Tải bản đầy đủ (.docx) (22 trang)

(Thảo luận Kinh doanh quốc tế) Ảnh hưởng của pháp luật xuất nhập khẩu Nhật Bản tới hoạt động xuất khẩu vải thiều Việt Nam sang thị trường này

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (228.66 KB, 22 trang )

1


Danh sách thành viên nhóm 13
STT
1
2
3
4

Họ và tên
Vũ Thị Thu Trang
Nguyễn Thị Ánh
Tuyết
Phạm Thị Vân (NT)
Nguyễn Thị Hà Vi

Mã sinh viên
18D160196
18D160057

Nhiệm vụ
Chương 3
Power point

18D160058
18D160339

Tổng hợp
Chương 2
(2.2)


Chương 1
Chương 2
(2.3)
Chương 2
(2.1)
Thuyết trình

5
6

Nguyễn Quốc Việt
Trần Thị Yến

18D160128
18D160201

7

Trịnh Thị Yến

18D160060

8

Ngô Thị Ngọc

18D160182

2


Đánh giá


MỤC LỤC

3


LỜI MỞ ĐẦU
Với khí hậu nhiệt đới gió mùa, Việt Nam là một trong những nước được coi là thiên
đường hoa quả. Trải dài từ đất mũi Cà Mau, băng qua những miệt vườn trĩu quả, với
những phiên chợ nổi bồng bềnh trên sông. Hay lên trên đỉnh đầu đất nước, với những
vườn lớn tràn ngập vải thiều, và những chuyến ô tô mang vải đi khắp các nẻo đường
đất nước. Hoa quảViệt Nam không chỉ nổi tiếng về sự đa dạng phong phú của chủng
loại, màu sắc, hương vị mà còn đặc trưng bởi số lượng lớn.
Cũng như nhiều mặt hàng nông sản khác của Việt Nam, Trung Quốc vẫn là thị trường
xuất khẩu vải thiều truyền thống. Việc phụ thuộc vào một thị trường xuất khẩu se
không thể tránh khỏi những rủi ro nhất định cho nền kinh tế nói chung và cho nơng
dân nói riêng. Do vậy, việc đẩy mạnh công tác nghiên cứu, xúc tiến xuất khẩu trái vải
của Việt Nam sang các nước khác nhằm bớt phụ thuộc vào thị trường Trung Quốc là
hết sức cần thiết. Những năm gần đây, Việt Nam đã mở rộng sang các thị trường khác,
trong đó có thị trường Nhật Bản.
Năm 2014 Cục Bảo vệ thực vật (Bộ NNPTNT) bắt đầu đàm phán với Bộ Nông Lâm
Ngư nghiệp Nhật Bản nhằm xúc tiến mở cửa thị trường Nhật cho quả vải thiều Việt
Nam. Ngày 15/12/2019, sau hơn 5 năm đàm phán giữa hai bên, Bộ Nông Lâm Ngư
nghiệp Nhật Bản gửi thư cho Cục BVTV thơng báo chính thức mở cửa cho quả vải
thiều Việt Nam xuất khẩu trực tiếp sang Nhật Bản kèm theo quy định về kiểm dịch
thực vật nhập khẩu đối với vải thiều Việt Nam.
Nhật Bản là một trong những nước có các qui định về kiểm dịch ngặt nghèo nhất trên
thế giới. Chính vì vậy mà việc xuất khẩu vải thiều sang thị trường này gặp khơng ít

khó khăn và thách thức. Do đó, để hểu rõ hơn về vấn đề này, nhóm 13 đã lựa chọn
nghiên cứu đề tài “Ảnh hưởng của pháp luật xuất nhập khẩu Nhật Bản tới hoạt động
xuất khẩu vải thiều Việt Nam sang thị trường này”.

4


CHƯƠNG 1. LÝ LUẬN CHUNG VỀ HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU
1.1.

Khái niệm xuất khẩu

Xuất khẩu hàng hóa là hoạt động kinh doanh buôn bán ở phạm vi quốc tế. Đây là hành
vi buôn bán riêng lẻ mà cả là một hệ thống các quan hệ mua bán trong nền thương mại
có tổ chức cả bên trong và bên ngoài nhằm bán sản phẩm, hàng hóa sản xuất trong
nước ra nước ngồi thu ngoại tệ, đẩy mạnh sản xuất hàng hóa phát triển, chuyển đổi
cơ cấu kinh tế ổn định từng bước nâng cáo mức sống nhân dân.
Kinh doanh xuất khẩu cũng chính là hoạt động kinh doanh quốc tế đầu tiên của một
doanh nghiệp. Hoạt động này được tiếp tục ngay cả khi doanh nghiệp đã đa dạng hóa
hoạt động kinh doanh của mình.
Xuất khẩu hàng hóa nằm trong lĩnh vực phân phối và lưu thơng hàng hóa của một q
trình tái sản xuất mở rộng, nhằm mục đích liên kết sản xuất với tiêu dùng của nước
này với nước khác. Nền sản xuất phát triển lớn mạnh hay sao se phụ thuộc vào hoạt
động này.
Một cách nôm na, Xuất khẩu được hiểu là việc bán hàng hóa và dịch vụ cho một quốc
gia khác, trên cơ sở sử dụng tiền tệ làm phương thức thanh tốn.
Tiền tệ ở đây có thể là đồng tiền của một trong hai quốc gia của người mua, người bán
hoặc của một quốc gia thứ ba khác. Chẳng hạn: Việt Nam xuất khẩu hàng hóa sang
Mỹ, sử dụng đồng tiền thanh toán là USD. Trong trường hợp này USD là ngoại tệ đối
với Việt Nam nhưng là đồng tiền nội tệ của Mỹ. Còn trong trường hợp Việt Nam xuất

khẩu hàng hóa sang Trung Quốc, và cũng thành tốn bằng USD thì đồng USD ở đây
là ngoại tệ đối với cả hai quốc gia xuất và nhập khẩu.
1.2.
Các hình thức xuất khẩu
1.2.1. Xuất khẩu trực tiếp

Trong hình thức xuất khẩu trực tiếp, hai bên mua bán hàng se trực tiếp ký kết hợp
đồng ngoại thương. Hợp đồng ký kết giữa hai bên phải phù hợp với luật lệ của quốc
gia cũng như thông lệ mua bán quốc tế. Hình thức xuất khẩu trực tiếp thích hợp đối
với gần như mọi loại hình doanh nghiệp, giúp họ chủ động được hoạt động kinh
doanh của doanh nghiệp mình. Loại hình này cũng là sự lựa chọn của các doanh
nghiệp đang muốn khẳng định thương hiệu của mình trên thị trường quốc tế.
Như bên công ty tôi thường xuyên làm dịch vụ hải quan, thì đa số các khách hàng hiện
sử dụng hình thức mua bán này. Họ có thể là đơn vị trực tiếp sản xuất hàng hóa, hoặc
là đơn vị thương mại mua hàng hóa trong nước rồi ký kết hợp đồng bán hàng cho đối
tác nước ngoài.
Người xuất khẩu tự đứng tên, đàm phán, bán hàng… nên gọi là trực tiếp.
5


Ví dụ về xuất khẩu trực tiếp: Cơng ty Vinafood 1 ký hợp đồng xuất khẩu 120.000 tấn
gạo loại 5% tấm với khách hàng Malaysia. Đây là xuất khẩu trực tiếp từ Việt Nam cho
thương nhân Malaysia.
Để thực hiện một hợp đồng xuất khẩu, một trong những phương thức thức khá phổ
biến là thanh tốn qua tín dụng chứng từ L/C. Một số bước cần thiết như: xin giấy
phép xuất khẩu (nếu thuộc diện đó), chuẩn bị hàng hóa làm thủ tục hải quan, giao
hàng lên tàu, tìm hiểu và mua bảo hiểm (nếu xuất theo điều kiện CIF, CIP), và cuối
cùng là làm thủ tục nhận thanh toán.
1.2.2. Xuất khẩu gián tiếp (ủy thác)


