Tải bản đầy đủ (.pdf) (291 trang)

Nghiên cứu văn bản Tuồng “Trung hiếu thần tiên” của Hoàng Cao Khải

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (28.46 MB, 291 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN THỊ THANH VÂN

NGHIÊN CỨU VĂN BẢN TUỒNG
“TRUNG HIẾU THẦN TIÊN” CỦA HOÀNG CAO KHẢI

LUẬN ÁN TIẾN SĨ HÁN NÔM

Hà Nội - 2021


VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN THỊ THANH VÂN

NGHIÊN CỨU VĂN BẢN TUỒNG
“TRUNG HIẾU THẦN TIÊN” CỦA HỒNG CAO KHẢI

Ngành: Hán Nơm
Mã số: 9.22.01.04

LUẬN ÁN TIẾN SĨ HÁN NÔM

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. NGUYỄN TÁ NHÍ

Hà Nội - 2021




LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu độc lập của riêng tôi dƣới
sự hƣớng dẫn khoa học của PGS. TS. Nguyễn Tá Nhí. Các số liệu và kết quả
nghiên cứu trong luận án do tôi tự tổng hợp, thống kê, phân tích một cách
trung thực, khách quan và phù hợp với mục đích nghiên cứu của đề tài.
Hà Nội, tháng 5 năm 2021
Tác giả

Nguyễn Thị Thanh Vân


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1
1. Tính cấp thiết của đề tài .......................................................................................... 1
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án....................................................... 3
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận án ....................................................... 4
4. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu của luận án................................... 5
5. Đóng góp mới về khoa học của luận án .................................................................. 6
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án ................................................................. 7
7. Cấu trúc của luận án ................................................................................................ 7
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ TUỒNG VÀ TỔNG QUAN TÌNH
HÌNH NGHIÊN CỨU CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI ........................................ 9
1.1. Một số vấn đề về Tuồng ..................................................................................... 9
1.1.1. Nguồn gốc và khái niệm về Tuồng, kịch bản Tuồng ............................... 9
1.1.2. Khái lƣợc quá trình phát triển của nghệ thuật Tuồng............................. 14
1.1.3. Sáng tạo sân khấu Tuồng về đề tài lịch sử ............................................. 17
1.2. Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài .................................. 20
1.2.1. Những cơng trình nghiên cứu về tác phẩm Tuồng "Trung hiếu thần tiên" .. 20

1.2.2. Những cơng trình nghiên cứu về tác gia và các sáng tác khác của
Hoàng Cao Khải ............................................................................................... 23
1.3. Một số nhận xét về các cơng trình nghiên cứu liên quan đến đề tài............ 31
1.4. Định hướng những vấn đề nghiên cứu tiếp theo của luận án ...................... 32
Tiểu kết chương 1 .................................................................................................... 34
Chương 2: TÁC GIA HOÀNG CAO KHẢI VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ VỀ
VĂN BẢN TUỒNG “TRUNG HIẾU THẦN TIÊN” ........................................... 35
2.1. Thân thế và sự nghiệp sáng tác của tác gia Hoàng Cao Khải ...................... 35
2.1.1. Vài nét về tiểu sử tác giả ........................................................................ 35
2.1.2. Sự nghiệp sáng tác của tác gia Hoàng Cao Khải.................................... 43
2.2. Những vấn đề về văn bản Tuồng "Trung hiếu thần tiên" ........................... 54
2.2.1. Luận giải về “tên” của tác phẩm ............................................................ 54
2.2.2. Nghiên cứu so sánh các văn bản chữ Nôm “Trung hiếu thần tiên” ....... 57


2.2.3. So sánh văn bản chữ Nôm và bản chữ Quốc ngữ của kịch bản
Tuồng “Trung hiếu thần tiên” .......................................................................... 66
2.2.4. Một số vấn đề về văn tự trong “Trung hiếu thần tiên” ........................... 70
Tiểu kết chương 2 .................................................................................................... 79
Chương 3: GIÁ TRỊ NỘI DUNG CỦA TÁC PHẨM TUỒNG “TRUNG
HIẾU THẦN TIÊN” ............................................................................................... 80
3.1. Đề tài của “Trung hiếu thần tiên” .................................................................. 80
3.2. Số lượng và hệ thống nhân vật ........................................................................ 82
3.3. Truy tìm nguồn gốc về tích Tuồng và cốt truyện “Trung hiếu thần tiên”........ 85
3.4. Tính chân thực và hư cấu trong tác phẩm Tuồng “Trung hiếu thần tiên” ...... 91
3.5. Tư tưởng chủ đề của tác phẩm “Trung hiếu thần tiên” ............................... 97
3.5.1. Thể hiện tƣ tƣởng“trung hiếu” trong tác phẩm “Trung hiếu thần tiên” ....... 98
3.5.2. Thể hiện tƣ tƣởng tam giáo trong “Trung hiếu thần tiên” .................... 100
Tiểu kết chương 3 .................................................................................................. 105
Chương 4: GIÁ TRỊ NGHỆ THUẬT TÁC PHẨM TUỒNG “TRUNG

HIẾU THẦN TIÊN” VÀ VỊ TRÍ CỦA TÁC GIA HỒNG CAO KHẢI
TRONG LỊCH SỬ NGHỆ THUẬT TUỒNG GIAI ĐOẠN ĐẦU THẾ KỶ
XX (1900- 1930) ..................................................................................................... 106
4.1. Giá trị nghệ thuật tác phẩm Tuồng “Trung hiếu thần tiên” ..................... 106
4.1.1. Kết cấu, hồi lớp của “Trung hiếu thần tiên”......................................... 106
4.1.2. Nghệ thuật xây dựng tính cách nhân vật trong “Trung hiếu thần tiên”...... 109
4.1.3. Nghệ thuật xây dựng xung đột trong “Trung hiếu thần tiên”............... 120
4.1.4. Ngôn từ trong tác phẩm Tuồng “Trung hiếu thần tiên” ....................... 122
4.1.5. Sử dụng điển tích, điển cố trong các thể thơ, điệu hát của “Trung
hiếu thần tiên”................................................................................................. 128
4.1.6. Sử dụng thể văn hịch, yết thị, thƣ trong “Trung hiếu thần tiên” .......... 134
4.2. Vị trí của tác gia Hoàng Cao Khải trong lịch sử phát triển nghệ thuật
Tuồng giai đoạn đầu thế kỷ XX (1900- 1930) ..................................................... 137
4.2.1. “Trung hiếu thần tiên” trong sự phát triển của sân khấu Tuồng về
nhân vật lịch sử Trần Hƣng Đạo .................................................................... 137


4.2.2. Tác giả Hồng Cao Khải trong tiến trình phát triển nghệ thuật
Tuồng giai đoạn đầu thế kỷ XX (1900- 1930) ............................................... 141
Tiểu kết chương 4 .................................................................................................. 146
KẾT LUẬN ............................................................................................................ 147
DANH MỤC CÁC CƠNG TRÌNH NGHIÊN CỨU CỦA TÁC GIẢ CÓ
LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN ............................................................... 151
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO CHÍNH .............................................. 153
PHỤ LỤC


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT TRONG LUẬN ÁN
Viết tắt


Viết đầy đủ

Đắc bằng

Tây Nam đắc bằng

Khâm định

Khâm định Việt sử thông giám cƣơng mục

Khí xa

Tƣợng kỳ khí xa

Tây Nam

Tây Nam hai mƣơi tám hiếu diễn ca

Toàn thƣ

Đại Việt sử ký toàn thƣ

Tiền biên

Đại Việt sử ký tiền biên

TH thần tiên

Trung hiếu thần tiên


ĐH & THCN

Đại học và Trung học chuyên nghiệp

H

Hà Nội

KHKT

Khoa học kỹ thuật

KHXH

Khoa học xã hội

KHXH&NV

Khoa học xã hội và Nhân văn

LĐ – TTVHNNĐT

Lao động – Trung tâm văn hóa ngơn ngữ Đơng Tây

Nxb

Nhà xuất bản

QGHN


Quốc gia Hà Nội

UBND

Ủy ban nhân dân

TPHCM

Thành phố Hồ Chí Minh

TVQG

Thƣ v ện Quốc gia

VHTT

Văn hóa Thơng tin

VH, TT &DL

Văn hố, Thể thao và Du lịch

VNCHN

Viện nghiên cứu Hán Nôm

VSH

Viện Sử học



PHẦN PHỤ LỤC
Phụ lục 1: Niên biểu về tác giả Hoàng Cao Khải......................................................... 1
Phụ lục 2: Bảng thống kê nhân vật trong Tuồng “Trung hiếu thần tiên” .................... 5
Phụ lục 3: Tóm tắt cốt truyện của “Trung hiếu thần tiên” ........................................... 9
Phụ lục 4: Bảng so sánh bản AB.460 và bản chữ Quốc ngữ của “Trung hiếu
thần tiên”. .................................................................................................................... 19
Phụ lục 5: Bảng đối chiếu nội dung tác phẩm Tuồng “Trung hiếu thần tiên” ............ 21
Phụ lục 6: Bảng khảo sát chữ Nôm ở 5 hồi (hồi 1 - hồi 5) của văn bản Tuồng
“Trung hiếu thần tiên .................................................................................................. 25
Phụ lục 7: Bảng thống kê các kiêng húy trong “Trung hiếu thần tiên” ...................... 30
Phụ lục 8: Bảng thống kê các điệu hát trong Tuồng “Trung hiếu thần tiên” .............. 32
Phụ lục 9: Một số điệu hát trong Tuồng “Trung hiếu thần tiên” ................................ 34
Phụ lục 10: Một số thể văn chính luận trong Tuồng “Trung hiếu thần tiên” .............. 36
Phụ lục 11: Một số sắc phong, văn bằng và văn thơ, văn tế viết về Hoàng Cao
Khải ............................................................................................................................. 40
Phụ lục 12: Bản dịch “Bày diễn tích” và 5 hồi (hồi 1- 5) văn bản Tuồng “Trung
hiếu thần tiên” từ bản chữ Nơm kí hiệu AB.460......................................................... 51
Phụ lục 13: Bản chữ Nơm kí hiệu AB.460 ................................................................ 101


