Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

Huong dan hoc va lam bai thi HSG mon Dia li

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (336.07 KB, 18 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

<i><b>Phần hai</b></i>



<b>HƯỚNG DẪN CÁCH HỌC VÀ LÀM BÀI THI HỌC SINH GIỎI ĐỊA LÍ</b>



A. MỘT SỐ YÊU CẦU TRONG HỌC TẬP ĐỐI VỚI HỌC SINH GIỎI ĐỊA LÍ


Điểm khác của học sinh (HS) giỏi với học sinh bình thường là ở chỗ HS giỏi nắm kiến thức cơ
bản địa lí vững chắc và tồn diện hơn, có kĩ năng địa lí hồn thiện hơn và đặc biệt, có tư duy địa lí
linh hoạt và sâu sắc hơn. Ở mức độ cao hơn nữa, HS giỏi là những người có khả năng sáng tạo,
nghĩa là khả năng tìm ra cái mới, cách giải quyết mới.


Như vậy, để trở thành HS giỏi nói chung và HS giỏi địa lí nói riêng, cần phải rèn luyện trên cả
ba phương diện : kiến thức, kĩ năng địa lí và kĩ năng tư duy.


<b>1. Kiến thức</b>


<i>a) Kiến thức địa lí phổ thơng </i>hiện hành gồm cả địa lí đại cương (tự nhiên, kinh tế - xã hội), địa
lí thế giới (tự nhiên, kinh tế - xã hội), địa lí Việt Nam (tự nhiên, kinh tế - xã hội). Chương trình địa lí
THPT yêu cầu HS phải nắm vững một số kiến thức phổ thơng, cơ bản, mang tính hệ thống, thiết
thực về :


- Trái Đất - môi trường sống của con người (các thành phần cấu tạo và tác động qua lại giữa
chúng, một số quy luật của môi trường tự nhiên trên Trái Đất ; dân cư và các hoạt động của dân cư
trên Trái Đất ; mối quan hệ giữa dân cư, hoạt động sản xuất và môi trường).


- Đặc điểm của nền kinh tế thế giới đương đại. Đặc điểm tự nhiên, dân cư, kinh tế - xã hội của
một số khu vực, quốc gia trên thế giới.


- Đặc điểm tự nhiên, tài nguyên thiên nhiên, dân cư, kinh tế và những vấn đề đặt ra đối với tự
nhiên, dân cư, kinh tế - xã hội của đất nước, của các vùng và địa phương nơi HS đang sinh sống.



<i>b) Trong mỗi lĩnh vực, những kiến thức cơ bản</i> mà HS cần hiểu sâu, nhớ lâu, vận dụng được là
các khái niệm, mối liên hệ nhân quả địa lí, quy luật địa lí, các học thuyết, quan điểm địa lí. Những
loại kiến thức này làm rõ bản chất tri thức địa lí.


- Các khái niệm địa lí nhằm phản ánh bản chất của sự vật, hiện tượng địa lí và mối quan hệ giữa
chúng với nhau. Trong chương trình địa lí THPT, chúng có thể được trình bày theo nhiều cách khác
nhau, tuỳ thuộc vào nội dung khái niệm. Có những khái niệm được trình bày một cách khái quát,
ngắn gọn, chẳng hạn như : "Thổ nhưỡng (đất) là lớp vật chất tơi xốp ở bề mặt lục địa, được đặc
trưng bởi độ phì", hay "Nội lực là lực phát sinh ở bên trong Trái Đất",... Tuy nhiên, do nội dung
phức tạp của nhiều sự vật, hiện tượng địa lí, nên một số khái niệm được trình bày theo lối diễn dịch,
liên quan đến nhiều kiến thức địa lí khác. Ví dụ, khái niệm về chuyển động biểu kiến hằng năm của
Mặt Trời, về hiện tượng mùa và hiện tượng ngày đêm dài ngắn theo mùa, về gió mùa,... Việc hiểu
một khái niệm địa lí thường phải dựa trên ít nhất một khái niệm khác đã học có liên quan ; có nhiều
khái niệm mà để hiểu được phải dựa trên cơ sở của nhiều khái niệm khác, ví dụ : giờ trên Trái Đất,
quy luật địa đới, tính đai cao, ...


- Các mối liên hệ nhân quả là loại kiến thức phổ biến trong địa lí. Việc giải thích các hiện tượng
địa lí phần lớn phải dựa vào các mối liên hệ này. Các mối liên hệ nhân quả có nhiều loại khác nhau.
Có những mối liên hệ đơn giản (chỉ có một nguyên nhân và một kết quả), ví dụ : mối liên hệ giữa độ
cao địa hình và nhiệt độ khơng khí, nhiệt độ và khí áp, độ ẩm và khí áp, cấu tạo của đá và nước
ngầm, chế độ mưa và nhiệt với chế độ nước sơng, dịng biển với lượng mưa ven bờ đại dương, đá
mẹ và thổ nhưỡng, khí hậu và sự phân bố sinh vật,... Có những mối liên hệ nhân quả phức tạp (một
nguyên nhân gây ra nhiều kết quả, hay nhiều nguyên nhân gây ra một kết quả), ví dụ : vận động tự
quay quanh trục của Trái Đất đã gây ra các hệ quả như sự luân phiên ngày đêm, chuyển động biểu
kiến hằng ngày của các thiên thể, giờ trên Trái Đất, sự lệch hướng chuyển động của các vật thể ; sự
phân bố nhiệt độ trên Trái Đất chịu ảnh hưởng của nhiều nhân tố, như : hình dạng và vị trí của Trái
Đất so với Mặt Trời, sự phân bố lục địa và biển, các dịng biển nóng và lạnh,.... Các ngun nhân và
kết quả liên tục kế tiếp nhau tạo ra một chuỗi mối liên hệ nhân quả, ví dụ : ở thảo nguyên với khí
hậu lục địa nửa khơ hạn có thực vật chủ yếu là cỏ, tạo nên đất đen có tầng mùn dày ; ở sườn núi, khi
lên cao, nhiệt độ, lượng mưa và áp suất khơng khí thay đổi, do đó sinh vật phân bố theo từng vành


đai thẳng đứng cũng khác nhau ; địa hình có tác động đến sự phân bố lại lượng nhiệt và ẩm trong đá
mẹ, nhiệt và ẩm đó có tác động đến chiều hướng và cường độ của quá trình hình thành đất,...


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

mảng. Đặc biệt thuyết kiến tạo mảng cho phép giải thích rất nhiều sự vật và hiện tượng trên Trái đất,
ví dụ sự tạo núi, các vành đai núi lửa và động đất,...).


- Ngoài các kiến thức cơ bản trên, trong sách giáo khoa cịn trình bày về các sự vật hiện tượng
địa lí cụ thể, các biểu tượng địa lí,... Các kiến thức này đóng vai trị hoặc để cụ thể hoá các kiến thức
cơ bản trên, hoặc là cơ sở để rút ra các kiến thức khái qt.


<i>c) Kiến thức địa lí phổ thơng mà HS cần nắm, được chia thành 6 mức độ :</i>


Biết : Ghi nhớ được các sự kiện, khái niệm, định nghĩa, hệ quả, thuật ngữ và các ngun lí dưới
hình thức được học.


Hiểu : Hiểu được kí hiệu, ý nghĩa và mối liên hệ trong khái niệm, định lí, hệ quả, cơng thức,...
Có khả năng diễn giải, mơ tả, tóm tắt thông tin đã thu được, không nhất thiết phải liên hệ tư liệu này
với tư liệu khác.


Vận dụng : Sử dụng thơng tin trong các tình huống khác với tình huống đã học ; khái quát hoá,
trừu tượng hoá những kiến thức đã biết.


Phân tích : Biết cách tách tổng thể thành các bộ phận và biết rõ sự liên hệ giữa các bộ phận đó
với nhau trong cùng một cấu trúc.


Tổng hợp : Biết kết hợp các bộ phận thành một tổng thể mới từ tổng thể cũ. Cần có khả năng
phân tích để đi đến tổng hợp. Ở đây bắt đầu thể hiện sự sáng tạo của cá nhân.


Đánh giá : Địi hỏi có những hành động so sánh, phê phán, chọn lọc, quyết định trên cơ sở các
tiêu chí và tính hợp lí. Cần có khả năng tổng hợp để đánh giá.



Cũng là một kiến thức, nhưng có thể yêu cầu HS nắm ở 6 mức độ khác nhau. Ví dụ : kiến thức
"Hệ quả chuyển động tự quay của Trái Đất", yêu cầu theo 6 mức như sau :


- Biết : Nhớ được 3 hệ quả : sự luân phiên ngày đêm, giờ trên Trái Đất và đường chuyển ngày
quốc tế, sự lệch hướng chuyển động của các vật thể.


- Hiểu : Không những nhớ mà cịn phải giải thích được như thế nào là sự luân phiên ngày đêm,
như thế nào là giờ địa phương, giờ quốc tế, đường chuyển ngày quốc tế, sự lệch hướng chuyển động
của các vật thể khác nhau giữa hai bán cầu như thế nào.


<i>-</i> Áp dụng : Sử dụng kiến thức về sự lệch hướng chuyển động của các vật thể để giải thích sự
lệch hướng gió trên Trái Đất, sự mài mòn đường ray xe lửa bên phải ở các nước thuộc bán cầu Bắc...
giải thích được hiện tượng trong nhật kí ghi chậm một ngày lịch so với lịch địa phương khi về lại
đích của các đồn thám hiểm vịng quanh Trái Đất...


- Phân tích : Làm rõ được nguyên nhân của sự luân phiên ngày đêm là do hai yếu tố có quan hệ
chặt chẽ với nhau : Hình khối cầu của Trái Đất làm cho nó ln được chiếu sáng một nửa (ngày),
cịn một nửa khuất trong bóng tối (đêm). Đồng thời, do Trái Đất tự quay quanh trục, nên mọi nơi
trên bề mặt Trái Đất đều lần lượt được Mặt Trời chiếu sáng rồi lại chìm trong bóng tối, gây nên hiện
tượng ln phiên ngày đêm. Thiếu đi một trong hai yếu tố đó sẽ khơng có hiện tượng ln phiên
ngày đêm. Hoặc, phải đặt ra đường chuyển ngày quốc tế, vì trên Trái Đất có một múi giờ, tại đó vừa
là 0 giờ (của ngày hôm sau), vừa là 24 giờ (của ngày hơm trước). Hai bên đường kinh tuyến có ngày
khác nhau. Do vậy, khi vượt qua kinh tuyến đó theo chiều từ tây sang đông phải cộng thêm một
ngày ; ngược lại - phải trừ đi 1 ngày. Đường kinh tuyến đó được gọi đường chuyển ngày quốc tế.


- Tổng hợp : Có nhiều cách thể hiện khác nhau, nhưng trên cơ sở phân tích trên, có thể HS dự
đốn được kết quả của trường hợp giả định nếu Trái Đất khơng tự quay quanh trục, thì có hiện tượng
ngày đêm khơng ? Lúc đó thời gian một ngày đêm trên Trái Đất là bao nhiêu ? Hay, nếu không đặt
ra đường chuyển ngày quốc tế, điều gì sẽ xảy ra trong quan hệ quốc tế giữa các nước thuộc các múi


giờ khác nhau ?...


HS bình thường, về cơ bản chỉ cần đạt ở mức 1 và 2, một số kiến thức có thể đạt ở mức 3, 4... là
được. HS giỏi cần phải có kiến thức đạt ở mức cao hơn, như phân tích, tổng hợp, đặc biệt là đánh
giá. Những mức này địi hỏi các em phải có một hệ thống tri thức địa lí nhất định, đồng thời có được
các kĩ năng tư duy cần thiết.


<b>2. Kĩ năng địa lí</b>


<i>a) Học Địa lí ở THPT, HS cần phải củng cố và phát triển các kĩ năng :</i>


- Quan sát, nhận xét, phân tích, tổng hợp, so sánh, đánh giá các sự vật, hiện tượng địa lí ; sử
dụng bản đồ, biểu đồ, đồ thị, lát cắt, số liệu thống kê,...


- Thu thập, xử lí, trình bày các thơng tin địa lí.


- Vận dụng kiến thức để giải thích các hiện tượng, sự vật địa lí và giải quyết một số vấn đề của
cuộc sống, sản xuất gần gũi với HS trên cơ sở tư duy kinh tế, tư duy sinh thái, tư duy phê phán.


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

Bắt chước : Quan sát và cố gắng lặp lại một kĩ năng nào đó.


Thao tác : Hồn thành một kĩ năng nào đó theo chỉ dẫn hơn là bắt chước máy móc.


