiến và tuần dương hạm đang được chế tạo (hay đang được sử dụng) đã được chuyển đổi thành tàu sân
bay. Chiếc tàu đầu tiên có sàn phẳng trên toàn bộ chiều dài là chiếc HMS <i>Argus</i>, việc hốn cải nó hồn thành vào
tháng 9 năm 1918, Hải quân Hoa Kỳ nối gót vào năm 1920, khi việc hốn cải chiếc USS Langley hồn thành. Hạm
đội tàu sân bay đầu tiên của Mỹ chỉ được đưa vào phục vụ năm 1928 (USS <i>Lexington</i> và <i>Saratoga</i>).



Chiếc tàu sân bay thực sự đầu tiên được phát triển là chiếc HMS <i>Hermes</i>, mặc dầu chiếc đầu tiên được biên chế
vào hạm đội là chiếc <i>Hosho</i> của Nhật Bản (được biên chế vào tháng 12 năm 1922, tiếp đó là chiếc HMS <i>Hermes</i>


vào tháng 7 năm 1923). Thiết kế của chiếc <i>Hermes</i> tiếp nối và có ảnh hưởng từ chiếc <i>Hosho</i>, và việc chế tạo nó
trên thực tế được bắt đầu sớm hơn, nhưng nhiều cuộc kiểm tra, thực nghiệm và ngân sách đã làm chậm thời gian
hồn thành nó.


</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

<b>Thế chiến thứ hai</b>



Các tàu sân bay đóng một vai trị quan trọng trong Thế chiến thứ hai. Với bảy tàu hoạt động, Hải qn Hồng gia
Anh có một ưu thế về số lượng to lớn ở đầu cuộc chiến khi cả Đức và Ý đều khơng có tàu sân bay. Tuy nhiên,
điểm yếu dễ bị tấn công cả các tàu sân bay trước các tàu chiến truyền thống đã nhanh chóng lộ ra khi tàu HMS
<i>Glorious bị tuần dương hạm Đức đánh đắm trong chiến dịch Na Uy năm 1940. Tới Thế chiến thứ hai, các tàu chở </i>
thủy phi cơ không con được coi là ngang sức với những tàu sân bay mang máy bay quy ước, bởi vì các máy bay
quy ước có tầm bay xa hơn, nhanh hơn, với trọng lượng vũ khí đem theo lớn hơn và tính năng tốt hơn; sau cuộc
chiến, những chiếc máy bay trực thăng đầu tiên đã thay thế nhiều nhiệm vụ của những máy bay trên biển.
Sự yếu kém rõ ràng này trước các tàu chiến đã thay đổi vào tháng 10 năm 1940 khi chiếc tàu sân bay HMS


<i>Illustrious</i> tung ra một cuộc tấn công tầm xa vào hạm đội Ý trong Trận Taranto. Chiến dịch này đã làm mất khả


năng chiến đấu của ba trong sáu tàu chiến tại cảng và chỉ mất 2 chiếc trong số 21 chiếc máy bay tấn công Fairey
Swordfish torpedo bombers. Các tàu sân bay cũng đóng một vai trị quan trọng trong việc củng cố cho đảo Malta,
cả bằng cách vận chuyển máy bay và bảo vệ các đồn tàu tiếp tế cho hịn đảo đang bị phong tỏa này. Việc sử dụng
các tàu sân bay đã làm cho hải quân của Ý và Đức vốn chỉ có căn cứ sân bay trên đất liền không thể thống trị trên
vùng Địa Trung Hải.


Ở Đại Tây Dương, các máy bay từ tàu sân bay HMS <i>Ark Royal</i> và HMS <i>Victorious</i> chịu trách nhiệm làm giảm
bước tiến của Tàu chiến Bismarck Đức trong tháng 5 năm 1941. Sau đó, các tàu sân bay hộ tống đã chứng minh
giá trị của mình trong vai trị bảo vệ các đồn tàu vận tải trong Trận chiến Đại tây dương thứ hai và ở các vùng


biển Bắc Cực.


Nhiều trận chiến lớn ở Thái Bình Dương cũng có sự tham gia của các tàu sân bay. Nhật Bản bắt đầu cuộc chiến với
mười chiếc, hạm đội lớn nhất và hiện đại nhất trên thế giới ở thời điểm đó. Mỹ có sáu chiếc tàu sân bay vào lúc bắt
đầu cuộc chiến cho dù chỉ có ba trong số chúng hoạt động ở Thái Bình Dương.


Các máy bay trên tàu sân bay <i>Shokaku</i> Nhật Bản chuẩn bị Tấn công Trân Châu Cảng.