Xuất khẩu gián tiếp hay còn gọi là xuất khẩu ủy thác. Với hình thức này, bên có hàng
se ủy thác cho một đơn vị khác gọi là bên nhận ủy thác để tiến hành xuất khẩu trên
danh nghĩa của bên nhận ủy thác.
Để thực hiện hình thức này, doanh nghiệp nhận ủy thác cần ký kết hợp đồng xuất
khẩu ủy thác với đơn vị trong nước. Bên nhận ủy thác se ký kết hợp đồng xuất khẩu,
giao hàng và thanh toán đối với đơn vị nước ngồi và cuối cùng là nhận phí ủy thác
xuất khẩu từ chủ hàng đã ủy thác xuất khẩu.
Vậy ai thường cần tới dịch vụ xuất khẩu ủy thác?
Thông thường, các doanh nghiệp chưa có đủ thơng tin cần thiết về thị trường nước
ngồi, hay có quy mơ kinh doanh còn nhỏ, nguồn lực hạn chế hoặc chịu nhiều rào cản
từ phía nhà nước se áp dụng hình thức xuất khẩu này. Các doanh nghiệp có thể xuất
khẩu gián tiếp (ủy thác) thông qua công ty thương mại xuất khẩu, nhà xuất khẩu
chuyên nghiệp, tổ chức gom hàng và xuất khẩu, hay qua một hãng khác xuất khẩu
theo kênh Marketing của họ…
1.2.3. Gia công xuất khẩu

Gia công xuất khẩu là hình thức mà cơng ty trong nước nhận tư liệu sản xuất (chủ yếu
là máy móc, nguyên vật liệu) từ cơng ty nước ngồi về để sản xuất hàng hóa dựa trên
yêu cầu của bên đặt hàng. Hàng hóa làm ra se được xuất khẩu ra nước ngoài theo chỉ
định của cơng ty đặt hàng.
Hình thức gia cơng xuất khẩu này đang ngày càng phát triển mạnh me, được các quốc
giá có nguồn lao động dồi dào giá rẻ như Việt Nam áp dụng. Điều này không những
tạo điều kiện tiếp cận cơng nghệ mới mà cịn mang lại việc làm cho người lao động.
Việt Nam cũng là một trong số những nước gia công hàng xuất khẩu với nhiều mặt
hàng đa dạng như dệt may, da giầy, điện tử…
Ví dụ về xuất khẩu hàng gia công (tôi thay tên công ty cho phù hợp): Công ty may
Gia Lộc ở Hải Dương ký hợp đồng gia công cho Công ty Taifeng của Đài Loan. Theo
đó, Taifeng se chuyển hầu hết máy móc thiết bị và nguyên phụ liệu sang Việt Nam để
Gia Lộc tiến hành cắt may theo mẫu mã mà Taifeng cung cấp. Với sản phẩm quần áo


6


đã hoàn tất, Gia Lộc se xuất khẩu trả lại theo chỉ dẫn của Taifeng, chẳng hạn sang thị
trường , Nhật, Mỹ, Châu Âu... Đó gọi là xuất khẩu hàng gia cơng.
Ngồi những hình thức phổ biến như trên, hiện nay, với mục tiêu kinh doanh xuất
khẩu nhằm phân tán và chia sẻ rủi ro thì các doanh nghiệp ngoại thương cịn có thể lựa
chọn các hình thức xuất khẩu khác như sau:
Xuất khẩu tại chỗ: người xuất khẩu Việt Nam bán hàng cho thương nhân nước



ngồi, và được nhà nhập khẩu chỉ định giao hàng cho một đơn vị khác trên lãnh thổ
Việt

Nam

Ví dụ về xuất khẩu tại chỗ: Cơng ty bao bì Tồn Phát tại Hưng n bán hàng cho
Công ty Taifeng của Đài Loan, và được chỉ định giao lô hàng vỏ thùng carton cho
Công ty may Gia Lộc (làm gia công cho Taifeng mà tôi đã nêu trong ví dụ trên) tại
kho hàng ở Hải Dương. Như vậy, hàng xuất khẩu cho đối tác nước ngoài (Đài Loan),
nhưng lại giao ngay trên lãnh thổ Việt Nam (Hải Dương) theo chỉ định của thương
nhân nước ngồi.


Tạm xuất tái nhập, tạm nhập tái xuất: là hình thức mà hàng hóa chỉ tạm thời đưa
vào lãnh thổ Việt Nam rồi sau đó lại được xuất sang nước khác (tạm nhập tái xuất),
hoặc hàng trong nước được tạm xuất ra nước ngồi và sau một thời gian nhất định lại
được


nhập

về

(tạm

xuất

tái

nhập).

Ví dụ về tạm xuất tái nhập: Tập đoàn Vingroup muốn đưa xe ơ tơ hiệu Vinfast của
mình giới thiệu tại Triển lãm ô tô quốc tế tại Frankfurt 2020 (tương lai). Muốn vậy,
họ se phải làm thủ tục để đưa sản phẩm ra nước ngoài trong thời gian triển lãm (tạm
xuất), sau khi xong lại đưa những sản phẩm đó trở lại Việt Nam (tái nhập).


Bn bán đối lưu: người mua đồng thời là người bán và ngược lại, với lượng
hàng xuất và nhập khẩu có giá trị tương đương. Hình thức này cịn gọi là xuất nhập
khẩu liên kết, hay hàng đổi hàng.



Xuất khẩu theo nghị định thư ký kết giữa các Chính phủ: các doanh nghiệp
tiến hành xuất khẩu theo chỉ định và hướng dẫn trong văn bản đã ký kết của Chính
phủ, thường giữa các quốc gia có quan hệ mật thiết.
Với hình xuất khẩu nào trên đây thì người làm xuất khẩu cần quan tâm và tìm hiểu các
thủ tục cần thiết để cơng việc được nhanh chóng thuận lợi. Và một trong những khâu
7



quan trọng có thể liên quan đến dịch vụ hải quan phù hợp để tránh những rủi ro có thể
xảy ra, nhằm hạn chế tối đa tổn thất cho doanh nghiệp trong q trình xuất khẩu hàng
hóa.
1.3.

Vai trị của xuất khẩu

Xuất khẩu đã được xuất hiện từ rất lâu trước đây thơng qua hình thức sơ khai chỉ là
hoạt động trao đổi hàng hóa giữa các quốc gia hay vùng lãnh thổ. Theo thời gian cùng
sự phát triển của nền kinh tế, cũng như khoa học, kỹ thuật, hoạt động xuất khẩu đã và
đang ngày càng mở rộng mạnh me với nhiều hình thức đa dạng khác nhau.
Hoạt động này diễn ra trên nhiều lĩnh vực, ngành nghề của nền kinh tế cả với hàng
tiêu dùng cũng như với tư liệu sản xuất. Tuy nhiên, chung quy lại tất cả những hoạt
động này đều nhằm mục đích đem lại lợi ích doanh nghiệp và quốc gia xuất nhập
khẩu.
Có thể tóm tắt vai trị của xuất khẩu bao gồm:


Đem lại doanh thu cho doanh nghiệp: Việc bán hàng cho khách hàng nước ngồi
chính là cách mở rộng thị trường vượt ra khỏi biên giới quốc gia, góp phần nâng tầm
của doanh nghiệp nội địa. Đây cũng là một trong những lợi ích chính yếu mà bn
bán quốc tế đem lại.



Quảng bá thương hiệu doanh nghiệp, thương hiệu quốc gia trên trường quốc tế:
Các công ty lớn mạnh xuất khẩu nhiều mặt hàng có giá trị ra thị trường quốc tế ngồi
việc chiếm lĩnh thị trường, còn giúp khẳng định tên tuổi cơng ty. Quốc gia có nhiều

thương hiệu mạnh thì cũng được khẳng định thương hiệu của chính quốc gia đó. Có
thể thấy rõ điều này qua đóng góp của những tên tuổi lớn cho thương hiệu các quốc
gia như: Microsoft, Apple (Mỹ), Sony, Toyota (Nhật Bản), Samsung, Hyundai (Hàn
Quốc), Lenovo, Alibaba (Trung Quốc)…



Đem lại nguồn ngoại tệ cho đất nước: Lợi ích này mang tính vĩ mơ, và cũng là yếu tố
then chốt mà các quốc gia khuyến khích hoạt động xuất khẩu để đảm bảo cán cân
thanh toán và tăng tích lũy và dự trữ ngoại tệ.



Góp phần thúc đẩy nền kinh tế tồn cầu thơng qua đáp ứng lợi ích của các doanh
nghiệp và các quốc gia. Xuất khẩu thúc đẩy sản xuất trong nước thơng qua khuyến
khích việc tận dụng lợi thế tuyệt đối cũng như lợi thế so sánh của các nước.

