Tải bản đầy đủ (.pdf) (14 trang)

Nghiên cứu văn bản thơ chữ Hán của Phạm Quý Thích

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (293.61 KB, 14 trang )


Bộ giáo dục v đo tạo viện khoa học x hội việt nam
Viện nghiên cứu Hán Nôm


Vơng thị hờng




Nghiên cứu văn bản thơ chữ hán
của Phạm Quý Thích


Chuyên ngnh: Hán Nôm
Mã số: 62 22 40 01

TểM TT Luận án tiến sĩ ng VN







H Nội - 2008




Công trình c hon thnh ti: Vin Nghiên cu Hán Nôm


Ngi hng dn khoa hc: PGS. TS. Trịnh Khắc Mạnh


Phn bin 1: PGS. TS. Phạm Văn Khoái
Phn bin 2: PGS. TS. Vũ Thanh
Phn bin 3: PGS. TS. Tạ Ngọc Liễn



Lun án s c bo v trc Hi ng chấm luận án cấp Nhà nớc
hp ti: Viện Nghiên cứu Hán Nôm
Vo hi gi ngy tháng 5 năm 2008

Có thể tìm hiểu luận án tại th viện: Quốc gia Hà Nội, Viện Nghiên
cứu Hán Nôm
công trình đ công bố của tác giả

I. Công trình liên quan trực tiếp đến luận án
1. Tâm sự Phạm Quý Thích qua các bài thơ về Thăng Long - Hà Nội.
Tạp chí Hán Nôm số 6 (67) - 2004.
2. Vài nét về tiểu sử Cao Bá Đạt và Cao Bá Đạt thi tập in trong Tạp
chí Hán Nôm số 3 (76) - 2006.
II. Các công trình đã công bố khác
3. Hán Nôm học và Dã thảo. Tạp chí Hán Nôm
số 4 (41) - 1999.
4. Danh mục sách Hán Nôm in tại đền Ngọc Sơn - Hà Nội. Tạp chí
Hán Nôm số 1(42) - 2000.
5. Cổ kim trùng danh trùng tính khảo. Nxb. Văn hóa - Trung tâm văn
hóa ngôn ngữ Đông Tây, H. 2000.
6. Thêm một tấm bia công giáo viết bằng chữ Hán. Thông báo Hán

Nôm học năm 2000. Viện NCHN xuất bản, H. 2001.
7. Th mục Nguyễn T Giản, in trong Hoàng giáp T Giản cuộc đời
và thơ văn. Nxb. Trung tâm ngôn ngữ Đông Tây, H. 2001.
8. Bản tính trờng sinh in trong Cội nguồn 4. Nxb. Văn học dân tộc, H. 2001.
9. Phát hiện dị bản một bài thơ của vua Lê Thánh Tông đề ở núi
Chích Trợ. Thông báo Hán Nôm học năm 2002. Viện NCHN
xuất bản, H. 2003.
10. Thành Tây - trăm năm bia đá Thông báo Hán Nôm học năm
2003. Viện NCHN xuất bản, H. 2004.
11. Vài nét về Bảo anh lơng phơng in trong Nguyễn Trực từ cội
nguồn tới ngôi sao rực sáng trên văn đàn Thăng Long. Nxb.
Văn hóa - Thông tin, H. 2005.
mở đầu nhiều kẻ sĩ. Chứng kiến cuộc sống đau khổ của nhân dân, sự bất lực
của nhiều trí thức, sự rệu rã của tầng lớp thống trị khiến cho Phạm
Quý Thích không thể làm ngơ trớc cuộc sống thực tại. Và tất cả
những điều đó đều đợc ông thể hiện trong thơ của mình. Đối tợng
đợc đề cập đến trong thơ nh: cảnh sắc thiên nhiên bốn mùa, sự tròn
khuyết của vầng trăng, những bài thơ tâm sự thù tạc với bạn bè, sự
thay đổi cảnh sắc của kinh thành Thăng Long đều đợc Hoa
Đờng gửi gắm vào đó với bao tâm sự sâu kín, tâm trạng buồn bã, xót
xa đầy tiếc nuối.
1. Lí do chọn đề tài
Chế độ xã hội phong kiến Việt Nam cuối thế kỉ XVIII đầu thế kỉ
XIX đợc đánh giá là một giai đoạn có nhiều biến động nhất trong
lịch sử Việt Nam. Giai cấp thống trị thời kì này đã tha hóa, đua nhau
tranh giành quyền lực mà không vì lợi ích của dân tộc khiến nền kinh
tế đất nớc bị sa sút trầm trọng. Nông nghiệp đình đốn trì trệ, công
thơng nghiệp không phát triển, đời sống nhân dân lầm than, những
cuộc khởi nghĩa bùng nổ khắp nơi, tầng lớp trí thức phân hóa
Về nghệ thuật, để thể hiện đợc tình cảm đa chiều, phức tạp của

mình, Phạm Quý Thích đã sử dụng nhiều thể thơ. Từ thể Cổ phong
đến thể loại Đờng luật đều thấy trong sáng tác của ông. Từ thể tứ
tuyệt, thất ngôn bát cú, đến các loại trờng thiên nh: ngũ ngôn
trờng thiên, trờng thiên đoản cú đều đợc ông sử dụng nhuần
nhuyễn, mang dấu ấn cá nhân. Khả năng sử dụng ngôn từ điêu luyện,
việc sử dụng thành công các cặp hình dung từ, cách ngắt câu, tạo
hình ảnh mới từ các điển tích điển cố đã tạo ra một phong cách,
một đặc điểm nghệ thuật rất riêng của Phạm Quý Thích.
Mặc dù chế độ phong kiến đang đi vào con đờng khủng hoảng, bế
tắc nh vậy, nhng văn học Việt Nam giai đoạn này lại đợc đánh giá
là đạt đợc nhiều thành tựu rực rỡ nhất trong thời kì phong kiến. Ngoài
tài năng vốn có của các nhà văn, yếu tố xã hội đã góp phần không nhỏ
làm nên thành công rực rỡ này.
Một trong số những tác gia tiêu biểu của giai đoạn văn học ở cuối
thế kỉ XVIII - đầu thế kỉ XIX phải kể đến là nhân sĩ, nhà văn, nhà
thơ, nhà giáo Phạm Quý Thích.
Sự nghiệp văn chơng của Phạm Quý Thích đợc các học giả
đánh giá rất cao. Có thể nói, Phạm Quý Thích là một trong số ít tác
gia thể hiện thành công ở nhiều phơng diện văn học. Tác phẩm của
Phạm Quý Thích thuộc đủ các thể loại thơ, văn. Nội dung phản ánh
trong các sáng tác của Phạm Quý Thích cũng rất đa dạng phong phú
và đều đợc ông diễn đạt rất sâu sắc tinh tế.
Tóm lại, Phạm Quý Thích là một vị Tiến sĩ có tài, tên tuổi của ông
sẽ mãi đợc lu danh trong lịch sử khoa cử và lịch sử văn học Việt
Nam thời trung đại. Số lợng lớn tác phẩm mà ông để lại và giá trị tinh
thần nhân văn sâu sắc trong những tác phẩm đó, sẽ luôn đợc các nhà
nghiên cứu khoa học quan tâm. Luận án Nghiên cứu văn bản thơ chữ
Hán của Phạm Quý Thích mang tính chất mở đầu, và chúng tôi tin
rằng sau luận án này, những nghiên cứu về tác gia, tác phẩm Phạm
Quý Thích sẽ đợc tiếp tục.