Việc phát triển những ngư lôi lặn ở độ sâu thấp của Nhật Bản năm 1939, vụ tấn công năm 1940 của Không quân
Hoàng gia Anh vào hạm đội Ý ở Taranto, vụ tấn công bất ngờ của Nhật Bản vào Trân Châu Cảng là một minh
chứng rõ ràng của sức mạnh có được khi sở hữu một lực lượng lớn những tàu sân bay hiện đại.


Đồng thời, người Nhật bắt đầu tiến ra khắp Đơng Nam Á và vụ đánh chìm tàu Prince of Wales và Repulse của các
máy bay có căn cứ trên mặt đất của Nhật Bản khiến cho nảy sinh nhu cầu về những chiếc tàu bảo vệ hạm đội khỏi
những cuộc tấn công không quân. Tháng 4 năm 1942, Lực lượng tàu sân bay tấn công nhanh của Nhật Bản chạy
vào Ấn Độ Dương và đánh chìm các tàu, gồm cả chiếc tàu sân bay đang được sửa chữa và không được bảo vệ
HMS Hermes. Các hạm đội nhỏ hơn của Đồng Minh không được bảo vệ đúng mức đã bị buộc phải rút lui hay bị
phá huỷ. Trong Trận chiến biển San Hô, các hạm đội Mỹ và hạm đội Nhật Bản lần đầu tiên trao đổi những trận tấn
công bằng máy bay lẫn nhau mà không tàu bên nào nhìn thấy nhau. Trong Trận Midway, bốn tàu sân bay Nhật bị
đánh chìm trong một cuộc tấn cơng bất ngờ bởi những chiếc máy bay từ ba tàu sân bay của Hoa Kỳ lúc ấy đang
được cho là ở Thái Bình Dương.


</div>
<span class='text_page_counter'>(6)</span><div class='page_container' data-page=6>

sân bay hạng nhẹ, tàu sân bay hộ tống, và quan trọng nhất là lớp tàu Essex mới được đưa vào sử dụng năm 1943.
Những chiếc tàu sân bay này là hạt nhân tạo nên lực lượng đặc nhiệm tàu sân bay nhanh của Hạm đội 3 và Hạm
đội 5, đóng một vai trò quan trọng trong chiến thắng ở mặt trận Thái Bình Dương. Sự lu mờ của thiết giáp hạm như
là một thành phần hàng đầu trong hạm đội đã được minh chứng rõ ràng với việc đánh đắm chiếc thiết giáp hạm lớn
nhất từng được chế tạo, chiếc Yamato, bởi máy bay từ tàu sân bay năm 1945. Nhật cũng chế tạo tàu sân bay lớn
nhất của cuộc chiến, chiếc <i>Shinano</i>, nguyên là một chiếc thiết giáp hạm hạng <i>Yamato</i>, được thay đổi chức năng
trong quá trình đóng sau thảm họa mất 4 chiếc tàu sân bay trong trận Midway. Nó bị một tàu ngầm Mỹ tuần tiểu
đánh đắm tháng 11-1944, khi đang vận chuyển sau khi vừa được hạ thủy, nhưng trước khi được trang bị hoàn


chỉnh hay hoạt động.


<b>Những cải tiến thời chiến</b>



tàu sân bay Taiho mũi chống bão


Kinh nghiệm chiến đấu đã cho thấy phát minh "mũi tàu chống bão" của Anh là cách sử dụng mũi tàu hữu hiệu
nhất, hơn cả súng máy hay một tầng thứ nhì. Loại mũi tàu này đã được sử dụng rộng rãi cho các tàu sân bay Anh
và Mỹ. Tàu sân bay Nhật <i>Taiho</i> là tàu đầu tiên của Nhật sử dụng phát minh này.


Bắt đầu muộn trong cuộc chiến với lớp tàu sân bay Midway , các tàu sân bay của Hoa Kỳ đã trở nên to lớn tới mức
thực tế việc áp dụng khái niệm thiết kế sàn chứa máy bay (<i>hangar deck</i>) trở thành sàn chắc (<i>strength deck</i>) khơng
cịn thích hợp nữa, và mọi tàu sân bay của Hoa Kỳ sau này đều có sàn cất cánh là sàn chắc, khiến đảo trở thành
siêu cấu trúc duy nhất.


<b>Những tàu sân bay loại nhỏ</b>


Tập tin:Viraat lengthy.jpg


Tàu sân bay hạng nhẹ của Ấn Độ INS Viraat , trước kia là chiếc HMS Hermes , mua lại của Anh


Sự thiệt hại ba tàu sân bay chính liên tiếp ở Thái Bình Dương buộc Hải quân Hoa kỳ phải phát triển tàu sân bay
hạng nhẹ (CVL) từ những thân tàu tuần dương hạm hạng nhẹ vốn đã được chế tạo. Chúng được dùng để hỗ trợ
thêm các phi đội máy bay chiến đấu cho lực lượng tấn công, và đã chỉ được sử dụng trong Hải quân Hoa Kỳ trong
Thế chiến thứ hai. Hải quân Hoàng gia Anh cũng đưa ra một thiết kế tương tự cho họ và các nước thuộc Khối thịnh
vượng chung Anh sau Thế chiến thứ hai. Một trong những chiếc tàu sân bay đó, chiếc INS Viraat của Ấn Độ, ban
đầu là HMS Hermes, hiện vẫn đang được sử dụng.