8


9


CHƯƠNG 2. ẢNH HƯỞNG PHÁP LUẬT XNK NHẬT BẢN TỚI HOẠT ĐỘNG
XUẤT KHẨU VẢI THIỀU VIỆT NAM SANG THỊ TRƯỜNG NÀY
2.1.
Nhu cầu của thị trường Nhật Bản đối với mặt hàng vải thiều Việt Nam
2.1.1. Mối quan hệ Việt Nam – Nhật Bản
Việt Nam và Nhật Bản đã xây dựng được mối quan hệ hữu nghị tốt đẹp nhất từ trước
đến nay, tin tưởng về chính trị, tăng cường hợp tác và hỗ trợ kinh tế, hợp tác tại các

diễn đàn quốc tế và khu vực. Đó là nhận định chung được lãnh đạo hai nước đưa ra
khi đánh giá về mối quan hệ đã có bề dày gần 45 năm phát triển.
Nhật Bản là nước G7 đầu tiên đã đón Tổng bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam (năm
1995), cũng là nước G7 đầu tiên thiết lập quan hệ "Đối tác chiến lược" với Việt Nam
(2009). Đồng thời, Nhật Bản là nước G7 đầu tiên công nhận quy chế kinh tế thị trường
cho Việt Nam (2011) và cũng là nước G7 đầu tiên mời lãnh đạo Việt Nam tham dự
Diễn đàn G7 mở rộng (2016).
Về lĩnh vực kinh tế, Nhật Bản là đối tác kinh tế quan trọng hàng đầu của Việt Nam và
là nước G7 đầu tiên công nhận quy chế kinh tế thị trường của Việt Nam (tháng
10/2011).
Đánh giá Việt Nam là một trong những nền kinh tế năng động và có nhiều tiềm năng
phát triển, Nhật Bản xác định quan hệ hợp tác kinh tế với Việt Nam là trọng tâm trong
việc thúc đẩy quan hệ hai nước.
Đến nay, Nhật Bản đã trở thành nhà đầu tư nước ngoài lớn thứ hai, đối tác thương mại
lớn thứ tư và đối tác lớn thứ 3 về du lịch của Việt Nam. Theo số liệu chính thức, tính
đến hết 2016, Nhật Bản có hơn 3.200 dự án đầu tư còn hiệu lực tại Việt Nam với tổng
vốn đầu tư đăng ký hơn 42 tỷ USD, chiếm 15% tổng FDI vào Việt Nam.
Kim ngạch thương mại hai chiều giữa hai nước năm 2016 đã đạt gần 30 tỷ USD. Bên
cạnh đó, Nhật Bản, là quốc gia viện trợ phát triển chính thức (ODA) lớn nhất cho Việt
Nam, chiếm khoảng 30% tổng cam kết ODA của cộng đồng quốc tế đối với Việt
Nam. Nhiều dự án của Nhật Bản đã hồn thành và đưa vào khai thác rất hiệu quả,
đóng góp lớn vào sự phát triển kinh tế-xã hội của Việt Nam.
Hợp tác mọi mặt giữa Việt Nam với Nhật Bản càng được củng cố mạnh me hơn khi
hai nước xây dựng được một mối quan hệ tin cậy về chính trị thơng qua các cuộc đối
thoại liên chính phủ và hàng loạt các cuộc tiếp xúc, chuyến thăm cấp cao giữa hai
nước. Bộ Ngoại giao Nhật Bản đã khẳng định mối quan hệ Việt Nam và Nhật Bản là
đối tác chiến lược tồn diện vì hịa bình và thịnh vượng châu Á.
2.1.2. Nhu cầu Nhật Bản đối với vải thiều Việt Nam

Tại Nhật Bản quả Vải được Hiệp hội nhập khẩu hoa quả của Nhật Bản giới thiệu như

là một loại quả có giá trị. Quả vải lần đầu tiên được du nhập vào đảo Izu Oshima Nhật
Bản từ năm 1720, đến cuối thời kỳ Edo quả vải đã được đưa đến Kagoshima. Nhật

10


Bản là thị trường có tiêu chuẩn cao về vấn đề vệ sinh an toàn thực phẩm, dư lượng
chất bảo vệ thực vật phải đảm bảo đúng qui định.
Mặc dù sản lượng quả vải nội địa còn rất thấp và Nhật Bản phải nhập khẩu quả vải
tươi từ nước ngoài nhằm đáp ứng nhu cầu người tiêu dùng trong nước, tuy nhiên Nhật
Bản chỉ cho phép nhập khẩu những sản phẩm đạt được các tiêu chuẩn đặt ra.
Tại Nhật Bản đây là một loại quả quý do số lượng bán ra thị trường rất ít, được trồng
chủ yếu tại Okinawa và Kagoshima (năm 2014 sản lượng đạt khoảng 13 tấn được
trồng trên diện tích khoảng 11 ha, Kagoshima 8,2 tấn đạt 62%, Miyazaki đạt 3,6 tấn
27%, Okinawa đạt 1,5 tấn 11%). Quả vải được nhập khẩu từ 5 quốc gia (theo thống kê
của Bộ Tài chính năm 2013) Nhập khẩu nhiều nhất từ Trung quốc khoảng 256 tấn
(chiếm khoảng 60%), đứng thứ 2 là Đài Loan khoảng 127 tấn (chiếm khoảng 30%),
đứng thứ 3 là Mexico là 29,7 tấn, đứng thứ 4 là Hoa Kỳ khoảng 1,3 tấn. Như vậy, Nhu
cầu vải thiểu của Nhật bản là rất lớn vì thế từ năm 2014 Cục Bảo vệ thực vật (Bộ
NNPTNT) bắt đầu đàm phán với Bộ Nông Lâm Ngư nghiệp Nhật Bản nhằm xúc tiến
mở cửa thị trường Nhật cho quả vải thiều Việt Nam. Thương vụ đã thu xếp đưa đối tác
Nhật về Bắc Giang tìm hiểu khả năng nhập khẩu quả vải thiều Lục Ngạn và giới thiệu
công nghệ bảo quản vải tươi của Nhật Bản: 03 lần (tháng 11/2018), (tháng 5/2019),
(tháng 11/2019).
Ngày 15/12/2019, sau hơn 5 năm đàm phán giữa hai bên, Bộ Nông Lâm Ngư nghiệp
Nhật Bản gửi thư cho Cục BVTV thơng báo chính thức mở cửa cho quả vải thiều Việt
Nam xuất khẩu trực tiếp sang Nhật Bản kèm theo quy định về kiểm dịch thực vật nhập
khẩu đối với vải thiều Việt Nam.
Ngày 18/6/2020 chuyên gia nông nghiệp Nhật phối hợp với các chuyên gia Việt Nam
đã bắt đầu công tác giám sát khâu xử lý tại các cơ sở xử lý xông hơi khử trùng. Ngay

trong ngày 18/6 đã có gần 5 tấn vải thiều được xử lý xông hơi và được chuyên gia
Nhật xác nhận kết quả đạt chuẩn. Trong ngày 19/6, 01 tấn vải đầu tiên đã xuất đi Nhật
bằng đường hàng khơng. Gần 4 tấn vải cịn lại (trong tổng số 05 tấn của ngày 18/6) se
đi bằng đường biển. Có khoảng gần 200 tấn vải thiều tươi se xuất khẩu thành công
vào thị trường Nhật trong 2020.
Vụ vải thiều năm 2020, tỉnh Bắc Giang đã xuất khẩu chính ngạch sang Nhật Bản đạt
tổng sản lượng khoảng 200 tấn vải. Năm nay, đối với thị trường Nhật, Sở Nông nghiệp
và Phát triển nông tỉnh Bắc Giang phối hợp với Cục Bảo vệ thực vật lựa chọn và đề
nghị phía Nhật Bản chấp thuận được tổng cộng 19 mã số vùng trồng, với diện tích 103
ha và có số hộ tham gia là 107 hộ; trong đó, huyện Tân Yên 5 ha vải chín sớm; huyện
Lục Ngạn 98 ha vải chính vụ; sản lượng ước đạt trên 600 tấn. Đồng thời rà soát mở
rộng thêm một số vùng, nâng tổng diện tích vùng vải thiều để phục vụ xuất khẩu sang
thị trường Nhật Bản khoảng 130 ha. Hiện, Cục Bảo vệ thực vật (Bộ NN&PTNT) đang
đánh giá, thẩm định để cấp mã số vùng trong thời gian tới.
2.2.