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hồng Cao Khải 黃高啟 (1850 - 1933) làm quan trải năm triều vua1 và là viên
quan mẫn cán phục vụ cho triều đình nhà Nguyễn (1802 - 1945). Trong địa hạt quản lý
của mình, ơng đã có những thành tích nhất định trong việc binh dịch, xây dựng đê điều
ngăn lũ lụt. Tuy thế ơng cũng khó biện minh cho các việc mang quân đi dẹp cuộc khởi
nghĩa Bãi Sậy, vâng lệnh toàn quyền Lanessan của Pháp viết thƣ dụ hàng Phan Đình
Phùng. Những việc làm này của ơng chính là khơng ủng hộ phong trào Cần Vƣơng
cuối thế kỷ XIX, không đi theo nhân dân chống lại ách đô hộ của Pháp, để đất nƣớc

dần dần rơi vào tay thực dân Pháp. Cho nên, khi khảo cứu, tìm hiểu về nhân vật lịch sử
này và các tác phẩm của ông, nhiều học giả vẫn tỏ ra băn khoăn, nghi ngại. Tuy nhiên
cũng khơng thể phủ nhận Hồng Cao Khải là ngƣời có tài năng văn học. Ông sáng tác
trên nhiều lĩnh vực: văn học, sử học, nghệ thuật sân khấu. Trong khoảng gần 30 năm
(1907 - 1933), tức là quãng thời gian ông từ quan về nghỉ ở ấp Thái Hà cho đến khi
mất, ông đã xuất bản hơn chục tác phẩm viết bằng chữ Hán, chữ Nôm và chữ Quốc
ngữ. Nhiều tác phẩm của ông đƣợc in bằng hai thứ chữ, nhƣ: Tây Nam in bằng chữ
Hán và chữ Nôm, En An Nam in bằng chữ Quốc ngữ và chữ Pháp, Việt Nam nhân thần
giám 越南人臣監 in bằng chữ Quốc ngữ và chữ Pháp v.v... Ngồi sáng tác, chúng ta
cịn thấy ông tập hợp đƣợc nhiều nhà trí thức, tổ chức các cuộc thi thơ, bàn luận văn
chƣơng và hoạt động biểu diễn Tuồng tại Huế và ấp Thái Hà.
Trong số các sáng tác của ông, chúng ta thấy phần lớn viết về các nhân vật lịch
sử Việt Nam, nhƣ: Việt Nam nhân thần giám viết về công thần Nguyễn Trãi, Đào Duy
Từ, Nguyễn Văn Thành, Lê Văn Duyệt; danh thần gồm Lê Phụng Hiểu, Tô Hiến
Thành; quyền thần gồm Trần Thủ Độ, Trƣơng Phúc Loan...; Vịnh Nam sử bình về
Nàng Mỵ Ê, Hai Bà Trƣng; Tây Nam hai mƣơi tám hiếu diễn ca thì viết về hai mƣơi
tám ngƣời hiếu thảo của nƣớc Nam và nƣớc Tây v.v... Nhân vật lịch sử Trần Hƣng
Đạo đƣợc thể hiện qua các tác phẩm Vịnh Nam sử, Tây Nam hai mƣơi tám hiếu diễn ca
(Tây Nam) 西南𠄩𨑮𠔭孝演歌, Việt sử yếu 越史要, Việt sử kính 越史鏡 v.v... và đặc
biệt là ở tác phẩm Tuồng Trung hiếu thần tiên (TH thần tiên) 忠孝神仙.

嗣德 Tự Đức (1848- 1883), 建福 Kiến Phúc (1883- 1884), 咸宜 Hàm Nghi (1884- 1885), 同慶 Đồng Khánh
(1885-1888), 成泰 Thành Thái (1889- 1907).
1

1


Tuồng TH thần tiên cùng với Tây Nam đắc bằng (Đắc bằng), Tƣợng kỳ khí xa
(Khí xa) viết về sự kiện lịch sử, nhân vật của triều nhà Nguyễn (1802 – 1945) và nhà

Trần (1225-1400). Nội dung hai kịch bản tuồng bằng chữ Quốc ngữ Tây Nam đắc
bằng và Tƣợng kỳ khí xa phản ánh trực diện sự kiện lịch sử của nhà Nguyễn lúc bấy
giờ: Tây Nam đắc bằng miêu tả việc vua Gia Long gặp giáo sĩ Bá Đa Lộc nhờ cầu viện
nƣớc Pháp và nhờ giáo sĩ đƣa hồng tử Cảnh sang Pháp; Tƣợng kỳ khí xa2 ca ngợi sự
hy sinh anh dũng của hai vị tƣớng giữ thành là Võ Tánh và Ngơ Tịng Chu tại thành
Bình Định. TH thần tiên diễn theo tích Hƣng Đạo vƣơng. Nhân vật Trần Hƣng Đạo
đƣợc miêu tả là con Tiên mẫu, giáng trần đầu thai làm con Trần Liễu và Nguyệt phu
nhân. Trong văn bản cịn có nhân vật thần tiên, nhiều chi tiết ly kỳ, hoang đƣờng đã
phần nào lý giải sự “huyền thoại hoá” cho nhân vật Trần Hƣng Đạo. Bên cạnh đó,
cũng cần nhắc tới sự xuất hiện tác phẩm Tuồng Đông A song phụng của Đông Châu
Nguyễn Hữu Tiến in bằng chữ Quốc ngữ vào năm 1916, nội dung chủ yếu viết về mối
lƣơng duyên giữa Phạm Ngũ Lão và con gái nuôi của Trần Hƣng Đạo – Thị Trinh, còn
Trần Hƣng Đạo chỉ là nhân vật phụ. Vì thế, có thể khẳng định TH thần tiên là tác
phẩm Tuồng Nôm đầu tiên phản ánh đầy đủ cuộc đời nhân vật lịch sử Trần Hƣng Đạo.
Trong ba tác phẩm Tuồng của Hoàng Cao Khải chỉ có TH thần tiên là văn bản
Tuồng trƣờng thiên duy nhất đƣợc khắc in bằng chữ Nôm. Cho đến thời điểm này nó
là một trong những văn bản Tuồng Nơm trƣờng thiên hiếm thấy còn nguyên vẹn 25
hồi, thể hiện phong cách, lối viết chuyên biệt về nghệ thuật sân khấu Tuồng. Theo tƣ
liệu hiện còn, các Tuồng trƣờng thiên thời Nguyễn hầu nhƣ đều khiếm khuyết hoặc
mất dạng, nhƣ:“Vạn bửu trình tƣờng (cịn lại 12 hồi), Tây du (cịn 9 hồi), Tam quốc
(cịn 30 hồi), Lơi Phong tháp (5 hồi).”[83, tr.177]. Văn bản TH thần tiên đƣợc khắc in
năm 1916, ra đời khi chữ Quốc ngữ dần dần thay thế chữ Hán, nên nó thuộc văn bản
Nơm thời hậu kì3, chữ Nơm vay mƣợn trong văn bản chiếm tỉ lệ lớn. Do đó, nó là văn
bản Tuồng Nơm quan trọng, góp phần vào việc khai thác, nghiên cứu mảng sân khấu
quan trọng trong kho tàng thƣ tịch Hán Nôm và nó là một trong những kịch bản Tuồng
tiên phong phản ánh nhân vật lịch sử Việt Nam trong sân khấu Tuồng giai đoạn đầu

Tƣợng kỳ khí xa hiện nay đã thất truyền, chỉ còn một số phần ở hồi I, hồi II trích trong Quốc văn trích diễm
(Cao đẳng tiểu học độc bản, 1928) và Việt Nam văn học sử yếu (trung học Việt Nam, 1943) của Dƣơng Quảng
Hàm; Tuồng Huế của Nguyễn Đắc Xuân.

