Tải bản đầy đủ (.docx) (26 trang)

NGHỆ THUẬT BIỂU HIỆN tư TƯỞNG SINH THÁI TRONG THƠ THƠ và gửi HƯƠNG CHO GIÓ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (116.48 KB, 26 trang )

NGHỆ THUẬT BIỂU HIỆN TƯ TƯỞNG SINH THÁI
TRONG THƠ THƠ VÀ GỬI HƯƠNG CHO GIĨ

Khi tìm hiểu các tư tưởng sinh thái biểu hiện trên
phương diện nội dung của thơ Xuân Diệu, người nghiên
cứu cần đi qua con đường ngôn từ và khám phá những chi
tiết, biểu tượng, từ ngữ, giọng điệu, không gian,… Phương
tiện nghệ thuật được lựa chọn chi phối tới chiều sâu của giá
trị sinh thái trong các tác phẩm. Ở Thơ thơ và Gửi hương
cho gió, người viết chú ý tới ba khía cạnh nghệ thuật tiêu
biểu đã góp phần thể hiện tư tưởng sinh thái trong thơ Xuân
Diệu: giọng điệu, biểu tượng và không gian nghệ thuật.
Giọng điệu như một phương diện bộ lộ tình cảm sinh
thái
Giọng điệu đắm say, tha thiết
Tiếp nhận văn học đề cao giọng điệu như một phương
diện thuộc về chiều sâu của tác phẩm. Cùng một nội dung
nhưng khi được biểu đạt bằng những giọng điệu khác nhau
có thể làm nên những màu sắc riêng của tác giả. Trong thơ
trữ tình, giọng điệu có khả năng chi phối các phương diện


hình thức, bộc lộ qua những tín hiệu có tính hình thức như
cách sử dụng hình ảnh, gieo vần, dùng từ,...). Tính dân tộc
trong thơ Tố Hữu khơng chỉ được thể hiện trên phương diện
đề tài, chủ đề, mà còn toát lên qua nhịp điệu của thể thơ lục
bát, với giọng điệu tâm tình. Giọng điệu trong Thơ mới nói
chung và thơ Xuân Diệu nói riêng đã từng được nhiều
người nghiên cứu, trong đó chỉ ra một số giọng tiêu biểu
của Thơ mới như: nỗi niềm hoài cổ, tiếc thương; nỗi cô
đơn, li biệt, xa cách; giọng chán chường,... Thế nhưng,


trong Thơ mới cũng có những “nghịch âm” ở giọng nói u
đời, tạo nên tính “nhị ngun” trong giọng điệu của phong
trào thơ ca này.
Giọng điệu trong thơ Xuân Diệu được nhìn nhận tương
đối phong phú, lúc trữ tình say đắm, lúc buồn sầu ảo não,
lúc sẻ chia tâm tình,... Nhìn từ góc độ sinh thái, giọng điệu
là phương diện để bộc lộ cảm xúc, thái độ của con người
với tự nhiên. Sự nâng niu, ngợi ca và hướng tới cái hài hịa
chỉ được biểu đạt khi cái tơi tìm được một giọng phù hợp. Ở
đây, người viết chủ yếu đi vào hai giọng tiêu biểu của Thơ
thơ và Gửi hương cho gió: giọng đắm say, thiết tha và giọng
điệu buồn sầu, âu lo. Hai sắc thái tưởng nhu đối lập đã tổng
hịa, góp phần tạo nên đặc trưng trong thơ Xuân Diệu giai


đoạn trước Cách mạng tháng Tám.
Trước hết, nổi bật hơn cả trong hai tập thơ là giọng đắm
say, tha thiết. Đây được coi như một “nốt chủ” của giọng
điệu trong thơ Xuân Diệu. Giọng điệu ấy được thể hiện qua
cách sử dụng từ ngữ miêu tả tự nhiên, bày tỏ khát khao và
cảm xúc của cái tôi với tự nhiên. Khi miêu tả về thiên nhiên
dù ở trong cõi thực hay mộng tưởng, nhà thơ thường sử
dụng những từ láy (lung linh, ánh ỏi, run rẩy, long lanh,...).
Những tính từ ấy vừa gợi ra sự chuyển động của ánh sáng
(sự giao hòa giữa các yếu tố trong tự nhiên), đồng thời tạo
cho câu thơ tính nhạc và sức biểu cảm: “Ánh sáng ôm trùm
những ngọn cao/ Cây vàng rung nắng lá xơn xao/ Gió thơm
phơ phất bay vơ ý/ Đem đụng cành mai sát nhánh đào” (Nụ
cười xuân). Đồng thời, Xuân Diệu còn kết hợp những động
từ mạnh để miêu tả thiên nhiên dù trong trạng thái ngập tràn

sức sống hay lúc úa tàn, biệt ly. Bức tranh tự nhiên được
gắn với các tính từ vốn chỉ gắn với con người (duyên, âu
yếm, mỹ miều, đau thương,...). Cách sử dụng từ ngữ miêu
tả khiến thiên nhiên hiện lên như một sinh thể có linh hồn,
cảm xúc. Đó khơng phải sáng tạo của riêng Xuân Diệu,
nhưng việc vận dụng nhiều, với tần suất cao độ đã phản ánh
tâm hồn luôn khao khát, say mê với vẻ đẹp trần thế.