Chuẩn hố : Lặp lại một kĩ năng nào đó một cách chính xác, nhịp nhàng, đúng đắn và
thường được thực hiện một cách độc lập, không phải hướng dẫn.


Phối hợp : Kết hợp nhiều kĩ năng theo một trật tự, một cách nhịp nhàng và ổn định.


Tự động hoá : Hoàn thành một hay nhiều kĩ năng một cách dễ dàng và trở thành tự động, khơng
địi hỏi một sự cố gắng về thể lực và trí tuệ.



HS giỏi cần phải đạt được các mức độ 4 và 5 của kĩ năng. Nhờ vậy, các em mới có thể sử dụng
các kĩ năng này để tự học, tự nghiên cứu, tìm ra những kiến thức cần nắm, hoặc vận dụng các kiến
thức vào thực tế cuộc sống để giải quyết các vấn đề thực tế.


Các kĩ năng sẽ có được một cách vững chắc nhờ vào việc luyện tập thường xuyên và có kết quả
trên cơ sở những hiểu biết cần thiết về kĩ năng.


<b>3. Tư duy</b>


<i> a) Tư duy có nhiều loại. </i>Trong học tập hiện nay, tư duy cần có ở HS là tư duy lơgic (xem xét sự
vật trong dạng tĩnh tại), tư duy biện chứng (xem xét sự vật trong sự vận động một cách lơgic), tư
duy hình tượng (hình dung ra sự vật, hiện tượng với những đặc điểm vốn có của nó).


Ngồi ra, do đặc điểm của đối tượng địa lí, nên tư duy đặc thù của địa lí là ln xem xét sự vật
trong các mối liên hệ và gắn liền với lãnh thổ, dựa vào bản đồ. Ví dụ : Khi nhận xét một địa điểm
nào đó mưa nhiều hay ít, phải xem xét chúng trong mối quan hệ với các dạng địa hình núi (nằm ở
sườn đón gió hay khuất gió, ở độ cao nào), trong vùng khí hậu nào, gió thổi đến hướng nào, có đi
qua biển khơng, địa điểm đó nằm gần kề hay xa biển (hoặc đại dương), có dịng biển nóng hay dịng
lạnh chảy ven khơng... vì những yếu tố này đều tác động đến lượng mưa nhiều hay ít của một địa
điểm.


<i>b) Tư duy diễn ra trong khuôn khổ của các thao tác tư duy</i> : phân tích, tổng hợp, so sánh, trừu
tượng hố, khái quát hoá. Nếu sử dụng các thao tác tư duy này một cách linh hoạt, thì sẽ đưa đến các
kết quả thích hợp. Do vậy trong q trình học tập cũng như ơn luyện thi HS giỏi địa lí cần phải chú
trọng rèn luyện các thao tác tư duy này.


B. MỘT SỐ BIỆN PHÁP HỌC TẬP CÓ HIỆU QUẢ TRONG ƠN LUYỆN THI HỌC SINH
GIỎI ĐỊA LÍ



<b>1. Nhớ kiến thức một cách lơgic</b>


Muốn có tư duy lơgic, phải có một hệ thống kiến thức nhất định. Một số nghiên cứu của các nhà
khoa học sư phạm trên thế giới chỉ ra rằng, sở dĩ trong mơn Địa lí, HS THPT hiện nay có tư duy
khơng tốt là do thiếu những kiến thức cần thiết, trong đó đặc biệt là hệ thống khái niệm địa lí. Việc
nắm vững một hệ thống kiến thức địa lí cơ bản làm cơ sở cho tư duy, sẽ tạo cơ sở cho việc nắm
những kiến thức địa lí mới. Kiến thức mới lại tiếp tục làm cơ sở cho tư duy để nhận thức được
những kiến thức khác mới hơn...


Hiện nay, một số HS có quan niệm cực đoan rằng chỉ cần có tư duy tốt là đủ để nắm được các
kiến thức cần thiết ; hay nói cách khác, chỉ cần thơng minh là thi được HS giỏi địa lí. Đó là một
quan niệm không đúng. Cần nhớ rằng mục tiêu của việc học tập là vừa có được những kiến thức cơ
bản, vừa phát triển được năng lực tư duy. Muốn tư duy phải có kiến thức (tựa như "có bột mới gột
nên hồ" vậy). Khơng có đủ kiến thức cần thiết, như nói ở trên, khơng thể có tư duy địa lí được.
Chính vì vậy, học để nắm chắc kiến thức là việc làm hết sức quan trọng, không chỉ riêng đối với HS
giỏi địa lí, mà đối với tất cả các em học sinh nói chung.


Nắm chắc kiến thức có nghĩa là hiểu được, nhớ lâu bền kiến thức địa lí cần thiết và có thể vận
dụng được vào các trường hợp cụ thể. Để nhớ lâu bền, cần phải có trí nhớ lơgic. Muốn ghi nhớ lơgic,
trong q trình ghi nhớ phải hiểu và vận dụng được các quy luật của trí nhớ.


<i>a) Trí nhớ </i>là hoạt động phản xạ có điều kiện. Muốn lập được phản xạ có điều kiện, thông tin
phải lặp đi lặp lại nhiều lần. Do vậy, trong ghi nhớ kiến thức, việc ôn tập thường xuyên tỏ ra hết sức
cần thiết. Sau một số bài, sau một chương hoặc một số chương, cần phải ôn tập để tăng cường ghi
nhớ.


</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

việc kết hợp nghe và nhìn (quan sát videoclip, băng hình địa lí...), từ việc làm (trao đổi, tranh luận
với bạn ; làm các bài thực hành, giải các bài tập địa lí...). Một kết quả nghiên cứu sư phạm đã chỉ ra :
kiến thức được nhớ là nhờ 10% qua đọc, 20% qua nghe, 30% qua nhìn, 50% qua nghe và nhìn, 80%
qua nói và 90% qua làm. Vì vậy, để tăng cường ghi nhớ, nên chọn các biện pháp học tập đề cao vai


trò của trao đổi, thảo luận, thực hành, hoặc kết hợp nghe và nhìn, hỏi thầy và bạn về những điều
chưa rõ...


<i>c) Nhớ lâu bắt nguồn từ hứng thú học tập</i>. Nếu một HS đam mê với việc giải thích các hiện
tượng địa lí, HS đó sẽ nhớ về các mối liên hệ nhân quả tốt hơn ; nếu thích thú với các hiện tượng địa
lí diễn ra xung quanh mơi trường sống, HS đó quan tâm nhiều hơn đến việc quan sát thực tế và vận
dụng kiến thức địa lí vào giải quyết những vấn đề đó... Như vậy, hứng thú có thể ví như một chất
men kích thích việc học tập. Hứng thú học tập phải được tạo ra bằng thái độ, động lực học tập (ví dụ
học giỏi để thi đạt kết quả cao) và được ni dưỡng suốt trong q trình học tập. Mỗi khi gặp khó
khăn, phải tìm cách giải quyết thích hợp để đạt được nguyện vọng chính đáng đã xác định ban đầu
của bản thân.


<i>d) Kiến thức mới được ghi nhớ trong mối quan hệ với kiến thức đã có. </i>Những kiến thức đã có
làm cơ sở cho việc ghi nhớ các kiến thức mới cùng loại. Do đó, khi học kiến thức mới cần phải liên
hệ với kiến thức đã có. Đồng thời, khi có được một kiến thức mới, cần phải xếp chúng vào hệ thống
các kiến thức đã có một cách hợp lí.


<i>e) Ghi nhớ phải có tính hợp lí, </i>đi từ dễ đến khó, từ đơn giản đến phức tạp. Do vậy, trong quá
trình học tập và luyện tập cần chú ý thực hiện những nhiệm vụ từ dễ đến khó.


<i>g) Tập trung chú ý sẽ làm tăng cường trí nhớ.</i> Thường não bộ không tiếp thu thông tin hai loại
cùng một lúc. Do vậy, khi học, phải tập trung tối đa vào việc học (nghe giảng, họăc trao đổi thảo
luận về nội dung học tập, giải bài tập...). Học xong, mới tập trung vào việc khác.


<i>g) Những thơng tin sau cản trở, góp phần xố đi những thơng tin trước cùng loại và liên tục. </i>Đó
là quy luật về ức chế tương đồng của trí nhớ. Do vậy, nếu vừa nghe giảng xong trên lớp, về nhà học
bài ngay, không tốt bằng để sau 5 - 6 tiếng đồng hồ mới học lại bài trên lớp. Tuy nhiên, nếu khoảng
thời gian đó để quá lâu (sau 11 - 12 tiếng đồng hồ chẳng hạn), sự ghi nhớ sẽ bị suy giảm rất nhiều.


<i>h) Thông tin đơn giản dễ nhớ hơn thông tin phức tạp. </i>Vận dụng quy luật này của trí nhớ, trong


học tập cần xác định các kiến thức cơ bản, hoặc các đề mục một cách gọn rõ để dễ nhớ.


<i>i) Khả năng não bộ trong ghi nhớ không phải là vô hạn.</i> Theo nhiều nhà khoa học, một người
trong một phút chỉ học được khoảng 75 đơn vị thông tin, trong suốt cuộc đời chỉ nhớ nổi 58 tỉ đơn vị
thơng tin. Do đó, trong học tập, cần biết chọn nhớ những thơng tin có ích, biết qn đi những thông
tin không cần thiết. Việc xác định những kiến thức cơ bản cần thiết khi học địa lí là việc làm cần
thiết đối với mỗi HS giỏi. Có thể chỉ cần nhớ những kiến thức "chìa khố", khi cần sẽ sử dụng nó để
phát triển đến những kiến thức khác. Ví dụ, khi học về Địa lí tự nhiên đại cương, việc thông hiểu và
ghi nhớ các quy luật địa đới, phi địa đới cho phép vận dụng chúng vào việc nhận biết và giải thích
các hiện tượng khí hậu khác nhau theo vĩ độ, theo đai cao, theo bờ đông hay bờ tây lục địa....


<b>2. Rèn luyện kĩ năng tư duy</b>


Tư duy được biểu hiện bằng các thao tác tư duy (phân tích, tổng hợp, so sánh, trừu tượng hố,
khái qt hố). Để đánh giá một người có tư duy tốt hay không tốt (nôm na là thông minh hay ít
thơng minh hơn), thường dựa vào việc đánh giá khả năng của các thao tác tư duy. Do vậy, rèn luyện
kĩ năng tư duy, chính là rèn luyện việc sử dụng các thao tác tư duy.


<i>a) Việc rèn luyện tư duy một cách thông dụng nhất trong thực tế học tập là dựa vào việc tự trả</i>
<i>lời các câu hỏi </i>và thực hiện các bài tập (ở SGK, sách bài tập, từ thực tế môi trường xung quanh đặt
ra...). Ứng với mỗi thao tác tư duy, có một loại câu hỏi tương ứng để tập trung rèn luyện thao tác tư
duy đó. Ví dụ, câu hỏi u cầu phân tích sẽ góp phần rèn luyện thao tác phân tích của tư duy, câu
hỏi u cầu trừu tượng hố góp phần rèn luyện thao tác trừu tượng hoá của tư duy...


Trong học tập địa lí hiện nay, HS nên rèn luyện kĩ năng tư duy theo các loại câu hỏi sau :


+ Câu hỏi phân tích : nhằm gợi ý HS tách riêng từng phần của sự vật và hiện tượng địa lí, hoặc
các thành phần của mối liên hệ. Ví dụ, phân tích những khả năng để Đồng bằng sông Cửu Long
thành vùng lương thực, thực phẩm hàng đầu của cả nước. Hay, phân tích sự thay đổi về mối tương
quan giữa xuất khẩu và nhập khẩu ở nước ta từ năm 1980 đến nay.



</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

dạng. Vị trí địa lí nước ta có những tác động như thế nào đến tự nhiên và phát triển kinh tế - xã hội ?
Hãy chứng minh rằng, việc xây dựng các cơng trình thuỷ lợi có ý nghĩa hàng đầu để sử dụng hợp lí
tài ngun nơng nghiệp của vùng Đông Nam Bộ. Hãy chứng minh rằng Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh
là hai trung tâm cơng nghiệp lớn nhất nước.


Phân tích và tổng hợp là hai thao tác tư duy có liên hệ mật thiết với nhau, khơng thể tách rời
nhau khi hình thành khái niệm. Những dấu hiệu bản chất của hiện tượng được phát hiện bằng cách
phân tích hiện tượng đang nghiên cứu. Đạt tới bản chất của hiện tượng trong sự hoàn chỉnh và thống
nhất là sản phẩm của tổng hợp. Do vậy câu hỏi phân tích và tổng hợp ln ln đi kèm với nhau, có
quan hệ chặt chẽ với nhau, đơi lúc trong loại câu hỏi này có thành phần của loại câu hỏi kia tham
gia.