<b>Những tàu sân bay hộ tống và tàu sân bay kiểu tàu bn</b>



Để bảo vệ các đồn tàu trên biển Đại Tây Dương, người Anh đã phát triển một kiểu tàu được gọi là tàu sân bay


kiểu tàu buôn, chúng vốn là những tàu buôn được trang bị một sàn phẳng cho khoảng sáu chiếc máy bay. Chúng
được vận hành bởi những đoàn thủy thủ dân sự, treo cờ thương mại và mang hàng hóa thơng thường tuy nhiên vẫn
có hỗ trợ bảo vệ bằng khơng qn. Bởi vì những tàu đó khơng có thang máy hay chỗ đỗ cho máy bay, việc bảo
dưỡng máy bay bị hạn chế và trong suốt cuộc hành trình, máy bay phải đỗ trên boong.


</div>
<span class='text_page_counter'>(7)</span><div class='page_container' data-page=7>

nhiệm vụ chống tàu ngầm. Hơn một trăm chiếc đã được chế tạo hay được hốn cải từ các tàu bn.


Các tàu sân bay hộ tống sản xuất tại Hoa Kỳ thường từ hai kiểu thiết kế thân căn bản: một từ tàu buôn, và một từ
tàu chở dầu hơi lớn và tốc độ hơi cao. Bên cạnh việc bảo vệ hộ tống, chúng được sử dụng để vận chuyển máy bay
qua biển. Tuy nhiên, một số cũng tham gia vào các trận đánh giải phóng Philippines, nổi tiếng là trận chiến ngồi
khơi Samar trong đó sáu chiếc tàu sân bay hộ tống và các tàu khu trục đã nhanh chóng tiếp chiến năm tàu chiến
hạng nặng Nhật Bản và buộc chúng phải rút lui.


<b>Tàu bn có hệ thống phóng</b>



Là một thứ tàu dùng tạm trong lúc khẩn cấp trước khi các tàu sân bay kiểu tàu buôn được đem ra sử dụng, người
Anh đã bảo vệ trên khơng cho các đồn hộ tống bằng cách sử dụng "Tàu bn có hệ thống phóng" (CAM ships) và
các tàu sân bay kiểu tàu bn. Các tàu bn có hệ thống phóng vốn là các tàu bn được trang bị một máy bay,
thường là một chiếc Hawker Hurricane đã qua sử dụng trong chiến đấu, được phóng bằng một máy phóng. Một khi
đã được phóng đi, máy bay không thể đỗ trở lại trên bong và phải hạ cánh xuống biển nếu không thể bay tới đất
liền. Trong hai năm, chỉ chưa tới mười vụ phóng kiểu này được thực hiện, tuy thế những chuyến bay đó cũng mang
lại một số thành công: hạ sáu máy bay ném bom trong khi chỉ mất một phi công.


<b>Đường băng chéo</b>



Đường băng chéo góc cho phép phóng và đáp máy bay cùng lúc an toàn


Trong Thế chiến thứ hai, máy bay phải hạ cánh trên một đường băng song song với trục dài của thân tàu. Máy bay
nào đã đỗ trên sàn được cho đỗ ở mũi tàu, chỗ cuối đường băng. Một thanh ngăn va chạm được dựng lên phía sau
chúng để ngăn máy bay đang hạ cánh khỏi lao vào khu vực đó bởi vì móc giữ của nó móc trượt vào các dây giảm


tốc. Nếu điều này xảy ra, thường gây ra thiệt hại nghiêm trọng, thương vong hay thậm chí, nếu thanh chắn khơng
đủ chắc, cịn phá hủy các máy bay đã đỗ.


Một phát triển quan trọng trong thập niên 1940 khi người Anh phát minh ra đường băng chéo, nơi đường băng
được đặt chéo vài độ so với trục thân tàu. Nếu một máy bay khơng móc được cáp giảm tốc, phi công chỉ cần tăng
sức động cơ lên tối đa rồi lại cất cánh lại và sẽ không đâm phải các máy bay đã đỗ bởi vì đường băng chéo góc
hướng ra ngồi biển.