Pháp luật xuất nhập khẩu Nhật Bản

Thị trường Nhật Bản là thị trường rất “khó tính” đối với chất lượng hàng hóa nhập
khẩu, rào cản kỹ thuật rất cao. Nhật Bản cũng có hẳn một bộ luật riêng về tiêu chuẩn
11


áp dụng cho hàng công nghiệp và nông nghiệp nhập khẩu, rào cản kỹ thuật rất cao.
Hàng năm, Nhật Bản đều có kế hoạch hướng dẫn và giám sát thực phẩm nhập khẩu.
Đối với các đối tác xuất khẩu, Nhật Bản yêu cầu đẩy mạnh các biện pháp an toàn từ
khâu nuôi trồng, sản xuất, chế biến… Trường hợp cần thiết se tiến hành kiểm tra thực
địa.
2.2.1. Đối với hàng nơng sản nói chung


Về quy định chung khi xuất khẩu (XK) nông sản thực phẩm vào Nhật Bản, ông
Shibata lưu ý cần thực hiện thủ tục cần thiết về kiểm dịch động thực vật do Bộ Nông
Lâm Ngư nghiệp phụ trách. Đối với nông sản nhập khẩu, Nhật Bản đang tăng cường
hơn nữa công tác kiểm tra, giám sát các vi sinh vật gây bệnh như Enterohemorrhagic,
Escherichia coli, Salmonella (các loại vi khuẩn gây bệnh đường ruột).
Theo các chuyên gia, đối với Nhật Bản, chứng nhận xuất xứ hàng hóa (C/O)
dành cho nông sản thực phẩm NK là cực kỳ quan trọng. Nếu đã có C/O, có trường
hợp thuế NK tại Nhật Bản se giảm đi. Và các doanh nghiệp (DN) Việt khi XK nông
sản sang Nhật cần lưu tâm chuyện này.
Khi XK thực phẩm vào Nhật Bản, các DN cần thực hiện các thủ tục kiểm dịch
động vật, kiểm dịch thực vật, kiểm dịch thực phẩm, và thủ tục thông quan. Với rau củ
quả, kiểm dịch thực vật là cần thiết. Sau đó là kiểm dịch thực phẩm, cuối cùng là thủ
tục thông quan.
Về cơ bản, Nhật Bản ban hành 4 luật chính liên quan đến an tồn thực phẩm
gồm: Luật An toàn thực phẩm cơ bản (Food Safety Basic law), Luật vệ sinh thực
phẩm (Food Sanitation Law), Luật tiêu chuẩn nông nghiệp Nhật Bản (Japan
Agricultural Law) và Luật khuyến khích Y tế (Health Promotion Law). Trong đó:
+ Luật An toàn thực phẩm cơ bản đặt ra các nguyên tắc để phát triển một chế độ an
toàn thực phẩm và quy định vai trò của các Ủy ban an toàn thực phẩm (FSC), cơ quan
đánh giá rủi ro liên quan đến thực phẩm.
+ Luật Vệ sinh thực phẩm đảm bảo sự an tồn và vệ sinh thực phẩm thơng qua Bộ Y
tế, Lao động và Phúc lợi (MHLW), cơ quan quản lý rủi ro liên quan đến thực phẩm.
Bộ luật này nghiêm cấm việc bán các loại thực phẩm có chứa các chất độc hại, nó
cũng quy định tiêu chuẩn đối với thực phẩm. Nhật Bản đã thực hiện Luật vệ sinh an
toàn thực phẩm sửa đổi với tất cả các lô hàng thực phẩm nhập khẩu, thắt chặt quy định
và bổ sung một số loại dư lượng hoá chất khơng được phép có trong thực phẩm và
tiếp tục nâng mức hạn chế dư lượng hoá chất cho phép.
+ Chỉ có các chất phụ gia được đánh giá bởi FSC và được chấp thuận bởi MHLW mới
có thể được sử dụng trong thực phẩm và đồ uống được bán tại Nhật. Các sản phảm
nhập khẩu nếu phát hiện có chứa dư lượng các chất phụ gia lớn hơn quy định se không

được phép bán tại Nhật Bản.
Hiện nay, Nhật Bản cũng như các nước ngày càng thắt chặt các biện pháp kiểm
tra vệ sinh an toàn thực phẩm đối với các hàng hoá nhập khẩu. Các mặt hàng khi đến
thị trường Nhật Bản không thể thiếu bởi người Nhật đưa ra 5 yếu tố (5S) gần như đã
12


thành quy chuẩn gồm: sạch se, sàng lọc, cắt bỏ những thứ không cần thiết, môi trường
trong sạch và để đồ đạc ngăn nắp. Người Nhật nói chung và doanh nghiệp Nhật Bản
coi trọng đảm bảo yếu tố chất lượng, giá cả và sự chuyển giao hàng đúng thời hạn.
Theo đó, các sản phẩm khi sang thị trường Nhật phải đảm bảo chất lượng đồng loạt
tương đương nhau.
Ban hành các tiêu chuẩn cơ bản trong nông nghiệp (JAS) của Nhật Bản: Luật
Tiêu chuẩn nông nghiệp Nhật Bản – JAS quy định các tiêu chuẩn về chất lượng, đua
ra các quy tắc về việc ghi nhãn chất lượng và đóng dấu chất lượng tiêu chuẩn JAS.
Ngày nay hệ thống JAS đã trở thành cơ sở cho người tiêu dùng trong việc lựa chọn
các thực phẩm chế biến.Danh sách các sản phẩm được điều chỉnh bởi luật JAS gồm:
Đồ uống, thực phẩm chế biến, dầu ăn, mỡ, các nông lâm sản chế biến. Tuy hiện nay
không phải tất cả các sản phẩm đều được liệt kê trong danh sách các sản phẩm do luật
JAS điều chỉnh nhưng các tiêu chuẩn JAS bao quát cả các sản phẩm được sản suất
trong nước và các sản phẩm nhập khẩu. Đa số các sản phẩm như thực phẩm đóng hộp,
nước hoa quả, các sản phẩm chế biến từ cà chua, dấm bỗng, thịt lợn hun khói được
sản xuất tại Nhật đều mang dấu chất lượng JAS.Việc sử dụng dấu chứng nhận phẩm
chất JAS trên nhãn hiệu sản phẩm là tự nguyện và các nhà sản xuất cũng như các nhà
bán lẻ không bị bắt buộc phải sản xuất hay kinh doanh các sản phẩm có chất lượng
tiêu chuẩn JAS. Một sản phẩm bị buộc phải tuân theo các quy định về dán nhãn chất
lượng JAS khi đã có đầy đủ các điều kiện sau:
+ Sản phẩm phải là một nông sản hoặc là nông sản đã có hoặc trong tương lai gần se
có một tiêu chuẩn JAS được quy định cho nó.
+ Sản phẩm đó phải là sản phẩm có chất lượng khó xác định.

+ Là sản phẩm mà người tiêu dùng cần biết được chất lượng của nó trước khi quyết
định mua.
Bộ Nơng Lâm Ngư nghiệp đặt ra các tiêu chuẩn về việc ghi nhãn chất lượng và buộc
tất cả các nhà sản xuất phải tuân thủ các tiêu chuẩn đó, các quy định này được áp dụng
đối với cả các sản phẩm nhập khẩu.
Ngoài ban hành các tiêu chuẩn JAS trên nhãn hiệu sản phẩm nơng sản, cịn có
nhiều loại dấu chất lượng khác được sử dụng ở nhật bản như: dấu Q chỉ chất lượng và
độ đồng nhất của sản phẩm, dấu G chỉ thiết kế dịch vụ sau bán, dấu S chỉ độ an toàn,

Các quy định về hải quan của Nhật cũng tương đối phức tạp và rắc rối, gây
nhiều phiền phức và rất máy móc. Hầu hết các rắc rối về thủ tục hải quan thường xảy
ra ở lần đầu tiên. Nói chung, bất kỳ người nào muốn nhập khẩu hàng hoá cũng phải
khai báo hải quan và lấy được giấy phép nhập khẩu sau khi tiến hành kiểm hố những
mặt hàng này.Quy trình bắt đầu với việc điền vào tờ khai hải quan và kết thúc sau khi
nhận được giấy phép nhập khẩu. Theo cách này, những biện pháp được tiến hành để
đảm bảo những yêu cầu của việc kiểm soát ngoại hối và những quy định khác liên
quan đến việc nhập khẩu hàng hoá.
13


Hàng hoá cần sự xác nhận sơ thẩm và phải đáp ứng được các qui định đặc biệt
của Chính phủ như các loại vắcxin nghiên cứu.
Khi nhập khẩu mặt hàng cần giấy phép nhập khẩu hay sự xác nhận của một số
Bộ, các nhà nhập khẩu được toàn quyền ký hợp đồng với các nhà xuất khẩu, nhưng
viêc ký và thực hiện hợp đồng phụ thuộc vào sự cho phép hay xác nhận của các Bộ có
liên quan. Đặc biệt trong trường hợp hàng cần hạn ngạch nhập khẩu, nên nhớ rằng
việc nhập khẩu các mặt hàng đó chỉ có thể sau khi có hạn ngạch nhập khẩu dựa theo
thơng báo hạn ngạch nhập khẩu chính thức.Việc thanh tốn hàng nhập khẩu cần giấy
phép chỉ có thể thực hiện sau khi giấy phép nhập khẩu đã được cấp.
2.2.2. Đối với mặt hàng vải thiều nói riêng