3
Theo Nguyễn Tuấn Cƣờng (2011), “Nghiên cứu cấu trúc chữ Nơm hậu kì từ cấp độ hệ thống văn tự và đơn vị
văn tự”, tiền kì là thời kì song hành văn tự Hán – Nơm (TK XII – TKXVI); hậu kì là thời kì “tứ hành” văn tự
Hán – Nôm- Quốc ngữ - Pháp.
2

2


thế kỷ XX (1900- 1930). Vì thế, đây là văn bản Tuồng Nôm chắc chắn sẽ gợi mở cho
ngƣời viết tiếp cận và đi sâu nghiên cứu.
Với những lý do nhƣ trình bày ở trên và xuất phát từ mục đích khảo cứu tác
phẩm nghệ thuật sân khấu Tuồng của tác giả, nên chúng tôi chọn vấn đề Nghiên cứu
văn bản Tuồng “Trung hiếu thần tiên” của Hoàng Cao Khải làm đề tài luận án tiến
sĩ chuyên ngành Hán Nôm, những mong có thể góp phần vào việc giữ gìn, khai thác,
kế thừa di sản Hán Nôm về lĩnh vực nghệ thuật sân khấu.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
2.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của luận án nêu lên tình trạng các văn bản Tuồng Nơm TH
thần tiên hiện cịn lƣu trữ ở các trong nƣớc về phƣơng diện văn bản học để thấy đƣợc
giá trị việc khắc in văn bản Nơm, tìm hiểu nghệ thuật biểu diễn sân khấu. Trên cơ sở
tìm hiểu 06 văn bản chữ Nôm TH thần tiên, đem so sánh với văn bản chữ Quốc ngữ,
luận án chọn một văn bản chữ Nôm làm đại diện nghiên cứu, phân loại đặc điểm và
nhận xét về cách dùng chữ Nôm của tác giả trong văn bản này. Đồng thời phân tích, lý
giải về tích Tuồng, giá trị nội dung, nghệ thuật của nó để thấy đƣợc vai trị của tác
phẩm đối với các sáng tác Tuồng của Hoàng Cao Khải và trong lịch sử nghệ thuật
Tuồng giai đoạn đầu thế kỷ XX (1900 - 1930). Từ đó, cung cấp cơ sở khoa học để
giúp chúng ta thấy đƣợc đóng góp của tác giả cho ngành Hán Nơm, văn học, nghệ
thuật sân khấu của dân tộc.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

Trên cơ sở mục đích nghiên cứu trên, đề tài cần giải quyết các vấn đề sau đây:
- Khảo cứu về các văn bản Tuồng Nôm TH thần tiên hiện tồn trên các phƣơng
diện: nghiên cứu so sánh giữa các văn bản Nôm, khảo sát chữ viết kiêng húy, đặc điểm
chữ Nôm và đối sánh văn bản chữ Nôm AB.460 với bản in bằng chữ Quốc ngữ vào
năm 1932.
- Nêu giá trị nội dung của tác phẩm TH thần tiên, từ tích Tuồng, đề tài, nhân vật,
cốt truyện và những yếu tố có liên quan tới sự chân thực, hƣ cấu về nhân vật lịch sử
Trần Hƣng Đạo.
- Làm rõ giá trị nghệ thuật của tác phẩm TH thần tiên về mặt kết cấu, xây dựng
nhân vật, ngôn ngữ văn chƣơng.

3


- Khẳng định những đóng góp của TH thần tiên trong sân khấu Tuồng về Trần
Hƣng Đạo và tác gia Hoàng Cao Khải trong lịch sử nghệ thuật Tuồng giai đoạn đầu
thế kỷ XX (1900-1930).
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tƣợng nghiên cứu của luận án là nhóm văn bản Tuồng Trung hiếu thần tiên
bằng chữ Nơm của tác gia Hồng Cao Khải lƣu trữ tại các thƣ viện nhà nƣớc, tƣ nhân
trong nƣớc và TH thần tiên bằng chữ Quốc ngữ, gồm các văn bản, kí hiệu nhƣ sau:
1. Trung hiếu thần tiên 忠孝神仙, AB.460, 142 tờ (252 trang), Viện nghiên cứu
Hán Nôm (VNCHN).
2. Trung hiếu thần tiên 忠孝神仙, VNb26/2 (quyển 2), 75 tờ (150 trang), Viện
nghiên cứu Hán Nôm (VNCHN).
3. Trung hiếu thần tiên 忠孝神仙,kí hiệu Hv.309, Viện Sử học (75 tờ).
4. Trung hiếu thần tiên, kí hiệu R.1519 (quyển 1, 67 tờ) và R.1520 (quyển 2, 75
tờ), Thƣ viện Quốc gia (TVQG).
5. Trung hiếu thần tiên 忠孝神仙,kí hiệu R.2228 (quyển 1), gồm 61 tờ (122

trang).
6. Trung hiếu thần tiên 忠孝神仙, gia đình tƣ nhân cụ Vũ Tuấn Sán (năm 2016
đã chuyển giao cho VNCHN, kí hiệu VTS1, VTS2).
7. Tuồng hát: Trung hiếu thần tiên in bằng chữ Quốc ngữ trên Nam Phong tạp
chí năm 1932 (7 kỳ từ số 170-176 năm 1932).
Trong đó, luận án sẽ tập trung so sánh bản chữ Nôm AB.460 với bản chữ Quốc
ngữ in năm 1932 trên Nam Phong tạp chí.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi tài liệu có liên quan trực tiếp tới TH thần tiên, các kịch bản Tuồng lịch
sử viết về lịch sử Việt Nam đầu thế kỷ XX (1900 – 1930), kịch bản Tuồng viết về
nhân vật Trần Hƣng Đạo.
Phạm vi nghiên cứu của đề tài là nghiên cứu tác phẩm TH thần tiên của Hoàng
Cao Khải về mặt văn bản học, đặc điểm chữ Nôm, giá trị nội dung và nghệ thuật, từ đó
khẳng định phong cách sáng tác Tuồng của ơng. Nhƣng vì đây là một trong những tác
phẩm tuồng Nơm tiên phong xây dựng hình tƣợng Trần Hƣng Đạo trong sân khấu,
đánh dấu sự hình thành và phát triển phong trào sáng tác Tuồng lịch sử Việt Nam, cho
4


nên luận án sẽ nghiên cứu sâu hơn mối tƣơng quan của tác phẩm Tuồng này với các
tác phẩm Tuồng khác viết về nhân vật Trần Hƣng Đạo trong thế kỷ XX và trong
phong trào sáng tác Tuồng lịch sử Việt Nam giai đoạn đầu thế kỉ XX (1900 – 1930).
4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của luận án
4.1. Phương pháp luận
- Luận án nghiên cứu trên cơ sở vận dụng những tri thức Hán Nôm, văn bản học,
văn hoá học, lịch sử, nghệ thuật học... trong quá trình tiếp cận nghiên cứu. Luận giải
về cách tiếp cận đề tài lịch sử của tác giả trong sự sáng tạo kịch bản sân khấu Tuồng,
góp phần làm rõ sự chi phối của nội dung và hình thức trong tác phẩm nghệ thuật.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận án sử dụng các phƣơng pháp nghiên cứu sau:

- Phƣơng pháp nghiên cứu văn bản học: Luận án nghiên cứu văn bản Tuồng Nôm
TH thần tiên. Do vậy, việc vận dụng phƣơng pháp này để xác định tình hình văn bản là
cần thiết.
- Phƣơng pháp nghiên cứu văn tự: sử dụng để khảo sát cấu trúc chữ Nôm trong
văn bản Tuồng TH thần tiên để thấy đƣợc đặc điểm của văn bản Nôm về nghệ thuật
đầu thế kỷ XX.
- Phƣơng pháp nghiên cứu sử học: TH thần tiên viết về nhân vật lịch sử Trần
Hƣng Đạo và các sự kiện lịch sử của nhà Trần (1225 - 1400). Do đó vận dụng phƣơng
pháp nghiên cứu so sánh các sự kiện lịch sử, các nhân vật lịch sử để làm sáng tỏ vấn
đề tính chân thực và hƣ cấu trong Tuồng đề tài lịch sử.
- Phƣơng pháp nghiên cứu văn hoá học: Nội dung của TH thần tiên có nhiều chi
tiết hoang đƣờng, kỳ ảo, nên dùng phƣơng pháp này để nghiên cứu các thần tích, kinh
giáng bút và khảo sát các di tích, đền thờ Trần Hƣng Đạo.
- Phƣơng pháp nghiên cứu văn học đƣợc sử dụng nhằm để đánh giá chủ thể là
một tác phẩm văn học và mối quan hệ giữa tác phẩm văn học và tác phẩm sân khấu.
- Phƣơng pháp nghiên cứu nghệ thuật học: nhằm tiếp cận đối tƣợng với tƣ cách là
tác phẩm sân khấu, có liên quan tới vấn đề thể tài và thi pháp văn học kịch trong sáng
tác Tuồng của tác giả Hoàng Cao Khải.
- Phƣơng pháp thống kê định lƣợng: Sử dụng phƣơng pháp này để thống kê, định
lƣợng, định tính những mã chữ Nôm trên văn bản TH thần tiên theo đồng đại và lịch
đại. Trong quá trình nghiên cứu đặc điểm chữ Nôm của văn bản, luận án tập trung
5


phân loại, nghiên cứu cấu trúc chữ Nôm của văn bản gắn với sự phát triển của ngữ âm
và từ vựng tiếng Việt đầu thế kỉ XX.
- Phƣơng pháp phân tích tổng hợp: dùng để phân tích, tổng hợp nhân vật, số
lƣợng chữ Nôm và các điệu hát trong TH thần tiên nhằm lý giải giá trị nội dung và
nghệ thuật của tác phẩm.
5. Đóng góp mới về khoa học của luận án