<b>Những phát triển thời hậu chiến</b>



Dàn đèn hạ cánh trên chiếc Charles de Gaulle


Hai máy bay tiêm kíchDassaultRafale của Pháp trên chiếc USS Harry Truman


</div>
<span class='text_page_counter'>(8)</span><div class='page_container' data-page=8>

Trung tá C.C. Mitchell Royal Naval Reserve phát minh ra. Nó đã được ứng dụng rộng rãi sau khi được thử nghiệm
nhiều lần trên chiếc HMS Perseus từ giữa 1950 và 1952 nó cho thấy sức mạnh lớn hơn và độ tin cậy cao hơn
những hệ thống phóng dùng khí nén vốn từng được đưa vào sử dụng từ thập niên 1930. Hiện tại, chỉ các tàu sân
bay dùng năng lượng hạt nhân là có các nồi hơi như một phần trong hệ thống sức mạnh chuyển động của nó, đa
phần các tàu sân bay hiện nay được trang bị thiết bị phát hơi chỉ dùng để cung cấp năng lượng cho các máy phóng.
Một sáng chế khác của người Anh là bộ phận chỉ thị độ dốc trượt (<i>glide-slope indicator</i>) (cũng được gọi là "thịt
viên"). Đó là một cái đèn được điều khiển kiểu con quay hồi chuyển (<i>gyroscopically-controlled lamp</i>) ở phía hạ
cánh của boong, và được phi công đang sắp hạ cánh quan sát thấy, chỉ thị cho anh ta thấy anh ta đang ở quá cao
hay quá thấp so với đường lượn xuống chính xác. Nó cũng tính tốn sẵn ảnh hưởng của sóng đối với boong. Thiết
bị này đã trở nên cần thiết khi tốc độ hạ cánh của máy bay ngày càng tăng lên.


Hải quân Hoa Kỳ từ sớm đã cố gắng để trở thành một lực lượng hạt nhân chiến lược với kế hoạch chế tạo chiếc
USS United States (CVA-58), ký hiệu CVA, với chữ "A" để biểu thị "hạt nhân". Chiếc tàu này mang các máy ném
bom cánh quạt đơi, mỗi chiếc có thể mang một quả bom hạt nhân. Dự án này đã bị hủy bỏ dưới sức ép của lực
lượng mới được thành lập gần đây là Không lực Hoa Kỳ, và chữ "A" được dùng lại với ý nghĩa "tấn công". Nhưng
điều này chỉ làm chậm sự lớn mạnh của các siêu hàng khơng mẫu hạm. Các vũ khí hạt nhân sẽ được mang ra biển


bất chấp sự phản đối của Không quân năm 1955 trên chiếc USS Forrestal , và tới cuối thập niên 1950 Hải quân đã
có nhiều máy bay tấn cơng trang bị vũ khí hạt nhân.


Hải quân Hoa Kỳ mang vũ khí hạt nhân trên biển theo cách khác bằng cách chế tạo các tàu sân bay có trang bị các
lị phản ứng hạt nhân. Chiếc USS Enterprise là chiếc tàu sân bay đầu tiên được cung cấp năng lượng theo kiểu này
và những chiếc siêu hàng khơng mẫu hạm này có ưu thế vì kiểu cơng nghệ đó cho phép chúng hoạt động lâu dài
trên biển. Một quốc gia khác duy nhất theo gót Hoa Kỳ là Pháp với chiếc <i>Charles de Gaulle</i>.


Những năm hậu chiến cũng chứng kiến sự phát triển của máy bay trực thăng với nhiều khả năng khác biệt so với
máy bay chiến đấu. Trong khi các máy bay có cánh cố định thường có nhiệm vụ chiến đấu không đối không và
không đối đất thì các máy bay trực thăng được sử dụng để vận chuyển trang thiết bị và con người và có thể được sử
dụng trong vai trị chiến tranh chống tàu ngầm với thiết bị siêu âm thả xuống nước và các tên lửa.


Vào cuối thập niên 1950 đầu thập niên 1960, Anh Quốc đã hoán cải một số tàu sân bay cũ của họ thành các tàu sân
bay chở quân biệt kích, và những chiếc máy bay trên biển kiểu HMS Bulwark . Để chiến đấu chống lại những ý
nghĩa đắt giá của thuật ngữ "hàng không mẫu hạm", chiếc tàu loại mới lớp Invincible ban đầu được chỉ định "thông
qua sàn các tuần dương hạm" và chở các máy bay trực thăng với nhiệm vụ hộ tống. Khi loại máy bay Sea Harrier
xuất hiện, chúng đã có thể mang cả máy bay cánh cố định cho dù có đường băng ngắn.