+ Câu hỏi so sánh, liên hệ : nhằm liên hệ các sự vật và hiện tượng địa lí lại với nhau trong các
mối quan hệ địa lí có thể có và thiết lập sự giống nhau, khác nhau giữa chúng. Ví dụ : Hai trung tâm
cơng nghiệp lớn Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh có những điểm giống nhau như thế nào về cơ cấu
ngành ? Nêu những điểm giống nhau và khác nhau về nguồn lực phát triển kinh tế - xã hội của vùng
Đông Nam Bộ với Trung du và miền núi Bắc Bộ. Sự khác nhau đó có tác động như thế nào đến sự
phát triển kinh tế của hai vùng ? Phân biệt các hình thức tổ chức trang trại, thể tổng hợp nông nghiệp
và vùng nông nghiệp... Khi đặt câu hỏi so sánh, những đối tượng so sánh có thể có những nét tương
đồng hay trái ngược nhau.


+ Câu hỏi nguyên nhân - kết quả : là loại câu hỏi nêu lên mối liên hệ nhân quả, một trong những
dạng liên hệ có tính chất phổ biến trong bài địa lí. Ví dụ : Tại sao thời gian mùa nóng ở Bắc bán cầu
dài hơn ở Nam bán cầu ? Tại sao phân bố dân cư trên thế giới có sự khác nhau giữa các vùng, các
châu lục, các quốc gia ? Giải thích tại sao các thành phố lớn cũng đồng thời là các trung tâm dịch vụ
lớn. Tại sao ngành công nghiệp chế biến lương thực, thực phẩm trở thành ngành công nghiệp trọng
điểm của nước ta ?...


+ Câu hỏi khái quát hóa : là loại câu hỏi dùng để khái quát hóa các kiến thức cụ thể, nêu lên cái


chính, cái căn bản, cái "chung", thường dùng vào cuối chương hay tổng quát cuối bài. Ví dụ : Hãy
nêu các thế mạnh của vùng Đông Nam Bộ trong việc phát triển tổng hợp nền kinh tế vùng ? Nêu
những đặc điểm cơ bản của khu công nghiệp tập trung và trung tâm công nghiệp.


Thực tế cho thấy, để thực hiện một câu hỏi, dù với yêu cầu chính là sử dụng một thao tác tư duy,
nhưng HS vẫn phải vận dụng nhiều thao tác tư duy để thực hiện. Ví dụ : Để trả lời câu hỏi "Tại sao ở
Duyên hải miền Trung cần phải kết hợp nông - lâm - ngư nghiệp trong phát triển kinh tế ?", HS cần
phải sử dụng nhiều thao tác tư duy như : phân tích (để thấy rõ tiềm năng và hiện trạng phát triển
nông - lâm - ngư nghiệp), tổng hợp (để thấy được bức tranh chung về tiềm năng và hiện trạng phát
triển nông - lâm - ngư nghiệp), trừu tượng hoá (để chọn ra được hướng phát triển chính của vùng
lãnh thổ và khái qt hố (để kết luận về hướng phát triển chung là kết hợp nông - lâm - ngư
nghiệp). Hay để trả lời câu hỏi : Câu ca dao "Đêm tháng năm chưa nằm đã sáng. Ngày tháng mười
chưa cười đã tối" có đúng với tất cả mọi nơi trên Trái Đất không ? HS phải sử dụng thao tác phân
tích (để làm rõ câu ca dao từ phương diện địa lí), tổng hợp (để nêu lên cái chung về sự thay đổi ngày
đêm theo mùa và theo vĩ độ), so sánh (để phân biệt sự khác nhau về độ dài ngày đêm theo mùa của
các khu vực nội chí tuyến và ngoại chí tuyến)... Do vậy, trả lời nhiều câu hỏi khác nhau, sẽ giúp cho
việc rèn luyện các kĩ năng tư duy.


<i>b) Khi đã có các kĩ năng tư duy tốt, HS sẽ có điều kiện vận dụng chúng một cách linh hoạt để</i>
<i>trả lời các câu hỏi thi.</i> Nên nhớ, câu hỏi thi địa lí khơng phải được nêu ra dưới dạng phân tích, tổng
hợp hay trừu tượng hố, khái qt hố... địi hỏi chỉ sử dụng một thao tác tư duy tương ứng. Câu hỏi
thi buộc phải sử dụng các thao tác tư duy một cách tổng hợp trên cơ sở vận dụng các tri thức địa lí
đã có ở mỗi HS. Ví dụ : Hãy trình bày và phân tích trung tâm cơng nghiệp thành phố Hồ Chí Minh
(Đề thi năm 1998). Dựa vào Atlát Địa lí Việt Nam, hãy so sánh hai vùng chuyên canh cây công
nghiệp Đông Nam Bộ và Trung du - miền núi phía Bắc (Đề thi năm 1999) ; Dựa vào Atlát hãy trình
bày và giải thích tình hình phân bố dân cư ở Đồng bằng sông Cửu Long (Đề thi năm 2000) ; Căn cứ
vào Atlát Địa lí Việt Nam, hãy phân tích đặc điểm địa hình, sơng ngịi, đất, thực vật và động vật của
miền Tây Bắc và Bắc Trung Bộ (Đề thi năm 2005) ; Dựa vào Atlát Địa lí Việt Nam và kiến thức đã
học, hãy phân tích sự phân hóa đa dạng của địa hình đồi núi nước ta. Độ cao đồi núi nước ta đã ảnh
hưởng đến sự phân hóa đất như thế nào (Đề thi năm 2006)...



</div>
<span class='text_page_counter'>(6)</span><div class='page_container' data-page=6>

- Kĩ năng làm việc với bản đồ là kĩ năng cơ bản của mơn Địa lí. Nếu khơng nắm vững kĩ năng
này thì khó có thể hiểu và giải thích được các sự vật, hiện tượng địa lí, đồng thời cũng rất khó tự
mình tìm tịi các kiến thức địa lí khác. Do tính chất cơ bản của kĩ năng, nên trong các đề thi HS giỏi
quốc gia mơn Địa lí, việc kiểm tra kĩ năng này được thực hiện chủ yếu thông qua yêu cầu làm việc
với Atlát Địa lí Việt Nam. Tuy nhiên, nếu HS không rõ các nhiệm vụ và kĩ thuật sử dụng bản đồ thì
khơng thể làm việc trên các trang bản đồ của Atlát đươc. Do vậy, việc rèn luyện kĩ năng làm việc
với bản đồ là không thể thiếu khi học mơn Địa lí.


- Thơng thường khi làm việc với bản đồ, HS cần phải :
+ Hiểu hệ thống kí, ước hiệu bản đồ.


+ Nhận biết, chỉ và đọc tên các đối tượng địa lí trên bản đồ


+ Xác định phương hướng, khoảng cách, vĩ độ, kinh độ, kích thước, hình thái và vị trí các đối
tượng địa lí trên lãnh thổ.


+ Mô tả đặc điểm đối tượng trên bản đồ.


+ Xác định các mối liên hệ không gian trên bản đồ.


+ Xác định các mối quan hệ tương hỗ và nhân quả thể hiện trên bản đồ.


+ Mô tả tổng hợp một khu vực, một bộ phận lãnh thổ (vị trí địa lí, địa hình, khí hậu, thuỷ văn,
đất đai, thực vật, động vật, dân cư, kinh tế).


Đối với HS giỏi, những việc làm trên tất yếu phải được thực hiện một cách thành thạo để đạt
mức cao nhất của kĩ năng bản đồ là đọc bản đồ (phân tích được các mối liên hệ nhân quả, mơ tả tổng
hợp một lãnh thổ, một ngành, một thành phần tự nhiên,...).



- Muốn đọc được bản đồ, yêu cầu phải có kiến thức địa lí. Ví dụ, muốn phân tích được tại sao
mưa tập trung nhiều nhất ở vùng xích đạo, mưa tương đối ít ở hai vùng chí tuyến Bắc và Nam, thì
ngồi việc quan sát bản đồ, cần phải có kiến thức về mối quan hệ giữa lượng mưa và áp thấp, áp
cao, sự bốc hơi nước nhiều từ các đại dương và rừng xích đạo trong điều kiện nhiệt lượng lớn, sự
bốc hơi nước kém hơn ở vùng lục địa có diện tích lớn ở khu vực chí tuyến...


<i>b) Kĩ năng làm việc với Atlát Địa lí Việt Nam</i>


- Câu hỏi yêu cầu sử dụng Atlát Địa lí Việt Nam trở thành phổ biến trong tất cả các đề thi HS
giỏi quốc gia từ trước đến nay. Để khai thác kiến thức từ Atlát, yêu cầu HS phải sử dụng tổng hợp cả
kiến thức và kĩ năng địa lí, đồng thời phải sử dụng kĩ năng tư duy, trong nhiều trường hợp cịn cần
đến óc sáng tạo. Do vậy, trong nhiều đề thi HS giỏi quốc gia, có đến 2 câu hỏi yêu cầu làm việc với
Atlát Địa lí Việt nam (năm 2005 và năm 2006 chẳng hạn).


- Thơng thường câu hỏi gắn với Atlát có dạng "Dựa vào Atlát Địa lí Việt Nam và kiến thức đã
học....". Ví dụ : Dựa vào Atlát Địa lí Việt Nam và kiến thức đã học, hãy so sánh mạng lưới đô thị
giữa hai vùng : Trung du và miền núi Bắc Bộ với Tây Nguyên (Đề thi năm 2006).


Với những câu hỏi kiểu này, nhiều thí sinh chỉ dựa vào một trong hai cơ sở trên (hoặc là riêng
Atlát, hoặc riêng kiến thức đã học) để làm bài. Việc làm đó khơng cho phép trình bày kiến thức một
cách đầy đủ. Nếu chỉ dựa vào kiến thức đã học, nhiều kiến thức từ Atlát bị bỏ sót, đặc biệt là các
kiến thức về sự phân bố cụ thể, mối quan hệ về mặt không gian lãnh thổ của các sự vật, hiện tượng
địa lí.... Nhưng nếu chỉ dựa vào Atlát địa lí, nhiều kiến thức như tình hình phát triển, nguyên nhân
phát triển, về đường lối, chính sách, kinh nghiệm và truyền thống sản xuất của dân cư... không được
đề cập đến một cách đầy đủ và hợp lí.


Kinh nghiệm ơn luyện HS giỏi quốc gia cho thấy, trong những trường hợp như vậy phải chú ý
phân biệt các loại kiến thức có thể khai thác từ Atlát địa lí, các loại kiến thức khơng thể hoặc rất khó
thể hiện rõ trên Atlát, phải khai thác từ vốn kiến thức đã có của bản thân. Trong mỗi ý trình bày của
bài làm, cần kết hợp hai loại kiến thức này với nhau một cách thích hợp. Sau đây là một ví dụ kết


hợp kiến thức khai thác được trên Atlát địa lí với kiến thức đã có của bản thân.


Ví dụ : Dựa vào Atlát Địa lí Việt Nam và kiến thức đã học, hãy phân tích đặc điểm của đất (thổ
nhưỡng) miền Nam Trung Bộ và Nam Bộ.


-<i> Những kiến thức có thể khai thác được từ Atlat một cách rất rõ ràng :</i>


+ Nhiều loại đất khác nhau (đất feralit, đất phù sa,...).


+ Đất feralit nâu đỏ trên đá ba dan : tập trung ở các cao nguyên Tây Nguyên.


+ Đất feralit trên các loại đá khác : chiếm diện tích lớn và phân bố rộng rãi ở vùng núi Trường
Sơn Nam và Đông Nam Bộ.


</div>
<span class='text_page_counter'>(7)</span><div class='page_container' data-page=7>

+ Đất xám bạc màu trên đá axit tập trung ở Tây Nguyên và rải rác ven biển ở các đồng bằng
duyên hải Nam Trung Bộ.


+ Đất xám bạc màu trên phù sa cổ, tập trung nhiều ở Đơng Nam Bộ. Ngồi ra, cịn có ở duyên
hải Nam Trung Bộ.


+ Đất phù sa của sông Cửu Long tập trung nhiều ở ven sông Tiền và sông Hậu.
+ Đất phù sa của đồng bằng duyên hải Nam Trung Bộ nằm rải rác ven biển.


+ Đất phèn, đất mặn chiếm diện tích lớn ở đồng bằng sơng Cửu Long. Ngồi ra, cịn có ở vùng
cửa sơng ven biển ở duyên hải Nam Trung Bộ.