Thiên nhiên với Xuân Diệu cũng không phải đối tượng
để trơng nhìn, ngợi ca như một người chiêm ngưỡng từ xa.
Xuân Diệu muốn mở lòng, cảm nhận tất cả những bước đi
thời gian cũng như vẻ đẹp trong không gian vườn trần.
Mong muốn ấy được diễn đạt qua một loạt các động từ: cắn,
riết, thâu, vây, mở,...: “Tôi muốn tắt nắng đi/ Cho màu
đừng nhạt mất/ Tơi muốn buộc gió lại/ Cho hương đừng
bay đi”. (Vội vàng)
Bên cạnh cách lựa chọn, sử dụng từ ngữ, giọng điệu tha
thiết, say đắm cịn biểu hiện qua các kiểu câu định nghĩa
(hồn tơi là.../tôi là...), kiểu câu cầu khiến và câu mệnh thức.
Những câu cảm thán được sử dụng liên tiếp trong hai tập
thơ:
“Ngày trong lắm, lá êm, hoa đẹp quá
Nhan sắc ơi, cây cỏ chói đầy sao”
(Mời yêu)
“Trời xanh thế! Hàng cây thơ biết mấy
Vườn non sao! Đường cỏ mộng bao nhiêu”
(Xuân đầu)



Với Xuân Diệu, chưa bao giờ là đủ để nói hết về khát
khao tình yêu và cái đẹp trong cuộc đời. Giọng điệu thơ gợi
ra một hồn thơ thường trực với trạng thái ngỡ ngàng, xúc
động, ngạc nhiên trước vẻ đẹp tự nhiên.
Trong Thơ thơ và Gửi hương cho gió, nhà thơ cịn nói
về tự nhiên với sự trân trọng, tự hào: “Của ong bướm này
đây tuần tháng mật/ Này đây hoa của đồng nội xanh rì/ Này
đây lá của cành tơ phơ phất/ Của yến anh này đây khúc
tình si/ Và này đây ánh sáng chớp hàng mi...” (Vội vàng);
“Đây chùm mong nhớ khóm yêu thương/ Đây nụ mơ mịng
gửi ánh sương/ Đây là bâng khng run trước gió/ Đây em,
cành thẹn lần cảnh thương”. (Dâng). Cách nói chủ động
khẳng định “đây/ này đây...” liên tiếp tạo nên nhịp thơ
nhanh, giọng thơ sôi nổi, nồng nàn.
Các kiểu câu cầu khiến, cầu khẩn giục giã góp phần
khẳng định mong muốn quấn qt, giao hịa với tự nhiên.
Đồng thời, nó cũng gửi gắm quan niệm sống “vội vàng”,
tận hưởng trọn vẹn vẻ đẹp tự nhiên, trong những khoảnh
khắc của thực tại.
Giọng điệu buồn
Cái tơi trữ tình trong thơ Xn Diệu là sự hài hòa của


những đối cực. Hiếm khi giọng điệu trong thơ Xuân Diệu ở
trạng thái trầm tĩnh, nhẹ nhàng. Cùng với giọng thiết tha gửi
gắm những khát khao mãnh liệt là giọng buồn với những
cung bậc khác nhau. Giọng điệu buồn được biểu hiện trong
những từ ngữ miêu tả cảnh thiên nhiên khi hòa điệu với tâm
trạng. Nếu như trong giọng đắm say, tha thiết với niềm vui
sướng, thiên nhiên hiện lên ấm nóng, tràn đầy sức sống,

giàu hương sắc và tính nhạc thì khi tự nhiên hài hịa với
cảm xúc buồn, cô đơn lại lạnh lẽo lại được miêu tả với
những tính từ đối lập: “Phút gần gũi cũng như giờ chia
biệt/ Tưởng trăng tàn, hoa tạ với hồn tiêu” (Yêu), “Với
sương lá rụng trên đầu gần gũi/ Thôi đã hết hờn ghen và
giận tủi” (Tương tư chiều), “Hoa thu không nắng cũng
phai màu/ Trên mặt người kia in nét đau” (Hoa nở để mà
tàn), “Vì vội đến tìm nhau, tơi sẽ/ Chỉ thấy người thương
nhưng chẳng thấy tình thương/ Và như màu nắng nhạt, như
hương/ Theo gió mất tình người đành tản mát”(Núi xa). Có
thể dễ nhận thấy, cảm xúc buồn sầu, lo âu thường thường
được thể hiện trong những từ ngữ tả thiên nhiên với sắc thái
lạnh, tàn phai: rơi, tàn, úa, rụng, phai màu,...
Bên cạnh những giọng tự hào, ngỡ ngàng, đắm say
trước vẻ đẹp thiên nhiên và khát khao tình yêu tràn đầy


hạnh phúc, là giọng buồn ảo não, hòa hợp với cảnh vật.
Cảm thức về thời gian tuyến tính, một đi không trở lại
“Xuân đương tới nghĩa là xuân đương qua/ Xuân còn non
nghĩa là xuân sẽ già” (Vội vàng) đem đến cho nhà thơ góc
nhìn cảnh vật ở những chiều đối lập. Lúc này đây có thể
thấy sự sống căng đầy, màu sắc rực rỡ hòa cùng cảm xúc ái
ân, sau có thể đổi thay, phai nhạt hương sắc:
“Có chút hồ buồn trong lá rụng
Bị nhàu ai tưởng dưới trăm chân
Bông hoa bứt cánh, rơi không tiếng
Chẳng hái mà hoa cũng hết dần”
(Ý thu)
Cảnh vật có thể mang màu sắc của một “hoang mạc cô