Phạm Quý Thích là một nhà văn nổi tiếng, nhng đi sâu nghiên
cứu toàn diện và có hệ thống các văn bản sáng tác của Phạm Quý Thích
thì đến nay vẫn cha có. Sách Từ điển văn học Việt Nam nhận xét:
Trớc thuật và sáng tác của Phạm Quý Thích hiện cha đợc nghiên
cứu, dịch thuật. Trong Di sản Hán Nôm - Th mục đề yếu có tới trên 60
tên sách có chép tác phẩm của ông, nhng cha nhà nghiên cứu nào


24

1
khảo sát và hệ thống hóa các văn bản ấy. Do đó trớc khi đi sâu nghiên
cứu về tác gia Phạm Quý Thích thì việc tập hợp, khảo cứu văn bản của
ông, là một việc làm cần thiết.
2 văn bản VHv.146 và VHv.971 viết kiêng huý 2 chữ thời và tông,
trong khi đó ở các văn bản khác không có hiện tợng này. Văn bản
HV.113 phần thơ của Phạm Quý Thích chỉ ghi Lập Trai thi tuyển; chép
149 bài, thứ tự tơng tự nh ở 5 bản cùng loại, nhng tên đầu bài có
một số chữ sai khác. Cả 6 bản của loại khắc in, đều in 2 lần bài Phó
Kinh Bắc. Khi so sánh năm khắc in bộ Danh thi hợp tuyển, năm mất
của Trần Công Hiến, chữ viết kiêng huý, sự sai khác về số lợng và tên
bài của bản HV.113, cho biết loại khắc in đã đợc in nhiều lần với lần
đầu trong khoảng thời gian từ năm 1814 - 1816.
Với dung lợng một luận án chúng tôi chọn mảng văn bản thơ chữ
Hán của Phạm Quý Thích, bắt đầu từ việc tìm hiểu về thời đại, thân
thế, sự nghiệp và trớc tác của ông, tiến hành su tầm, tập hợp, thống
kê, đối chiếu, so sánh nhận xét về tình hình văn bản, thống kê số lợng
tác phẩm, và tìm hiểu giá trị nội dung, nghệ thuật
2. Lịch sử vấn đề
Thơ chữ Hán của Phạm Quý Thích từng đợc đề cập tới trong một

số công trình. Trong Lợc truyện các tác gia Hán Nôm, Trần Văn Giáp
nhắc đến các trớc tác của Thảo Đờng, trong đó, ông đặc biệt nhấn
mạnh đến hai văn bản Thảo Đờng thi nguyên tập, Lập Trai di thi tục tập.
Sau khi trừ đi những bài trùng nhau và bổ sung những bài khuyết
thiếu, tổng cộng ở loại khắc in có 171 bài. Trong đó trùng với nhóm
Thảo Đờng 160 bài, 7 bài trùng với nhóm LTTT, 4 bài trùng với nhóm
Nam hành.
Trong Di sản Hán Nôm Việt Nam -Th mục đề yếu, Trần Nghĩa và
FranCois Gros chủ biên, cung cấp danh mục cùng kí hiệu th viện các
trớc tác của Phạm Quý Thích.
Qua khảo sát 37 tên sách với 49 văn bản mà chúng tôi su tầm
sau khi loại trừ những bài không phải và bài còn tồn nghi thì tổng số
thơ chữ Hán của Phạm Quý Thích là 1029 bài. Trong đó nhóm Thảo
Đờng có 850 bài, bổ sung từ các bản khác là 179 bài.
Với Tên tự hiệu các tác giả Hán Nôm, Trịnh Khắc Mạnh cung cấp
gần nh đầy đủ danh mục tác phẩm (cả thơ và văn xuôi) của Phạm
Quý Thích. Song do đặc thù của cuốn sách, soạn giả cha đa ra xuất
xứ cụ thể của những văn bản đó.
Khi tìm hiểu giá trị nội dung thơ chữ Hán của Phạm Quý Thích,
ngời đọc thấy nổi lên ba mảng đề tài: phản ánh hiện thực xã hội và
đời sống của nhân dân, thể hiện tâm trạng kẻ sĩ và tình yêu thiên
nhiên đất nớc.
Nguyễn Lộc trong công trình Văn học Việt Nam nửa cuối thế kỉ
XVIII - hết thế kỉ XIX nhận xét về nội dung các trớc tác của Phạm
Quý Thích rằng: Phạm Quý Thích nói nhiều về cuộc sống của nhân
dân miền Bắc. Nơi nào cũng đói khổ do chiến tranh tàn phá, do hạn
hán mất mùa, do tệ cờng hào hoành hành trong thôn xóm.
Thông qua việc phản ánh hiện thực xã hội, Phạm Quý Thích đã
miêu tả cho ngời đọc thấy, một bức tranh xã hội đầy biến động và
cũng đầy đau thơng của xã hội phong kiến Việt Nam ở giai đoạn

cuối thế kỉ XVIII đầu thế kỉ XIX. Đại diện cho bộ phận nhà Nho
truyền thống, Phạm Lập Trai đã trải qua sự đấu tranh nội tâm rất
quyết liệt. Những suy nghĩ hành tàng trên con đờng hoạn lộ, chí
khí làm trai thời loạn, trách nhiệm đối với những ngời dân đói
khổ trong con ngời Phạm Quý Thích cũng là điều trăn trở của
Trong lĩnh vực dịch thuật, trên tạp chí Nam Phong rải rác trong 12
số từ năm 1917 đến 1932, đã dịch và đăng tải 59 bài thơ và 2 bài văn, 1
truyện ngắn của Phạm Quý Thích. Hà Ngọc Xuyền dựa vào bản Lập
Trai tiên sinh hành trạng do Chu (Doãn) Trí soạn đã dịch giới thiệu
hành trạng của Lập Trai Phạm Quý Thích. Sau đó, phải kể đến công

2

23
trình của Nguyễn Đức Vân tuyển dịch 264 bài thơ của Phạm Quý
Thích trích trong tập Thảo Đờng thi tập, tiếc rằng bản dịch còn dới
dạng viết tay cha đợc xuất bản, hiện bản dịch đang lu trữ ở Viện
Văn học, kí hiệu DH. 281-284.
của nhóm này là 592 bài, số bài trùng là 547, bổ sung cho nhóm Thảo
Đờng là 45 bài. Có 2 văn bản ghi niên đại sao chép là A.3036/1-2
(năm Tự Đức ất Mão 1855) và HN.14 (năm 1842).
+ Nhóm có chung chủ đề về Nam hành, là những bài thơ làm trên
đờng vào Huế, gồm 4 văn bản: Hoa Đờng Nam hành tập A.3146;
Lập Trai Phạm Tiên sinh thi tập A.400 (tuy tên bìa 1 là Lập Trai
Phạm tiên sinh thi tập nhng ở tờ 2a, trớc khi chép nội dung, sách lại
ghi Nam hành tập, vì thế chúng tôi gọi đây là tập Nam hành); Nam
hành tập A.2803; Chiếu biểu sắc dụ tạp lục A.2158 (chiếu, biểu, dụ,
thơ của nhiều ngời nhng ở đầu phần thơ của Phạm Quý Thích ghi
Nam hành thi tập). Ngoài ra ở bản Hoa Đờng An Thích hầu Lập Trai
thi tập R.1711 cũng có một chùm bài là Nam hành tạp vịnh (66 bài

nhỏ, nhng văn bản chỉ coi đây là một chùm bài nên chúng tôi không
xếp bản R.1711 vào nhóm Nam hành). Sau khi trừ những bài trùng và
bổ sung bài khuyết thiếu trong từng văn bản của nhóm, tổng số thơ của
nhóm Nam hành là 263 bài, trong đó 245 bài trùng với nhóm Thảo Đờng, 1
bài trùng với nhóm LTTT, bổ sung cho nhóm Thảo Đờng 17 bài. Thời
gian viết của nhóm Nam hành trong khoảng từ năm 1811- đến 1821.
Trong bộ Tổng tập văn học Việt Nam do Đinh Gia Khánh làm
Chủ tịch Hội đồng biên tập, ở Tập 14, ngoài giới thiệu thân thế sự
nghiệp của Phạm Quý Thích còn tuyển dịch 55 bài thơ trích trong tập
Thảo Đờng thi nguyên tập.
Ngoài ra, trong lịch sử nghiên cứu văn học Việt Nam cũng có
một số công trình nhắc đến Phạm Quý Thích với t cách là một nhân
sĩ, một ngời thầy có nhiều ảnh hởng tới t tởng của các nhà sáng tác,
nh các công trình nghiên cứu về Nguyễn Văn Lý, Vũ Tông Phan, Chu
Doãn Trí, Nguyễn Văn Siêu, Phạm Đình Hổ, Cao Bá Đạt, các công trình
nghiên cứu về Truyện Kiều
Qua một số công trình kể trên cho thấy, văn bản thơ chữ Hán của
Phạm Quý Thích cha đợc các nhà nghiên cứu quan tâm toàn diện về
văn bản học và giá trị tác phẩm.
3. Đối tợng và phạm vi nghiên cứu của luận án
+ Nhóm LTTSHT, gồm 2 văn bản A.775 và HN.333, đều có 11
bài, trong đó 3 bài trùng với nhóm Thảo Đờng và bổ sung 8 bài mới.
Đối tợng nghiên cứu chủ yếu của luận án là toàn bộ văn bản
chép thơ chữ Hán của Phạm Quý Thích. Do đó, phạm vi nghiên cứu
của luận án là cuộc đời và sự nghiệp, các vấn đề văn bản học, tìm
hiểu giá trị nội dung và nghệ thuật thơ chữ Hán của ông.
+ Nhóm Các văn bản độc lập, gồm 22 bản, là những văn bản
chép tản mạn tác phẩm thơ của Phạm Quý Thích, bổ sung cho
nhóm Thảo Đờng tổng số là 109 bài.
4. Phạm vi sử dụng t liệu