Kết quả nghiên cứu của đề tài luận án là sản phẩm của quá trình giải quyết một
loạt các vấn đề khoa học đã trình bày ở trên. Kết quả này là yếu tố đi sau cùng góp
phần làm nên tính mới của đề tài so với các cơng trình nghiên cứu đi trƣớc.
- Đề tài nghiên cứu chuyên sâu về văn bản Tuồng TH thần tiên của tác gia Hoàng
Cao Khải nhằm giới thiệu với độc giả trong và ngồi nƣớc trong kho sách Hán Nơm,
ngồi những văn bản lịch sử, văn bản triết học, tôn giáo v.v… cịn có một mảng sách
viết về nghệ thuật Tuồng do các tác gia ngƣời Việt biên soạn. TH thần tiên là một
trong những văn bản Tuồng Nơm có giá trị tham khảo về mặt văn bản học phục vụ cho
nghiên cứu Hán Nôm, văn học, sân khấu và lịch sử.
- Hệ thống hóa và nghiên cứu so sánh một cách tổng thể các văn bản Tuồng TH
thần tiên hiện lƣu trữ ở thƣ viện nhà nƣớc VNCHN, VSH, TVQG và gia đình cụ Vũ
Tuấn Sán (năm 2016 đã chuyển về VNCHN) để làm sáng tỏ các nội dung trong sáu
văn bản Nơm này. Chọn văn bản cịn ngun vẹn để khảo cứu, bổ sung vào việc khai
thác các văn bản Tuồng sáng tác dƣới triều Nguyễn. Việc giới thiệu văn bản Tuồng
Nơm TH thần tiên của Hồng Cao Khải dƣới góc độ nghiên cứu văn bản học khơng
chỉ cung cấp nguồn tƣ liệu mới cho ngành Hán Nôm học, mà còn kết hợp những sáng
tác về các lĩnh vực khác của ơng cho chúng ta một cái nhìn tồn diện hơn về sở trƣờng
sáng tác chữ Nôm và thiên hƣớng nghệ thuật của Hoàng Cao Khải.
- So sánh, đối chiếu văn bản Nôm AB.460 và bản chữ Quốc ngữ trên Nam
Phong tạp chí năm 1932 (7 kỳ từ số 170-176 năm 1932) để khẳng định nó là bản dịch
từ văn bản tuồng Nơm TH thần tiên của Hồng Cao Khải.
Nghiên cứu giá trị nội dung và nghệ thuật của tác phẩm Tuồng Nôm Trung hiếu
thần tiên và so sánh về mặt nội dung với hai văn bản in bằng chữ Quốc ngữ Tây Nam
đắc bằng, Tƣợng kỳ khí xa khẳng định phong cách sáng tác Tuồng đề tài lịch sử của
Hồng Cao Khải và Tuồng của ơng khác hẳn với những văn bản Tuồng cổ lịch sử
trƣớc đó là mƣợn các nhân vật lịch sử, tích truyện của Trung Quốc để sáng tác.
6


- Khẳng định Trung hiếu thần tiên của Hoàng Cao Khải là tác phẩm Tuồng Nôm đầu

tiên sáng tác về nhân vật lịch sử Trần Hƣng Đạo. Nó đã góp phần thúc đẩy sự hình thành
và phát triển phong trào sáng tác Tuồng về ngƣời anh hùng dân tộc này trong thế kỷ XX.
- Từ đặc điểm Tuồng lịch sử TH thần tiên của Hoàng Cao Khải, đề tài sẽ nêu lên
vị trí của tác giả trong lịch sử sân khấu Tuồng giai đoạn đầu thế kỷ XX (1900 – 1930).
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
Kịch bản Tuồng TH thần tiên của Hoàng Cao Khải là một văn bản có vị trí quan
trọng trong lịch sử nghệ thuật Tuồng bởi vì nó là văn bản Tuồng viết bằng chữ Nôm
xuất hiện vào giai đoạn chữ Quốc ngữ dần dần thay thế chữ Hán. Do đó, việc khảo cứu,
giới thiệu văn bản Tuồng Nôm TH thần tiên của Hồng Cao Khải dƣới góc độ văn bản
học thơng qua việc nghiên cứu đặc điểm chữ Nơm góp phần vào việc giữ gìn, khai
thác và bảo tồn di sản Hán Nơm thời hậu kì.
Việc nghiên cứu nội dung và nghệ thuật của văn bản Tuồng Nôm TH thần tiên sẽ
đi đến khẳng định nó là văn bản Tuồng trƣờng thiên ít thấy hiện cịn ngun vẹn 25
hồi và là tác phẩm đầu tiên phản ánh đầy đủ nhất về cuộc đời ngƣời anh hùng dân tộc
Trần Hƣng Đạo trong sáng tác Tuồng.
Luận án sẽ đối sánh TH thần tiên với hai tác phẩm Đắc bằng, Khí xa dƣới góc độ
lựa chọn đề tài để làm sáng tỏ vấn đề Hoàng Cao Khải là một trong những ngƣời tiên
phong sáng tác Tuồng về đề tài lịch sử nƣớc ta. Từ đó khẳng định sự ra đời bộ ba tác
phẩm Tuồng đề tài lịch sử Việt Nam của ông ảnh hƣởng tới một số soạn giả Tuồng,
góp phần khơng nhỏ vào sự hình thành và phát triển Tuồng lịch sử trong nghệ thuật
sân khấu Tuồng giai đoạn đầu thế kỷ XX (1900 – 1930).
- Kết quả nghiên cứu của luận án bổ sung vào việc khai thác các văn bản Tuồng
Nôm viết về lịch sử, các sáng tác Tuồng dƣới triều Nguyễn.
7. Cấu trúc của luận án
Ngoài Phần Mở đầu, Phần Kết luận, Tài liệu tham khảo, Phụ lục, luận án chia làm
4 chƣơng:
Chương 1: Một số vấn đề về Tuồng và tổng quan tình hình nghiên cứu có liên
quan đến đề tài
Giới thuyết một số khái niệm Tuồng, kịch bản Tuồng, sáng tạo sân khấu Tuồng về
đề tài lịch sử, lƣợc sử nghệ thuật Tuồng đến năm 1930 và tổng quan những thành tựu


7


nghiên cứu của các nhà nghiên cứu đạt đƣợc về nghiên cứu tác gia, tác phẩm Tuồng TH
thần tiên của Hồng Cao Khải để từ đó đƣa ra hƣớng triển khai luận án.
Chương 2: Tác gia Hoàng Cao Khải và những vấn đề về văn bản Tuồng
Trung hiếu thần tiên
Trình bày thân thế và sự nghiệp của tác gia Hoàng Cao Khải, khảo sát văn bản TH
thần tiên hiện tồn ở các thƣ viện, từ đó chọn văn bản Tuồng Nơm có kí hiệu AB.460 lƣu
trữ tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm để khảo cứu về mặt văn bản học, đặc điểm chữ Nơm
và so sánh nó với bản chữ Quốc ngữ in trên Nam Phong tạp chí năm 1932.
Chương 3: Giá trị nội dung tác phẩm Tuồng Trung hiếu thần tiên
Nghiên cứu nội dung của TH thần tiên trên phƣơng diện đề tài, tích Tuồng và cốt
truyện, hệ thống nhân vật, đặc biệt là phân tích sự chân thực, hƣ cấu của hình tƣợng
nhân vật chính Trần Hƣng Đạo, các sự kiện lịch sử chống quân Nguyên - Mông của nhà
Trần để thấy đƣợc sự khác nhau giữa nhân vật lịch sử và nhân vật nghệ thuật sân khấu.
Chương 4: Giá trị nghệ thuật tác phẩm Tuồng Trung hiếu thần tiên và vị trí
của tác gia Hồng Cao Khải trong lịch sử nghệ thuật Tuồng giai đoạn đầu thế kỷ
XX (1900- 1930)
Nêu lên giá trị nghệ thuật của Tuồng TH thần tiên trên phƣơng diện kết cấu, nghệ
thuật xây dựng hình tƣợng nhân vật, ngơn ngữ văn chƣơng để rút ra đặc điểm của tác
phẩm và khẳng định nó là tác phẩm Tuồng lịch sử đầu tiên viết về nhân vật lịch sử Trần
Hƣng Đạo. Từ đó nêu vị trí quan trọng của tác gia Hồng Cao Khải trong lịch sử nghệ
thuật Tuồng đầu thế kỉ XX (1900 – 1930).