+ Đất cát ven biển : phân bố dọc bờ biển, nhiều nhất ở duyên hải Nam Trung Bộ.
-<i> Những kiến thức phải huy động từ vốn tri thức đã có :</i>


+ Đất (thổ nhưỡng) ở miền Nam Trung Bộ và Nam Bộ cũng như đất ở các miền tự nhiên khác


của nước ta rất đa đạng, với nhiều loại khác nhau.


+ Đất feralit nâu đỏ trên đá ba dan : tập trung ở các cao nguyên Tây Nguyên khoảng trên 1,3
triệu ha. Đất này được hình thành trên cơ sở phong hố đá ba dan, có tầng dày, khá phì nhiêu.


+ Đất xám bạc màu trên phù sa cổ, tập trung nhiều ở Đông Nam Bộ trên 900.000 ha.


+ Đất phù sa của sơng Cửu Long là loại đất tốt, có thành phần cơ giới nặng, từ đất thịt đến sét,
phần lớn diện tích được bồi tụ phù sa vào mùa lũ.


+ Đất phù sa của đồng bằng duyên hải Nam Trung Bộ, được hình thành bởi sự bồi tụ của phù sa
sơng và biển, đất có thành phần cơ giới từ cát pha đến thịt nhẹ, đất chua, nghèo mùn và dinh dưỡng.


+ Đất phèn có đặc tính chua ; đất mặn có loại mặn ít, mặn nhiều,...
+ Đất cát ven biển nghèo mùn và chất dinh dưỡng.


<i>- Kết hợp cả hai nguồn kiến thức, có :</i>


a) Đất (thổ nhưỡng) ở miền Nam Trung Bộ và Nam Bộ cũng như đất ở các miền tự nhiên khác của
nước ta rất đa đạng, với nhiều loại khác nhau (đất feralit, đất phù sa,...).


b) Miền Nam Trung Bộ và Nam Bộ có các loại đất sau :


<i>-</i> Đất feralit


+ Đất feralit nâu đỏ trên đá ba dan : tập trung ở các cao nguyên Tây Nguyên (khoảng trên 1,3
triệu ha) và Đơng Nam Bộ. Đất này được hình thành trên cơ sở phong hố đá ba dan, có tầng dày,
khá phì nhiêu.


+ Đất feralit trên các loại đá khác : chiếm diện tích lớn và phân bố rộng rãi ở vùng núi Trường


Sơn Nam và Đơng Nam Bộ.


+ Ngồi ra, ở các vùng núi, độ cao trên 500 - 600 m đến 1600 - 1700 m có đất mùn vàng đỏ
trên núi, độ cao trên 1600 - 1700 m có đất mùn alit núi cao, diện tích khơng lớn.


<i>-</i> Đất xám


+ Đất xám bạc màu trên đá axit tập trung ở Tây Nguyên và rải rác ven biển ở các đồng bằng
duyên hải Nam Trung Bộ.


+ Đất xám bạc màu trên phù sa cổ, tập trung nhiều ở Đông Nam Bộ (trên 900.000 ha). Ngồi ra,
cịn có ở dun hải Nam Trung Bộ.


<i>-</i> Đất phù sa


+ Đất phù sa của sông Cửu Long tập trung nhiều ở ven sông Tiền và sơng Hậu. Đây là loại đất
tốt, có thành phần cơ giới nặng, từ đất thịt đến sét, phần lớn diện tích được bồi tụ phù sa vào mùa lũ.


+ Đất phù sa của đồng bằng duyên hải Nam Trung Bộ, được hình thành bởi sự bồi tụ của phù sa
sơng và biển, đất có thành phần cơ giới từ cát pha đến thịt nhẹ, đất chua, nghèo mùn và dinh dưỡng.


<i>-</i> Đất phèn, đất mặn chiếm diện tích lớn ở đồng bằng sơng Cửu Long. Ngồi ra, cịn có ở vùng
cửa sông ven biển ở duyên hải Nam Trung Bộ. Đất phèn có đặc tính chua ; đất mặn có loại mặn ít,
có loại mặn nhiều,...


<i>-</i> Đất cát ven biển : phân bố dọc bờ biển, nhiều nhất ở duyên hải Nam Trung Bộ ; đất nghèo mùn
và chất dinh dưỡng.


- Các yêu cầu làm việc với Atlát Địa lí Việt Nam rất đa dạng. Trong phạm vi ôn luyện thi HS
giỏi quốc gia môn Địa lí THPT, cần lưu ý tập trung vào các chủ điểm sau :



+ Trình bày vị trí địa lí của quốc gia, miền, vùng, tỉnh, trung tâm công nghiệp/thành phố lớn,...
và nêu ý nghĩa (vị trí tốn học, vị trí địa lí tự nhiên, vị trí địa lí kinh tế).


</div>
<span class='text_page_counter'>(8)</span><div class='page_container' data-page=8>

mùa) ; thiên nhiên có sự phân hố đa dạng theo yếu tố và theo vùng (sự phân hóa địa hình, khí hậu
-thuỷ văn, thổ nhưỡng - sinh vật, cảnh quan thiên nhiên).


+ Trình bày và giải thích một yếu tố, thành phần địa lí tự nhiên, dân cư - xã hội (địa chất, khống
sản, địa hình, khí hậu, nhiệt độ và lượng mưa, sơng ngịi, đất, thực vật và động vật, dân cư, dân tộc,
đơ thị hố).


+ Trình bày và giải thích về sự đa dạng của tài nguyên, một số thiên tai chủ yếu (sự đa dạng của
tài nguyên thiên nhiên, một số thiên tai chủ yếu ).


+ Trình bày và giải thích về một miền tự nhiên, so sánh các miền tự nhiên (trình bày và giải
thích về một miền tự nhiên, một khu tự nhiên, một đai cao tự nhiên ; trình bày và giải thích đặc điểm
tự nhiên dọc theo lát cắt địa hình đã được xác định ; so sánh hai miền tự nhiên, hai khu vực tự nhiên,
hai tuyến tự nhiên dọc theo lát cắt ; trình bày và giải thích về một ngành/phân ngành kinh tế của cả
nước/vùng kinh tế, địa phương tỉnh).


+ Trình bày và giải thích về một trung tâm công nghiệp, một vùng nông nghiệp, vùng công
nghiệp. So sánh các trung tâm, các vùng.


+ Trình bày và giải thích về một vùng kinh tế/vùng kinh tế trọng điểm (nguồn lực, tình hình phát
triển kinh tế và phân bố, sự phân hóa nội vùng, các mối liên hệ liên vùng). So sánh các vùng kinh tế.


+ Trình bày và giải thích về vấn đề phát triển kinh tế, an ninh, quốc phịng ở Biển Đơng và các
đảo, quần đảo.


+ Trình bày và giải thích về địa lí tỉnh (thành phố) (vị trí địa lí, phạm vi lãnh thổ và phân chia


hành chính ; đặc điểm tự nhiên và tài nguyên thiên nhiên ; đặc điểm dân cư và lao động ; đặc điểm
kinh tế <i>-</i> xã hội ; địa lí một số ngành kinh tế chính).


- Để khai thác các kiến thức địa lí theo những chủ điểm trên, cần lưu ý kĩ thuật sử dụng các
trang của Atlát Địa lí Việt Nam.


+ Sử dụng trang mở đầu của Atlát Địa lí Việt Nam :


Đối với trang này, HS cần hiểu được ý nghĩa, cấu trúc, đặc điểm của Atlat ; nắm chắc kí hiệu
chung ở trang mở đầu.


+ Sử dụng các trang bản đồ của Atlat Địa lí Việt Nam :


Làm việc với các trang của Atlát, HS phải xác định được vị trí địa lí, giới hạn của lãnh thổ, vùng
kinh tế ; nêu đặc điểm của các đối tượng địa lí (đất, khí hậu, nguồn nước, khống sản, dân cư, dân
tộc) ; trình bày sự phân bố các đối tượng địa lí, như : khống sản, đất đai, địa hình, dân cư, trung tâm
cơng nghiệp, mạng lưới giao thơng, đơ thị,... ; giải thích sự phân bố các đối tượng địa lí ; phân tích
mối quan hệ giữa các đối tượng địa lí, phân tích mối quan hệ giữa các yếu tố tự nhiên với nhau (khí
hậu và sơng ngịi, đất và sinh vật, cấu trúc địa chất và địa hình,...), giữa các yếu tố tự nhiên và kinh
tế, dân cư và kinh tế, kinh tế và kinh tế, tự nhiên - dân cư và kinh tế,... ; đánh giá các nguồn lực phát
triển ngành và vùng kinh tế ; trình bày tiềm năng, hiện trạng và hướng phát triển của một ngành,
lãnh thổ ; phân tích mối quan hệ giữa các ngành và các lãnh thổ kinh tế với nhau ; so sánh các vùng
kinh tế về các mặt ; trình bày tổng hợp các đặc điểm của một lãnh thổ.


Trong rất nhiều trường hợp, HS phải chồng xếp các trang bản đồ Atlát để trình bày về một lãnh
thổ địa lí cụ thể. Ví dụ, đề thi HS giỏi quốc gia năm 2000 yêu cầu dựa vào Atlát địa lí để viết một báo
cáo ngắn đánh giá điều kiện tự nhiên đối với việc phát triển kinh tế tỉnh Nghệ An. Để làm được câu
này, HS phải sử dụng các trang bản đồ hành chính, hình thể, địa chất và khống sản, khí hậu, đất,
thực vật và động vật, các miền tự nhiên (miền Tây Bắc và Bắc Trung Bộ). Trong mỗi trang, tập
trung vào lãnh thổ Nghệ An. Việc làm đó gọi là chồng xếp bản đồ.



- Thơng thường khi phân tích, hoặc đánh giá một đối tượng địa lí, HS cần lưu ý sử dụng một dàn
bài có được từ vốn tri thức địa lí của bản thân vào việc đọc các trang Atlát. Một cách chung nhất, có
thể dựa vào một số dàn bài sau :


+ Vị trí địa lí, phạm vi lãnh thổ của vùng kinh tế - xã hội
 Những nơi (vùng, tỉnh, biển...) tiếp giáp với vùng nghiên cứu.
 Diện tích (km2).


 Ý nghĩa của vị trí địa lí và diện tích lãnh thổ đối với phát triển kinh tế - xã hội.
+ Địa chất


 Sơ lược về lịch sử phát triển địa chất (những nét tổng quát về lịch sử địa chất kiến tạo đã diễn
ra trong lãnh thổ, từ cổ nhất đến trẻ nhất).


</div>
<span class='text_page_counter'>(9)</span><div class='page_container' data-page=9>

 Đặc điểm về cấu trúc kiến tạo (các đới kiến tạo, các tầng cấu tạo theo niên đại).
+ Khoáng sản


 Kim loại (trữ lượng, chất lượng, phân bố)
 Phi kim loại (trữ lượng, chất lượng, phân bố)
+ Địa hình


 Những đặc điểm chính của địa hình (tỉ lệ diện tích các loại địa hình và sự phân bố của chúng ;
hướng nghiêng của địa hình, hướng chủ yếu của địa hình (đơng, tây, nam, bắc), các bậc địa hình
(chia theo độ cao tuyệt đối), tính chất cơ bản của địa hình.


 Một số mối quan hệ giữa địa hình với các nhân tố khác : địa hình với vận động kiến tạo, địa
hình với nham thạch, địa hình với kiến trúc địa chất (uốn nếp, đứt gãy...), địa hình với khí hậu.


 Các khu vực địa hình (khu vực núi : sự phân bố, diện tích, đặc điểm chung, sự phân chia thành


các khu vực nhỏ hơn ; khu vực đồi : sự phân bố, diện tích, đặc điểm chung, các tiểu khu, vùng ; khu
vực đồng bằng : sự phân bố, diện tích, tính chất, các tiểu khu (nếu có).


 Ảnh hưởng của địa hình tới phân bố dân cư và phát triển kinh tế - xã hội.
+ Khí hậu


 Các nét đặc trưng về khí hậu : bức xạ mặt trời, số giờ nắng (trong năm, ngày dài nhất, ngắn
nhất), bức xạ tổng cộng (đơn vị : kcal/cm2/năm), cân bằng bức xạ (đơn vị : kcal/cm2/năm), độ cao
Mặt Trời và ngày tháng Mặt Trời qua thiên đỉnh.


 Xác định kiểu khí hậu với những đặc trưng cơ bản (kiểu khí hậu như : khí hậu nhiệt đới gió
mùa, có mùa đơng lạnh và ít mưa, mùa hạ nóng và mưa nhiều ; hoặc khí hậu á xích đạo, nóng quanh
năm, mùa mưa kéo dài, mùa khô ngắn nhưng sâu sắc ; những chỉ số khí hậu, thời tiết cơ bản như :
nhiệt độ trung bình năm, tổng nhiệt độ, biên độ nhiệt, cơ chế hồn lưu các mùa, số đợt frơng lạnh, số
lần có hội tụ nhiệt đới, tháng nóng nhất, tháng lạnh nhất, lượng mưa trung bình năm, phân bố lượng
mưa theo thời gian và khơng gian, tính chất mưa.