- Loại khắc in, gồm 6 văn bản: VH.148, R.1948, A.1455,
VHv.146, VHv.971 và HV.113. Trong đó, 5 bản VH.148, R.1948,
A.1455, VHv.146 và VHv.971 lề sách đều ghi Danh thi hợp tuyển do
Trần Công Hiến đứng ra in. Trớc phần thơ của Phạm Quý Thích cả 5
văn bản này đều ghi Lập Trai thi tuyển quyển chi bát, và đều có 165
bài thơ, thứ tự, tên bài hoàn toàn giống nhau. Điểm khác biệt cơ bản là
Phạm vi sử dụng t liệu là các văn bản thơ chữ Hán của Phạm
Quý Thích. Đồng thời để rút ra những nhận định mang tính khách
quan, luận án sẽ mở rộng nghiên cứu đến một số tác phẩm, văn bản
thuộc các thể loại khác của Phạm Quý Thích và tác phẩm của ngời
khác nghiên cứu về thơ chữ Hán của ông.

22

3
5. Phơng pháp nghiên cứu chấn hng văn hóa do nhóm Vũ Tông Phan và Nguyễn Văn Siêu
khởi xớng vào giữa thế kỉ XIX.
Để thực hiện đề tài, luận án vận dụng các phơng pháp: Phơng
pháp nghiên cứu sử học, phơng pháp nghiên cứu văn bản học, phơng
pháp nghiên cứu văn học và phơng pháp nghiên cứu liên ngành.
Về sự nghiệp sáng tác, không kể văn xuôi và các thể loại khác,
chỉ tính riêng mảng thơ chữ Hán của Phạm Quý Thích cũng xứng đáng
để cho ngời đời khâm phục. Qua 4 th viện lớn ở Hà Nội (Th viện
Quốc gia Hà Nội, Th viện Viện Sử học, Th viện Viện Văn học, Th
viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm) chúng tôi đã su tầm đợc 37 tên
sách với 49 văn bản chép thơ ông.
6. Những đóng góp của luận án
Luận án đi sâu nghiên cứu làm sáng tỏ một số vấn đề:
1. Nghiên cứu thời đại, thân thế, sự nghiệp và trớc tác của tác
gia Phạm Quý Thích; 2. Khảo sát hệ thống văn bản thơ chữ Hán của

Phạm Quý Thích và xác lập danh mục thơ chữ Hán của ông; 3. Khai
thác giá trị nội dung và nghệ thuật thơ chữ Hán Phạm Quý Thích; 4. Tuyển
dịch, chú thích 50 bài thơ của Phạm Quý Thích
Trong quá trình nghiên cứu văn bản thơ chữ Hán của Phạm Quý
Thích, để thuận lợi cho việc khảo sát, chúng tôi dựa vào hình thức văn bản
chia 49 văn bản thành hai loại: viết tay và khắc in.
7. Bố cục của luận án - Loại viết tay, gồm 43 văn bản, khi tiến hành khảo sát, căn cứ
vào đặc điểm nh: có chung tiêu đề, chung chủ đề hoặc chép tản
mạn, chúng tôi chia thành 5 nhóm văn bản.
Luận án gồm 4 phần chính: Mở đầu, Nội dung, Kết luận và Phụ lục
Phần nội dung của luận án đợc chia làm 3 chơng: Chơng 1: Thời
đại, thân thế và trớc tác của Phạm Quý Thích. Chơng 2: Khảo sát văn
bản thơ chữ Hán của Phạm Quý Thích. Chơng 3: Tìm hiểu giá trị nội dung
và nghệ thuật thơ chữ Hán của Phạm Quý Thích.
+ Nhóm có chung tiêu đề Thảo Đờng thi nguyên tập (nhóm Thảo
Đờng) gồm 9 văn bản: A.298, HN.315-318, VHv.76/1-3, VHv.152,
VHv.145/3-4, VHv.145/2, VHv.1465, VHv.1637, HV.231, sau khi
trừ những bài trùng và bổ sung bài khuyết thiếu của từng văn bản
thì tổng số bài thơ của nhóm là 850 bài. Về văn bản, qua khảo sát
chúng tôi cho rằng bản HN.315-318 do Chu Doãn Trí sơ biên, sau đó
đợc Ngô Thế Vinh trùng biên, Nguyễn Văn Siêu hiệu san vào tháng 8
năm Quí Sửu Tự Đức thứ 6 (1853) gồm 583 bài là bản đáng tin cậy nhất,
đợc chọn dịch giới thiệu; bản A.298 là bản chép đợc nhiều thơ hơn cả
(828 bài), nhng đợc sao chép sau này có thể nói là muộn nhất. Nhóm
Thảo Đờng đợc chọn làm nhóm cơ sở để so sánh với các loại và các
nhóm văn bản khác.
Chơng 1: Thời đại, thân thế v trớc tác của Phạm Quý Thích
1.1. Bối cảnh xã hội Việt Nam giai đoạn cuối thế kỉ XVIII đầu
thế kỉ XIX
Tình hình chính trị xã hội Việt Nam cuối thế kỉ XVIII đầu thế kỉ

XIX luôn biến động. Sự thay vua đổi chúa, tranh giành quyền lực diễn
ra liên miên. Vai trò độc tôn quyền lực của vua không còn, bên cạnh
ngôi vua còn có ngôi chúa. Đời sống chính trị phức tạp và biến loạn,
việc chăm lo phát triển kinh tế và chăm lo đến cuộc sống của nhân dân
bị bỏ rơi. Ngời dân vừa chịu cảnh đói kém do mất mùa, vỡ đê lại
vừa khổ đau bởi nạn phu phen tạp dịch. Nỗi khổ ấy bị dồn đến cùng
cực khi ngời dân còn là nạn nhân của các cuộc nội chiến.
+ Nhóm có chung tiêu đề Lập Trai thi tập gồm 6 văn bản
VHv.1462/1-2; A.3036/1-2, A.1558/1-2, A.2881, HN.14, VHv.2244,
sau khi trừ những bài trùng và bổ sung bài khuyết thiếu, tổng số bài

4

21
Bằng sự tài hoa của mình, Phạm Quý Thích đã gặt hái đợc thành
công trong các thể loại: từ thể loại tứ tuyệt, thất ngôn bát cú, đến các
loại trờng thiên nh: ngũ ngôn trờng thiên, trờng thiên đoản cú
Đứng trớc hoàn cảnh đa chiều, nhiều sự lựa chọn, tuỳ theo nhận thức
của mỗi kẻ sĩ về thời cuộc mà họ tự chọn con đờng đi cho riêng mình,
nhng cũng không ít kẻ sĩ bị lúng túng trớc thời cuộc.
1.2. Thân thế, hành trạng và sự nghiệp của Phạm Quý Thích Bằng tình yêu cuộc sống, sự phản ánh nội tâm đa chiều sâu sắc và
tài năng văn chơng xuất sắc, thơ chữ Hán của Phạm Quý Thích luôn
có chỗ đứng trong lòng độc giả nhiều thế hệ.
1.2.1. Thân thế, hành trạng của Phạm Quý Thích
Phạm Quý Thích, tự là Dữ Đạo, hiệu là Lập Trai, biệt hiệu là Thảo
Đờng c sĩ. Ông sinh ngày 19 tháng 11 năm Canh Thìn niên hiệu
Cảnh Hng (1760), ngời xã Hoa Đờng, huyện Đờng An (nay thuộc xã
Thúc Kháng, huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dơng). Theo Lập Trai tiên
sinh hành trạng của Chu Doãn Trí cho biết, gia đình Phạm Quý Thích
đợc ngời đơng thời nhận xét gia đình nghiêm chỉnh mà thuận