8


Chương 1

MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ TUỒNG VÀ TỔNG QUAN
TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU CĨ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
Cho đến hiện nay, TH thần tiên là văn bản Tuồng Nôm duy nhất, đầu tiên viết về
nhân vật lịch sử Trần Hƣng Đạo trong nghệ thuật sân khấu và là một trong những tác
phẩm Tuồng tiên phong viết về nhân vật lịch sử Việt Nam đã đƣợc nhiều học giả quan
tâm, tìm hiểu về nó. Vì vậy, ở chƣơng này tập trung giới thiệu một số nội dung chính
về nguồn gốc, khái niệm, sự phát triển của nghệ thuật Tuồng và những cơng trình
nghiên cứu có liên quan đến đề tài luận án trên cơ sở tiếp thu, kế thừa thành quả của
ngƣời đi trƣớc để phát triển luận án.
1.1. Một số vấn đề về Tuồng
1.1.1. Nguồn gốc và khái niệm về Tuồng, kịch bản Tuồng
Cho đến nay có rất nhiều cơng trình nghiên cứu sân khấu đi tìm hiểu về nguồn
gốc của nghệ thuật Tuồng, nhƣng vẫn chƣa thống nhất về sự xuất hiện của Tuồng. Có
ý kiến dựa vào sự kiện Lý Nguyên Cát cho rằng Tuồng đƣợc du nhập từ Trung Quốc,
nhƣ: Đoàn Nồng khẳng định trong sách Hát bội (1942), Đạm Phƣơng Nữ sử (Lƣợc
khảo về Tuồng hát An Nam), Trần Trọng Kim (Việt Nam sử lƣợc), Sơ thảo lịch sử văn
học Việt Nam (1957) v.v… Các cơng trình Hội thoại về nghệ thuật Tuồng (1987) của
Phạm Phú Tiết, Tuồng hài (1972) của Lê Ngọc Cầu, Văn học Việt Nam (nửa cuối thế
kỷ XVIII đến hết thế kỷ XIX (1997) của Nguyễn Lộc đã căn cứ vào những bộ sử, sách
về phong tục, văn hoá Việt Nam để khẳng định nghệ thuật Tuồng đƣợc hình thành trên
cơ sở xã hội và văn hoá Việt Nam. Ý kiến này đồng nhất với Trần Đức Vƣợng và Đinh
Xuân Lâm cho rằng phải đặt Tuồng và Chèo vào một ngành nghệ thuật chung vì có
những nét tƣơng tự về mặt biểu diễn, nhƣng Tuồng khác Chèo về lối vẽ mặt và nguồn
gốc có lẽ từ những điệu nhảy múa thời nguyên thủy: “Trong khi đó, theo tập truyền,
điệu múa Xuân phả (huyện Thọ Xuân, Thanh Hóa) với những ngƣời hóa trang, đeo
mặt nạ kỳ dị, vừa làm động tác Chèo đò vừa hát lên những bài “man rợ”, đã xuất hiện
từ thời Đinh Tiên Hoàng lập quốc.”[193, tr.100]. Theo Việt sử lƣợc, thời Lý Thái Tông
(1028- 1054), một số điệu hát của Tuồng có ảnh hƣởng từ Chiêm Thành. Hồng Châu
Ký (Sơ thảo lịch sử nghệ thuật Tuồng, 1973) khẳng định, thời Lê Sơ cũng chỉ là bộ
phận tiền thân của Tuồng chứ chƣa phải nghệ thuật Tuồng. Thời Lê Thánh Tông

(1460-1497) nghệ thuật ca múa nhạc phát triển đến trình độ khá cao cả nội dung nghệ
thuật đến cách trình diễn; trị diễn phát triển rầm rộ cả ngồi dân gian lẫn chốn kinh đơ
và cung đình, nhƣ “trị Trang vƣơng sinh sáu ngƣời con có nội dung cốt truyện phong
phú dài hơi, có kịch tính, mâu thuẫn và tính cách.”[76, tr.49].
9


Những nhận định này dựa vào các nguồn sử liệu, nhƣng ý kiến cho rằng nghệ
thuật Tuồng phát sinh từ những điệu ca múa dân gian thì chƣa xác đáng, bởi lẽ ở các
thời Đinh, Lê, Lý chỉ là các hoạt động diễn xƣớng dân gian bắt đầu từ trò Tàng câu,
chƣa có nhân vật xuất hiện. Theo chúng tơi, nghệ thuật Tuồng đƣợc hình thành trên cơ
sở ca múa dân gian từ thời Lý. Trong quá trình phát triển, chịu sự tác động của sự kiện
Lý Nguyên Cát, nghệ thuật Tuồng chịu ảnh hƣởng của ca múa nhạc Chiêm Thành và
nghệ thuật hý khúc Trung Hoa. Đời Trần, nghệ thuật Tuồng mới bắt đầu có nhân vật
cụ thể theo cốt truyện (Dƣơng Khƣơng đóng vai Vƣơng mẫu trong tích Tây Vƣơng mẫu
hiến bàn đào), hình thức trình diễn sân khấu, biểu diễn trong cung đình đƣợc hình thành.
Đến thời nhà Nguyễn (1802- 1945), Tuồng hoàn thiện và phát triển phồn thịnh cả về mặt
nội dung lẫn hình thức, dần dần xuất hiện các đội Tuồng của các vua, quan, các gánh hát
biểu diễn chuyên nghiệp ở nhiều địa phƣơng gần kinh kỳ và các đô thị lớn.
Về khái niệm Tuồng (hay còn gọi là Hát bội, Hát bộ) là một khái niệm dùng để chỉ
một loại nghệ thuật sân khấu truyền thống của Việt Nam. Trƣớc kia, Tuồng là tên gọi của
ngƣời miền Bắc, Hát bội (hay Hát bộ) là tên gọi của ngƣời miền Trung, miền Nam.
Có giả thuyết cho rằng Hát bội xuất phát từ chữ “Phƣờng Chèo bội”, trong Vũ
trung tùy bút của Phạm Đình Hổ chép: “Tiếng hát bi ai nghe rất cảm động, tục gọi là
phƣờng Chèo bội”[181, tr.91]. Tuy nhiên ý kiến này chƣa thực sự thuyết phục, bởi lẽ
chữ “倍 bội” có nghĩa là tăng lên nhiều lần, nó khơng liên quan nhiều đến hát xƣớng.
Phạm Phú Tiết (2009), trong cơng trình Chầu đôi - Hội thoại về vấn đề lịch sử sân
khấu hát bội cho rằng các danh từ “linh nhân 伶人, linh cơng 伶公 đều có nghĩa là
ngƣời hát, ngƣời diễn viên”[175, tr.22], “Bài ƣu 排優 đây là gốc tích của danh từ hát
bội. Bài ƣu cũng nhƣ ƣu xƣớng 優唱 đều có nghĩa là ngƣời hát.... hai âm “bài” và

“bồi” phát âm gần nhƣ nhau, và ở Huế kiêng húy tên Nguyễn Hữu Bài đọc là Nguyễn
Hữu Bồi”[175, tr.24]. Danh từ “tuồng” đến cuối thế kỷ XIX xuất hiện trong Đại Nam
quấc âm tự vị của Huỳnh Tịnh Paulus Của, ở đây từ hát bội là “con hát, kẻ làm nghề
ca hát”, Hát nam là “hát giọng ngâm nga” và hát khách là “hát giọng mạnh mẽ”. Còn
theo từ điển Hán Việt giải thích từ bài ƣu 排優, có nghĩa là Tuồng hoạt kê, tạp hí.
Trong cơng trình Hát Bội (Thé âtre traditionnel VietNam, 1970), Từ điển nghệ thuật
hát bội Việt Nam của Nguyễn Lộc (chủ biên, 1998), từ Hát bội ở đây gắn với từ “Hát
bội miền Nam, Hát bội miền Trung” để chỉ về một kịch chủng truyền thống của Việt
Nam. Từ những cứ liệu trên, thấy rằng chữ bài 排 ở đây đọc theo âm Nôm là bài, bày,
có nghĩa có bày đặt, sắp xếp và từ này đƣợc Hoàng Cao Khải sử dụng trong TH thần
tiên để ghi phần “Bày diễn tích 排演迹” (sắp đặt diễn theo tích) ở đầu văn bản. Do đó,
10


có thể bắt nguồn từ bày 排 này, âm địa phƣơng đọc chệch thành “bồi”, “bội” và danh
từ Hát bội bắt nguồn từ đó. Danh từ Hát bội dùng để chỉ một kịch chủng truyền thống
của Việt Nam và dùng phổ biến ở miền Nam, vì cả nƣớc hiện nay có bảy đơn vị nghệ
thuật biểu diễn kịch chủng truyền thống này, thì chỉ có thành phố Hồ Chí Minh lấy tên
là “Nhà hát nghệ thuật hát bội thành phố Hồ Chí Minh”.
Cịn về từ Hát bộ, chữ bộ 步 có nghĩa là bƣớc, chỉ về nghệ thuật biểu diễn trên
sân khấu của Hát bội. Vì năm 1918, khi vở cải lƣơng Bùi Kiệm Nguyệt Nga của
Trƣơng Duy Toản ra đời trên sân khấu Sài Gòn đã đánh dấu sự xuất hiện của nghệ
thuật cải lƣơng. Khán giả Sài Gòn thấy Hát bội vừa hát, vừa múa và ra bộ, đánh võ
trên sân khấu, nên ngƣời ta dùng danh từ Hát bộ để phân biệt Tuồng với cải lƣơng.
Nhƣng danh từ Hát bộ này không đƣợc dùng phổ biến và hiện nay nó chỉ cịn tồn tại
trong các tƣ liệu trƣớc kia.
Về chữ Tuồng: Chữ tuồng xuất hiện trong thơ Nơm của đại thi hào Nguyễn Trãi,
nhƣ: “Tuồng ni cóc đƣợc bề hơn thiệt, chƣa dễ bằng ai đắn với đo”. Từ ngữ cảnh trong
câu thơ này thì từ “Tuồng” ở đây có nghĩa là vẻ, có vẻ, bộ tịch. Hay chữ “嘥 Tuồng”
có nghĩa là bọn trong câu thơ “Ra Tuồng trên bộc trong dâu, Thì con ngƣời ấy ai cầu