 Tính chất theo mùa của khí hậu (sự khác biệt giữa các mùa).


 Ảnh hưởng của khí hậu tới sản xuất (đặc biệt là sản xuất nông nghiệp) và đời sống (tác động
tích cực, tác động tiêu cực).


 Các miền hoặc khu vực khí hậu.
+ Thủy văn


 Mạng lưới sơng ngịi.


 Đặc điểm chính của sơng ngịi : mật độ dịng chảy, tính chất sơng ngịi (hình dạng, ghềnh thác,
độ uốn khúc, hướng dòng chảy, độ dốc lịng sơng...), chế độ nước, mơđun lưu lượng (lít/s/km2), hàm
lượng phù sa.



 Các sông lớn trên lãnh thổ (nơi bắt nguồn, nơi chảy qua, hướng chảy, chiều dài, các phụ lưu,
chi lưu, diện tích lưu vực, độ dốc lịng sơng, nham gốc chảy qua, chế độ nước, hàm lượng phù sa).


 Giá trị kinh tế (giao thông, thủy lợi, đánh cá, công nghiệp...). Các vấn đề khai thác, cải tạo, bảo
vệ sơng ngịi.


+ Thổ nhưỡng


 Đặc điểm chung (các loại thổ nhưỡng, đặc điểm của thổ nhưỡng, phân bố thổ nhưỡng).
 Các nhân tố ảnh hưởng (đá mẹ, địa hình, khí hậu, sinh vật,...).


 Các vùng thổ nhưỡng chủ yếu. Trong mỗi vùng, nêu các loại đất chính, đặc tính (độ phì, độ
pH, thành phần cơ giới, độ chặt...), diện tích, sự phân bố, giá trị sử dụng, hướng cải tạo, bồi dưỡng.


 Hiện trạng sử dụng đất : cơ cấu diện tích các loại đất phân theo giá trị kinh tế, diện tích đất
bình qn đầu người, hiện trạng sử dụng và phương hướng sử dụng hợp lí đất đai.


+ Tài nguyên sinh vật


 Thực vật : tính phong phú, đa dạng hay nghèo nàn về số lồi cây, về cấu trúc thực bì (ngun
sinh, thứ sinh, các tầng tán, thảm cây...), tỉ lệ che phủ rừng, sự phân bố, đặc điểm các loại hình thực
bì.


 Động vật : các loại động vật hoang dã và giá trị của chúng, các vườn quốc gia (hoặc khu dự trữ
sinh thái), mức độ khai thác và các biện pháp bảo vệ.


+ Các miền tự nhiên
 Vị trí



 Đặc điểm tự nhiên (địa chất và khống sản, địa hình, khí hậu, sơng ngịi, đất, thực và động
vật).


</div>
<span class='text_page_counter'>(10)</span><div class='page_container' data-page=10>

 Gia tăng dân số : số dân, tỉ lệ gia tăng tự nhiên của dân số qua các năm (tỉ suất sinh, tỉ suất tử,
gia tăng tự nhiên) ; gia tăng cơ giới (xuất cư, nhập cư).


 Sự phân bố dân cư trên lãnh thổ.


 Kết cấu dân số : kết cấu sinh học, kết cấu theo giới tính (nam, nữ), kết cấu dân tộc, kết cấu xã
hội, kết cấu theo trình độ văn hóa ; kết cấu theo nghề nghiệp, kết cấu lao động.


 Nguồn lao động : quy mô và sự gia tăng nguồn lao động, chất lượng nguồn lao động : trình độ
chun mơn kĩ thuật, truyền thống, kinh nghiệm sản xuất.


 Sử dụng nguồn lao động (hiện trạng phân bố lao động trong các ngành kinh tế, vấn đề việc
làm trong q trình đa dạng hóa nền kinh tế).


 Phân bố dân cư (lao động) : mật độ dân số, phân bố dân cư theo lãnh thổ, những biến động
trong phân bố dân cư.


+ Quần cư


 Các loại hình cư trú chính (đơ thị, nơng thơn).


 Trong mỗi loại hình, nêu đặc điểm cư trú, hoạt động kinh tế chủ yếu của dân cư.
+ Đô thị


 Quy mô dân số.
 Phân cấp đô thị.
 Chức năng đô thị.


 Phân bố theo lãnh thổ.
+ Công nghiệp


 Cơ cấu ngành công nghiệp (cơ cấu theo hình thức sở hữu, cơ cấu theo ngành - chú ý tới các
ngành công nghiệp trọng điểm ; cơ cấu lãnh thổ).


 Phân bố công nghiệp (chú ý tới các trung tâm công nghiệp, khu công nghiệp tập trung, các
vùng công nghiệp).


 Các sản phẩm công nghiệp chủ yếu.
 Phương hướng phát triển công nghiệp.
+ Ngành trồng trọt


 Tỉ trọng của ngành trồng trọt trong cơ cấu ngành nông nghiệp.


 Sự phát triển và phân bố của các loại cây trồng chính. Đối với mỗi loại cây trồng, cần trình
bày rõ tỉ trọng của nó trong tổng diện tích canh tác (hay gieo trồng), tốc độ tăng trưởng (hoặc giảm
sút), năng suất, sản lượng, địa bàn tập trung sản xuất.


 Các vùng chuyên canh : Đối với mỗi vùng, cần làm rõ về vị trí địa lí, quy mơ (diện tích, lao
động), cây trồng và vật ni chính (số lượng, tỉ lệ so với toàn vùng và toàn tỉnh, tốc độ phát triển,
địa bàn tiêu thụ).


+ Ngành chăn nuôi


 Phát triển và phân bố ngành chăn nuôi.


 Các loại vật nuôi (mục đích chính của chăn ni, số lượng, phân bố).


+ Ngành thuỷ sản : đánh bắt và nuôi trồng thuỷ sản (về sản phẩm và phân bố).


+ Ngành lâm nghiệp


 Khai thác lâm sản.


 Bảo vệ rừng và trồng rừng.
+ Du lịch


 Trung tâm du lịch quốc gia và du lịch vùng.


 Tài nguyên du lịch tự nhiên (vườn quốc gia, hang động, nước khoáng, bãi biển, thắng cảnh).
 Tài nguyên du lịch nhân văn (di sản văn hố thế giới, di tích lịch sử, cách mạng, lễ hội truyền
thống, làng nghề cổ truyền).


+ Giao thông vận tải
 Các loại hình vận tải.


 Các tuyến đường giao thơng chính (đường bộ, đường sắt, đường sơng, đường biển, đường hàng
không). Trong mỗi loại, nêu rõ : tuyến đường, khối lượng hàng hóa, hành khách vận chuyển, luân
chuyển ; các hải cảng, sân bay...


 Các đầu mối giao thông, các cảng (sơng, biển), sân bay và chức năng, vai trị của chúng.
+ Thương mại


 Nội thương.


</div>
<span class='text_page_counter'>(11)</span><div class='page_container' data-page=11>

 Vị trí địa lí.


 Quy mơ (lãnh thổ, dân số).


 Nguồn lực phát triển (tài nguyên thiên nhiên, dân cư và lao động, cơ sở vật chất kĩ thuật và cơ


sở hạ tầng, đường lối chính sách phát triển).


 Các ngành kinh tế chủ yếu trong vùng.


 Hướng chuyên môn hố và các sản phẩm hàng hóa.
 Khả năng phát triển trong tương lai.


- Dàn ý của mỗi thành phần, yếu tố, hay miền, vùng địa lí trên là cơ sở để ơn luyện kiến thức địa
lí thi HS giỏi gắn với việc sử dụng Atlát để tránh bỏ sót ý. Trong khi làm bài, tuỳ theo yêu cầu của
câu hỏi, xác định các kiến thức nào cần khai thác, kiến thức nào khơng cần trình bày hoặc khơng cần
đi sâu phân tích vì khơng phải là trọng tâm của đề bài.


Ví dụ, cùng hỏi về miền tự nhiên, nhưng có câu hỏi chỉ u cầu phân tích đặc điểm thổ nhưỡng,
lại có câu hỏi chỉ u cầu phân tích đặc điểm địa hình, có câu hỏi u cầu so sánh đặc điểm thuỷ văn
của hai miền tự nhiên với nhau... Trong mỗi trường hợp, cần đi sâu vào một số nội dung nhất định,
đương nhiên khơng thể máy móc trình bày tất cả các ý theo dàn bài về thổ nhưỡng, địa hình hay thuỷ
văn như nêu trên.


- Làm việc với Atlát Địa lí Việt Nam, cũng cần chú ý đến việc phân tích các lát cắt, biểu đồ, số
liệu... trong các trang Atlát. Đó là các thành phần bổ trợ làm rõ nội dung trang Atlát, hoặc bổ sung
cho nội dung tờ bản đồ mà Atlát không thể trình bày rõ được. Ví dụ, ở trang bản đồ Nơng nghiệp,
khi trình bày về cây cơng nghiệp, tờ bản đồ chỉ thể hiện được các cây công nghiệp, các vùng chuyên
canh cây công nghiệp. Muốn hiểu được tỉ lệ diện tích gieo trồng cây cơng nghiệp so với tổng diện
tích gieo trồng đã sử dụng và diện tích trồng cây cơng nghiệp thì phải sử dụng các số liệu được trình
bày kèm theo trang bản đồ. Hoặc, trên tờ bản đồ Các miền tự nhiên, để biết được một cách trực quan
và cụ thể hướng nghiêng và hình thái địa hình miền Tây Bắc và Bắc Trung Bộ, miền Bắc và Đơng
Bắc Bắc Bộ, ngồi quan sát trên bản đồ, cịn phải đi sâu phân tích hai lát cắt địa hình được trình bày
kèm theo tờ bản đồ.


Rèn luyện được kĩ năng đọc Atlát một cách hoàn thiện, HS có nhiều khả năng đạt kết quả cao


trong các kì thi HS giỏi quốc gia hiện nay.


<i>c) Kĩ năng phân tích và nhận xét bảng số liệu thống kê </i>


- Trong đề thi HS giỏi quốc gia, câu hỏi yêu cầu phân tích số liệu thường xuất hiện nhiều, do
tính chất khó của loại sâu hỏi này. Đồng thời loại câu hỏi này còn cho phép đánh giá được mức độ
am hiểu, vận dụng kiến thức của HS vào các trường hợp cụ thể, đánh giá được kĩ năng chọn lọc, xác
định kiến thức địa lí. Thơng thường loại câu hỏi này yêu cầu HS phân tích bảng số liệu (nghĩa là đọc
bảng số liệu) để rút ra các nhận xét cần thiết.


- Đọc bảng số liệu về bản chất là phân tích, so sánh các số liệu theo hàng ngang và cột dọc, rút
ra các nhận xét cần thiết. HS cần phải nắm vững tên bảng, các tiêu đề của bảng, đơn vị tính, yêu cầu
cụ thể của bài tập, hiểu rõ các tiêu chí cần nhận xét (ví dụ : để nhận xét về một loại cây trồng, người
ta thường quan tâm đến sản lượng, cơ cấu, năng suất ; để nhận xét về đô thị, thường quan tâm đến
chức năng, quy mô, phân cấp, sự phân bố,...). Việc phân tích nhìn chung khơng phức tạp, nhưng HS
thường phạm lỗi phân tích thiếu, hoặc nêu khơng đầy đủ các nhận xét cần thiết. Để tránh trường hợp
này, cần lưu ý so sánh các số liệu theo cột dọc và hàng ngang với một trình tự hợp lí. Chú ý so sánh
các mốc thời gian đầu và cuối của bảng, các mốc thời gian liền kề nhau theo thứ tự, các mốc có tính
đột biến. Đối với các lãnh thổ, cần lưu ý so sánh các lãnh thổ lớn với nhau, nhỏ với nhau, lớn với
nhỏ và ngược lại,...


Trong một số trường hợp cần thiết, cần phải tính tốn bảng số liệu trước khi nhận xét. Chẳng
hạn, với một bảng số liệu tuyệt đối, bài yêu cầu nhận xét về cơ cấu ; hay, bảng số liệu chỉ cho giá trị
xuất khẩu và dân số năm 2004 của ba trung tâm kinh tế lớn nhất thế giới hiện nay, nhưng yêu cầu
nhận xét về giá trị xuất khẩu bình quân đầu người ; bảng số liệu về diện tích dân số thế giới và các
châu lục, nhưng yêu cầu nhận xét về mật độ dân số thế giới và các châu lục,... Trong những trường
hợp này, cần phải tính tốn trước khi nhận xét (mặc dù đề bài có thể khơng u cầu tính tốn). Tuy
nhiên, một số bài tập, có u cầu phải tính tốn trước khi nhận xét.