<b>Các chiến dịch tàu sân bay của Liên Hiệp </b>


<b>Quốc trong Chiến tranh Triều Tiên</b>



Liên Hiệp Quốc đã thực hiện các chiến dịch tàu sân bay chống lại Quân đội Bắc Triều Tiên ngày 3 tháng 7 năm
1950 để đáp trả lại việc họ tấn công Nam Triều Tiên. Lực lượng tấn công 77 lúc đó gồm các tàu sân bay Valley
<i>Forge và HMS </i> Triumph . Trước cuộc đình chiến vào ngày 27 tháng 7 năm 1953, 12 tàu sân bay Mỹ đã 27 lần tuần
tiễu trong vùng biển Nhật Bản như một phần thuộc lực lượng tấn công 77.


Một đơn vị thứ hai, Lực lượng tấn công 95, được dùng làm lực lượng phong tỏa ở Biển Vàng ngoài khơi Bắc Triều
Tiên. Lực lượng này gồm một tàu sân bay hạng nhẹ của các nước Khối thịnh vượng chung Anh (<i>Triumph</i>, <i>Theseus</i>,



<i>Glory</i>, <i>Ocean</i>, HMAS Sydney<i>) và một tàu hộ tống của Mỹ (Badoeng Strait, Bairoko, Point Cruz, Rendova và </i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(9)</span><div class='page_container' data-page=9>

Hơn 301.000 cuộc tấn công từ các tàu sân bay đã được tung ra trong Chiến tranh Triều Tiên: 255.545 vụ bởi các
máy bay của Lực lượng đặc nhiệm 77, và 20.375 vụ bởi các tàu sân bay hộ tống của Lực lượng đặc nhiệm 95. Lực
lượng của Hải quân Hoa Kỳ và Thủy quân Lục chiến Hoa Kỳ đặt trên tàu sân bay bị thiệt hại 541 máy bay. Không
lực hạm đội Anh thiệt hại 86 máy bay trong chiến đấu, và Không lực hạm đội Úc thiệt hại 15 chiếc.


<b>[Các chiến dịch tàu sân bay Mỹ ở Đông Nam Á</b>



Hải quân Hoa Kỳ đã tiến hành "một cuộc chiến kéo dài nhất, cay đắng nhất, và đắt giá nhất" (René Francillon)
trong lịch sử hàng không hàng hải từ ngày 2 tháng 8 năm 1964 đến 15 tháng 8 năm 1973 trên vùng Biển Đông.
Xuất phát từ hai cứ điểm là (Yankee Station và Dixie Station), các tàu sân bay đã hỗ trợ các chiến dịch tấn công ở
Nam Việt Nam và tiến hành các chiến dịch ném bom chung với Không quân Hoa Kỳ ở Bắc Việt nam trong các
Chiến dịch Flaming Dart, Chiến dịch Rolling Thunder và Chiến dịch Linebacker.


21 tàu sân bay (tất cả các hàng không mẫu hạm tấn công đang hoạt động trong giai đoạn đó trừ John F. Kennedy)
được bố trí vào Lực lượng đặc nhiệm 77 của Hạm đội số 7 của Mỹ, tiến hành 86 cuộc tuần tra và hoạt động tổng
cộng 9.178 trên giới tuyến tại Vịnh Bắc Bộ. 530 máy bay bị thiệt hại trong chiến đấu và 329 chiếc nữa vì tai nạn
khi hoạt động, làm thiệt mạng 377 phi công của hải quân, cùng 64 người bị coi là mất tích và 179 người bị bắt làm
tù binh chiến tranh. 205 sỹ quan và binh lính trên ba tàu sân bay (Forrestal, Enterprise và Oriskany) tử trận trong
các tai nạn.


<b>Các tàu sân bay hiện nay</b>



Tổng thống Mỹ Georges Bush chụp hình lưu niệm cùng thủy thủ đoàn trên USS Abraham Lincoln


F-18 C đang chuẩn bị cất cánh trên USS John Stennis


Các siêu hàng không mẫu hạm thường là những tàu lớn nhất được điều hành bởi các lực lượng hải quân; một chiếc
thuộc lớp <i>Nimitz</i> được lắp hai lò phản ứng hạt nhân và bốn turbine hơi dài 1092 ft (333 m) và có giá khoảng 4.5 tỷ


US dollar. Hoa Kỳ sở hữu nhiều tàu sân bay nhất với khoảng hơn mười chiếc đang hoạt động, và các tàu sân bay
của họ là nền tảng để phô trương khả năng quyền lực Hoa Kỳ.


Chín nước có sở hữu các tàu sân bay là: Hoa Kỳ, Anh Quốc, Pháp, Nga, Tây Ban Nha, Brasil, Ý, Ấn Độ và Thái
Lan. Hơn nữa Quân đội giải phóng nhân dân của Trung Quốc sở hữu chiếc tàu sân bay cũ của Liên Xơ: chiếc
<i>Varyag, nhưng đa số các nhà phân tích hải qn tin rằng họ khơng có ý định đưa nó vào sử dụng, mà chỉ sử dụng </i>
chiếc <i>Varyag</i> để học cách sử dụng các tàu sân bay Trung Quốc trong tương lai. Canada, Trung Quốc, Nhật Bản,
Pakistan, Úc, Chile, New Zealand và Singapore cũng đang sở hữu các tàu mang máy bay trực thăng.