liêu”, mất đi sự sống, rơi rụng nét thanh tân. Ám ảnh về sự
ngắn ngủi của đời người luôn song hành với nhận thức về
sự ngắn ngủi của tự nhiên. Ý thức ấy khiến khát khao khơng
thành trong tình u, khát vọng bất khả khi níu giữ vẻ đẹp
thiên nhiên càng “nhuộm” nỗi buồn. Nếu như sự say đắm,
nồng nàn là “nốt chủ” trong giọng điệu thơ Xuân Diệu, thì
giọng điệu buồn sầu, ảo não là những nốt trầm tôn lên sự


trân trọng, nâng niu tự nhiên và sự sống thực tại.
Giọng điệu buồn, lo âu trong thơ Xuân Diệu cũng có
lúc được biểu đạt qua cách nói cảm thán. Xuân Diệu đẩy
đến cao độ cả niềm vui và nỗi cô đơn trong lịng mình: “Có
nhiều lúc tiếng gió thê thiết q/ Như gió đau một nỗi khổ
vơ hình/ Như bao điều ảo não của nhân sinh/ Đã in vết nơi
hồn của gió” (Tiếng gió). Khi diễn đạt nỗi buồn, giọng điệu
thơ Xuân Diệu thường có nhịp chậm rãi, sử dụng nhiều
thanh bằng, đồng thời thường sử dụng những câu hỏi cùng
giọng sẻ chia, tâm tình: “Ngày muốn hết buồn như đời
muốn hết/ Chiều bị thương ráng sức kéo mình đi/ Lũ mây
già, nghìn vạn khối lâm ly/ Đứng giữa lưới bủa vây trời nhỏ
hẹp” (Sắt); “Thong thả, chiều vàng thong thả lại…/Rồi đi…
Đêm xám tới dần dần…/Cứ thế mà bay cho đến hết/ Những
ngày, những tháng, những mùa xuân” (Giờ tàn).
Giọng điệu buồn thương, âu lo trong thơ Xuân Diệu
khác với giọng trong thơ của Chế Lan Viên – một trong
những nhà Thơ mới với khuynh hướng siêu thực:“Trời hỡi
trời! Hơm nay ta chán hết/ Những sắc màu hình ảnh của
Trần Gian!/Thịt bại rồi, nhãn quan đà lả mệt/ Thú điên
cuồng ao ước vẫn khôn ngăn” (Tạo lập). Trong “Điêu tàn”,

giọng buồn của nhà thơ gửi gắm qua những câu hỏi cho


“hồn ma”, “bóng quỷ” trong ảo mộng, chới với, tuyệt vọng
tìm mình trong cảnh của q khứ đã khơng cịn ? Cũng là
sắc điệu của sự tàn phai, rơi rụng nhưng gắn với “hồn ta”,
cô đơn, chối bỏ cuộc sống trần thế. Nếu như giọng buồn
đau sầu não của Chế Lan Viên tìm về đất nước Chiêm
Thành đã mất, mang tính chất gay gắt, quyết liệt xa rời thực
tại thì giọng buồn trong thơ Xuân Diệu vẫn gắn liền với
hình ảnh trần gian, không xa rời sự sống thực tại dẫu cho nó
có đang rụng rơi, đang tan rã. Đặt trong tương quan đối
sánh với giọng buồn trong thơ “Nguyễn Bính” – một trong
những nhà Thơ mới tiêu biểu, được ngợi ca là “nhà thơ
chân quê”, ta có thể thấy giọng điệu ảo não gắn với nỗi
buồn sầu cho sự lỡ làng, dở dang. Nó chi phối tới những
hình ảnh quen thuộc như “mưa” và “nước mắt”. Nguyễn
Bính ít khi mượn hình ảnh thiên nhiên để nói về nỗi buồn,
cảnh vật trong thơ ông đại diện cho thế giới thôn quê trong
trẻo, tươi sáng. Điệu buồn của Xuân Diệu mang đậm màu
sắc phương Tây, với giọng bộc bạch trực tiếp, táo bạo hơn
trong cách sử dụng hình ảnh thơ và ngơn từ về tự nhiên.
Sự tổng hịa của hai giọng điệu xuyên suốt những trang
thơ trong Thơ thơ và Gửi hương cho gió góp phần thể hiện
thái độ của cái tơi trữ tình với thiên nhiên – nơi trú ngụ tinh


thần một cách đa chiều. Trân trọng, nâng niu tự nhiên
khơng phải ln được thể hiện bằng giọng trữ tình ngợi ca,
tha thiết mà còn biểu đạt qua sắc thái sầu não, lo âu. Sự

phong phú trong giọng điệu thơ cũng tạo nên nét đặc trưng
trong thơ Xuân Diệu: “Thơ Xuân Diệu buồn tịch mịch ngay
trong cả những điều ấm nóng tươi vui”.
Biểu tượng sinh thái
Đặc trưng tính hình tượng trong văn học đã góp phần
xây dựng nên biểu tượng nghệ thuật, có sức nén tình cảm,
tư tưởng của người nghệ sĩ. Theo Từ điển thuật ngữ văn
học: “Trong nghĩa rộng, biểu tượng thể hiện đặc trưng phản
ánh cuộc sống bằng hình tượng văn học nghệ thuật. Theo
nghĩa hẹp, biểu tượng là một phương thức chuyển mã của
lời nói đặt bên cạnh ẩn dụ, hoán dụ hoặc là một loại hình
tượng nghệ thuật đặc biệt có khả năng truyền cảm lớn, vừa
khái quát được bản chất của một hiện tượng nào đấy, vừa
thể hiện một quan niệm, một tư tưởng hay một triết lí sâu xa
về con người và cuộc đời”. Xuất phát từ cách định nghĩa cơ
bản, người viết tìm hiểu những biểu tượng nghệ thuật tiêu
biểu trong việc khái quát, thể hiện vẻ đẹp thiên nhiên và sự
hài hòa của con người với tự nhiên – những nền tảng chính
trong việc nghiên cứu tư tưởng sinh thái của Thơ thơ và