Với những quy định và Luật pháp của Nhật Bản, ngay cả câu chuyện XK vải thiều
Việt vào Nhật cũng là cả vấn đề gian nan khi phải mất đến 5 năm đàm phán giữa hai
bên. Theo Thương vụ Việt Nam tại Nhật Bản, phía Thương vụ đã thu xếp đưa đối tác
Nhật về Bắc Giang tìm hiểu khả năng NK quả vải thiều Lục Ngạn và giới thiệu công
nghệ bảo quản vải tươi của Nhật Bản trong 3 lần: tháng 11/2018, tháng 5/2019 và
tháng 11/2019. Đến giữa tháng 12/2019, sau hơn 5 năm đàm phán giữa hai bên, Bộ
Nông Lâm Ngư nghiệp Nhật Bản gửi thư cho Cục Bảo vệ thực vật Việt Nam (Bộ
NN&PTNT) thơng báo chính thức mở cửa cho quả vải thiều Việt Nam XK trực tiếp
sang Nhật Bản kèm theo quy định về kiểm dịch thực vật NK đối với vải thiều Việt
Nam.
Ban hành các yêu cầu kiểm dịch thực vật đối với quả vải thiều Việt Nam XK
vào Nhật Bản bao gồm:
+ Quả vải thiều phải được trồng tại các vườn được Cục Bảo vệ thực vật kiểm tra, giám
sát và cấp mã số vùng trồng, đáp ứng quy định về kiểm dịch thực vật và an toàn thực
phẩm của Nhật Bản.
+ Lơ quả vải XK phải được đóng gói và xử lý xơng hơi khử trùng bằng Methyl
Bromide tại các cơ sở được Cục Bảo vệ thực vật và Bộ Nông Lâm Ngư nghiệp Nhật
công nhận với liều lượng tối thiểu là 32g/m3 trong thời gian 2 giờ dưới sự giám sát
của cán bộ kiểm dịch thực vật Việt Nam và Nhật Bản.
+ Các lô quả vải thiều XK phải kèm theo Giấy chứng nhận kiểm dịch thực vật do Cục
Bảo vệ thực vật cấp.
Ban hành thuế xuất khẩu của quả vải: Dựa theo mã HS 20089910 thì quả vải
xuất khẩu không phải chịu thuế xuất khẩu cũng như thuế VAT.


Thuế xuất khẩu 0%




Thuế VAT 0%

Ban hành những quy định về thủ tục xuất khẩu quả Vải: theo quy định hiện tại
thì vải thiều xuất khẩu sang Nhật Bản khơng thuộc danh mục hàng hóa cấm xuất khẩu,
vì vậy cơng ty có thể làm thủ tục hải quan xuất khẩu như hàng bình thường. Tuy
nhiên, quả vải có mã HS 20089910 thì theo thơng tư 15/2018/BNN-PTNT thì mặt
14


hàng của vải thuộc danh mục vật thể thuộc diện phải kiểm dịch thực vật. Vì vậy ngồi
thủ tục khai báo hải quan như hàng thơng thường thì q doanh nghiệp còn phải thực
hiện thủ tục kiểm dịch thực vật.
Doanh nghiệp phải thực hiện khai báo hải quan hàng vải xuất khẩu đi Nhật Bản
theo các hồ sơ yêu cầu, tuy nhiên ngồi các chứng từ được u cầu thì nhà nhập khẩu
ở Nhật Bản có thể yêu cầu thêm các chứng từ khác có thể có như chứng nhận số
lượng, chất lượng.
Ảnh hưởng của pháp luật xuất nhập khẩu Nhật Bản tới hoạt động xuất
khẩu vải thiều của Việt Nam
2.3.1. Những ảnh hưởng tích cực
2.3.

Nhật Bản là thị trường có tiêu chuẩn cao về vấn đề vệ sinh an toàn thực phẩm. Các
doanh nghiệp Việt Nam cần phải đảm bảo tuân thủ các yêu cầu mà Nhật Bản đặt ra, để
có thể xuất khẩu quả vải thiều tươi sang thị trường này. Điều đó đồng nghĩa với việc
nếu chinh phục được vị khách hàng khó tính này thì hoạt động xuất khẩu vải thiều của
Việt Nam trong tương lai se có nhiều khởi sắc. Ngày 21/6/2020, quả vải thiều Việt
Nam chính thức xuất hiện trên kệ siêu Nhật Bản, có giá bán lên tới 500.000 đồng/kg.
Cục Bảo vệ thực vật (Bộ NN&PTNT) cho biết: 2 tấn vải thiều đầu tiên xuất khẩu sang
thị trường Nhật Bản đã bán hết trong vòng 1 ngày. Mặc dù giá bán khá cao: 534,84
yên Nhật (khoảng 118.000 đồng) cho 1 hộp khoảng 9 - 10 quả vải, nhưng vẫn được

khách tiêu dùng Nhật Bản đón nhận và đánh giá rất tốt.
Thơng qua việc đưa được quả vải vào Nhật Bản chúng ta đã chứng tỏ được trình độ
phát triển nơng nghiệp đáp ứng được tiêu ch̉n kĩ thuật của những thị trường khó
tính. Điều thứ hai quan trọng hơn là khi đáp ứng được tiêu chuẩn của thị trường này se
giúp thay đổi được cung cách sản xuất của người nông dân Việt Nam, từ đó tạo ra
được các sản phẩm có giá trị cao mang lại nguồn thu nhập lớn. Các doanh nghiệp xuất
khẩu hoạt động trên nguyên tắc tuân thủ chặt che các quy định về kiểm dịch và tiêu
chuẩn về vệ sinh an toàn thực phẩm của Nhật Bản. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp
Việt Nam có cơ hội nghiên cứu áp dụng các công nghệ bảo quản hoa quả tươi lâu hơn,
đảm bảo chất lượng trong quá trình vận chuyển.
2.3.2.

Một số ảnh hưởng tiêu cực và nguyên nhân

Hành trình 5 năm thử thách trong đàm phán đưa vải thiều sang Nhật Bản
Năm 2014 Cục Bảo vệ thực vật (Bộ NNPTNT) bắt đầu đàm phán với Bộ Nông Lâm
Ngư nghiệp Nhật Bản nhằm xúc tiến mở cửa thị trường Nhật cho quả vải thiều Việt
Nam. Để đáp ứng những yêu cầu từ phía Nhật Bản như yêu cầu về vườn trồng, yêu
cầu chi tiết về kiểm dịch thực vật đối với quả vải thiều tươi xuất khẩu,... nhiều thí
nghiệm nghiêm ngặt đã được thực hiện để đảm bảo diệt trừ triệt để các loại vi sinh vật
(là đối tượng kiểm dịch thực vật) có khả năng tồn tại trên quả vải. Đặc biệt, để xúc
tiến đưa quả vải thiều Việt Nam vào thị trường khó tính này, Thương vụ đã thu xếp, tổ
chức 3 đợt đưa đối tác Nhật về Bắc Giang tìm hiểu khả năng nhập khẩu quả vải thiều
Lục Ngạn và giới thiệu công nghệ bảo quản vải tươi của Nhật Bản. Đợt 1 vào tháng
11/2018, đợt 2 vào tháng 5/2019 và đợt 3 vào tháng 11/2019. Theo thông báo của Bộ
15