</div>
<span class='text_page_counter'>(10)</span><div class='page_container' data-page=10>

<b>Các tàu sân bay hiện đại</b>



USS <i>Ronald Reagan</i> của Mỹ


tàu sân bay Nga Novorossijsk Kiev. Tuy cùng là tàu sân bay nhưng nó có kích thước khá nhỏ so với các hạm của
Hoa Kỳ và chỉ có thể chở trực thăng


Việc sử dụng hàng không mẫu hạm gần đây gồm trong Chiến tranh Falklands, khi Anh Quốc đã có thể chiến thắng
trong một cuộc xung đột cách nước họ 8.000 dặm (13.000 km) phần lớn nhờ ở việc sử dụng chiếc tàu sân bay cỡ
lớn HMS <i>Hermes</i> và chiếc nhỏ hơn HMS Invincible . Chiến tranh Falklands cho thấy giá trị của những chiếc máy
bay kiểu VSTOL – chiếc Hawker-Siddeley Harrier (loại RN Sea Harrier) trong việc bảo vệ hạm đội và lực lượng
tấn công khỏi sự tấn công của các máy bay từ trên bờ và trong tấn công đối phương. Các máy bay trực thăng từ các
tàu sân bay được sử dụng để triển khai quân và thu hồi quân lính bị thương.


Người Mỹ cũng đã sử dụng các tàu sân bay ở Vịnh Ba Tư, Afghanistan và để bảo vệ các quyền lợi của họ ở Thái
Bình Dương. Gần đây nhất, trong cuộc tấn công Iraq năm 2003 đã đề cao khả năng của các tàu sân bay trong vai
trị căn cứ hàng đầu của Khơng lực Hoa Kỳ. Dù khơng có nhiều căn cứ khơng qn ở Trung Đơng, Hoa Kỳ vẫn có
thể tung ra những cuộc tấn công đáng kể từ các phi đội xuất phát từ các tàu sân bay.


Đầu thế kỷ 21, các tàu sân bay trên khắp thế giới đã có khả năng mang khoảng 1250 máy bay. Hoa Kỳ chiếm hơn
1000 chiếc trong số đó; nước đứng thứ hai là Anh Quốc với hơn 50 chiếc. Anh Quốc và Pháp cả hai đều đang tiến


hành mở rộng khả năng về tàu sân bay của họ (với một lớp tàu thông thường), nhưng Hoa Kỳ vẫn giữ vị trí đầu
bảng của mình với khoảng cách khá xa.


<b>Các tàu sân bay hiện đại</b>



Nhiều quốc gia hiện đang sở hữu các hàng khơng mẫu hạm đang trong tiến trình đặt kế hoạch cho những lớp tàu
mới, để thay thế những chiếc hiện tại.


<b>[Hải quân Pháp</b>



Hải quân Pháp đã đưa ra các kế hoạch cho một tàu sân bay thứ hai để bổ sung thêm cho chiếc Charles de Gaulle.
Thiết kế chiếc này lớn hơn, với phạm vi chiếm nước 50.000–60.000 tấn và không sử dụng động cơ năng lượng hạt
nhân như chiếc <i>Charles de Gaulle</i>. Đã có kế hoạch để biến Thiết kế hải quân Hoàng gia cho các chiến dịch


CATOBAR (thiết kế Thales/BAE Systems cho hải quân hồng gia là cho hàng khơng mẫu hạm STOVL có thể cải
tổ cấu hình cho các chiến dịch CATOBAR).


</div>
<span class='text_page_counter'>(11)</span><div class='page_container' data-page=11>

Giuseppe Garibaldi của Ý


Ấn Độ đã bắt đầu chế tạo một chiếc tàu sân bay 37.500 tấn, dài 252 mét vào tháng 4 năm 2005. Chiếc tàu sân bay
mới sẽ có giá 762 triệu US dollar và sẽ mang theo các máy bay MiG 29K 'Fulcrum' và Sea Harrier cùng với các
máy bay trực thăng do Ấn Độ và Nga cùng chế tạo. Chiếc tàu này sẽ có bốn động cơ turbine và khi hồn thành sẽ
có tầm hoạt động 7.500 dặm biển, mang theo 160 sỹ quan, 1400 binh lính và 30 máy bay. Chiếc tàu đang được
đóng tại một xưởng đóng tàu nhà nước ở phía nam Ấn Độ. Năm 2004, Ấn Độ cũng mua chiếc Admiral Gorshkov
từ Nga với giá 1,5 tỷ US dollar; nó đang sắp được biên chế vào Hải quân Ấn Độ vào năm 2008 sau khi được sửa
chữa[1].