Gửi hương cho gió
Những biểu tượng của vẻ đẹp tự nhiên
Thiên nhiên hiện lên trong thơ Xuân Diệu vừa là nơi trú
ngụ, bao bọc, vừa là nguồn thi cảm của tâm hồn nghệ sĩ.
Hình ảnh thiên nhiên đi vào thơ ca đã được soi chiếu, sàng
lọc qua góc nhìn thẩm mỹ của người cầm bút, thế nhưng
trước hết, nó phải chứa đựng vẻ đẹp sẵn có. Thiên nhiên
trong thơ Xuân Diệu khơng ít lần được tái hiện với vẻ đẹp
tự nhiên, chân thực. Vẻ đẹp ấy ít khi gắn liền với một địa

điểm cụ thể như không gian làng quê hay thành thị, mà gắn
với những biểu tượng tự nhiên mang tính chất khái quát,
quen thuộc.
Thiên nhiên của Thơ thơ và Gửi hương cho gió thường
hiện lên với hai đối cực: vẻ đẹp tràn đầy sức sống, niềm vui
và vẻ buồn sầu, ly biệt. Khi nói tới vẻ đẹp tươi sáng, trong
trẻo của thiên nhiên, mùa xuân, hoa, bướm, ánh sáng,… là
những biểu tượng quen thuộc. Bức tranh xuân trong “Vội
vàng” hội tụ những chi tiết điển hình nhất về mùa xuân
trong thơ Xuân Diệu: “Của ong bướm này đây tuần tháng
mật/ Này đây hoa của đồng nội xanh rì/ Này đây lá của
cành tơ phơ phất/ Của yến anh này đây khúc tình si/ Và này


đây ánh sáng chớp hàng mi/ Mỗi sáng sớm, thần vui hằng
gõ cửa”. Mùa xuân không chỉ đại diện cho một khoảng thời
gian, đi vào thơ Xuân Diệu, nó là biểu tượng của cái đẹp
(thiên nhiên và con người), sự sống và tình u:
“Xn khơng chỉ ở mùa xn ba tháng;
Xuân là khi nắng rạng đến tình cờ,
Chim trên cành há mỏ hót ra thơ;
Xn là lúc gió về khơng định trước.”
(Xuân không mùa)
Với Xuân Diệu, mùa xuân là biểu tượng của sự bắt đầu,
của “trinh nguyên”. Quan niệm thẩm mĩ của nhà thơ khẳng
định đó là thời điểm căng đầy của sự sống, vạn vật kết đôi:
“Hoa thứ nhất có một mùi trinh bạch/ Xuân đầu mùa trong
sạch vẻ ban sơ/ Hương mới thấm bền ghi như thiết thạch/
Sương nguyên tiêu, trời đất cũng chung mờ” (Tình thứ
nhất). Mùa xuân vừa gắn liền với không gian nghệ thuật của

tác phẩm (khơng gian mùa), đồng thời nó là một biểu tượng
cho vẻ đẹp tự nhiên lí tưởng trong con mắt nhà thơ. Nếu
như mùa xuân trong thơ Xuân Diệu gắn với vẻ đẹp ở “vườn
trần” để thi sĩ đắm say, tận hưởng thì mùa xuân trong thơ


Chế Lan Viên lại đem tới u sầu ngay cả mang chứa những
vẻ đẹp của cảnh sắc: “Tơi có chờ đâu, có đợi đâu/ Đem chi
xuân lại gợi thêm sầu?/ Với tơi tất cả đều vơ nghĩa/ Tất cả
khơng ngồi nghĩa khổ đau!”(Xuân). Bức tranh mùa xuân
cũng có lúc được tái hiện tràn đầy âm vang, hương hoa và
sắc nắng: “Đây tà áo chuối non bay phấp phới/ Phơi màu
xanh lấp lống dưới sương mai/ Đây, pháo đỏ lập lịe trong
nắng chói/ Đây hoa đào mỉm cười đón xuân tươi” nhưng
cũng khơng khiến nhà thơ thơi hồi niệm q vãng: “Hãy
bảo tao: cành hoa đào mơn mởn/ Không phải khối máu của
dân Chàm/ Cành cây thắm nghiêng mình trong nắng sớm/
Không phải là hài cốt vạn quân Chiêm” (Xuân về). Mùa
xn khơng cịn là biểu tượng của niềm vui, khát khao giao
hòa, “thiên đường trên mặt đất” như trong thơ Xn Diệu
khi lịng nhà thơ “lạnh lẽo giá băng thơi”. Nó trở thành một
đối ảnh của quá khứ đau thương và xa lạ với tâm hồn thi sĩ.
Ánh sáng là một biểu tượng thường xuất hiện trong
những bức tranh về vẻ đẹp thiên nhiên trong thơ Xuân
Diệu: “Ánh sáng ôm trùm những ngọn cao/ Cây vàng rung
nắng lá xôn xao/ Gió thơm phơ phất bay vơ ý/ Đem đụng
cành mai sát nhánh đào (Nụ cười xuân) hay: “Trong vườn
đêm ấy nhiều trăng quá/ Ánh sáng tuôn đầy các lối đi/ Tôi