Nông-Lâm-Ngư nghiệp Nhật Bản (MAFF) đã gửi cho Cục Bảo vệ thực vật của Bộ
Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam, vải thiều xuất khẩu cần đáp ứng

những tiêu chuẩn: được trồng tại các vườn được Cục Bảo vệ thực vật kiểm tra, giám
sát và cấp mã số vùng trồng. Thứ hai, được đóng gói và xử lý xông hơi khử trùng
bằng methyl bromide tại các cơ sở được Cục Bảo vệ thực vật và MAFF công nhận
dưới sự giám sát của các cán bộ kiểm dịch thực vật hai bên. Thứ ba, các lô vải thiều
xuất khẩu phải có giấy chứng nhận kiểm dịch thực vật do Cục Bảo vệ thực vật cấp.
Trước đó, để chuẩn bị các công đoạn xuất khẩu sang thị trường Nhật Bản, tỉnh Bắc
Giang đã phối hợp với Cục Bảo vệ thực vật chọn và đề nghị phía Nhật Bản chấp thuận
19 mã số vùng trồng với diện tích 103 ha, sản lượng ước 600 tấn ở huyện Yên Thế và
Lục Ngạn. Bắc Giang cũng đã hợp tác với 3 công ty Ameii, Chánh Thu, Toàn Cầu
trong nước để liên kết tiêu thụ sản phẩm xuất khẩu sang thị trường Nhật Bản. Đến
ngày 15/12/2019, MAFF đã đồng ý với Bộ NN&PTNT điều kiện nhập khẩu vải thiều
tươi từ Việt Nam sang Nhật Bản.
Khó khăn trong q trình xin cấp bảo hộ chỉ dẫn địa lý cho vải thiều tại Nhật Bản
Vải thiều Lục Ngạn là một trong ba sản phẩm được lựa chọn để đăng ký bảo hộ tại
Nhật Bản trong khuôn khổ thỏa thuận hợp tác giữa Cục Sở hữu trí tuệ (Bộ KH&CN
Việt Nam) và Cục Công nghiệp thực phẩm (Bộ Nông, Lâm & Ngư nghiệp Nhật Bản)
để quảng bá chỉ dẫn địa lý của Việt Nam đến người tiêu dùng Nhật Bản. Từ năm 2008,
vải thiều Lục Ngạn đã được bảo hộ chỉ dẫn địa lý tại Việt Nam. Nhờ có điều này, giá
trị của quả vải tại tỉnh Bắc Giang đã được tăng cao và tạo cơ hội xuất khẩu sản phẩm
ra thị trường nước ngồi, trong đó có Nhật Bản. Tuy nhiên, tại thời điểm đó, quả vải
xuất khẩu của Việt Nam vẫn chịu “thiệt thòi” khi phải gắn tên của đơn vị cung cấp sản
phẩm phía Nhật Bản trong q trình tiêu thụ. Do đó, với việc được bảo hộ chỉ dẫn địa
lý tại Nhật Bản, quả vải thiều Lục Ngạn từ nay được gắn chỉ dẫn địa lý "vải thiều Lục
Ngạn" lên các sản phẩm xuất khẩu sang Nhật Bản, từ đó giá trị gia tăng của sản phẩm
se cao hơn, cơ hội được người tiêu dùng tin tưởng và lựa chọn cũng đến gần hơn.
Vốn nổi tiếng là một thị trường khó tính, cùng những quy định pháp luật về bảo hộ chỉ
dẫn địa lý rất khắt khe, việc đăng ký chỉ dẫn địa lý vải thiều Lục Ngạn tại Nhật Bản là
vô cùng phức tạp. hồ sơ đăng ký chỉ dẫn địa lý vải thiều Lục Ngạn phải đối mặt với
nhiều khó khăn. Phía Nhật Bản đánh giá khả năng vận hành của tổ chức quản lý chỉ
dẫn địa lý yếu, thiếu tài liệu đáng tin cậy nghiên cứu đặc tính của sản phẩm, đặc biệt

khơng có tài liệu chứng minh đánh giá của xã hội đối với đặc tính của sản phẩm. Dữ
liệu về đặc tính sản phẩm khơng được cập nhật thường xuyên. Hoạt động gắn chỉ dẫn
địa lý trên bao bì sản phẩm chưa được kiểm sốt chặt che...Để đẩy nhanh tiến độ và
đáp ứng các yêu cầu đề ra, Sở KH&CN Bắc Giang đã làm việc với các cơ quan Trung
ương, các ngành, đơn vị liên quan tập trung hồn thiện các tiêu chí. Sau khi hồn
thành lựa chọn, trong vụ vải thiều năm 2020, Sở đã phối hợp tổ chức lấy mẫu phân
tích sản phẩm. Q trình phân tích đã lấy mẫu có sự so sánh vải ở các vùng như: Phú
Bình (Thái Ngun); Chí Linh (Hải Dương), kết quả cho thấy trọng lượng vải của Lục
Ngạn lớn hơn trọng lượng vải vùng xung quanh 11%, độ đường cao hơn từ 2-3%, độ
16


ngọt (Brix) lớn hơn từ 3%-5%. Những kết quả này được gửi bổ sung hồ sơ cho Nhật
Bản.
Với sự vào cuộc của nhiều ban ngành, tổ chức, cá nhân, những khó khăn này đã từng
bước được giải quyết, giúp hồn thiện các quy trình đăng ký cần thiết theo quy định
của pháp luật Nhật Bản, để đến ngày 12/3/2021, vải thiều Lục Ngạn đã trở thành sản
phẩm đầu tiên của Việt Nam được chính thức bảo hộ là chỉ dẫn địa lý tại Nhật Bản.
Các hoạt động quản lý chỉ dẫn địa lý vải thiều Lục Ngạn sau bảo hộ se tiếp tục là một
thách thức lớn cho các cấp, các ngành, đặc biệt của tỉnh Bắc Giang. Đó là hằng năm
phải đánh giá nội bộ chất lượng sản phẩm theo tiêu chí chỉ dẫn địa lý được bảo hộ và
cập nhật thường xuyên lên hệ thống để các đối tác thu mua sản phẩm nắm được. Bên
cạnh đó, để có các chỉ tiêu tốt, phải có sản phẩm tốt và điểm mấu chốt vẫn là người
dân cần tuân thủ quy trình kỹ thuật sản xuất để tạo ra sản phẩm vừa có mã đẹp mà
chất lượng vẫn bảo đảm an toàn vệ sinh thực phẩm. Như vậy, trách nhiệm của người
sản xuất phải được nâng cao, từ đó quyết định đến chất lượng sản phẩm, yếu tố cốt lõi
để phát huy giá trị sau bảo hộ chỉ dẫn địa lý.

17



CHƯƠNG 3. MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HOẠT ĐỘNG XNK VẢI
THIỀU CỦA VIỆT NAM SANG THỊ TRƯỜNG NHẬT BẢN
3.1. Quan điểm, mục tiêu về phát triển xuất khẩu nông sản Việt Nam
Điều 1. Phê duyệt Đề án thúc đẩy xuất khẩu nông lâm thủy sản đến năm 2030 gồm
các nội dung chính như sau:
3.1.1. Quan điểm

- Chủ động tận dụng các cơ hội, khai thác lợi thế từ hội nhập kinh tế quốc tế và tiếp
tục phát huy thế mạnh, tiềm năng nhằm mở rộng thị trường xuất khẩu cho các sản
phẩm nông lâm thủy sản (NLTS) của Việt Nam.
- Triển khai đồng bộ các cam kết quốc tế trong lĩnh vực nơng nghiệp, trong đó, trọng
tâm giải quyết các vấn đề liên quan đến rào cản kỹ thuật, đảm bảo hài hịa hóa hệ
thống hàng rào kỹ thuật (tiêu chuẩn, quy chuẩn, truy xuất nguồn gốc, kiểm dịch động
thực vật, an toàn thực phẩm...) của Việt Nam với các quy định của quốc tế và thị
trường nhập khẩu.
- Tập trung phát triển sản xuất, chế biến các sản phẩm NLTS chủ lực, có tính cạnh
tranh nhằm nâng cao chất lượng, đảm bảo an toàn thực phẩm, tạo giá trị gia tăng cho
các sản phẩm NLTS xuất khẩu và đáp ứng được các tiêu chuẩn ngày càng khắt khe
của thị trường quốc tế.
- Đảm bảo mục tiêu tăng trưởng xuất khẩu NLTS gắn với mục tiêu phát triển nông
nghiệp bền vững; áp dụng khoa học, cơng nghệ, số hóa trong sản xuất, chế biến, nâng
cao năng lực cạnh tranh cho các sản phẩm NLTS.
3.1.2. Mục tiêu

a) Mục tiêu chung
Thúc đẩy tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu các sản phẩm NLTS, tham gia toàn diện và
bền vững vào chuỗi cung ứng NLTS, thực phẩm toàn cầu. Nâng cao chất lượng và giá
trị sản phẩm NLTS xuất khẩu của Việt Nam nhằm đáp ứng được các quy định của các
thị trường nhập khẩu. Tiếp tục định vị và phát triển thương hiệu cho các sản phẩm