- Một cách chung nhất, khi phân tích số liệu, để khỏi bị sót ý, cần lưu ý một số điểm sau :



</div>
<span class='text_page_counter'>(12)</span><div class='page_container' data-page=12>

chuyển từ bảng số liệu tuyệt đối sang bảng số liệu tương đối, sau đó mới tiến hành nhận xét theo các
vùng. Nếu cứ để nguyên bảng số liệu tuyệt đối, khó có thể nhận xét được.


 Tái hiện các kiến thức cơ bản đã học có liên quan đến yêu cầu của câu hỏi và đến các số liệu
đã cho để xác định các tiêu chí phù hợp với yêu cầu của bảng số liệu, phác thảo dàn ý trình bày. Ví
dụ, khi câu hỏi yêu cầu dựa vào các số liệu để nhận xét về dân cư, cần phải phác thảo một dàn ý
bao gồm : động lực gia tăng dân số nói chung và qua các thời kì nói riêng, quy mô, kết cấu, phân
bố dân cư. Đối với một thành phố, dàn ý gồm : quy mô, chức năng, phân cấp, sự phân bố. Đối với
một ngành kinh tế, dàn ý lại khác, đề cập đến vai trò, nguồn lực, tình hình phát triển, cơ cấu ngành
và lãnh thổ, sự phân bố... Tuy nhiên, đây chỉ là cái nền chung, cần dựa vào để trình bày, tránh sót
ý. Việc phân tích, nhận xét cụ thể cịn tuỳ thuộc vào các số liệu đã cho.


- Việc phân tích và nhận xét bảng số liệu, thông thường được tiến hành như sau :


 Phát hiện các mối liên hệ giữa số liệu theo cột dọc và hàng ngang, chú ý đến các giá trị nổi bật
như giá trị lớn nhất, nhỏ nhất, giá trị trung bình, những điểm đột biến (tăng, giảm đột ngột). Chú ý
so sánh, đối chiếu cả giá trị tuyệt đối lẫn tương đối.


 Chú ý phân tích khái qt trước, sau đó mới đi sâu vào các thành phần (hoặc yếu tố) cụ thể.
 Khi nhận xét nên theo trình tự từ khái quát đến cụ thể, từ chung đến riêng, từ cao xuống
thấp,... bám sát các yêu cầu của câu hỏi và kết quả xử lí số liệu. Mỗi nhận xét cần có dẫn chứng cụ
thể để tăng sức thuyết phục.


<i>d) Kĩ năng vẽ biểu đồ từ bảng số liệu đã cho và rút ra các nhận xét cần thiết</i>


- Dựa vào chức năng thể hiện của biểu đồ, có thể chia ra các loại biểu đồ thể hiện quy mô, biểu
đồ thể hiện sự phát triển, biểu đồ thể hiện cơ cấu, biểu đồ thể hiện sự chuyển dịch cơ cấu, biểu đồ
kết hợp.



Dựa theo hình dáng của biểu đồ, lại có thể chia ra biểu đồ cột (cột đơn, cụm cột, cột chồng,
thanh ngang,...), biểu đồ đường (một đường, nhiều đường, ...), biểu đồ kết hợp cột và đường, biểu đồ
trịn, biểu đồ vng, biểu đồ miền.


Đề thi HS giỏi chủ yếu nhằm vào các dạng phức tạp (thường là biểu đồ kết hợp, hoặc biểu đồ
biến đổi từ dạng cơ bản). Do được rèn luyện nhiều với các dạng biểu đồ, nên HS giỏi địa lí ít khi bỡ
ngỡ với việc vẽ biểu đồ. Các yêu cầu khó hơn đối với HS giỏi quốc gia nằm ở việc xác định dạng
biểu đồ thích hợp nhất để vẽ (có thể nêu hoặc khơng nêu lí do chọn) ứng với một bảng số liệu đã
cho.


- Nhiệm vụ đề ra là vẽ biểu đồ, nhưng không nêu rõ vẽ loại nào (Đề thi năm 2005). Trong
trường hợp này cần lưu ý đến chức năng của các loại biểu đồ. Thông thường, biểu đồ trịn, cột chồng,
miền có ưu thế trong thể hiện cơ cấu ; biểu đồ đường có ưu thế trong thể hiện tốc độ phát triển của sự
vật và hiện tượng địa lí ; biểu đồ cột thể hiện quy mô, độ lớn,.. của sự vật. Đồng thời, cũng cần lưu ý
mối liên quan về bản chất giữa các loại biểu đồ với nhau. Chẳng hạn, biểu đồ miền thực chất là biểu
đồ cột chồng nối tiếp, khi thu nhỏ các cột đến tối đa thì biểu đồ cột chồng thành biểu đồ miền ; hoặc
biểu đồ vng và trịn về bản chất không khác nhau ; biểu đồ đường kết hợp với cột về thực chất là
hai biểu đồ cột có các đại lượng (thời gian/lãnh thổ) chung nhau trên trục hoành ; biểu đồ cột thể
hiện hai đại lượng khác nhau thực chất là hai biểu đồ cột có chung tiêu chí trên trục hồnh, khác
nhau đại lượng theo hai trục tung (ví dụ biểu đồ thể hiện nhiệt độ và lượng mưa trong năm) ; biểu đồ
thanh ngang chính là biểu đồ đường ; tháp tuổi thực chất là các biểu đồ thanh ngang (biểu đồ cột) kết
hợp với nhau,... Vì vậy, đối với bảng số liệu thích hợp cho vẽ biểu đồ trịn thì cũng có khả năng
thích hợp cho vẽ biểu đồ cột chồng và biểu đồ miền.


Biểu đồ thích hợp nhất để thể hiện bảng số liệu thống kê cho trước thường thoả mãn hai điều
kiện : thể hiện chính xác bảng số liệu theo u cầu và có tính trực quan cao nhất. Ví dụ : đối với một
bảng số liệu vừa có thể vẽ biểu đồ cột chồng, vừa vẽ được biểu đồ miền thì trong trường hợp ít năm
(chẳng hạn 2 hoặc 3 năm) vẽ biểu đồ cột hợp lí hơn, nhưng trong trường hợp nhiều năm (chẳng hạn
5 hoặc 7 năm) lại thích hợp hơn cho biểu đồ miền, vì tính trực quan tốt hơn.



</div>
<span class='text_page_counter'>(13)</span><div class='page_container' data-page=13>

Trong trường hợp biểu đồ có nhiều đường biểu diễn, các đường đều chung gốc 100% trên trục
tung.


- Nhiệm vụ đề ra là vẽ biểu đồ thể hiện ba đại lượng trên cùng một biểu đồ, hoặc nhiệm vụ yêu
cầu vẽ biểu đồ vừa thể hiện cơ cấu, vừa thể hiện quy mơ của sự vật thì tiến hành như sau :


Trong trường hợp ba đại lượng có quan hệ với nhau, trong đó một đại lượng là hiệu số của hai
đại lượng kia, có thể sử dụng một biểu đồ thể hiện được cả 3 đại lượng. Ví dụ : biểu đồ thể hiện cả tỉ
suất sinh, tỉ suất tử và tỉ lệ gia tăng dân số tự nhiên. Trong trường hợp này, biểu đồ có 2 đường biểu
diễn : tỉ suất sinh, tỉ suất tử ; còn phần miền giữa hai đường là tỉ lệ gia tăng dân số tự nhiên. Hay,
biểu đồ thể hiện cả giá trị xuất khẩu, nhập khẩu và xuất siêu (hay nhập siêu), biểu đồ này có 2 đường
biểu diễn : xuất khẩu, nhập khẩu ; phần miền giữa hai đường là xuất siêu (hay nhập siêu).


Trường hợp cho ba đại lượng, nhưng trong đó chỉ có hai đại lượng quan hệ với nhau. Biểu đồ
phải thể hiện cả ba đại lượng, nhưng kết hợp cột chồng (thể hiện hai đại lượng) và biểu đồ đường (ví
dụ vẽ biểu đồ thể hiện tỉ lệ dân thành thị và nông thôn trong tổng số dân của cả nước và tỉ lệ gia tăng
tự nhiên dân số của nước ta).


Trường hợp trong một biểu đồ thể hiện cả quy mô lẫn cơ cấu, thường phải dùng kí hiệu số để thể
hiện quy mơ. Ví dụ : trên biểu đồ trịn (một hình trịn) thể hiện cơ cấu các loại lương thực, ở giữa
hình trịn vẽ một vòng tròn nhỏ ghi sản lượng lương thực. Trường hợp khác, có thể dùng nhiều hình
(trịn, vng,...) có kích thước khác nhau để thể hiện quy mô khác nhau.


- Nhiệm vụ đề ra là vẽ biểu đồ cột có hai đại lượng khác nhau, ví dụ : Cho bảng số liệu sản
lượng lương thực (triệu tấn) và dân số (triệu người) của một số nước trên thế giới năm 2001, hãy vẽ
biểu đồ cột thể hiện các nội dung trên. Trong trường hợp này, trên biểu đồ có hai loại cột kí hiệu
khác nhau, chiều cao tương ứng với các giá trị trên hai trục tung, một trục thể hiện sản lượng lương
thực (triệu tấn) và một trục thể hiện dân số (triệu người).


GIÁ TRỊ XU TẤ KH UẨ VÀ NH PẬ KH UẨ



C A M T S NỦ Ộ Ố ƯỚC TRÊN TH GIẾ ỚI N M 2001 (T USD)Ă Ỉ


<b>Tên nước</b> <b>Xuất khẩu</b> <b>Nhập khẩu</b>


Hoa Kì 730,8 1180,2


Nhật Bản 403,5 349,1


Trung Quốc 266,2 243,6


LB Nga 103,1 53,9


Xin-ga-po 121,8 116,0


- Nhiệm vụ đề ra là vẽ biểu đồ bán trịn, ví dụ : Vẽ hai biểu đồ, mỗi biểu đồ gồm hai nửa vòng
tròn thể hiện cả quy mô và cơ cấu giá trị xuất, nhập khẩu của Bắc Mĩ và châu Á. Rút ra nhận xét từ
biểu đồ đã vẽ.


Dạng biểu đồ này được biến đổi từ biểu đồ tròn. Để vẽ, trước hết cần phải tính tốn, lập bảng số
liệu tương đối (%). Sau đó, vẽ hai biểu đồ cho hai khu vực, trong mỗi biểu đồ có hai nửa trịn, nửa
trịn trên ứng với xuất khẩu, nửa dưới ứng với nhập khẩu (hoặc ngược lại). Để thể hiện cơ cấu, dùng
các các hình nan quạt từ tâm tỏa ra, mỗi nan quạt có số đo (độ) tương ứng với số % đã tính (1% ứng
với 7,2o). Quy mô của xuất và nhập khẩu được thể hiện bằng các nửa trịn có bán kính khác nhau.
Bán kính của hai nửa trịn được tính theo cơng thức : R2 = R1 <i>a</i> ; trong đó : R2 là bán kính nửa trịn


ứng với giá trị xuất khẩu, R1 là bán kính của nửa trịn ứng với giá trị nhập khẩu, a là giá trị của tỉ số


giữa giá trị xuất khẩu và giá trị nhập khẩu.



- Nhiệm vụ đề ra là vẽ bản đồ - biểu đồ. Thực chất nhiệm vụ này đòi hỏi phải kết hợp hai kĩ
năng : vẽ biểu đồ và điền kí hiệu vào vị trí thích hợp trên lược đồ (hoặc bản đồ). Biểu đồ gồm nhiều
dạng khác nhau, chẳng hạn : biểu đồ tròn thể hiện cơ cấu, biểu đồ trịn thể hiện quy mơ (gồm các
hình trịn có kích thước phân theo cấp khác nhau), biểu đồ trịn vừa thể hiện quy mô vừa thể hiện cơ
cấu, biểu đồ vuông thể hiện cơ cấu và quy mô, biểu đồ cột đứng,.... Kĩ năng vẽ biểu đồ không lạ với
HS. Tuy nhiên, do biểu đồ này phải được đặt vào vị trí thích hợp trên lược đồ - vốn khơng lớn lắm,
nên phải chọn kích thước phù hợp với lược đồ để vừa đảm bảo biểu đồ không chồng lấp nhiều yếu tố
khác trên lược đồ hoặc làm sai lệch vị trí của đối tượng được thể hiện trên lược đồ, vừa đảm bảo tính
mĩ thuật của bản đồ - biểu đồ. Đồng thời phải xác định đúng vị trí cần thiết trên lược đồ để đặt biểu
đồ.