với người u qua nhẹ nhẹ/ Im lìm, khơng dám nói năng
chi” (Trăng). Ánh sáng trong hai tập thơ được gắn với nắng
và trăng – hình ảnh tự nhiên quen thuộc trong thơ Xuân
Diệu. Ánh sáng được thể hiện ở nhiều cấp độ của nắng:
“nắng vàng”, “nắng xôn xao”, “nắng cháy”, “nắng xưa”,
“nắng rọi”… Ánh sáng của trăng thường gắn với khơng
gian con đường, dịng sơng. Nếu như mùa xn là biểu
tượng cho cái đẹp tươi mới, sức sống thanh tân thì ánh sáng
trong thơ Xn Diệu ln gắn với những xao động nội tâm.
Ở mức độ cụ thể hơn, vẻ đẹp tự nhiên còn được thể hiện
qua những biểu tượng hoa, lá, gió, mây,… Những biểu tượng
trên vừa đại diện cho cái đẹp, vừa thể hiện mối quan hệ hài
hòa giữa con người và tự nhiên: “Lá như con mắt cụm mây
nhìn/ Trái tựa hình tim, chim hót xin/ Gió ấy đầu hoa ngang
ngửa thắm/ Nhị vàng hoa cạnh liếc hoa bên” (Lưu học sinh);
“Tơ liễu dong gần tơ liễu êm/ Bướm bay lại sánh bướm bay
kèm/ Nghìn đơi chim hót, chàng trai ấy/ Khơng có người u
để gọi “em” (Rạo rực). Những biểu tượng ấy góp phần xây
dựng nên không gian nghệ thuật rất riêng của Xuân Diệu và
đại diện cho vẻ đẹp giao hòa, tương ứng giác quan của sự vật
trong góc nhìn nhà thơ.
Một biểu tượng xuyên suốt trong hành trình sáng tác


của Xuân Diệu là trăng – nguồn thi liệu quen thuộc trong
thơ ca. Nhưng trăng với Xuân Diệu không phải một biểu
tượng của đau thương tột cùng, mang vẻ kì dị, huyền ảo,
thậm chí đi vào siêu thực như thơ Hàn Mặc Tử. Với Xuân
Diệu, trăng là nguồn cảm hứng để thi sĩ giãi bày tâm trạng
buồn, cô đơn: “Họ nói thơi mong gặp gỡ gì!/ Xn mình tất

cả đã trơi đi…/Thế rồi họ khóc khơng thành tiếng/ Trong
lúc trăng tàn bạt gió khuya”. (Những kẻ đợi chờ). Trăng
thường đồng hiện ở cả hai nghĩa thực và sự hóa thân của cái
tơi trữ tình hay đối tượng gửi những khát khao yêu mến:
“Trăng của xa xôi, trăng của hão huyền/ Ngươi vĩnh viễn
như lịng trăng ý gió/ Trăng của mắt, trăng của hồn rạng
tỏ/ Trăng rất trăng là trăng của tình dun” ( Ca tụng).
Cũng có lúc trăng được thổi hồn, mang theo những cảm
xúc, trạng thái của con người: “Trăng nhập vào đây cung
nguyệt lạnh/ Trăng thương, trăng nhớ, hỡi trăng ngần”
(Nguyệt cầm). Trăng trong thơ Xuân Diệu vừa là biểu tượng
cho vẻ đẹp giàu chất thơ của tự nhiên để con người ngưỡng
vọng, vừa là nơi để con người gửi gắm những cảm xúc, đặc
biệt là cảm xúc ái ân, đơi lứa.
Những biểu tượng về sự hài hịa
Cùng với hệ thống biểu tượng khá phong phú về vẻ đẹp


tự nhiên, trong thơ Xuân Diệu còn xuất hiện những biểu
tượng thể hiện sự hài hòa, song hành trong cảm xúc con
người với thiên nhiên.
Như đã đề cập ở chương trước, Xuân Diệu nhiều lần
nói về tâm hồn, thế giới tinh thần, cảm xúc của mình gắn
với hình ảnh vườn. Đây là biểu tượng thường được gắn với
tâm hồn, tấm lòng của thi sĩ. Vườn vừa đại diện cho sức
sống của mùa xuân, vừa đại diện cho sự phong phú, là nơi
diễn ra những trạng thái, sự chuyển mình của tự nhiên. Có
thể nói, vườn vừa là hình ảnh thực, vừa là biểu tượng trọn
vẹn nhất cho “nơi trú ngụ đầy chất thơ”. Bởi trong thơ Xuân
Diệu, vườn vừa gắn với không gian trần thế, vừa được khái