<b>Hải quân Ý</b>



USS Constellation CV-64 của Hoa Kỳ



Việc chế tạo các tàu sân bay kiểu V/STOL cho Hải quân Ý (<i>Marina Militare</i>) Cavour có động cơ quy ước đã bắt
đầu năm 2001. Nó đang được Fincantieri của Ý đóng. Sau nhiều lần trì hỗn, <i>Cavour</i> được chờ đợi sẽ đưa vào
phục vụ năm 2008 để hỗ trợ thêm cho những chiếc tàu sân bay trong lực lượng Hải quân Ý hiện nay Giuseppe
<i>Garibaldi. Một chiếc thứ hai với phạm vi chiếm nước 25.000-30.000 tấn đang được Hải quân Ý trông đợi, để thay </i>
thế chiếc tàu đã bị loại bỏ Vittorio Veneto, nhưng vì các lý do tài chính, phát triển thêm nữa vẫn cịn đang đứng im.

<b>Hải quân Hoàng gia Anh</b>



Hải quân Hoàng gia Anh hiện có kế hoạch cho hai chiếc tàu sân bay mới (hiện nay mới chỉ biết là CVF) để thay
thế ba chiếc tàu sân bay lớp Invincible hiện đang hoạt động. Hai chiếc này sẽ được đặt tên là HMS Queen


</div>
<span class='text_page_counter'>(12)</span><div class='page_container' data-page=12>

<b>Liên bang Nga</b>



Tổng thống Nga Medvedev tham quan phòng điều khiển chiếc Kuznetsov tháng 10/2008


Tàu sân bay <i>Đô đốc Kuznetsov</i>, Nga. Hình chụp năm 1996


Nga có một tàu sân bay đang hoạt động, <i>hàng không mẫu hạm Admiral Kuznetsov</i>. Nga hiện đã từ bỏ việc đóng
loại hạm này vì thiếu kinh phí. Tàu sân bay Đơ đốc Kuznetsov được đóng tại xưởng đóng tàu Nikolayev South trên
bờ Biển Đen thuộc Ukraine. Việc này được khởi động vào 1985 nhưng phải đến 10 năm, tàu sân bay Kuznetsov
sau mới chính thức đi vào hoạt động


Chiếc Kuznetsov hạ thủy từ đầu những năm 1990, hiện được triển khai trong Hạm đội Biển Bắc. Chiếc Kuznetsov
có chiều dài 300m, chở được 26 chiến đấu cơ và 24 trực thăng, ít hơn các tàu sân bay của Mỹ. Tàu này chạy bằng
động cơ hơi nước, trong khi các tàu hiện đại chạy của Mỹ đều chạy bằng năng lượng hạt nhân.[2]


Khu vực boong tàu có diện tích 14.700 m2, được trang bị hai thang máy đẩy giúp nâng máy bay từ khoang chứa
máy bay lên boong tàu. Khác với các tàu sân bay khác của phương Tây, Kuznetsov khơng có hệ thống máy phóng
máy bay. Nó hoạt động dựa trên một đường dốc có góc nghiêng 12 độ ở phía cuối boong tàu để tạo đà cho máy bay
cất cánh. Việc thiếu hệ thống máy phóng máy bay đã hạn chế khá nhiều trọng lượng của các loại máy bay trên tàu


bởi một chiến đấu cơ nếu mang đầy đủ tải trọng sẽ không đạt được vận tốc vượt qua tốc độ thất tốc. Trên tàu có 17
máy bay (12 chiếc Su-33 và 5 chiếc Su-25), 24 trực thăng (4 Kamov Ka-27LD32, 18 Kamov Ka-27PLO và 2
Kamov Ka-27S). Tàu có tốc độ 32 hải lý/h với thời gian hoạt động chỉ giới hạn trong 45 ngày. Chiếc Kuznetsov có
8 động cơ hơi nước (nồi hơi áp lực), 4 trục truyền động 200.000 mã lực; 2 động cơ tuabin 50.000 hp; 9 động cơ
tuabin phát điện 2.011 mã lực; 6 động cơ diesel 2.011 mã lực. Phạm vi hoạt động của tàu là 7.130 km với tốc độ 59
km mỗi giờ.