hòa, giữ gìn tiết kiệm, vẫn còn cái gia phong ngày trớc.
Kết luận
Bối cảnh xã hội Việt Nam giai đoạn cuối thế kỉ XVIII đầu thế kỉ
XIX có những thay đổi lớn về mặt chính trị. Các thế lực phong kiến
không ngừng tranh giành quyền lực, cuộc chiến Đàng Trong - Đàng
Ngoài kéo dài nhiều năm, rồi những cuộc nội chiến nổ ra khắp nơi.
Không những thế việc cầu viện ngoại binh Mãn Thanh của Lê Chiêu
Thống lại tiếp tục đẩy đất nớc vào một cuộc chiến ngoại xâm.
Tháng 10 năm Cảnh Hng thứ 40 (1779), Phạm Quý Thích thi đỗ
Tiến sĩ, sau đó đợc bổ Hiệu thảo Viện Hàn lâm kiêm chức Giám sát Ngự
sử đạo Kinh Bắc. Sau khi thi đỗ, Phạm Quý Thích quen biết với nhiều văn
sĩ nổi tiếng lúc bấy giờ nh Phạm Nguyễn Du, Nguyễn Hàn, Bùi Huy
Bích, Chu Nguyên Mại Phạm Quý Thích từng làm quan với nhà Lê, nhà
Nguyễn, nhng không cộng tác với nhà Tây Sơn, là con đờng hoạn lộ mà
ông không mong muốn.
Trong hoàn cảnh ý thức hệ phong kiến Nho giáo không giữ đợc
vai trò, bên cạnh ngôi vua còn có ngôi chúa, tầng lớp trí thức ngày
càng bị phân hóa. Nhập thế trong bối cảnh xã hội nh vậy, nhà Nho
Phạm Quý Thích đứng trớc nhiều lựa chọn. Sự đấu tranh nội tâm diễn
ra gay gắt trong ông. Cuối cùng với tinh thần của một nhà Nho truyền
thống, Phạm Quý Thích quyết giữ lòng trung trinh, một lòng thờ vua
Lê. Nhng triều Lê đang trên con đờng suy thoái và sụp đổ, đã không
cho Phạm Quý Thích cơ hội để thực hiện hoài bão lớn lao cứu dân giúp
nớc nh ông hằng mong muốn.
Vào giờ Mùi ngày 29 tháng 3 năm Minh Mạng ất Dậu (1825)
Phạm Quý Thích lên cơn trọng bệnh, rồi qua đời, hởng thọ 66 tuổi.
1.2.2. Sự nghiệp giáo dục của Phạm Quý Thích
Sự nghiệp giáo dục và những đóng góp về văn hóa là thành công
lớn nhất trong cuộc đời Phạm Quý Thích. Tiến vi quan, thoái vi s,
không có cơ hội cống hiến sức lực trong công cuộc trị quốc, Phạm Quý

Thích dồn hết tâm sức vào sự nghiệp giáo dục. Giảng đàn của Lập Trai
tiên sinh tập hợp những Nho sinh u tú khắp Bắc Hà, cả một nhóm
thanh niên đồng anh tuấn, nhiều ngời trở thành danh thần, danh sĩ
dới triều Nguyễn nh Hà Tông Quyền, Bùi Quỹ, Ngô Thế Vinh,
Nếu sự nghiệp quan trờng của Phạm Quý Thích không nh ý,
thì sự nghiệp sáng tác và sự nghiệp giáo dục của ông lại có đợc
nhiều thành công. Về giáo dục, ông đã đào tạo đợc một đội ngũ trí
thức kế tục có trình độ học vấn cao. Trong số học trò của Phạm Quý
Thích có những tấm gơng tiêu biểu nh Nguyễn Văn Siêu, Vũ Tông
Phan, Nguyễn Văn Lý, và những đóng góp về mặt văn hóa của họ
đối với thế kỉ sau là vô cùng to lớn. Nhất là công cuộc khôi phục và

20

5
Nguyễn Văn Lý, Lê Duy Trung, Nguyễn Văn Siêu, Trần Văn Vi, Lê
Hoàng Diễm (tức Nguyễn Đình Dao), Chu Doãn Trí Vua Minh
Mạng coi Phạm Quý Thích nh một hiền tài, một mẫu mực về tiết
tháo. Quốc sử quán triều Nguyễn ghi nhận về ông thơ văn nổi
tiếng, học giả suy tôn.
3.2.1. Thể loại thơ
Cả thể thơ Cổ phong và thơ Đờng luật, Phạm Quý Thích đều
có những bài xuất sắc. Hình thức thể hiện đa dạng và phong phú,
cách vận dụng thể thơ đầy cá tính sáng tạo góp phần không nhỏ trong
việc giúp Phạm Quý Thích diễn tả tình cảm vô cùng tinh tế của mình
và việc nghiên cứu thể loại thơ trung đại Việt Nam. Và theo thống kê
phân loại của chúng tôi, trong số 1029 bài thơ của Phạm Quý Thích
thì ở thể thơ cổ phong Phạm Quý Thích có 19 bài; số còn lại (1010
bài) thuộc thể thơ Đờng luật, trong đó có 643 bài thuộc thể thất
ngôn tứ tuyệt, chiếm ~ 63,66%, 367 bài thuộc các thể khác nh thất

ngôn tứ tuyệt, ngũ ngôn trờng thiên
1.2.3. Sự nghiệp trớc thuật của Phạm Quý Thích
1.2.3.1. Các trớc thuật văn xuôi, phú, câu đối, truyện
Phạm Quý Thích sáng tác rất nhiều và hầu nh ở thể loại nào
ông cũng gặt hái đợc thành công: Về văn, ông có các tác phẩm nổi
tiếng nh: Lập Trai Tiên sinh di văn chính bút tập, Hoa Đờng văn
sách, Lập Trai văn tập, Lập Trai văn sách. Đề cập đến những vấn đề
kinh điển có Chu Dịch vấn giải toát yếu, Dịch Kinh đại toàn tiết yếu
diễn nghĩa Thể loại phú có Vệ Linh sơn phú đợc coi là mẫu mực.
Đề tài lịch sử ông có sách Việt sử tiệp kính; còn Thiên Nam Long thủ
lục lại chép tiểu truyện những ngời đỗ Trạng nguyên ở Việt Nam từ
thời Lý đến cuối triều Lê. Viết về địa lí ông có Hải Dơng phong tục kí.
Bình điểm và nhuận chính cho các sách Nam Trực thập lục vịnh, Lữ trung
ngâm Viết tựa cho rất nhiều sách nh Đản Trai công thi tập, Chu Dịch
quốc âm ca Trong lĩnh vực câu đối Phạm Quý Thích để lại trong rất
nhiều sách nh Dụ tế huân thần, Khải tự trớng tế văn sao tập, Bạch Mã
từ tam giáp hơng lệ, Phạm Lập Trai liên văn Còn về thể loại truyện,
ông đợc Nguyễn Văn Huyền nhận xét thể tài truyện của nh sau:
Tân truyền kì lục của Phạm Quý Thích đã thổi một luồng sinh khí mới vào
thể loại truyện, đem đến cho độc giả một dấu ấn khó phai.
3.2.2. Nghệ thuật sử dụng ngôn từ
Những hình dung từ và những từ láy đợc ông sử dụng hết sức
uyển chuyển và đều mang lại hiệu quả làm tăng sức biểu cảm của câu
thơ. Cách thờng xuyên sử dụng những từ láy, hình dung từ là đặc
điểm tiêu biểu trong thơ chữ Hán của Phạm Quý Thích. Với lời lẽ
ngôn từ bình dị, hình ảnh gần gũi thân thuộc nhng thơ Phạm Quý
Thích vẫn toát lên sự cao quý bác học.
3.2.3. Bút pháp miêu tả
Thơ Phạm Quý Thích vẫn theo phong cách truyền thống, nhng
lại mang đậm dấu ấn cá nhân. Với bút pháp nghệ thuật của mình,