NLTS của Việt Nam trên thị trường quốc tế.
b) Mục tiêu cụ thể
- Mục tiêu đến năm 2025
+ Giá trị xuất khẩu các sản phẩm NLTS của Việt Nam đạt khoảng 50 - 51 tỷ USD vào
năm 2025. Trong đó, nhóm nơng sản chính đạt 22 tỷ USD, lâm sản đạt từ 13,5 - 14 tỷ
USD, thủy sản đạt 12,5 tỷ USD, sản phẩm chăn nuôi đạt từ 1 - 1,5 tỷ USD, các mặt
hàng NLTS khác đạt khoảng 1 - 1,5 tỷ USD;
+ Khoảng 20% sản phẩm NLTS của Việt Nam xuất khẩu được gắn thương hiệu quốc
gia, 50% sản phẩm truy xuất được nguồn gốc;
+ Khoảng 50% giá trị xuất khẩu các sản phẩm NLTS là qua chế biến và chế biến sâu.
18


- Mục tiêu đến năm 2030
+ Giá trị xuất khẩu NLTS của Việt Nam đạt khoảng 60 - 62 tỷ USD vào năm 2030.
Trong đó, nhóm nơng sản chính đạt 25 tỷ USD, lâm sản đạt khoảng 16 - 17 tỷ USD,
thủy sản đạt 15 tỷ USD, sản phẩm chăn nuôi đạt từ 3 - 4 tỷ USD, mặt hàng NLTS
khác đạt khoảng 2 tỷ USD;
+ Tốc độ tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu NLTS đạt khoảng 6% - 8%/năm;
+ Khoảng 40% sản phẩm NLTS của Việt Nam xuất khẩu được gắn thương hiệu quốc
gia, 70% sản phẩm truy xuất được nguồn gốc;
+ Khoảng 60% giá trị xuất khẩu các sản phẩm NLTS là qua chế biến và chế biến sâu.

3.2.1.1.

3.2. Một số giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu vải thiều Việt Nam sang Nhật Bản
3.2.1. Đối với doanh nghiệp, nhà cung cấp
Lựa chọn phương thức thâm nhập thích hợp để chủ động thâm nhập vào các kênh
phân phối trên thị trường Nhật Bản
Có nhiều phương thức để các doanh nghiệp Việt Nam có thể thâm nhập vào thị trường

Nhật Bản như: xuất khẩu qua trung gian, xuất khẩu trực tiếp, liên doanh, đầu tư trực
tiếp nước ngoài… Lựa chọn phương thức thích hợp để chủ động thâm nhập vào kênh
phân phối trên thị trường Nhật Bản. Để có thể mở rộng thị trường, nâng cao hiệu quả
xuất khẩu các doanh nghiệp cần phải đẩy manh xuất khẩu trực tiếp sang Nhật Bản
hoặc thơng qua các hình thức liên doanh với các doanh nghiệp tại thị trường này để có
thể mở rộng kênh phân phối cũng như đứa vải thiều tiếp cận đễ dàng với người tiêu
dùng hơn .
Các doanh nghiệp cần chú trọng hơn đên 1 số yếu tố như : thị hiếu , giá cả , đối thủ
cạnh tranh, dung lượng của thị trường …Cần tìm hiểu thuế quan, chinh sách ngoại
thương và qui chế nhập khẩu của Nhật Bản.
Các nguyên tắc thâm nhập thị trường đối với các doanh nghiệp xuất khẩu nói chung
và các doanh nghiệp xuất khẩu vải thiều nói riêng cần:


Nắm bắt được thị hiếu người tiêu dùng



Hạ giá thành sản phẩm để nâng cao sức cạnh tranh



Đảm bảo thời gian giao hàng



Nâng cao chất lượng sản phẩm

3.2.1.2.


Biện pháp hạn chế rủi ro trong thương mại

Rủi ro nhiều nhất đối với mặt hàng vải thiều phải nói đến tính mùa vụ của sản phẩm
cũng như việc kiểm soát chất lượng sản phẩm trong quá trình vận chuyển. Để đối mặt
với những vấn đề này các công ty xuất nhập khẩu cần chọn ra cho mình 1 phương
thức vận chuyển tốt và thuận lợi nhất. Phương thức vận chuyển tốt và chất lượng nhất
đối với vải thiều có le chỉ có thể nói đến máy bay, vận chuyển bằng đường hàng
không. Phương thức vận chuyển nhanh nhất, đảm báo được chất lượng, mẫu mã của
vải đồng thời đáp ứng đúng được thời gian tối ưu. Nhưng điểm hạn chế của phương
19


tiện này chính là chi phí. Vải thiều là mặt hàng có giá trị gia tăng khơng lớn nhưng
chi phí vận chuyển lại lớn, chiếm khá nhiều trong giá thành của vải. Vì thế ngồi các
biện pháp về phương tiện vận chuyển này, chúng ta cần tìm hiểu và đầu tư vào những
công nghệ bảo quản hiện đại giúp vải có thể bảo quản được lâu hơn (cơng nghệ CAS).
3.2.1.3.

Biện pháp đẩy mạnh hoạt động nghiên cứu về thị trường Nhật Bản

Chúng ta cần có cơng tác nghiên cứu, tìm hiểu thị trường 1 cách kĩ lưỡng. Khi tiếp cận
được thị trường 1 cách đầy đủ nhất, điều tra về thị hiếu, thói quen tiêu dùng, chính
sách của thị trường, se giúp các doanh nghiệp chủ động hơn trước những bất ngờ có
thể xảy ra và tìm đúng hướng đi cho vải thiều.
3.2.1.4.

Biện pháp phát triển, xây dựng hình ảnh thương hiệu cho vải dựa trên vận
động hành lang.

Lí do chính khiến người tiêu dùng Nhật Bản khơng biết và không sử dụng sản phẩm

vải thiều của Việt Nam phải kể đến thương hiệu vải thiều Việt Nam không ai biết đến
cả. Madagascar có loại vải Malandly , chúng ta cũng có những thương hiệu vải nổi
tiếng như Vải Thanh Hà, vải Lục Ngạn,..nhưng những cái tên đó chỉ mới dừng ở mức
độ trong nước cịn bên ngồi thế giới họ khơng biết đó là gì? Điều quan trong là xây
dựng và gằn Vải Việt Nam với: Tính sạch se, đảm bảo đúng, đủ yêu cầu quốc tế Gobal
GAP, đậm đà hương vị Việt Nam: quả vải to, hạt nhỏ, mọng nước, ngọt mát.
Ngoài ra chúng ta cũng nên tận dụng tiềm năng phân phối từ lực lượng kiều bào tại
Nhật Bản. Thơng thường những người này đều có những khoản thu nhập khá, và sẵn
sàng mua sản phẩm của cơng ty. Những người con Việt Nam dù có đi xa đến đâu đi
chăng nữa cũng có những thói quen khó bỏ.
3.2.1.5.

Phát triển nguồn nhân lực cho đẩy mạnh việc xuất khẩu

Các doanh nghiêp Việt Nam cần tổ chức nhiều chương trình đào tạo chuyên sâu nhằm
nâng cao năng lực cũng như trình độ cho cán bộ và cơng nhân viên qua đó nâng cao
khả năng cạnh tranh của sản phẩm vải thiều Việt Nam trên thị trường thế giới. Đồng
thời các doanh nghiệp Việt Nam nên gửi các cán bộ kĩ thuật trẻ , có triển vọng ra nước
ngồi đào tạo cũng như học hỏi kinh nghiêm sản xuất , chế biến , bảo quản cũng như
tiếp thu công nghệ tiên tiến trên thế giới.
Ngoài ra cũng nên chú trọng đên các cán bộ thương mại giỏi giàu kinh nghiệm, như
vậy mới có thể đưa trái vải thiều Việt Nam đến tay người tiêu dùng Nhật Bản.
3.2.1.6.

Đẩy mạnh ứng dụng Thương mại điện tử trong kinh doanh

Bây giờ là thời đại của Internet, nhờ các cơng cụ tìm kiếm và mạng xã hội: Facebook,
Yahoo, Twister, Google,…mà con người trở nên gần nhau hơn, xóa tan khoảng cách
giữa các châu lục. Vì thế trong lĩnh vực thơng tin, khoảng cách giữa Nhật Bản và Việt
Nam không phải là vấn đề. Các doanh nghiệp cần đầu tư, khai thác hết các tiềm năng

mà các công cụ này đem lại. Nhờ các công cụ này, các doanh nghiệp xuất khẩu vải
thiều Việt Nam có cơ hội tiếp xúc để điều tra tìm hiểu một cách trực tiếp khách hàng
cá nhân, tổ chức, đối tác, cũng như nhà phân phối của công ty tại Nhật Bản. Công cụ
Internet cũng giúp doanh nghiệp rất nhiều trong việc quản lý đơn hàng, giao nhận
20


hàng 1 cách tiết kiệm nhất. Vì thế, các doanh nghiệp Việt Nam cần đầu tư 1 cách hiệu
quả và cơng cụ này.
3.2.2 Các giải pháp về phía nhà nước.
3.2.2.1.
Hồn thiện hành lang pháp lý tạo thuận lợi cho xuất khẩu.