quát thành một đại diện cho tâm hồn. “Vườn” của thế giới
cảm xúc ấy chứa đựng những trạng thái, những rung động
của cái tơi trữ tình.
Trong thơ Xn Diệu, cảm xúc ln hịa điệu, song
hành cùng tự nhiên. Cái hài hòa là biểu hiện chiều sâu của
tư tưởng sinh thái. Ý nghĩa ấy được mã hóa trong những
hình ảnh vườn: “Cũng may mắn lòng anh còn trẻ quá/ Máu
mùa xuân chưa nở hết bơng hoa/ Vườn mưa gió cịn nghe
chim rộn rã/Anh lại cịn u, bơng lựu, bơng trà” (Tình thứ
nhất), “Tất cả vườn anh rất đợi chờ” (Dâng), “Lịng tơi đó,


một vườn hoa cháy nắng” (Tặng thơ). Biểu tượng “vườn” là
nơi trú ngụ đầy chất thơ, bởi nó chứa đựng vẻ đẹp tự nhiên,
gắn với không gian trần thế và đồng thời, là nơi con người
tìm thấy mình. Định nghĩa về lịng mình với những đặc
điểm phong phú, tràn đầy của vườn, người thi sĩ tạo lập một
biểu tượng của sự nhận thức, gắn bó với thiên nhiên. Cái tơi
cá nhân bày tỏ sự thiết tha, nồng nàn khi nói về tâm hồn
mình: “Đây là qn tha hồ mn khách đến/ Đây là bình
thu hợp trí mn hương/ Đây là vườn chim nhả hạt mười
phương/ Hoa mật ngọt giao chen cùng trái độc” (Cảm xúc).
Gắn liền với biểu tượng vườn là hoa – biểu tượng của chất
thơ trong cõi lòng thi sĩ, biểu tượng cho sự giao hòa và khát
vọng lí tưởng hóa, trân trọng, nâng niu vẻ đẹp con người ở
tuổi trẻ và tình u: “Có những bài thơ rất thắm tươi/
Nhưng mà chỉ nở giữa lòng người/ Chớ mong hái được loài
hoa ấy!/ Tay nhẹ làm hoa cũng rã rời” (Có những bài thơ)
Sẽ khó phân định rạch ròi những biểu tượng đại diện
cho vẻ đẹp của tự nhiên và biểu tượng của sự hài hòa trong

thơ Xuân Diệu khi nhìn từ góc độ phê bình sinh thái. Bởi lẽ
trong những chi tiết nổi bật về hương sắc thiên nhiên ln
có sự đồng điệu với cảm xúc, tâm trạng của người nghệ sĩ.
Nếu khơng đem theo tấm lịng say đắm, thái độ trân trọng


vẻ đẹp tự nhiên trong thực tại, những hình ảnh thiên nhiên
sẽ chỉ đơn thuần mang nét nghĩa tả thực thay vì nâng lên
thành giá trị biểu tượng. Trong số những biểu tượng vừa chỉ
ra, ta cũng cần lưu ý rằng sẽ có sự giao thoa giữa biểu tượng
và khơng gian nghệ thuật, đặc biệt trong cảnh vườn, mùa
xuân – tổng hịa vẻ đẹp tự nhiên trong thực tại.
Khơng gian sinh thái
Không gian và thời gian được coi là những điều kiện tất
yếu trong việc cấu thành sự tồn tại của thế giới, mọi sự vật
đều gắn với hệ tọa độ không – thời gian xác định. Trong thế
giới nghệ thuật, không gian – thời gian được xem như
những điều kiện tất yếu chi phối tới sự tồn tại của hình thức.
Cùng với thời gian, khơng gian nghệ thuật có ý nghĩa thể
hiện quan niệm về thế giới và con người của nhà văn và
phong cách sáng tạo của một tác giả. Theo Lê Bá Hán trong
Từ điển thuật ngữ văn học: “Khơng gian nghệ thuật là hình
thức bên trong của hình tượng nghệ thuật thể hiện tính
chỉnh thể của nó”. Đối với các tác giả Thơ mới, khơng gian
nghệ thuật mang đậm tính cá nhân. Nếu như khơng gian
nghệ thuật của Nguyễn Bính là nơi thơn q bình n, thơ
mộng, của Hàn Mặc Tử là không gian siêu thực, mộng mị
gắn với hồn và trăng thì khơng gian nghệ thuật tiêu biểu



trong thơ Xuân Diệu là không gian trần thế. Từ góc nhìn
sinh thái, khơng gian trong Thơ thơ và Gửi hương cho gió là
phương thức tạo lập nơi “trú ngụ đầy chất thơ”. Không gian
ấy hầu như bao chứa cả khơng gian tình u và nỗi buồn.
Khơng gian nghệ thuật ấy được thể hiện qua không gian
thực tại và không gian trong tâm tưởng của cái tơi trữ tình.
Khơng gian của thực tại: mùa và vườn trần
Là nhà thơ của lòng yêu đời và niềm say mê ân ái, thời
gian trong thơ Xuân Diệu không nằm ở quá khứ xa xôi mà
chủ yếu ở trong thực tại. Thời gian trong thơ ơng ln gắn
bó chặt chẽ với khơng gian nghệ thuật và do đó, khơng gian
nghệ thuật trước hết tất yếu phải thuộc về hiện thực. Khác
với Huy Cận, Thế Lữ, không gian thực tại trong thơ Xuân
Diệu chủ yếu gắn với vẻ vui tươi, ấm áp, chan hòa.
Trước hết, đó là vườn trần – khơng gian tụ hội âm
thanh, sắc màu, hương thơm của hoa lá, chim bướm, nắng
và gió,… Những biểu tượng về vẻ đẹp thiên nhiên đều được
thể hiện trong khơng gian vườn. Tuy nhiên, đó là khơng
gian mang tính khái qt, khơng gắn với một nơi chốn cụ
thể nào. Không gian vườn trong thơ Xuân Diệu được miêu
tả với góc nhìn lí tưởng hóa, mĩ lệ hóa cả sự vật thiên nhiên