Phạm Quý Thích cho chúng ta thấy sức cuốn hút của thế giới tâm
hồn và một thế giới thiên nhiên đầy màu sắc.
3.3. Tiểu kết chơng 3
Nhng thành công nhất trong cuộc đời trớc tác của Phạm Quý
Thích là mảng thơ chữ Hán.
Bằng t duy của mình, cho dù đối tợng đợc miêu tả là cảnh hay
tình thì thơ chữ Hán của Phạm Quý Thích luôn có ba nội dung chính là
phản ánh hiện thực xã hội và đời sống của nhân dân; phản ánh sự đấu
tranh nội tâm kẻ sĩ và tình yêu thiên nhiên đất nớc.
1.2.3.2. Các trớc tác thơ chữ Hán của Phạm Quý Thích
Theo Di sản Hán Nôm Việt Nam - Th mục đề yếu thơ văn Phạm
Quý Thích cũng đợc lu trữ tại Cộng hòa Pháp, tiếc rằng chúng tôi

6

19
tình cảm với nhân dân 59 bài, thể hiện tâm sự kẻ sĩ 212 bài, hiện
thực xã hội 49 bài, 140 bài còn lại là những bài ngẫu hứng miêu tả
hoa sen, cây cỏ, tùng cúc, trúc, mai
cha có điều kiện để tiếp xúc với những văn bản này. Những văn bản
chúng tôi hiện biết ở 4 th viện lớn tại Hà Nội, đó là: Viện Sử học gồm
4 văn bản (kí hiệu HV), nhng bản kí hiệu HV.542 đã bị cơ quan lu
trữ làm mất. Tại Viện Văn học gồm 3 văn bản (kí hiệu HN), nhng bản
mang kí hiệu HN.13 cũng bị cơ quan lu trữ làm mất. Tại Th viện
Quốc gia Hà Nội có 2 văn bản (kí hiệu R). Tại Th viện Viện nghiên
cứu Hán Nôm có 41 văn bản (kí hiệu A, AB, VHv, VHb). Trừ 2 bản đã
bị mất, số văn bản chép thơ chữ Hán của Phạm Quý Thích mà chúng
tôi thống kê đợc là 37 tên sách gồm 49 văn bản.
3.1.1. Thơ Phạm Quý Thích phản ánh hiện thực xã hội và đời sống
của nhân dân

Dù trực tiếp hay gián tiếp, chiến tranh và sự khốn cùng của ngời
dân luôn hiện hữu trong thơ Hoa Đờng. Qua thơ, Hoa Đờng cho
chúng ta thấy hình ảnh đất nớc chìm trong chiến tranh. Những cuộc
nội chiến triền miên, lại thêm nạn ngoại xâm dày xéo. Hậu quả do
những cuộc chiến đem lại là sự đổ nát, là sự đói kém, là sự bần cùng hóa,
là sự suy đồi đạo đức Nho giáo
1.3. Tìm hiểu quan điểm chính trị của Phạm Quý Thích
Nhà Nho Phạm Quý Thích sống trải qua nhiều đời vua chúa của ba
triều đại (Lê - Trịnh, Tây Sơn và Nguyễn) với những sự kiện và vai trò
lịch sử khác nhau. Nhập cuộc khi còn rất trẻ, mới 21 tuổi, Phạm Quý
Thích hăm hở nhận chức. Ông nghĩ Phàm là kẻ sĩ trung thành không
vì thế cùng, mà đổi thay chí khí. Và không ngừng kì vọng: Nếu nh
ông chủ tôi xuân thu thịnh vợng, hạnh nghĩa đợc thời, thì với đầu óc
cao rộng, trí lự thông minh, đem đạo lớn uẩn súc ra thi hành, ắt nên
giàu có, đâu mãi chịu nghèo hèn . Thế mà chỉ trong một năm làm
quan, Phạm Quý Thích đã có ý định xin về. Ba năm sau thì ông kiên
quyết xin cáo quan. Nguyên nhân sâu sa là do ông chán ghét cảnh
gianh trành của tầng lớp thống trị. Vì giữ mình trong sạch, nêu cao đạo
đức Nho giáo, nên ông đành cáo quan ở ẩn. Song trong nội tâm ông
vẫn luôn day dứt về nỗi hành tàng.
Những gì Phạm Quý Thích nêu ra cho thấy, ông đứng về phía ngời
dân, đứng về phía những số phận khổ đau, song có điều ông cha thoát
khỏi t tởng của một nhà nho truyền thống, tận trung với vua. Điều này
tựu trung do hệ t tởng Nho giáo chi phối.
3.1.2. Thơ chữ Hán Phạm Quý Thích phản ánh sự đấu tranh nội
tâm kẻ sĩ
Trong thơ Phạm Quý Thích ta luôn bắt gặp sự đấu tranh bản thân.
Một bên là trách nhiệm với xã hội, một bên là thói an phận lánh đời
giữ mình. Hai con ngời ấy luôn hiện hữu trong Phạm Quý Thích.
Qua sự đấu tranh nội tâm ấy ngời đọc thấy đợc tâm sự của cả một

lớp nhà Nho trong buổi giao thời.
3.1.3 Thiên nhiên trong thơ Phạm Quý Thích
1.4. Tiểu kết chơng 1 Đối với Phạm Quý Thích yêu quê hơng đất nớc cũng chính là
yêu những cảnh sắc thiên nhiên, yêu những ngời dân lam lũ xung
quanh mình. Những bài thơ tả cảnh của ông bình dị, trong sáng, mợt
mà êm ái. Song, sau những câu thơ là một miền tâm trạng, một tâm
hồn nhạy cảm luôn nặng lòng với non sông, trắc ẩn với cuộc sống.
Thời đại mà Phạm Quý Thích sống đợc coi là một giai đoạn có nhiều
biến động. Phạm Quý Thích sinh ra trong một gia đình có truyền thống
khoa bảng. Năm 1779, Phạm Quý Thích thi đỗ Tiến sĩ. Sau một thời gian
ngắn làm quan, chứng kiến hiện thực chốn quan trờng, ông đã nhiều lần
cáo quan, song tấm lòng vẫn không nguôi hoài niệm nhà Lê.
3.2. Giá trị nghệ thuật trong thơ chữ Hán của Phạm Quý Thích

18

7
Với sự nghiệp giáo dục, Phạm Quý Thích đã góp phần đào tạo đợc
nhiều học trò xuất sắc và họ đã có đóng góp rất lớn cho văn hóa nớc nhà.
VHv.146, VHv.971 có thể đợc khắc in khoảng sau năm Tự Đức 1848,
còn bản HV.113 cha biết cụ thể in năm nào Năm bản HV.148,
R.1948, A.1455, VHv.146, VHv.971 đều có số bài là 165 bài (trừ bài
Phó Kinh Bắc chép 2 lần còn 164 bài); riêng bản HV.113 có 149. Loại
khắc in có tổng cộng 171 bài, không bổ sung cho nhóm Thảo Đờng.
Trong sự nghiệp sáng tác, Phạm Quý Thích đạt đợc nhiều thành
công, các sáng tác của ông thuộc nhiều thể loại văn học và đặc biệt là
mảng thơ chữ Hán đã đợc giới nghiên cứu đánh giá cao.
b. Về số lợng thơ chữ Hán của Phạm Quý Thích
chơng 2: Khảo sát văn bản thơ chữ Hán của Phạm Quý Thích
2.1. Khái quát đặc điểm văn bản và nhóm văn bản