làm chi” (Truyện Kiều của Nguyễn Du). Từ Tuồng (從)đƣợc tác giả J.F.M. Génibrel
liệt vào mục danh từ trong J. F. M. Génibrel (Saigon 1898) Từ điển Annam – Phỏp
(Dictinonnaire Annamite Franỗaises) v gii thớch ngha th nht là: Làm tuồng,
tuồng cách, tuồng phết, tuồng đồ và nghĩa thứ hai là: làm tuồng, vai tuồng, ra tuồng,
làm trò làm tuồng, tấn tuồng, tuồng hát, nói tuồng[227, tr.789-790]. Nhƣng Nguyễn
Thị Oanh cho rằng, “tuồng” theo Toàn thƣ cũng nhƣ các bộ môn nghệ thuật tạp kỹ cổ
điển khác xuất hiện từ thời nhà Trần, năm Đại Trị thứ 5 (1370), chữ Hán viết là “cổ
truyện hý”古傳戲, ngƣời dịch Toàn thƣ dịch từ này là “tuồng”, nhƣng chƣa có căn cứ
[61, tr.141]. Lúc này, các từ điển song ngữ Hán Việt vẫn chƣa xuất hiện mục từ
“tuồng” với nghĩa là loại hình sân khấu truyền thống. Đến cuốn Đại Nam quấc âm tự
vị của Huỳnh Tịnh Paulus Của (1895), Tuồng mới đƣợc chính thức đƣợc đƣa vào biên
soạn thành mục từ, viết bằng chữ Hán “tùng”從 (chữ Nôm đọc là “tuồng”) với nghĩa là
“Cách thể bộ tịch, khuôn rập sự tích cũ làm ra chuyện ca hát”. Ở mục tuồng cịn có các
từ nhƣ “tuồng cách”, “tuồng phết”, “tuồng tập”; “vai tuồng”, “làm tuồng”, “đánh dấu
tuồng”, “ra tuồng”... (T.II, tr.520). Ngƣời đầu tiên viết “kịch bản tuồng” cũng theo
Toàn thƣ là Lý Nguyên Cát, “Nguyên Cát sáng tác các vở tuồng cổ truyện có các tích
nhƣ Tây vƣơng Mẫu hiến bàn đào…[61, tr.141]. Từ “tuồng” còn đƣợc Dƣơng Quảng
Hàm đề cập trong Việt Nam văn học sử yếu: “Chữ tuồng có ngƣời cho là bởi chữ
11


tƣợng 象 mà ra, vậy tuồng là hình dung, dáng dấp, cử chỉ của ngƣời đời xƣa. Lối
Tuồng thƣờng diễn những sự tích oanh liệt hoặc sầu thảm, lời lẽ trang nghiêm hùng
hồn dễ làm cho ngƣời xem cảm động”[44, tr.170]. Nhƣ vậy, ý kiến này trùng với Toàn
thƣ là từ “tuồng” tức là tích chuyện.
Phạm Phú Tiết trong Chầu Đôi - Hội thoại về vấn đề lịch sử sân khấu hát bội cho
rằng ngơn ngữ Việt Nam có chữ “tuồng” với ý nghĩa là hình dung sự vật diễn lại trƣớc
mắt ta. Chúng tôi tán đồng ý kiến của Dƣơng Quảng Hàm, Phạm Phú Tiết, vì chữ
tuồng đã đƣợc Huỳnh Tịnh Paulus Của liệt vào mục từ trong từ điển Đại Nam quấc âm
tự vị và nó tồn tại từ lâu trong ngôn ngữ. Tiêu biểu là vào năm 1920 - 1923, chữ

“Tuồng” này đƣợc dùng phổ biến để chỉ các tác phẩm sân khấu, tiêu biểu là Phạm
Quỳnh đã dịch hai tác phẩm kịch nói Le Cid và Horace của tác giả Pierre Corneille
(Pháp) sang chữ Quốc ngữ ghi là “Tuồng Lơi Xích: Tuồng dịch ra chữ Quốc ngữ” (số
38, 39) và “Tuồng Hòa lạc: Tuồng Pháp dịch ra chữ Quốc ngữ” (số 73, 74, 75, năm
1923) đăng trên Nam Phong tạp chí. Sau này Tuồng cịn có nghĩa rộng hơn, đó là chỉ
kịch hát sân khấu nói chung trong từ tố Tuồng tích, nhƣ đầu thế kỷ XX, trên Nam
Phong tạp chí đăng một số kịch bản Chèo ghi là: Tuồng hát: Xuân Hƣơng khóc cay
chàng Tổng Cóc (Chèo, tác giả Nguyễn Thúc Khiêm, 1928), “Tuồng hát: Tô Thị chết
đắng anh kỳ lừa (Chèo, tác giả Nguyễn Thúc Khiêm, 1929) và một số kịch bản Cải
lƣơng đề là: Tuồng hát Cải lƣơng: Kết nghĩa phi tình của Bùi Tấn Phƣớc (Nhà in Xƣa
nay, Nguyễn Háo Vĩnh, Sài Gòn, 1927); Tuồng hát cải lƣơng: Ngũ Tân từ biệt vợ cất
binh của Nguyễn Khắc Dụng (Nhà in Xƣa nay, Sài Gòn, 1928); Tuồng hát cải lƣơng:
Mổ tim Tỷ Can (diễn theo truyện Phong thần) của Nguyễn Công Mạnh (Nxb Nguyễn
Văn Thình, 1930); Tuồng cải lƣơng: Hồng Phi Hổ quy Châu của Phạm Văn Thình
(Nhà in Xƣa nay, Sài Gịn, 1931); Tuồng hát cải lƣơng: Duyên nợ éo le của Ngơ Vĩnh
Khang (Nhà in Xƣa nay, Sài Gịn, 1932); v.v...
Ở miền Bắc, chữ 嘥 Tuồng dùng phổ biến để chỉ một loại kịch hát truyền thống,
nó xuất hiện trong sách chữ Nôm Liệt tiên truyện chƣ công nghệ tổ sƣ ngã quốc nhân
nhân sĩ Trung Quốc 列 仙 傳 諸 工 藝 祖 師 我 國 人 人 士 中 國 của Đặng
Mai Phong (kí hiệu VN.284, VNCHN). Chữ Nơm “tuồng 嘥” gồm hai thành tố chữ
Hán là “khẩu 口“ và “tịng 從” ghép lại, có nghĩa là miệng nói theo, có nghĩa là bắt
chƣớc theo truyện tích diễn Tuồng.
Ở miền Nam, trƣớc kia cũng có danh từ tuồng trong từ “Cải lƣơng tuồng cổ” để
chỉ những vở Cải lƣơng cổ. Đặc điểm của những vở kịch hát này là đánh võ nhiều trên
sân khấu, tiêu biểu cho dòng Cải lƣơng thời kỳ này là gia đình nghệ sĩ nhân dân Thanh
Tịng và Đồn Tuồng cổ Minh Tơ.
12


Vào năm 1952, sau Hội nghị tranh luận về văn nghệ diễn ra ngày 20 – 22/3 tại

Việt Bắc, nhà nƣớc đã chính thức thành lập các đồn văn cơng trung ƣơng chuyên
nghiệp và đến lúc này thì Tuồng, Chèo, Cải lƣơng đƣợc phân biệt rõ ràng và dùng phổ
biến. Hội diễn sân khấu chuyên nghiệp toàn quốc năm 1958 đã khẳng định danh từ
“tuồng” đƣợc dùng chung cho các đơn vị nghệ thuật biểu diễn sân khấu ở miền Bắc,
miền Trung và tại hội diễn này đã thu hút nhiều tiết mục của các đơn vị nghệ thuật
Tuồng tham gia, nhƣ: Lam Sơn tụ nghĩa (Đoàn Tuồng Liên khu V), Nghêu sị ốc hến
(Tuồng cổ, Đồn Tuồng Liên khu V), Đào Tam Xuân loạn trào (Đoàn Tuồng Lạc
Việt, Hà Nội), Sơn Hậu (Đoàn Tuồng Kim Thanh, Hà Nội) v.v...
Từ những ý kiến trên nhận thấy, chữ Tuồng và Hát bội có chung một ngữ nghĩa.
Danh từ Tuồng (hay Hát bộ, Hát bội) trong lịch sử, ngôn ngữ, văn chƣơng và nghệ
thuật, dùng để chỉ một môn loại kịch hát truyền thống của Việt Nam. Hiện nay, Việt
Nam có 07 đơn vị nghệ thuật biểu diễn kịch chủng truyền thống này và thống nhất tên
gọi: Nhà hát Tuồng Việt Nam (trực thuộc Bộ Văn hóa, Thể thao & Du lịch), Nhà hát
Tuồng Thanh Hóa (nay là Đồn Tuồng Thanh Hóa trực thuộc Nhà hát nghệ thuật
truyền thống Thanh Hóa, vì đã hợp nhất 3 đoàn Tuồng, Chèo, Cải lƣơng), Nhà hát
Tuồng Nguyễn Hiển Dĩnh, Nhà hát Tuồng Đào Tấn (nay là Đoàn Tuồng Đào Tấn trực
thuộc Nhà hát nghệ thuật truyền thống Bình Định vì đã sáp nhập với Đồn ca kịch Bài
chịi Bình Định), Nhà hát Tuồng Khánh Hịa (nay là Đồn Tuồng Khánh Hịa trực
thuộc Nhà hát nghệ thuật truyền thống Khánh Hịa, vì sáp nhập với Đồn ca kịch
Khánh Hịa). Ở Huế, có Đồn Tuồng Huế tọa lạc trên khu Nhà hát Duyệt Thị đƣờng
(Đại Nội Huế), đến năm 2006, Đoàn đổi tên là Nhà hát nghệ thuật truyền thống cung
đình Huế. Ở thành phố Hồ Chí Minh có Nhà hát nghệ thuật Hát bội thành phố Hồ Chí
Minh trực thuộc Sở Văn hóa, Thể thao & Du lịch của thành phố.
Nhƣ vậy, về mặt văn bản quản lý nhà nƣớc đến nay chúng ta đã thống nhất
đƣợc tên gọi là Tuồng (miền Bắc, miền Trung) và Hát bội (miền Nam) là để chỉ một
loại kịch hát sân khấu truyền thống của Việt Nam.
Khái niệm kịch bản Tuồng: Tuồng là một môn nghệ thuật sân khấu truyền
thống đặc sắc của dân tộc Việt Nam. Tuồng đòi hỏi phải có kịch bản mới biểu diễn
đƣợc và phát sinh tác dụng tuyên truyền mạnh mẽ, nên nó tồn tại bởi ba thành phần
của sáng tạo sân khấu là kịch bản văn học - vở diễn sân khấu bao gồm nghệ thuật diễn