Tháng 1/2009, một đám cháy đã bùng phát trên tàu sân bay duy nhất của Hải quân Nga mang tên “Đô đốc
Kuznetsov” khi tàu này đang thả neo ngoài khơi Thổ Nhĩ Kỳ, làm 1 thuỷ thủ thiệt mạng.[3]


</div>
<span class='text_page_counter'>(13)</span><div class='page_container' data-page=13>

Nhân viên Không lưu của chiếc USS Abraham Lincoln CVN-72 đang làm việc trong phòng điều khiển trên tàu
năm 2006


Chiếc USS George Washington (CVN-73)


Hiện nay Hải quân Hoa Kỳ có 11 tàu sân bay đang hoạt động.


Hạm đội những chiếc tàu sân bay thuộc lớp Nimitz Hoa Kỳ sẽ tiếp tục được sử dụng (và trong một số trường hợp
được thay thế) bởi chiếc tàu sân bay CVN-21/CVNX. Họ hy vọng rằng những chiếc tàu này sẽ lớn hơn và sẽ mang
hơn 80 máy bay hay nhiều hơn nữa so với lớp Nimitz, và cũng sẽ được thiết kế để khó bị radar phát hiện.


Mỹ đang giữ vị trí đầu trong danh sách những nước sở hữu tàu sân bay. Đáng kể nhất là 10 chiếc tàu sân bay hạt
nhân lớp Nimitz là những tàu quân sự lớn nhất trên thế giới. Chiếc George H.W. Bush trị giá 6,2 tỷ USD với boong
tàu có thể chứa 90 máy bay và trực thăng chiến đấu. Chiếc USS Georgia Washington dài 332 m, nặng 97.000 tấn,
có sức chứa hơn 5.500 người và 70 máy bay và trực thăng rất hiện đại, trang bị hai lò phản ứng hạt nhân cho phép
tàu hoạt động trong 18 năm mà không cần tiếp tế nhiên liệu. USS Ronald Reagan có tốc độ cao nhất là hơn 30 hải
lý, chạy bằng năng lượng hạt nhân và có thể chạy liên tục trong suốt 20 năm mới phải nạp năng lượng.[4] USS


Theodore Roosevelt rộng 1,8 hecta, với trọng tải 88.000 tấn, chở gần 5.000 thủy thủ, được trang bị 90 trực thăng và
máy bay chiến đấu.[5]



Nhân viên trong phòng điều khiển chiếc USS Enterprise


Chiếc USS John C. Stennis được ví như khách sạn nổi, một thành phố thu nhỏ của nước Mỹ. Tàu có tổng cộng 19
tầng, với đầy đủ các dịch vụ thiết yếu, phòng phẫu thuật, đầu bếp chuyên nghiệp.[6] USS John C. Stennis được đưa


</div>
<span class='text_page_counter'>(14)</span><div class='page_container' data-page=14>

F-18 C trên USS John Stennis


USS John C.Stennis Group được lắp 2 động cơ nguyên tử, có tầm hoạt động xuyên đại dương thế giới và chạy với
tốc độ gần 60km/h, có thể mang được 3 triệu thùng nhiên liệu để tiếp dầu cho máy bay và số lượng vũ khí đủ để
thực hiện các chiến dịch quân sự dài ngày mà không cần phải tăng cường thêm. USS John C.Stennis Group còn
được trang bị các hệ thống tên lửa phòng không tầm gần, tầm xa và hệ thống tác chiến điện tử để đối phó với các
địn tiến cơng từ trên không, trên vũ trụ, trên biển và trên đất liền.[7]


<b>Hải quân Hoàng gia Úc</b>



Hải quân Hoàng gia Úc hiện đang đầu tư vào hai chiếc tàu "đa chức năng", với thiết kế theo kiểu lớp Mistral của
Pháp hay <i>Buque de Proyección Estratégica</i> của Tây Ban Nha. Người ta tin rằng nhiều thành viên bên trong Hải
quân Hồng gia Úc và trong chính phủ Úc thích mua thêm F-35B JSF để trang bị cùng với nó, biến chúng thành
những tàu sân bay. Điều này sẽ cho phép Hải qn Hồng gia Úc có khả năng sở hữu tàu sân bay lần đầu tiên kể từ
thập niên 1980.


<b>Hạm đội Tây Ban Nha</b>



Dự án cho chiếc tàu dài 231 và lượng rẽ nước 25.000–30.000 tấn dùng động cơ quy ước Buque de Proyección
<i>Estratégica (tàu dự án chiến lược) cho Hải quân Tây Ban Nha được thông qua năm 2003, và việc chế tạo nó đã bắt </i>
đầu vào tháng 8 năm 2005, cơng ty đóng tàu Navantia chịu trách nhiệm dự án. Chiếc <i>Buque de proyección </i>


</div>

<!--links-->








<a href=' /><a href=' /><a href=' /> phân tích hoạt động sx kinh doanh của công ty dịch vụ Hàng Không sân bay Nội Bài.doc.DOC
  • 36
  • 767
  • 3
  • Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

    Tải bản đầy đủ ngay
    ×