- Biểu đồ vẽ phải chính xác, rõ ràng, có chú giải cho biểu đồ (có thể chú giải riêng bên ngồi
biểu đồ, hoặc chú giải bên trong biểu đồ), biểu đồ cũng cần đảm bảo tính mĩ thuật.


</div>
<span class='text_page_counter'>(14)</span><div class='page_container' data-page=14>

Lát cắt địa hình là một loại sơ đồ thường được sử dụng trong dạy học địa lí, nhằm làm rõ hình
thái địa hình theo một hướng nhất định trên bản đồ địa địa hình, hoặc bản đồ địa lí tự nhiên. Thơng
thường, vẽ lát cắt địa hình được tiến hành theo các bước sau :


- Chuyển hình thái địa hình theo lát cắt cần vẽ từ bản đồ lên giấy vẽ theo tỉ lệ yêu cầu :


+ Dùng bút chì kẻ trên bản đồ đường thẳng AB dọc theo lát cắt cần vẽ. Áp rìa của một băng giấy
trắng sát đường cắt AB, đánh dấu hai điểm A, B và tất cả các điểm cần chuyển lên lát cắt (các đường
bình độ, hoặc ranh giới độ cao bằng màu sắc, các dạng địa hình, các con sơng, đỉnh núi), ghi kèm
theo độ cao của chúng. (Chú ý : đường cắt AB có thể đi qua nhiều đối tượng, ví dụ sông, hồ. Để
tránh cho lát cắt khỏi rườm rà, không nên đánh dấu tất cả, chỉ cần chọn một số đối tượng nổi bật, có
tác dụng như những mốc định hướng khi phân tích lát cắt).


+ Chọn tỉ lệ : Việc chọn tỉ lệ cần phải đảm bảo cho hình vẽ lát cắt vừa với khổ giấy được dùng
để vẽ lát cắt, làm nổi bật được độ cao, thấp của địa hình và tương đối đúng so với thực tế. Cần
phải chọn cả tỉ lệ đứng và tỉ lệ ngang. Tỉ lệ ngang có thể giữ nguyên theo tỉ lệ của bản đồ. Tỉ lệ


đứng, thông thường được tăng lên nhiều lần so với tỉ lệ ngang để thể hiện rõ độ cao thấp của địa
hình.


Muốn tăng hoặc giảm tỉ lệ của lát cắt, có thể dựa vào tam giác đồng dạng. Ví dụ : Trên bản đồ,
đường AB đo được bằng 15 cm. Bây giờ muốn rút gọn lại chỉ cịn 7,5 cm trên lát cắt, có thể làm như
sau :


Kẻ đường AB (15 cm) với tất cả các điểm chấm đã ghi lại được. Vẽ đường A'B' (7,5 cm) nằm
phía dưới và song song với AB. Nối AA' và BB' đồng thời kéo dài, hai đường này sẽ gặp nhau tại O.
Tam giác AOB và A'OB' đồngdạng. Nối O với các điểm C, D, E, F, G, H, I, sẽ có A'B', A'C', C'D',...
theo tỉ lệ mới, nhỏ bằng 1/2 tỉ lệ cũ.


<b>Phương pháp rút gọn tỉ lệ theo tam giác đồng dạng</b>


- Tiến hành vẽ : Đặt áp rìa băng giấy đã chỉnh lí theo tỉ lệ trên vào đường kẻ AB trên bản vẽ,
đánh dấu vào bản vẽ các điểm chấm đã ghi trên rìa băng giấy. Từ các điểm chấm đó, kẻ các đoạn
thẳng đứng với AB có độ cao như đã ghi dưới các dấu chấm ở băng giấy (vẽ theo tỉ lệ đứng đã thực
hiện ở trên). Nối các mút trên của các đoạn thẳng đứng đó lại với nhau, sẽ được lát cắt địa hình cần
vẽ. (Chú ý : khi nối các mút đoạn thẳng đứng với nhau thành hình dạng lát cắt, nên vẽ hơi lượn cong
cho phù hợp với địa hình thực tế). Sau khi vẽ xong, ghi chữ vào các đối tượng địa lí được biểu hiện
trên lát cắt, ghi tên lát cắt, tỉ lệ đứng và tỉ lệ ngang của lát cắt.


<b>Lát cắt địa hình dọc kinh tuyến 108o<sub>Đ, từ Bạch Mã đến Phan Thiết</sub></b>
<i>g) Kĩ năng làm việc với các hình vẽ, tranh ảnh địa lí</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(15)</span><div class='page_container' data-page=15>

dựa vào các biểu đồ, cho biết tên và đặc điểm của những kiểu khí hậu được thể hiện ở các biểu đồ ;
hay, đề thi HS giỏi quốc gia năm 2000, bảng B, yêu cầu HS quan sát lược đồ, nêu tên của lược đồ,
nói rõ lược đồ biểu hiện những nội dung gì, giải thích sự hình thành và hoạt động của các nội dung
đó. Những dạng u cầu này, nhìn chung khá khó đối với HS giỏi, địi hỏi phải nắm rất vững kiến
thức địa lí được thể hiện trên hình, đồng thời phải có kĩ năng quan sát, phân tích để rút ra các nhận


xét theo yêu cầu của câu hỏi.


Để trả lời được những câu hỏi này, trong quá trình học tập, HS giỏi nên thường xuyên kết hợp
học kiến thức với phân tích chúng trên hình (lược đồ, bản đồ, biểu đồ, sơ đồ, tranh ảnh...) ; đồng thời
đối với nhiều kiến thức nên tìm cách thể hiện chúng bằng kênh hình một cách trực quan (ví dụ : khi
học về sự khác nhau giữa frơng nóng và frơng lạnh, nên dùng hình vẽ thể hiện hình dạng, cấu trúc,
hướng di chuyển của các loại frông này, cũng như thời tiết của khu vực có frơng... ; hay khi học về
sự phân bố lượng mưa tại một địa điểm nào đó, nên sử dụng bản đồ câm, dùng nét kẻ vạch thể hiện
các địa điểm mưa nhiều, mưa ít, các dịng biển, frơng, hướng gió theo mùa... kết hợp với giải thích
các ngun nhân dẫn tới lượng mưa khác nhau giữa các địa điểm trên...


Học bài địa lí gắn với kênh hình sẽ làm cho các kiến thức địa lí được vững chắc hơn, sâu hơn,
hiểu được một cách trực quan các mối liên hệ địa lí, đặc biệt là các mối liên hệ nhân quả ; đồng thời,
góp phần phát triển tư duy hình tượng, loại tư duy cần rèn luyện trong học tập mơn địa lí.


<i>h) Kĩ năng vận dụng các kiến thức của mơn học khác vào giải thích các hiện tượng địa lí và kĩ</i>
<i>năng liên hệ thực tế</i>


- Do bản chất tổng hợp của khoa học địa lí, nên kiến thức địa lí trong nhà trường có mối quan hệ
mật thiết với kiến thức của nhiều môn học (hay khoa học) khác. Sử dụng hợp lí một số kiến thức liên
quan ở các bộ môn khác vào giải thích các sự vật, hiện tượng địa lí được xem là một kĩ năng cần
thiết và không thể thiếu đối với HS giỏi quốc gia mơn Địa lí. Nhiều kiến thức địa lí sẽ trở nên rất dễ
hiểu nhờ vào việc giải thích dựa trên cơ sở tri thức của các bộ mơn Sinh học, Hố học, Vật lí,...


Ví dụ :


+ Dùng kiến thức hóa học để giải thích sự tạo thành ơdơn (trong lớp ơdơn ở đỉnh tầng đối lưu) :
Các tia tử ngoại và các điện tích tách phân tử ơxi thành các ngun tử ơxi, các nguyên tử này lại kết
hợp với các phân tử ôxi khác, tạo thành ôdôn (O2 = O + O ; O2 + O = O3).



+ Dùng kiến thức hố học để giải thích sự phong hố đá vơi tạo thành địa hình cacxtơ : Nước
mưa khí quyển có chứa CO2 sẽ hồ tan rất mạnh các khống vật thuộc nhóm cacbonat, sunphat,


chuyển thành canxi cacbonat Ca(HCO3)2 CO2 + H2O  H2CO3 ; CaCO3 + H2CO3 Ca(HCO3)2. Do


không ổn định về mặt hoá học, nên canxi cacbonat dễ bị phân tích thành axit cacbonic và canxi
cacbonat thừa này tách ra khỏi dung dịch tạo thành túp vôi và các dạng kết tủa trong hang động.


+ Để giải thích sự giảm nhiệt độ của khơng khí khi lên cao, dùng kiến thức vật lí : khi khối khí
bốc lên mạnh, nội năng của khối khí chuyển thành cơng năng, công năng chuyển thành động năng.
Do nội năng tỉ lệ với nhiệt độ tuyệt đối của khối khí, nên nhiệt độ biến đổi. Khi khối khí bốc lên,
giãn nở, vì phải sản sinh cơng, nên tiêu hao nhiệt năng, do đó nhiệt độ giảm. Khơng khí giáng
xuống, ngược lại, bị nén, năng lượng được giải phóng, nên nhiệt độ tăng lên. Khơng khí bão hồ hơi
nước, khi lên cao 100 m, lạnh đi 0,6oC, vì ngưng kết làm tỏa nhiệt, nên đã được bù một phần nhiệt
đáng lẽ phải dùng để chi cho giãn nở khơng khí. Khơng khí bão hồ, khi hạ xuống, nóng lên chưa
đến 1oC, vì nhiệt phải chi cho bốc hơi. Khơng khí chưa bão hoà, khi hạ xuống, cứ 100 m tăng lên
1oC. Khơng khí bão hồ khi bốc lên cao thường mất độ ẩm vì hơi nước ngưng kết và rơi xuống, trở
thành khơng bão hồ. Khi hạ xuống, cứ mỗi 100 m nóng lên 1oC.


+ Hay, dùng kiến thức vật lí để giải thích hiện tượng nhiệt độ cực đại và cực tiểu trong ngày ở
đại dương thường xảy ra chậm hơn ở trong lục địa : Sự truyền nhiệt vào trong đất và nước phụ thuộc
rất nhiều vào nhiệt dung thể tích (lượng nhiệt tính bằng calo cần để đốt nóng 1 cm3 một chất nhất
định lên 1oC) và tính dẫn nhiệt (khả năng truyền nhiệt được đo bằng lượng nhiệt đi qua một lớp đất
có diện tích là 1 cm2 và chiều dày 1 cm, mà nhiệt độ chênh nhau ở hai mặt của lớp đó là 1oC, trong 1
giây) của chúng. Với lượng nhiệt Mặt Trời như nhau, đất (hay nước) có nhiệt dung thể tích lớn thì
được đốt nóng nhiều hơn. Nhiệt dung thể tích của đất, đá nhỏ hơn nhiệt dung của nước hai lần. Nước
có nhiệt dung lớn và tính dẫn nhiệt nhỏ hơn so với đất, nên nóng lên chậm và mất nhiệt cũng chậm.


</div>
<span class='text_page_counter'>(16)</span><div class='page_container' data-page=16>

xuống sâu ở nước và ngược lại, nhanh gấp rất nhiều (1000 - 10.000 lần) so với dẫn nhiệt phân tử ở
đất. Tính linh động của nước càng làm cho sự truyền nhiệt có hiệu quả hơn. Vì vậy, ở đại dương có


nhiệt độ cực đại trong ngày thường thấp hơn và nhiệt độ cực tiểu trong ngày thường cao hơn trên đất
liền, dẫn đến biên độ nhiệt ở đại dương nhỏ, ở lục địa lớn.