viên, cùng các nghệ thuật mang tính tổng hợp của sân khấu, nhƣ: thi (thơ), ca (hát), vũ
(múa), âm nhạc, hội họa.
Kịch bản là một thành phần quan trọng, là tiền đề, xuất phát điểm để các thành
phần sáng tạo khác, nhƣ: đạo diễn, diễn viên, thiết kế mĩ thuật, âm nhạc… tạo nên tác
13


phẩm sân khấu. Kịch bản Tuồng bao gồm các yếu tố, nhƣ: nhân vật, hồi, lớp và ngôn ngữ.
Theo Xuân Yến thì “Kịch bản Tuồng là một tác phẩm văn học thực sự. Nó tồn tại nhƣ
một thể loại văn học của thời kỳ trung đại. Kịch bản Tuồng chẳng những chứa đựng
những giá trị thẩm mĩ chung của một tác phẩm văn học mà nó cịn chứa đựng những giá
trị riêng của loại hình văn học sân khấu.”[198, tr.9]. Với ý nghĩa nhƣ vậy, kịch bản Tuồng
đƣợc hiểu theo nghĩa vừa là tác phẩm văn học, vừa là tác phẩm sân khấu.
1.1.2. Khái lược quá trình phát triển của nghệ thuật Tuồng
Nghệ thuật Tuồng thuộc bộ môn sân khấu kịch hát truyền thống của Việt Nam.
Đến thời Trần (1225-1400), từ sự kiện Lý Nguyên Cát đƣợc ghi trong Toàn thƣ vào
năm Nhâm Dần [Đại Trị thứ 5 (1362)], trong cuộc chiến tranh chống quân Nguyên
Mông: “Khi đánh Toa Đô, bắt đƣợc phƣờng hát là Lý Nguyên Cát rất giỏi hát, những con
ở trẻ của các nhà thế gia theo y tập hát điệu phƣơng Bắc. Nguyên Cát sáng tác các vở
Tuồng truyện cổ có các tích Tây Vƣơng mẫu hiến bàn đào)”[61, tr.141] đã đánh dấu sự
hình thành nghệ thuật Tuồng ở nƣớc ta. Đến năm Đại Trị thứ 12 (1369), có tích Vƣơng
mẫu hiến bàn đào và mẹ của Nhật Lễ là Dƣơng Khƣơng đã đóng vai Vƣơng mẫu.
Thời vua Lê Thánh Tông (1460- 1497), luật Hồng Đức quy định, quan lại lấy con
gái nhà xƣớng ca bị phạt đánh trƣợng và buộc phải ly dị, còn con cái nhà xƣớng ca
không đƣợc đi thi, làm quan và chế độ này kéo dài cho đến khi chúa Nguyễn Hồng
(1558-1613) vào Nam mở ra một thời kỳ mới. Ơng là ngƣời mở mang bờ cõi về
phƣơng Nam và thời kỳ này hát bội dần dần tiến vào miền Trung. Đến thời chúa
Nguyễn Phúc Nguyên (chúa Sãi, 1613- 1635), hát bội bắt đầu phát triển. Lúc này nghệ
thuật hát bội đã đƣợc hồn chỉnh về hình thức, phong trào hát xƣớng lan rộng vào
chốn cung đình, các kịch bản đã bắt đầu hình thành, xuất hiện hàng loạt kịch bản

(khuyết danh) mẫu mực, thể tài thống nhất, tập trung vào chủ đề “phò vua diệt nguỵ”,
nhƣ: Sơn Hậu, Giác oan, Dƣơng Chấn Tử, An trào kiếm, Tam nữ đồ vƣơng, Hồ Thạch
Phủ… Tác giả Tuồng tiêu biểu thời kỳ này là Đào Duy Từ4 (1572- 1634). Đào Duy Từ
là con nhà hát xƣớng Đào Tá Hán, ngƣời làng Hoa Trai, Hoằng Hóa, Thanh Hóa. Ơng
thi Hƣơng đậu Á ngun, nhƣng vì là con nhà hát xƣớng nên bị cấm dự khoa thi Hội
năm 1592. Năm Ất Sửu (1625), ông đã bỏ Đàng Ngoài vào Nam và đƣợc chúa Nguyễn
Phúc Nguyên (1613- 1635) trọng dụng. Trong thời gian làm quan, ông đã khuyên chúa
Nguyễn nhiều việc chính sự và nổi bật nhất là về mặt quân sự. Về tác phẩm, Đào Duy
Từ có Ngọa Long cƣơng vãn, Hổ trƣớng khu cơ và đặc biệt là giả thuyết cho rằng Đào
Duy Từ là ngƣời khởi thảo kịch bản Sơn Hậu, sau này Nguyễn Diêu và Đào Tấn chỉnh

4

Đào Duy Từ là con Đào Tá Hán, ngƣời làng Hoa Trai, Hoằng Hóa, Thanh Hóa.

14


lý, hoàn chỉnh. Đến đời chúa Nguyễn Phúc Chu (1691-1725), nhà sƣ Thích Đại Sán
(Trung Quốc) sang thăm Huế (13-3-1756) đã ghi chép trong tập Hải ngoại ký sự về
các buổi biểu diễn ở cung đình: “Diễn Tuồng xong, nhà vua lấy ra 50 ngàn đồng giao
cho ta bảo thƣởng cho Tiểu hầu, Tiểu hầu tức tên gọi đoàn Lê viên.”[147, tr.40].
Thời Tây Sơn (1778 – 1802), cũng xây dựng nơi để biểu diễn Tuồng. Trong Sơ
khảo lịch sử nghệ thuật Tuồng (1973), Hoàng Châu Ký cho rằng: “Vũ Vƣơng (1739 –
1765) xây dựng rất nhiều cung, điện, đền, các rất nguy nga ở Phú Xuân, trong đó có
hiên Đồng Lạc (Theo Đại Nam thực lục tiền biên). Hiên Đồng Lạc là nơi để trình bày
các nghệ thuật biểu diễn, chủ yếu là Tuồng. Mãi về sau này nhiều rạp Tuồng vẫn lấy
tên là Đồng Lạc.”[76, tr.54]. Đây chính là sự khởi đầu góp phần cho Tuồng Bình Định
phát triển và xuất hiện nhiều tác giả nổi tiếng vào thời Nguyễn (1802- 1945), nhƣ:
Nguyễn Diêu, Đào Tấn, Ƣng Bình Thúc Giạ Thị v.v...

Triều nhà Nguyễn (1802- 1945), nghệ thuật Tuồng phát triển cực thịnh với các tổ
chức biểu diễn Tuồng trong cung đình. Thời vua Gia Long (1802- 1819), đặt ra hai đội
Tiểu nam và Tiểu hầu chuyên luyện tập múa hát, biểu diễn nhạc. Đến năm 1804, hai
đội này sáp nhập đổi tên thành Việt Tƣờng và Tuồng đã đƣợc biểu diễn trong ở các sự
kiện trọng đại của triều đình: “Gia Long hay xem diễn Tuồng. Trong tập hồi kí xuất
bản năm 1867, Michel Đức Chaigneau con của J.B Chaigneau, một ngƣời Pháp theo
Bá Đa Lộc sang giúp Nguyễn Ánh đã có mơ tả một buổi theo cha vào bệ kiến Gia
Long và xem hát Tuồng”[53, tr.86]. Thời vua Minh Mệnh (1820-1840), Việt Tƣờng
đổi thành Thanh Bình thự và lập ra một đội chun trơng coi việc trình diễn hát bội
trong triều đình vào các ngày lễ lớn. Theo Nguyễn Huy Hồng (1986), thì đội Tuồng
này đã “trình diễn các tích cổ, nhƣ: Vƣơng Mẫu hiến bàn đào, Dự Nhƣợng đả long
bào, Tam Anh chiến Lữ Bố, Giang Tả cầu hôn, Triệu Vân triệt giang đoạt A Đẩu, Tam
cầm tam phóng Cao Quân Bảo, Tiết Đinh San nhất bộ nhất bá..”[53, tr.63]. Các đại thần
Lê Văn Duyệt (Tổng trấn thành Gia Định), Nguyễn Đức Xuyên (công thần ở Gia Định)
cũng có đội Tuồng riêng và tƣơng truyền Lê Văn Duyệt khởi thảo kịch bản Sơn Hậu. Nhƣ
vậy, nghệ thuật Tuồng lúc này đã theo các quan từ Huế tiến vào phƣơng Nam.
Đến thời vua Tự Đức (1848-1883), Tuồng phát triển rực rỡ nhất dƣới sự bảo hộ
của triều đình nhà Nguyễn mà đứng đầu là nhà vua. Việt Tƣờng thự đổi tên thành
Thanh Bình thự và Minh Khiêm đƣờng đƣợc xây dựng ngay từ thời Tự Đức. Rạp hát
nằm ngay trong khu vực Khiêm Cung vua Tự Đức để biểu diễn Tuồng cho vua “ngự
lãm” và trình diễn ca múa, tấu nhạc. Các đào nƣơng, kép giỏi từ địa phƣơng cũng đƣợc
đƣa về cung chuyên diễn trong cung đình. Các rạp hát có quy mơ lớn nhƣ Duyệt Thị
đƣờng đƣợc xây vào năm Minh Mệnh thứ 7 (1826), Viên Tĩnh quang cũng xuất hiện
15