Rà soát lại các hệ thống luật để điều chỉnh các quy định khơng cịn phù hợp hoặc chưa
rõ ràng, trước hết là Luật Thương Mại, Luật Đầu tư nước ngồi tại Việt Nam và
khuyến khích đầu tư trong nước. Cần mở rộng phạm vi điều chỉnh cho phù hợp với
các quy định cam kết với WTO, các điều lệ thỏa thuận của Hiệp định thương mại tự
do FTA, trong mơi trường tồn cầu hóa sâu rộng và xu hướng hội nhập toàn cầu.
Tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành chính trong lĩnh vực thương mại theo hướng xóa bỏ
các thủ tục phiền hà và phấn đấu ổn định môi trường pháp lý, tạo tâm lý tin tưởng cho
các doanh nghiệp, khuyến khích họ chấp nhận bỏ vốn lâu dài, mở rộng thị trường xuất
khẩu. Phấn đấu làm cho các chính sách về thuế trở nên rõ ràng minh bạch hơn.
Hiệp định thương mại tự do Việt Nam- Nhật Bản (VJEPA) đã ký chỉ ra những quy
định chung về thương mại hàng hóa giữa Việt Nam và Nhật Bản. Việt Nam cần
nghiêm túc thực hiện đúng lộ trình thực hiện cũng như các cam kết đã kí như: thuế
quan, quy tắc …
3.2.2.2.

Hỗ trợ tín dụng cho các doanh nghiệp xuất khẩu vải thiều sang thị trường
Nhật Bản.


Đại bộ phận các doanh nghiệp xuất khẩu vải thiều Việt Nam sang Nhật Bản đều có
quy mơ vừa và nhỏ, nên khả năng cạnh tranh và hiệu quả xuất khẩu khơng cao. Vì thế,
để đẩy mạnh, mở rộng quy mô và nâng cao hiệu quả xuất khẩu sang thị trường này,
Nhà nước cần có sự hỗ trợ cho các doanh nghiệp về vốn thông qua hệ thống ngân
hàng thương mại nhà nước. Để triển khai hoạt động hỗ trợ này, Nhà nước Việt Nam
nên thực hiện các biện pháp sau đây: Sử dụng có hiệu quả quỹ hỗ trợ xuất khẩu để các
doanh nghiệp được vay vốn với lãi suất thấp, giải quyết được những khó khăn về vốn
lưu động và vốn đầu tư đổi mới trang thiết bị; đảm bảo sự bình đẳng thực sự trong
quan hệ tín dụng ngân hàng trên cơ sở pháp luật giữa các thành phần kinh tế; xúc tiến
thành lập các ngân hàng chuyên doanh của khu vực vừa và nhỏ, thu hút sự tham gia
của các doanh nghiệp lớn với sự hỗ trợ từ Nhà nước và các tổ chức quốc tế; mở rộng
khả năng tiếp cận vốn cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ; thực hiện lãi suất ưu đãi cho
doanh nghiệp vừa và nhỏ ; thông qua ngân hàng linh hoạt hạ mức lãi suất chiết khấu
để đẩy mạnh để đẩy mạnh xuất khẩu ..
3.2.2.3.

Các chính sách tạo điều kiện cho nơng dân trồng vải

Việc nâng cao chất lượng quả vải thiều đã được các cấp chính quyền và người dân địa
phương rất quan tâm. Phong trào sản xuất vải thiều sạch an toàn theo tiêu chuẩn thực
hành sản xuất nông nghiệp tốt (VietGAP) ngày càng phát triển và nhân rộng. Từ năm
2010 đến nay, trung bình mỗi năm cơ quan chức năng tổ chức khoảng 130 lớp tập
huấn về quy trình sản xuất vải thiều VietGAP cho hàng nghìn hộ dân.

21


Nhằm tạo điều kiện giúp người dân sản xuất, chế biến và tiêu thụ vải thiều thuận lợi,
hằng năm, UBND một số tỉnh chuyên sản xuất vải thiều chỉ đạo các ngành chức năng

làm tốt công tác tuyên truyền, vận động nhân dân tập trung chăm sóc vải thiều, nâng
cao năng suất và chất lượng sản phẩm, nhất là theo quy trình sản xuất VietGAP. Cùng
đó, huyện thành lập Ban Chỉ đạo Hỗ trợ nhân dân tiêu thụ vải thiều; tham mưu với cấp
trên tổ chức Hội nghị xúc tiến thương mại cho sản phẩm; làm tốt công tác bảo đảm an
ninh trật tự và an tồn giao thơng, tạo mọi điều kiện thuận lợi để tiểu thương về địa
phương thu mua vải thiều.
Tích cực phối hợp với Viện Cơ điện Nông nghiệp và Công nghệ sau thu hoạch (Bộ
Nông nghiệp và PTNT) xây dựng mơ hình liên kết sản xuất, chế biến, tiêu thụ vải
thiều sau thu hoạch; phối hợp với Viện Quy hoạch (Bộ Nông nghiệp và PTNT) quy
hoạch vùng vải thiều phục vụ xuất khẩu. Cùng đó, tiếp nhận triển khai mơ hình trồng
vải thiều theo tiêu chuẩn GlobalGAP tại xã tại các xã thí điểm với diện tích từ 100 –
150 ha để bảo đảm đủ điều kiện, nguồn hàng phục vụ xuất khẩu sang thị trường Mỹ,
châu Âu và Nhật Bản.
3.2.2.4.

Các giải pháp khác của chính phủ

Vai trị các hiệp hội ngành nơng sản cần được nâng cao hơn nữa. Nhà nước cần xây
dựng các cơ sở dữ liêu đầy đủ về các doanh nghiêp Việt Nam nhằm hỗ trợ cho các
doanh nghiệp trong việc tìm hiểu thơng tin về đối tác cũng như doanh nghiệp nước
ngồi có thể tìm kiếm các thơng tin về doanh nghiệp Việt Nam. Từ đó nâng cao hiệu
quả kinh doanh trong nước, quốc tế, và tiến tới minh bạch hóa hệ thống thơng tin
trong doanh nghiệp..

22


KẾT LUẬN
Hoạt động xuất khẩu nơng sản nói chung và xuất khẩu vải thiều nói riêng ở Việt Nam
đã có nhiều sự chuyển biến tích cực. Nhà nước đẩy mạnh việc xuất khẩu bằng cách

đưa ra các chính sách có lợi, các doanh nghiệp tích cực hơn trong việc tìm kiếm thị
trường, nâng cao sức cạnh tranh trên trường quốc tế. Cùng với đó, cuối năm 2019, Bộ
Nơng Lâm Ngư nghiệp Nhật Bản đã gửi thư cho Cục BVTV thông báo chính thức mở
cửa cho quả vải thiều Việt Nam xuất khẩu trực tiếp sang Nhật Bản.
Hiện nay mặt hàng vải thiều Việt Nam tuy đang dần có chỗ đứng trên thị trường nước
ngoài, cụ thể là thị trường Nhật Bản, song khả năng cạnh tranh còn thấp. Nguyên nhân
chủ yếu là do pháp luật xuất nhập khẩu rất khắt khe với mặt hàng vải thiều. Sự đồng
bộ trong sản xuất ở các vùng nguyên liệu chưa cao, việc áp dụng cơng nghệ mới vào
sản xuất cịn chưa hiệu quả, cơ sở hạ tầng đang dần được cải tiến nhưng vẫn chưa đáp
ứng kịp những nhu cầu thực tiễn đã khiến chất lượng quả vải chưa đạt chuẩn. Để có
thể thâm nhập thành công vào thị trường Nhật Bản và có chỗ đứng trên thị trường thế
giới, các doanh nghiệp xuất khẩu vải thiều cần nỗ lực hơn nữa trong việc sản xuất,
chất lượng sản phẩm, chọn kênh phân phối, nghiên cứu thịtrường và thịhiếu khách
hàng...Nhà nước cũng cần đưa ra các chính sách, định hướng đúng đắn và kịp thời
nhằm giúp đỡ và thúc đẩy hoạt động xuất khẩu vải thiều sang Nhật Bản.

23



×