- Ngoài ra, việc tăng cường liên hệ thực tế cũng cần phải làm thường xuyên đối với HS giỏi Địa
lí, vì Địa lí là mơn học rất gần gũi với môi trường xung quanh. Tăng cường liên hệ thực tế đòi hỏi
một mặt vận dụng kiến thức thực tế vào bài học để làm sáng tỏ các sự vật hiện tượng địa lí (ví dụ :
để rõ hơn chuyển động biểu kiến của Mặt Trời về Bắc bán cầu trong mùa hạ, có thể liên hệ hiện
tượng thực tế ở nước ta, nhà quay về hướng tây, vào mùa hạ, thường thấy Mặt Trời lệch về phía
Bắc). Mặt khác, cần vận dụng các kiến thức đã học để giải thích các hiện tượng xảy ra trong thực tế
có liên quan (ví dụ : Câu ca dao "Đêm tháng năm chưa nằm đã sáng. Ngày tháng mười chưa cười đã
tối" có đúng với tất cả các nơi trên Trái Đất khơng ? hay "Tại sao ta phải xem truyền hình trực tiếp"
các trận bóng đá giải ngoại hạng Anh vào lúc 23 giờ ? Lúc đó tại sân bóng của họ là mấy giờ ?" hoặc
"Tại sao trước lúc gió mùa đơng bắc thổi về, thường có mưa ? Tại sao các nhà hàng hải thường dùng
bản đồ có phép chiếu đồ hình trụ đứng ?"). Kiến thức địa lí phản ánh nhiều sự vật và hiện tượng tự
nhiên xảy ra trong môi trường xung quanh. Việc liên hệ này, một mặt giúp hiểu sâu hơn kiến thức
bài học ; mặt khác, tạo nên hứng thú học tập địa lí, thấy được ích lợi của kiến thức địa lí trong cuộc
sống hàng ngày.


<i>i) Kĩ năng viết báo cáo địa lí</i>


- Kĩ năng viết báo cáo địa lí được rèn luyện qua các bước :


+ Phân tích, chọn lọc, hệ thống hoá tư liệu, số liệu đã cho phù hợp với yêu cầu của chủ đề.
+ Viết báo cáo


- Báo cáo trong bài thi HS giỏi không dài ; nguồn tư liệu đã cho sẵn ở dạng thơ (ví dụ các bảng
số liệu và một số thông tin ngắn), hay được yêu cầu khai thác từ Atlát địa lí...


- Việc viết báo cáo đòi hỏi phải vận dụng tổng hợp nhiều kĩ thuật khác nhau, như tìm tịi, khám
phá, chọn lọc, xử lí và hệ thống hố thơng tin.



+ Trong q trình phân tích tư liệu cần lưu ý nội dung của tư liệu bao hàm vấn đề gì và liên
quan đến nội dung nào của báo cáo, cần bổ sung thêm những thơng tin cịn thiếu, lựa chọn những
nội dung cần cho việc làm rõ nội dung báo cáo, liên hệ các thông tin với nhau nhằm xác lập tính
thống nhất và rút ra các nhận xét cần thiết phù hợp với bản chất của sự việc, hiện tượng trong báo
cáo.


+ Trong báo cáo nên có những nhận xét, ý kiến nhận định khái quát, hoặc từ hiện tượng có thể
có những đề xuất thích hợp về giải pháp, biện pháp.


- Báo cáo cần được viết theo văn phong khoa học, ngắn gọn, súc tích, khơng dùng văn nói trong
báo cáo. Để báo cáo làm rõ được vấn đề và tăng cường sức thuyết phục, nên tăng cường sử dụng các
dẫn chứng.


- Việc trình bày các đề mục cũng phải hợp lí, thể hiện các nội dung địa lí một cách thích hợp.
Ví dụ :


+ Báo cáo về tình hình phát triển, thường có các đề mục :
1. Thời kì (giai đoạn) phát triển


2. Nhịp độ phát triển
3. Sản phẩm tiêu biểu


+ Báo cáo về cơ cấu của một ngành kinh tế, thường có dàn bài :
1. Giai đoạn và sự chuyển dịch cơ cấu


2. Cơ cấu theo ngành
3. Cơ cấu theo lãnh thổ


+ Báo cáo về phân bố của một ngành, một thành phần kinh tế - xã hội có thể làm theo dàn bài :


1. Đặc điểm phân bố


2. Sự phân bố theo thời kì (giai đoạn)
3. Mức độ hợp lí (hay chưa hợp lí)....


<i>k) Kĩ năng tính tốn trong địa lí</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(17)</span><div class='page_container' data-page=17>

biết dân số tỉnh này năm 1989 là 1.800.000 người (làm trịn). Việc tính tốn được dựa vào cơng thức
: d = d0(1 + tg)n.


- Tính tốn dựa vào một số chỉ số thực tế. Ví dụ : Khi TP. Huế 2 giờ ngày 01/01/2006, thì
Pa-ri sẽ là mấy giờ ? (Pa-ri và Huế cách nhau : 7 - 0 = 7 múi giờ. Do đó, khi Huế là 2 giờ ngày
01/01/2006, thì Pa-ri sẽ là 19 giờ ngày 31/12/2005).


Hay, tính xem Mặt Trời lên thiên đỉnh ở Hà Nội vào những ngày tháng nào trong năm ? Cách
tính như sau :


Mặt Trời chuyển động biểu kiến từ Xích đạo lên chí tuyến Bắc hết 93 ngày với 23o27' =
1407'. Vậy, trong một ngày, Mặt trời di chuyển được : 1407' : 93 ngày = 15'08" = 908''.


Theo đó, Mặt Trời di chuyển biểu kiến từ Xích đạo lên Hà Nội là : 75720" : 908" = 83 ngày.
(Mặt Trời di chuyển biểu kiến từ Xích đạo lên Hà Nội hết 21o02'= 1262'= 757220"'). Suy ra,
Mặt Trời lên thiên đỉnh ở Hà Nội lần thứ nhất vào ngày 15/6 (21/3 + 83 ngày), lần thứ hai vào ngày
31/6 (23/9 - 83 ngày).


- Tính tốn dựa trên sự biến đổi công thức cho trước, hoặc thiết lập công thức dựa trên các
định nghĩa. Ví dụ, tính kinh độ và vĩ độ địa lí của một địa điểm trên Trái Đất. Cơng thức tính
được biến đổi từ cơng thức tính góc tới của Mặt Trời. Hay, lập cơng thức tính dân số năm sau so
với năm trước : DA = Dtb + (s - t) + (N - X), do đó : DA = Dtb + Dtb.Tg + Dtb.Tc ; trong đó : DA là tổng



số dân trung bình năm sau, N là tổng số người nhập cư trong năm, X là tổng số người xuất cư trong
năm, Tc là tỉ lệ gia tăng cơ giới. Hay, từ cách hiểu dân số năm liền sau bằng dân số năm liền trước


cộng với số dân gia tăng, có thể thiết lập cơng thức tính : D1 = D0 + D0.Tg, suy ra : D0 = D1 : (1 +


Tg), trong đó : D0 là dân số năm liền trước, D0 là dân số năm liền sau.


C. HƯỚNG DẪN CÁCH LÀM BÀI THI HỌC SINH GIỎI QUỐC GIA MƠN ĐỊA LÍ


<b>1. </b> Do yêu cầu về tính sáng tạo cao, nên đề thi HS giỏi quốc gia mơn Địa lí khơng theo một
khuôn mẫu nào nhất định về dạng đề, cách làm bài theo từng dạng. Tuy nhiên, thống kê các dạng
câu hỏi trong đề thi HS giỏi quốc gia từ năm 1997 đến năm 2006 thấy có một số dạng sau xuất hiện :
- Làm việc với bảng số liệu (nhận xét, nhận xét và giải thích, phân tích, giải thích, trình bày và
giải thích, xác định loại biểu đồ thích hợp, vẽ biểu đồ và nhận xét, nhận dạng tháp tuổi trên cơ sở
bảng số liệu).


- Làm việc với sơ đồ, lược đồ, hình vẽ, ảnh... (trình bày và giải thích, xác định đặc điểm, nhận
dạng và giải thích hoặc phân tích, điền).


- Làm việc với với Atlát Địa lí Việt Nam (so sánh, phân tích, giải thích, trình bày, lập bảng số
liệu, trình bày và giải thích hoặc phân tích, nhận xét và giải thích, viết báo cáo).


- Làm việc với lát cắt địa hình (vẽ, nhận xét).


- Đặt giả thuyết ngược, yêu cầu rút ra kết luận, bình luận một vấn đề, trình bày và giải thích mối
liên hệ , nêu định nghĩa, ý nghĩa,...


- Tính tốn (áp dụng hoặc biến đổi cơng thức có sẵn).


Nhìn chung, quan sát các dạng đề thi trên có thể thấy được yêu cầu chủ yếu của đề thi HS giỏi


quốc gia là : HS phải có kĩ năng địa lí thành thạo để tìm tịi, khám phá tri thức địa lí tiềm ẩn trong các
dạng kênh hình khác nhau (chủ yếu là Atlat Địa lí Việt Nam, bảng số liệu thống kê, biểu đồ và lược đồ
khí hậu), trên cơ sở nắm chắc, hiểu sâu kiến thức địa lí cơ bản và có tư duy sáng tạo. Ngồi ra, đề thi
cịn u cầu phân tích các mối liên hệ nhân quả, tính tốn, vẽ, đánh giá... Như vậy, việc chuẩn bị cho
thi HS giỏi quốc gia là một quá trình lâu dài và công phu về cả kiến thức, kĩ năng địa lí và kĩ năng tư
duy. Học theo các dạng đề thi không nên đặt thành việc chủ yếu trong thi HS giỏi quốc gia.


<b>2. </b> Vì việc nắm kiến thức cơ bản là nền tảng vững chắc cho tư duy và cơ sở cho thăng hoa
sáng tạo nên, trong quá trình làm bài thi HS giỏi với yêu cầu sáng tạo cao, HS giỏi nên đọc kĩ đề bài,
phân tích rõ câu hỏi, xác định đúng trọng tâm yêu cầu của câu hỏi, lựa chọn và huy động các kiến
thức cơ bản và kĩ năng cần thiết cho việc giải các câu hỏi.


</div>
<span class='text_page_counter'>(18)</span><div class='page_container' data-page=18>

cơ cấu ngành kinh tế ở nước ta hiện nay và mối quan hệ của nó với sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo
lãnh thổ, được quy về "gốc" là nội dung cơ cấu ngành kinh tế và cơ cấu kinh tế theo lãnh thổ. Hay, câu
hỏi : Nếu như trong khi chuyển động quanh Mặt Trời, Trái Đất không tự quay và trục của nó khơng
nghiêng mà vng góc với mặt phẳng hồng đạo thì sẽ dẫn đến những hệ quả nào ? được quy về "gốc"
của nó là các hệ quả chuyển động tự quay quanh trục của Trái Đất. Với câu hỏi : Dựa vào Atlát Địa lí
Việt Nam và kiến thức đã học, hãy trình bày đặc điểm mưa của khu vực Huế và Đà Nẵng. Giải thích
tại sao có những đặc điểm mưa như vậy. Nội dung "gốc" là mối liên hệ nhân quả giữa hướng địa hình,
vị trí của đường hội tụ nhiệt đới vào thu đơng, gió mùa đơng bắc với lượng mưa (hay nói chung là các
nhân tố ảnh hưởng đến mưa ở khu vực miền Trung)...


Khi đã quy về được nội dung "gốc" của vấn đề, HS giỏi có thể bắt đầu từ đó để xác định những
kiến thức cần thiết phục vụ cho việc trả lời câu hỏi đặt ra.


<b>3. </b> Trong quá trình làm bài thi, cần chú ý phân bổ thời gian hợp lí, tránh dồn hết thời gian cho
câu khó (có thể vượt sức mình), khơng có kết quả, trong khi những câu hỏi vừa sức hơn không có thời
gian giải. Kinh nghiệm của nhiều HS giỏi quốc gia đạt giải cao cho thấy, trước hết nên ưu tiên giải
những câu hỏi mà khả năng mình có thể thực hiện được thuận lợi. Những câu hỏi khó hơn để sau.



<b>4. </b> <b>Phác thảo đề cương cho mỗi câu hỏi</b>


Việc phác thảo đề cương giúp cho HS giỏi khỏi bỏ sót các ý trong bài làm và phân bổ thời gian
hợp lí cho từng câu hỏi.


Trong khi lập đề cương, việc phác thảo ra các ý tưởng về cách giải, địa chỉ của các kiến thức
"gốc" liên quan đến câu hỏi cần được lưu ý ghi rõ.


Kinh nghiệm thực tế cho thấy, HS giỏi cần căn cứ vào yêu cầu của câu hỏi để nhanh chóng phác
thảo các ý chính cần phải trả lời, giữa chúng nên có những khoảng trống để ghi các ý nhỏ và có thể
ghi thêm những ý bổ sung cần thiết chợt nghĩ ra trong khi làm bài.


<b>5. </b> Trong quá trình làm bài trên giấy thi, cần làm rõ các ý lớn và nhỏ theo như đề cương chi
tiết. Có thể dùng cách đánh số thứ tự và gạch đầu dòng, dấu cộng theo các ý khác nhau để bài làm
được mạch lạc.


</div>

<!--links-->
HƯỚNG DÂN HỌC VÀ LÀM BÀI THI TỐT NGHIỆP THPT MÔN TOÁN
  • 6
  • 606
  • 0
  • ×