Nhóm Thảo Đờng, có tổng số bài lớn nhất, (gồm 850 bài), đợc
chọn làm nhóm cơ sở để đối chiếu. Sau khi khảo sát, thống kê, so sánh,
kết quả bổ sung cho nhóm Thảo Đờng là: Nhóm LTTT bổ sung 45 bài.
Nhóm Nam hành bổ sung 17 bài. Nhóm LTTSHT bổ sung 8 bài. Các
bản độc lập bổ sung 109 bài cho nhóm Thảo Đờng.
Theo phơng thức định hình văn bản, chúng tôi đã chia 49 văn bản
này thành hai loại: viết tay (43 bản) và khắc in (6 bản). ở loại viết tay
chúng tôi lại chia thành 5 nhóm văn bản.
2.2. Khảo sát văn bản
2.2.1. Loại viết tay
Tất cả các bản loại viết tay bổ sung cho nhóm Thảo Đờng 179 bài.
Loại khắc in không bổ sung mới cho nhóm Thảo Đờng.
1. Nhóm Thảo Đờng: gồm 9 văn bản là: A.298; HN.315-318, Hv.76/1-
3; HV.231; VHv.152; VHv.145/2; VHv.145/3-4; VHv.1465; VHv.1637.
Nh vậy, qua 49 văn bản mà chúng tôi đã su tầm và khảo sát, sau
khi loại trừ những bài không phải và bài còn tồn nghi thì tổng số thơ
chữ Hán của Phạm Quý Thích hiện xác định là 1029 bài.
- Văn bản A.298: là bản có số lợng bài lớn nhất, tập hợp thơ của
Phạm Quý Thích qua nhiều thời kì nhất, do ngời đời sau sao chép.
Sách do Chu Doãn Trí ở xã Dục Tú, huyện Đông Ngàn sơ biên, Ngô
Thế Vinh ở xã Bái Dơng, huyện Nam Trực trùng biên, Nguyễn Văn
Siêu ở phờng Dũng Thọ, huyện Thọ Xơng hiệu san vào tháng 8 năm
Quí Sửu niên hiệu Tự Đức thứ 6 (1853). Văn bản A.298 chép 882 bài.
Trong đó có 4 bài chép lặp 2 lần và 1 bài chép lặp 3 lần. Đồng thời sau
khi khảo sát chúng tôi thấy, văn bản A.298 chép lẫn cả thơ mà ngời
khác viết cho Phạm Quý Thích (43 bài). Nh vậy, tổng số bài của bản
A.298 là 828 bài. Đây là văn bản có niên đại sao chép muộn nhất vì
chúng su tầm thơ của Phạm Quý Thích qua nhiều thời kì nhất.
Chơng 3: Tìm hiểu giá trị nội dung v nghệ thuật thơ
chữ hán của Phạm Quý Thích

3.1. Giá trị nội dung trong thơ chữ Hán của Phạm Quý Thích
Qua thống kê số lợng tác phẩm thơ chữ Hán của Phạm Quý
Thích theo chủ đề và giai đoạn sáng tác, chúng tôi thấy nội dung chủ
yếu mà Phạm Quý Thích muốn đề cập xoay quanh ba nội dung chính,
đó là, phản ánh hiện thực xã hội và đời sống của nhân dân, phản ánh
sự đấu tranh nội tâm của kẻ sĩ và tình yêu thiên nhiên đất nớc. Theo
thống kê phân loại của chúng tôi cho thấy, trong 1029 bài thơ của
Phạm Quý Thích có 164 bài thù đáp với bạn bè, nói về cảnh sắc
bốn mùa thay đổi và các tiết trong năm có 52 bài, thơ về cảnh sắc
Thăng Long 63 bài, cảnh sắc đình đền chùa miếu mạo 86 bài, thơ
vịnh sử 31 bài, hình ảnh trăng trong thơ có 173 bài, thơ thể hiện
- Văn bản HN.315-318: sách do Chu Doãn Trí ở xã Dục Tú,
huyện Đông Ngàn sơ biên, Ngô Thế Vinh ở xã Bái Dơng, huyện Nam
Trực trùng biên, Nguyễn Văn Siêu ở phờng Dũng Thọ, huyện Thọ
Xơng hiệu san vào tháng 8 năm Quí Sửu, niên hiệu Tự Đức thứ 6

8

17
(1853). Điều đặc biệt trong văn bản này có một chữ Hoa (trong chữ
Hoa Đờng) viết kiêng húy và toàn bộ các chữ Thời đều viết kiêng
huý. Bản HN.315-318 có 583 bài, trong đó 572 bài trùng với bản
A.298 và bổ sung thêm cho bản A.298 đợc 11 bài. Theo chúng tôi
bản này đáng tin cậy nhất, đợc chọn để tuyển dịch giới thiệu.
Loại khắc in (6 văn bản) không bổ sung mới bài nào.
Tổng cộng các bản bổ sung cho nhóm Thảo Đờng là 179 bài.
Nh vậy, tổng số thơ chữ Hán của Phạm Quý Thích qua 49 văn là 850
bài (của nhóm Thảo Đờng) + 179 bài (bổ sung từ các bản còn lại) = 1029
bài. Tỷ lệ bài chép 1 lần có 295 bài chiếm ~ 28,669%. Bài chép 2 lần có 43
bài chiếm ~ 4,179 %. Bài chép từ 3 lần trở lên có 691 bài chiếm ~ 67,152%.

- Văn bản VHv.76/1-3: hoàn toàn giống bản HN.315-318 về số
lợng lẫn thứ tự các bài thơ, cũng có 583 bài. Chúng tôi cho rằng
VHv.76/1-3 đợc chép từ chính HV.315-318 nhân đợt su tầm sao
chép của Viện Viễn đông Bác cổ Pháp khoảng giữa thế kỉ XX.
2.5. Tiểu kết chơng 2
Di sản thơ chữ Hán mà Phạm Quý Thích để lại cho chúng ta với số
lợng khá lớn. Qua quá trình khảo sát, chúng tôi đã chia làm hai loại:
loại viết tay và loại khắc in. Mỗi loại, chúng tôi lại chia thành nhiều
nhóm. Có thể tóm tắt kết quả khảo sát nh sau:
- Văn bản HV.231 có 186 bài, trong đó 182 bài trùng với bản
A.298 và bổ sung cho bản A.298 đợc 4 bài.
- Văn bản VHv.152: có 297 bài, trong đó có 293 bài trùng với bản
A.298 và bổ sung cho A.298 đợc 4 bài.
a. Về văn bản thơ chữ Hán của Phạm Quý Thích
* Loại viết tay: Gồm 43 văn bản. +/ Nhóm Thảo Đờng, 9 bản
(A.298, HN.315-318, VHv.76/1-3, HV.231, VHv.152, VHv.145/2, Hv.145/3-4,
VHv.1465, VHv.1637), có tổng số 850 bài. Nhóm Thảo Đờng có số
lợng bài nhiều nhất và thời gian sao chép dài nhất nên đợc chọn
làm nhóm cơ sở khi so sánh với các loại, nhóm văn bản khác. +/
Nhóm LTTT, gồm 6 bản (VHv.1462/1-2, A.1558/1-2, A.3036/1-2, A.2881,
VHv.2244, HN.14), có tổng số 592 bài, bổ sung cho nhóm Thảo
Đờng 45 bài. +/ Nhóm Nam hành đợc viết vào khoảng năm Gia Long
thứ 10 (1811), gồm 4 văn bản (A.3146, A.400, A.2803, A.2158), có
tổng số bài 263, bổ sung cho nhóm Thảo Đờng 17 bài. +/ Nhóm
LTTSHT, gồm 2 bản (A.775 và HN.333) cha rõ thời gian chép, có 11
bài, bổ sung cho nhóm Thảo Đờng 17 bài. +/ Các văn bản độc lập,
chép rải rác các tác phẩm của Phạm Quý Thích, có 22 văn bản, bổ sung
cho nhóm Thảo Đờng 109 bài.
- Văn bản VHv.145/2: chép 162 bài, trong đó 155 bài trùng với bản
A.298 và bổ sung cho bản A.298 đợc 7 bài.

- Văn bản VHv.145/3-4: có 239 bài, trong đó 237 bài trùng với bản
A.298 và bổ sung cho bản A.298 đợc 2 bài.
- Văn bản VHv.1465: có 275 bài trùng với bản A.298 và bổ sung
cho bản A.298 đợc 2 bài.
- Văn bản VHv.1637 có 315 bài, trong đó 313 bài trùng với bản
A.298 và bổ sung cho bản A.298 đợc 2 bài.
Trong số những bài mà các bản trong nhóm Thảo Đờng bổ sung
cho bản A.298 có 7 lợt bài trùng nhau, số bài mà các bản bổ sung cho
bản A.298 không trùng nhau là: 15 bài. Tổng cộng nhóm Thảo Đờng
có: 828 bài (trong bản A.298) + 22 (bổ sung từ 8 bản trong nhóm) = 850
bài. Nhóm Thảo Đờng đợc chọn làm cơ sở để so sánh số lợng thơ với
các bản còn lại.
* Loại khắc in: Gồm 6 văn bản (HV.148, R.1948, A.1455,
VHv.146, VHv.971, và HV.113) với nhiều lần in. Hai bản HV.148,
A.1455 đợc in trong khoảng 1814 - 1816; lần 2 gồm 2 văn bản
2. Nhóm văn bản Lập Trai thi tập (LTTT), cùng mang tên LTTT gồm 6
bản: VHv.1462/1-2, A.1558/1-2, A.3036/1-2, A.2881, VHv.2244 và HN.14.