và bóng dáng con người. Trong khơng gian vườn, hàng loạt
các hình ảnh rực rỡ dưới ánh nắng được khơi dậy sức sống,
ngập tràn những cỏ cây, hoa lá. Vào ban đêm, đó là khơng
gian “vườn – trăng” thi vị, soi tỏ những cảm xúc, khát khao
tình u đơi lứa: “Sương nương theo trăng ngừng lưng trời/
Tương tư nâng lòng lên chơi vơi…(Nhị hồ). Dù ở thời điểm
nào, không gian nghệ thuật trong thơ Xuân Diệu luôn

hướng về ánh sáng, chú trọng vào những đường nét của tự
nhiên và đặc biệt hơn, nhịp điệu và tính nhạc của sự vật
thiên nhiên (gió, tiếng suối,…). Qua góc nhìn của nhà thơ,
khơng gian “vườn trần” hiện lên lung linh và mang đầy hơi
thở sự sống. Nhà nghiên cứu Lý Hoài Thu nhận xét: “Hồn
thơ Xn Diệu dù tung hồnh trên khắp vịm trời thì cuối
cùng vẫn phải tìm cách hạ xuống mặt đất. Vườn trần đó
thực sự mới là chỗ đứng, là vương quốc riêng của Xn
Diệu”.
Trong thơ Nguyễn Bính, khơng gian vườn là cũng là
một đặc sắc nghệ thuật, nhưng khác biệt với Xuân Diệu ở
chỗ không gian ấy được hiện lên như một chỉnh thể của bức
tranh làng quê Bắc Bộ. Vườn trong trang thơ Nguyễn Bính
có những lồi hoa cụ thể: cành dâu, hoa cam, hoa bưởi…và
hình ảnh cánh bướm, dậu mùng tơi,… quen thuộc với văn


hóa đồng q. Vườn q trong thơ Nguyễn Bính vừa mang
tính chất cụ thể, vừa điển hình, vừa chân thực vừa mang sắc
màu cổ tích trong giấc mơ của người con tha hương. Không
gian vườn trần trong thơ Xuân Diệu sinh động, giàu sức
sống, nhưng mang màu sắc biểu tượng, khái qt nhiều hơn.
Đó là khơng gian gắn bó chặt chẽ với thời gian – thực tại.
Do đó, khi nghiên cứu trên góc độ phê bình sinh thái, người
nghiên cứu chú trọng vào tư tưởng, vào thái độ đằng sau
không gian ấy hơn là đơn thuần tổng hợp, khám phá những
chi tiết, hình ảnh về thiên nhiên.
Khơng gian của thực tại trong thơ Xuân Diệu còn gắn
liền với mùa. Từ cảm thức về thời gian hữu hạn, không gian
nghệ thuật trong thơ Xuân Diệu gắn liền với mùa. Ở đó,

mỗi thời điểm lại mang theo những vẻ đẹp tự nhiên khác
nhau. Khơng gian mùa xn gắn bó chặt chẽ nhất với không
gian “vườn trần”: “Giữa vườn ánh ỏi tiếng chim vui…Sao
buổi đầu xuân êm ái thế” (Nụ cười xuân). Không gian mùa
thu được gợi tả với vẻ đẹp mơ hồ, bâng khuâng:“Nõn nà
sương ngọc quanh thềm đậu/ Nắng nhỏ bâng khng chiều
lỡ thì/ Hư vơ bóng khói trên đầu lạnh/ Cành biếc run run
chân ý nhi” (Thu). Mùa thu trong thơ Xuân Diệu không
mang dáng vẻ tiêu điều, lạnh lẽo, u sầu như Tản Đà, Chế


Lan Viên. Với nhà thơ, dù ở thời điểm nào, thiên nhiên cũng
mang theo sự sống ở nhiều tầng bậc khác nhau, được nhân
hóa một cách sinh động. Bức tranh mùa trong thơ Xn
Diệu khơng gắn với dịng hồi niệm, trốn tránh thực tại,
hiếm khi thiếu đi sắc màu và ánh sáng: “Mùa hạ cháy ở
dưới trời đốt trắng/ Nắng hồng nung, mây bạc chảy ngân
nga/ Cảnh thưa thớt chỉ một con đường vắng/ Cái am xưa,
hay đôi chiếc bia già” (Hè)
Chất thơ trong thế giới thiên nhiên của Thơ thơ và Gửi
hương cho gió khơng chỉ gắn với cảm xúc tươi vui, say đắm
trong tình yêu và vẻ đẹp thực tại, mà cịn song hành với
khơng gian chiều – nơi thường được gửi gắm những nỗi
buồn, nỗi nhớ. Ở khơng gian ấy vẫn có hoa, cây cỏ nhưng
hiện lên với dáng điệu lẻ loi, nhỏ bé, phản ánh tâm trạng
của nhà thơ:“Buổi chiều đi lảng ở chân mây/ Hoa tím trên
song thoảng điệu gầy/ Cửa đợi khép thêm đơi mí lả/Mái
tranh nghe ấm một niềm tây” (Buổi chiều) hay: “Hôm nay
chiều đợi chờ/ Nắng nhỏ cành vương vấn/ Sương hồng cây
ước mơ/ Em đến, lòng van khấn” (Chiều đợi chờ). Thực