trong thời gian này. Triều vua Thành Thái (1889-1907), Thanh Bình thự đổi thành đội
Võ Can và đội Tuồng này đƣợc giữ đến thời vua Khải Định (1916- 1925). Thời kỳ
này, nghệ thuật Tuồng phát triển lớn mạnh, vua Tự Đức đã lập ra Ban Hiệu thƣ tại
kinh đô và tập hợp nhiều tài năng thuộc hàng khoa bảng, trí thức am hiểu văn học nghệ

thuật để sáng tác, chỉnh lý và nhuận sắc Tuồng. Tiêu biểu là việc nhà vua chỉ dụ cho
Đào Tấn sáng tác Bình địch và Đãng khấu trí, Nguyễn Gia Ngoạn sáng tác Võ Nguyên
Long và tổ chức soạn các pho Tuồng diễn nhiều đêm. Thời kỳ sau này xuất hiện các
tác phẩm nổi tiếng của các quan, nhƣ: Kim Vân Kiều (1896), Phong Thần Bá Ấp Khảo
(1896), Kim Thạch kỳ duyên (1895) của Bùi Hữu Nghĩa; Phong Ba đình (viết về Nhạc
Phi) của Nguyễn Đình Chiêm; Ngũ hổ bình Liêu của Nguyễn Văn Diêu; Hộ Sanh đàn,
Trầm Hƣơng các, Diễn Võ đình, Khuê các anh hùng, Quan Cơng hồi Cổ Thành,
Hồng Phi Hổ q giới Bài Quan của Đào Tấn, Võ Hùng Vƣơng của Nguyễn Hiển
Dĩnh và nhiều tác giả khác. Tuồng cung đình cũng xuất hiện những kịch bản dài tới
trăm hồi, diễn nhiều đêm, nhƣ: Vạn bửu trình tƣờng, Quần phƣơng hiến thuỵ, Học
lâm... Pho Tuồng Vạn bảo dựa vào dƣợc tính của các vị thuốc Đông y đặt tên cho nhân
vật, nhƣ: Nhân Sâm, Đƣơng Quy, Trần Bì...; Pho Tuồng Quần phƣơng thì lấy tên các
loại thảo mộc, nhƣ: Bạch Cúc, Hải Đƣờng, Hoàng Mai... Theo ý kiến của Hoàng Châu
Ký (1999) trong bài viết “Tuồng hát bộ Việt Nam” thì “Học lâm coi nhƣ một tập đại
thành Tuồng cổ: các đồng tác giả đã chọn những lớp Tuồng hay nhất tông theo các vở
Tuồng cổ để chắp nối lại với nhau trong một cấu trúc mới rồi đặt lại tên nhân vật, viết
lại lời mới” [79, tr.41]. Hiện nay chƣa xác định đƣợc pho Tuồng Học lâm có bao nhiêu
hồi, vì theo Hồng Châu Ký “Chúng tơi chƣa sƣu tầm đƣợc vở nào trong pho Tuồng
này, chỉ đƣợc biết qua lời truyền miệng của các lão nghệ nhân ngành Tuồng ở Thừa
Thiên Huế, Quảng Nam, Bình Định trƣớc đây thì pho Học lâm này khoảng từ 8 đến 10
vở, mỗi vở gồm 3 hồi”[81, tr.16] và Nguyễn Tô Lan (2014) trong Khảo luận về Tuồng
Quần phƣơng tập khánh cũng khẳng định là khơng thấy vết tích của Tuồng bản Học
lâm, do đó chúng ta cũng khơng biết nội dung của pho Tuồng này. Bên cạnh Tuồng
lịch sử, giai đoạn này còn xuất hiện nhiều kịch bản Tuồng đồ (còn gọi là Tuồng hài)
của Nguyễn Hiển Dĩnh và nhiều tác giả khác, nhƣ: Trƣơng Đồ Nhục, Trần Bồ, Nghêu
Sò Ốc Hến, Trƣơng Ngáo, Giáp Kén – Xã Nhộng v.v...
Sang đến giai đoạn đầu thế kỷ XX (1900- 1930), nghệ thuật sân khấu Tuồng bắt
đầu xuất hiện những kịch bản viết về sự kiện, nhân vật lịch sử của nƣớc nhà, nhƣ:
Trƣng Nữ vƣơng của Phan Bội Châu, Nợ nƣớc thù nhà của Hồng Tăng Bí. Vào năm
1916, tác giả Hồng Cao Khải cho in ấn bộ ba tác phẩm Tuồng TH thần tiên, Đắc

bằng và Khí xa. Ba tác phẩm này khơng vay mƣợn nhân vật, tích truyện của Trung
16


Quốc mà trực diện phản ánh nhân vật, sự kiện lịch sử của ngƣời Việt. Tuy nhiên, do
bản thân Hoàng Cao Khải bị coi là nhân vật “có vấn đề” trong lịch sử Việt Nam nên
các tác phẩm Tuồng của ông không đƣợc chú ý. Cùng thời điểm này còn có kịch bản
Tuồng Đơng A song phụng của Đơng Châu Nguyễn Hữu Tiến miêu tả về danh tƣớng
Phạm Ngũ Lão và mối tình giữa chàng với ngƣời con gái ni của Trần Hƣng Đạo.
Ngồi ra, cịn có kịch bản Nguyễn Trãi (1924) của Từ Diễn Đồng, Nguyễn chúa phù
Lê hoàng của Hoàng Sơn tú tài Nguyễn Thúc Khiêm (miêu tả thời kỳ Trịnh, Nguyễn
phân tranh, Nguyễn Hoàng vào Nam, 1927), Nghĩa nặng tình sâu (nói về Mỵ Châu và
Trọng Thủy) của Hồng Tăng Bí v.v... Có thể nói, các sáng tác thời kỳ này chủ yếu tập
trung phản ánh những vấn đề, nhân vật lịch sử của nƣớc nhà.
Về mặt hoạt động biểu diễn: Tuồng chỉ biểu diễn ở một số rạp do triều đình quản
lý và trong dinh thự tƣ nhân: ở Huế, đội Tuồng Thanh Bình thự cũng giải thể, nhƣng
còn một số đội Tuồng thuộc trung ƣơng do Bộ Lễ phụ trách, gọi là ba đội Võ Can. Ba
đội này nằm trong hoàng gia và đội Tuồng Văn Minh điện của ơng Hồng Cao Khải
cũng đƣợc đƣa ra ấp Thái Hà (Hà Nội). Ở miền Trung, Tuồng hoạt động mạnh với hai
Đội Tuồng lớn của danh nhân Đào Tấn (Bình Định) và cụ Tuần An Quán Nguyễn
Hiển Dĩnh (Quảng Nam). Ở miền Bắc, ngoài đội Tuồng của cụ Lớn (Hồng Cao Khải)
có các phƣờng Tuồng ở Đơng Anh, Bắc Ninh, Bắc Giang do các ông bầu làm chủ
gánh. Các gánh, đội Tuồng này chủ yếu biểu diễn khi có hội hè, đình đám.
Năm 1906 - 1907, hai rạp Tuồng Năm Chăn và Thông Sáng thành lập, biểu diễn
chủ yếu là Tuồng nhƣng cũng có biểu diễn Chèo. Tiếp đến là nhiều rạp hát ra đời và
tiêu biểu là Sán Nhiên đài, Quảng Lạc. Đến khoảng năm 1926 - 1929, ở Hải Dƣơng,
Hải Phịng, Nam Định, Thanh Hố, Vinh xuất hiện các gánh Tuồng tƣ nhân: Quang
Tốn, Trùm Tiêu, Chín Phƣợng, Đại Phúc Thắng... Ở miền Nam có các gánh vừa diễn
Tuồng và diễn cải lƣơng, nhƣ: gánh của Phụng Hảo, Thành Tôn, Phƣớc Long ban...Từ
năm 1930 - 1945, ở miền Bắc do sự lớn mạnh của Cải lƣơng, Chèo, nhiều gánh hát

Tuồng ở Hà Nội, Hải Phòng, Nam Định đã ngƣng hoạt động, giải tán, có gánh thì
chuyển sang hát Cải lƣơng, Chèo.
1.1.3. Sáng tạo sân khấu Tuồng về đề tài lịch sử
Viết lịch sử đã khó, viết kịch bản sân khấu về đề tài lịch sử là một cơng việc vơ
cùng khó khăn địi hỏi ngƣời viết phải am hiểu lịch sử. Bởi lịch sử là dân tộc. Lịch sử
là tập hợp những sự kiện, những sự kiện đã xảy ra, do đó các tác phẩm về đề tài lịch sử
có giá trị khơng chỉ q khứ mà cịn có tính hiện đại. Do đó vấn đề sáng tạo sân khấu
về đề tài lịch sử đƣợc nhiều học giả quan tâm. Theo Phan Trọng Thƣởng đó là “sáng
tạo nghệ thuật về đề tài lịch sử không phải là minh hoạ lại lịch sử, không phải để
17


×