16

9
Tổng số thơ của 6 bản khắc in là: 165 + 7 (bổ sung từ HV.113) - 1 (bài
Phó Kinh Bắc chép 2 lần) = 171 bài, trong đó có 160 bài trùng với nhóm
Thảo Đờng, 7 bài trùng với nhóm LTTT, 4 bài trùng với nhóm Nam hành.
- Văn bản VHv.1462/1-2: do Tây Hồ c sĩ Nguyễn Hằng Hiên bái
soạn năm Nhâm Tuất. Cả 2 quyển có 521 bài, trong đó có 3 bài chép 2
lần và một bài phú. Tổng cộng bản VHv.1462/1-2 có 521 bài - 4 = 517 bài.
Nh vậy, loại khắc in không bổ sung mới bài nào cho nhóm Thảo
Đờng. Với nhiều lần khắc in và thời điểm khắc in lần đầu là vào khoảng
năm 1814 - 1816.

- Văn bản A.1558/1-2: hai tập đóng chung thành một cuốn, không
tựa bạt, niên đại, gồm 498 bài.
- Văn bản A.3036/1-2: tờ 1a ghi năm Tự Đức ất Mão (1855). Hai
bản A.1558/1-2 và A.3036/1-2 giống hệt nhau, từ số lợng bài, đến số
thứ tự bài, có thể coi hai bản này là một. Bản A.3036/1-2 cũng có 498 bài,
trong đó có 436 bài trùng với bản VHv.1462/1-2 và bổ sung cho bản
VHv.1462/1-2 là 62 bài.
2.3. Nhận xét về quá trình sao chép văn bản và khắc in văn
bản thơ chữ Hán của Phạm Quý Thích
Căn cứ vào sự ghi chép của Chu Doãn Trí, Nguyễn Văn Siêu và
dựa vào những bản còn ghi niên đại, sau khi khảo sát chúng ta có thể
hình dung về quá trình lu truyền thơ của Phạm Quý Thích là TĐTNT
(do Chu Doãn Trí su tập) + LTTT (của Nguyễn Hằng Hiên) + Tập tục
(do Chu Doãn Trí su tập) + Di thi (do Nguyễn Văn Siêu hiệu san) +
Nam hành + Hồi kinh nhật trình thi. Chúng tôi cho rằng bản HN.315-
318 (có 583 bài thơ) là bản đáng tin cậy hơn cả, đợc chọn tuyển dịch
giới thiệu; bản A.298 là bản chép đợc nhiều thơ nhất (828 bài), có niên
đại sao chép muộn hơn so với những bản hiện biết.
- Văn bản A.2881: gồm 270 bài, trong đó có 215 bài trùng với bản
VHv.1462/1-2 và bổ sung cho bản VHv.1462/1-2 là 55 bài. Trong 55 bài
bổ sung cho bản VHv.1462/1-2 thì 50 bài đã có ở bản A.1558/1-2 và bản
A.3036/1-2, còn 5 bài mới.
- Văn bản VHv.2244: tuyển 66 bài, cả 66 bài này đều đã có trong bản
VHv.1462/1-2.
- Văn bản HN.14, sách đóng ngợc từ hai đầu ốp vào giữa, nửa
đầu gồm 28 bài, nửa sau đóng lộn xộn, có dấu hiệu mất tờ, gồm 64
bài. Trong 92 bài ở bản HN.14 thì 84 bài trùng với bản VHv.1462/1-2,
7 bài trùng với bản A.298 và 1 bài trùng với bản Hoa Đờng An
Thích hầu Phạm Lập trai thi tập A.2588.
2.4. Về số lợng thơ của Phạm Quý Thích trong các loại văn bản

Loại viết tay (43 văn bản), đợc chia thành 5 nhóm nhỏ.
1. Nhóm văn bản cùng mang tên TĐTNT gồm 9 văn bản. Sau khi thống
kê, loại trừ những bài trùng nhau, cộng thêm số thơ mới đợc bổ sung từ các
bản khác thì, tổng số thơ của nhóm Thảo Đờng có 850 bài. 2. Nhóm văn
bản mang tên LTTT gồm 6 bản có tổng số 592 bài, trong đó bổ sung cho
nhóm Thảo Đờng 45 bài. 3. Nhóm văn bản cùng mang chủ đề Nam
hành gồm 4 văn bản có tổng số bài 263, bổ sung mới cho nhóm Thảo
Đờng 17 bài. 4. Nhóm văn bản LTTSHT, có 2 văn bản có 11 bài, trong
đó bổ sung cho nhóm Thảo Đờng 8 bài. 5. Nhóm các văn bản độc lập
gồm 22 bản còn lại của loại viết tay bổ sung cho nhóm Thảo Đ
ờng, tổng
số là 109 bài.
Tổng cộng nhóm Lập Trai thi tập có 517 bài (trong bản
VHv.1462/1-2) + 62 bài (bổ sung từ bản A.3036/1-2 và A.1558/1-2) +
5 bài (bổ sung từ bản A.2881) + 8 bài (bổ sung từ bản HN.14) = 592
bài. Trong 592 bài của nhóm LTTT thì có 547 bài trùng với nhóm
Thảo Đờng, bổ sung cho nhóm Thảo Đờng 45 bài.
3. Nhóm văn bản Nam hành

10

15
Gồm 4 văn bản có chung chủ đề về Nam hành là Hoa Đờng
Nam hành tập A.3146, Lập Trai Phạm Tiên sinh thi tập A.400,
Nam hành tập tập A.2803, Chiếu biểu sắc dụ tạp lục A.2158.
+ Văn bản Thi tập tuyển VHb.252, tờ 66b, 67b chép 2 bài thơ của Phạm
Quý Thích, trong đó bổ sung cho nhóm Thảo Đờng 1 bài.
+ Văn bản Thuấn Nhuế thi văn tập A.2538, thơ văn câu đối của
Thuấn Nhuế và một số ngời khác, tờ 11b đến 19a chép 18 bài thơ
của Hoa Đờng, đã xuất hiện trong nhóm Thảo Đờng.

- Văn bản Hoa Đờng Nam hành tập A.3146, chép 239 bài.
- Văn bản Lập Trai Phạm Tiên sinh thi tập A.400: chép 63 bài.
Trong 63 bài của bản A.400 thì có 39 bài trùng với bản A.3146 và bổ
sung cho bản A.3146 là 24 bài.
+ Văn bản Tiên chính cách ngôn A.1524, tờ 61b đến 67a, chép chùm
bài Thăng Long thành tam thập vịnh. 30 bài này cha có trong nhóm Thảo
Đờng - song, đây là một chùm bài nên khi tính tổng số thơ bổ sung cho
nhóm Thảo Đờng chúng tôi chỉ tính là 1 bài.
- Văn bản Nam hành tập A.2803: gồm 32 bài, trong đó bài số 32
(Kiếm Hồ thập vịnh) có 10 bài nhỏ vịnh hồ Hoàn Kiếm. Cả 32 bài trong
bản A.2803 đều đã có trong bản A.3146. Văn bản Chiếu biểu sắc dụ
tạp lục A.2158: gồm 32 bài, cả 32 bài này đều có trong bản A.3146.
+ Văn bản Tiến sĩ Trần Thị giảng lí lịch A.694 do Trần Tân biên
tập. Từ tờ 46b tới tờ 54b chép 34 bài thơ, từ tờ 89b đến hết chép 14 bài
thơ của Hoa Đờng trùng với nhóm Thảo Đờng và có thêm 3 bài trùng
với nhóm LTTT; Tổng cộng bản A.694 có 51 bài, đều đã có trong các
thi tập của Phạm Quý Thích.
Thời gian sáng tác những bài thơ của nhóm vào khoảng năm 1811.
Trong văn bản Hoa Đờng An Thích hầu Lập Trai thi tập R.1711
ở chùm Nam hành tạp vịnh có 66 bài. Sau khi so sánh, đối chiếu 66 bài
này với 4 bản nhóm Nam hành chúng tôi thấy có 31 bài trùng với 3 văn
bản Hoa Đờng Nam hành tập, Phạm Lập Trai tiên sinh thi tập Nam
hành tập. Trùng với văn bản Chiếu biểu sắc dụ tạp lục A.2158 là 29
bài (29 bài này đều đã trùng với 3 văn bản A.3146, A.400, A.2803).
+ Văn bản Việt d kỉ thắng A.769, Trần Trọng Tể biên tập, ở tờ
11a trích bài Chơng Dơng độ của Phạm Quý Thích (đã có trong
Thảo Đờng).
+ Văn bản Vũ trung tùy bút (Phụ ch gia thi tập) A.2312, Đan
Loan Phạm Tùng Niên soạn. Tờ 58a ghi Tự Đức Mậu Thìn niên trọng
xuân (Tháng 2 năm Mậu Thìn niên hiệu Tự Đức - 1868), gồm 132