chất, không gian của thực tại trong thơ Xuân Diệu muốn
nhấn mạnh tới cảm quan của nhà thơ về cái đẹp và thời
gian: vẻ đẹp chỉ thực sự có ý nghĩa, chỉ đậm hương sắc nhất


trong khoảnh khắc hiện tại. Xét ở một góc độ, không gian
cũng là một biểu tượng cho quan niệm và ý thức của nhà
thơ về thế giới. Thi sĩ là người chọn lọc, sắp xếp và tạo lập
nên không gian nghệ thuật hài hòa giữa cảm xúc con người
và cảnh vật tự nhiên – đưa tự nhiên thành một nơi trú ngụ
của tinh thần, bao bọc và tô đậm những sắc thái tâm trạng
của con người.
Không gian trong tâm tưởng của cái tơi trữ tình
Dù khơng nổi bật như khơng gian trần thế, không gian
trong mộng tưởng của cái tôi trữ tình cũng được tái hiện
trong Thơ thơ và Gửi hương cho gió. Đó là khơng gian
được tạo nên khi con người đào sâu vào thế giới tinh thần
nội tại. Không gian ấy không nằm ở “vườn trần”, cũng
không thuộc về một mùa, một thời điểm nhất định. Nói cách
khác, nó là thế giới của riêng Xn Diệu. Khơng gian trong
tâm tưởng thường gắn với tâm trạng buồn sầu, lo âu và cả
những rung cảm mơ hồ: “Trăng thu thường thấy trắng
phau/ Ấy màu của tuyết, ấy màu của băng/ Lạnh thay! Là
cảnh cô Hằng/ Lạnh trong cung lạnh, trong trăng lạnh
lùng” (Bụi mưa mờ cũ). Không gian ấy cũng có trăng,
nhưng khơng cịn là trăng của thực tại, với ánh vàng soi rọi
“con đường” hay “sông nước” (cũng là những không gian


của trần thế). Trăng được trừu tượng hóa, chuyển vào thế

giới lạnh lẽo, u sầu.
Đó cịn là khơng gian khi “bản ngã cá nhân” ý thức
được sự cô đơn của mình và vẻ đẹp của thực tại trở nên úa
tàn, tan biến, trở thành đối ảnh của vườn trần thế - “sa mạc
cơ liêu”: “Ta như cơ khách khoảng đìu hiu/ Đã gặp chiều
hôm lại bước liều/ Muốn trốn sầu đơn mn vạn kiếp/ Lại
tìm sa mạc của tình u” (Nước đổ lá khoai). Không gian
trong tâm tưởng của nhà thơ cịn là một thế giới riêng,
nhưng khơng phủ định những vẻ đẹp của thế giới lí tưởng,
mà đẩy lên cao độ sự cảm nhận giữa “cái tôi cá nhân” và vũ
trụ ở những thanh âm, hương sắc:
“Hãy tự buông cho khúc nhạc hường
Dẫn vào thế giới của Du dương
Ngừng hơi thở lại, xem trong ấy
Hiển hiện hoa và phảng phất hương”
(Huyền diệu)
Điều cần chú ý trong không gian tâm tưởng của thi sĩ,
là cái tôi khi đào sâu vào thế giới nội tại, vẫn khơng xa rời
những hình ảnh tự nhiên: hoa, trăng, nhạc và hương. Không


tìm về tháp Chàm trong quá khứ như Chế Lan Viên hay hịa
cùng điệu sầu mn thuở của vũ trụ như Huy Cận, không
gian “Cái tôi” trong thơ Xuân Diệu gắn bó với những hình
ảnh như “núi xa”, Hy Mã Lạp Sơn, “chiếc đảo – hồn tơi”
(Nguyệt Cầm, Trăng). Đó là những không gian trừu tượng
của những khát vọng và cảm xúc (chủ yếu ở sắc điệu buồn
và cô đơn) bên cạnh không gian “vườn trần” phong phú,
tràn đầy sự sống. Khơng gian nghệ thuật trong thơ Xn
Diệu có nhiều tầng, mảng, hình khối khác nhau. Đó là sự

pha trộn giữa cái hữu hình và vơ hình, giữa những sắc màu,
đường nét và thanh âm. Nhìn ở nhiều khía cạnh, những biểu
tượng, chi tiết của thiên nhiên vẫn là nền tảng và đích đến
của sự tạo lập khơng gian ấy.
Việc tìm hiểu, đánh giá về tư tưởng sinh thái trong thơ
ca bắt đầu từ những phương diện của hình thức nghệ thuật.
Các thơng điệp gắn với góc nhìn sinh thái được người viết
tập trung nhìn nhận trên ba khía cạnh tiêu biểu: giọng điệu,
biểu tượng và không gian nghệ thuật. Thực chất, những
biểu hiện nghệ thuật trên đều đã được khai thác trong các
khuynh hướng nghiên cứu nội tại văn bản. Khóa luận khơng
bao qt và liệt kê tất cả các phương diện mà chú trọng vào
những yếu tố, chi tiết chi phối trực tiếp tới việc thể hiện các


×