bài, đều trùng với nhóm Thảo Đờng.
Tổng cộng nhóm Nam hành có 239 bài (trong bản A.3146) + 24
(bài bổ sung từ A.400) = 263 bài; trong đó có 245 bài trùng với nhóm
Thảo Đờng, bổ sung 18 bài. Trong 18 bài bổ sung thì 1 bài đã có
trong nhóm LTTT, do đó số bài bổ sung mới là 17 bài.
Tổng cộng nhóm Các văn bản độc lập bổ sung cho nhóm Thảo
Đờng 109 bài.
4. Nhóm văn bản Lập Trai Tiên sinh hành trạng
Gồm 2 văn bản A.775 và HN.333, chép 11 bài. Trong đó có 3 bài
trùng với nhóm Thảo Đờng và bổ sung cho Thảo Đờng 8 bài.
2.2.2. Loại khắc in

Loại khắc in tổng cộng có 06 văn bản, mang kí hiệu: HV.148;
R.1948; A.1455; VHv.146; VHv.971 và HV.113. Năm văn bản HV.148,
R.1948, A.1455, VHv.146 và VHv.971 có tổng số bài nh nhau là 165
bài. Bản HV.113 có 149 bài thơ. Trong số 149 bài của bản HV.113 thì 142
bài trùng với 5 bản trên; 22 bài không có, nhng lại có thêm 7 bài mới.
5. Nhóm Các văn bản độc lập
Gồm 22 văn bản còn lại của loại viết tay.
+ Văn bản Hoa Đờng An Thích hầu Lập Trai thi tập R.1711:
gồm 140 + 66 (trong Nam hành tạp vịnh) = 206 bài, trong đó có 195 bài

14

11
trùng với nhóm Thảo Đờng, bổ sung cho nhóm Thảo Đờng là 11 bài.
Trong 11 bài đợc bổ sung có 7 bài trùng với nhóm LTTT, 2 bài trùng với
nhóm Nam hành. Nh vậy số bài mà Hoa Đờng An Thích hầu Lập Trai
thi tập R.1711 bổ sung mới cho nhóm Thảo Đờng là 11 - 9 = 2 bài.
+ Văn bản Đông Hiên thi tập A.2422, Đông Hiên Nguyễn Năng Tĩnh

soạn và viết tựa năm Bính Tuất (1826). Tờ 54a chép chùm thơ Vịnh sử của
Phạm Quý Thích, đã có trong nhóm Thảo Đờng.
+ Văn bản Hồi kinh nhật trình thi A.308, gồm 66 bài, trong đó 11 bài
trùng với nhóm Thảo Đờng và bổ sung cho nhóm Thảo Đờng 55 bài.
Thời điểm sáng tác tập thơ là vào năm 1821, khi vua Minh Mạng cho
gọi Phạm Quý Thích vào Huế làm việc.
+ Văn bản Bắc Kì địa d quốc âm ca AB.566, Lê Trọng Am soạn
năm Duy Tân 5 (1911), Vũ Thanh Am duyệt. Trần Minh Phủ hiệu
chính, Hoành Sơn Ngọc bình phẩm, dẫn bài Chơng Dơng độ (đã có
trong nhóm Thảo Đờng).
+ Văn bản Hoa Đờng Lập Trai Phạm công thi tập A.2154: có
115 bài. Trong đó 109 bài trùng với nhóm Thảo Đờng và bổ sung cho
nhóm Thảo Đờng 6 bài.
+ Văn bản Cao Bá Đạt thi tập A.955, dựa vào tên ngời, lệ kiêng
huý chúng tôi đối chiếu, so sánh và tìm ra trong 163 bài thơ trong văn
bản có 69 chùm bài (gồm 83 kì - tức 83 bài nhỏ) là thơ của Phạm Quý
Thích (đã có trong nhóm Thảo Đờng), 27 bài còn tồn nghi; 53 bài còn lại
bớc đầu tạm xếp vào gia tài của Cao Bá Đạt.
+ Văn bản Hội đề Kiều thi AB.197, tập thơ của Hà Tông Quyền
trong đó có bài Thính Đoạn trờng tân thanh hữu cảm của Phạm
Quý Thích bằng chữ Hán đã đợc phiên Nôm, bài này đã có trong
nhóm Nam hành.
+ Văn bản Ch đề mặc VHv.18, tại tờ 14a tuyển bài Địch Lộng đề
của Tiến sĩ Phạm Lập Trai (bổ sung cho nhóm Thảo Đờng).
+ Văn bản Hy Minh thi tập VHv.1393, tập thơ của Hy Minh, từ tờ
9a đến tờ 12b chép 16 bài, từ giữa tờ 13a đến 42b chép 98 bài thơ của
Phạm Quý Thích. Tổng cộng ở bản VHv.1393 có 114 bài, trong đó 111 bài
trùng với nhóm Thảo Đờng và 3 bài trùng với nhóm LTTT.
+ Văn bản Cúc Hiên thi tập A.1230, là tập thơ của Lê Đình Diên
(từ tờ 1a đến tờ 80a), phần còn lại phụ chép TĐTT của Phạm Quý

Thích (từ tờ 83b đến hết), gồm 152 bài, trong đó có 115 trùng với
nhóm Thảo Đờng, bổ sung cho nhóm Thảo Đờng 37 bài.
+ Văn bản Lập Trai tiên sinh di thi tục tập A.2140, có 225 bài.
Trong đó có 221 bài trùng với nhóm Thảo Đờng, bổ sung 4 bài,
nhng trong 4 bài đợc bổ sung thì 2 bài đã có trong văn bản Hoa
Đờng Lập Trai Phạm tiên sinh thi tập A.2154, nên số bài bổ sung
mới cho nhóm Thảo Đờng là 2 bài.
+ Văn bản Danh công thi thảo A.2588, tập thơ của nhiều tác
giả, ở tờ 3a, 4a chép 2 chùm thơ của Lập Trai (bổ sung cho nhóm
Thảo Đờng).
+ Văn bản Danh sơn thắng thủy thi A.399, Lê Mộng Long biên
soạn, Lê Mộng Liên chép, ở tờ 4a có 2 bài thơ của Phạm Quý Thích
trong đó bổ sung cho nhóm Thảo Đờng 1bài.
+ Văn bản Phạm Lập Trai tiên sinh thi tập
VHv.2346, chép đợc 10
chùm bài. 10 chùm bài này đã có trong nhóm Thảo Đờng.
+ Văn bản Đạo Nam trai sơ cảo A.1810, từ tờ 11a đến 24b chép
19 bài thơ và 1 bài phú của Phạm Quý Thích. Tờ 11a chép lầm Phạm
Quý Thích thành Nguyễn Quý Thích. Trong 19 bài của bản A.1810 thì
17 bài trùng với, bổ sung 2 bài cho nhóm Thảo Đờng.
+ Văn bản Sứ trình A.1548, thơ do Chánh sứ Nguyễn Kiều và Phó
sứ Nguyễn Tông Khuê làm trong dịp đi sứ Trung Quốc năm Giáp Tý
(1744), trong đó từ tờ 53a đến hết chép Hoa Đờng quan thi, gồm 41
bài, đều đã xuất hiện trong nhóm Thảo Đờng.

12

13

×