Tải bản đầy đủ (.pdf) (85 trang)

Xét xử vụ án hành chính - Từ thực tiễn tòa án nhân dân thành phố Hà Nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.27 MB, 85 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
……...…/……..….

BỘ NỘI VỤ
..…/…..

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

TRẦN TRUNG THÙY NGHIÊN

XÉT XỬ VỤ ÁN HÀNH CHÍNH - TỪ THỰC TIỄN
TỊA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH

HÀ NỘI, NĂM 2018


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
……...…/……..….

BỘ NỘI VỤ
..…/…..

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

TRẦN TRUNG THÙY NGHIÊN

XÉT XỬ VỤ ÁN HÀNH CHÍNH - TỪ THỰC TIỄN
TỊA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HÀ NỘI


LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH
Mã số: 8 38 01 02

NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. Vũ Trọng Hách

HÀ NỘI, NĂM 2018


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn “Xét xử vụ án hành chính - Từ thực tiễn Tịa án
nhân dân Thành phố Hà Nội” là cơng trình nghiên cứu của riêng tôi. Các nội
dung trong luận văn là trung thực, khơng trùng lặp với các cơng trình nghiên cứu
khác. Các kết quả, số liệu, báo cáo do tôi thu thập từ nhiều nguồn, có trích dẫn
và ghi rõ trong phần tài liệu tham khảo. Trong luận văn cũng sử dụng một số
nhận xét, đánh giá của các tác giả khác đều có trích dẫn và chú thích nguồn.
Tơi xin cam đoan và chịu trách nhiệm về luận văn của mình.
Hà Nội, ngày 26 tháng 07 năm 2018
Học viên

Trần Trung Thùy Nghiên


MỤC LỤC

PHẦN MỞ ĐẦU

1

1.


Tính cấp thiết và lí do chọn đề tài

1

2.

Tình hình nghiên cứu đề tài

3

3.

Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

3

4.

Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4

5.

Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu

4

6.


Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn

5

7.

Kết cấu của luận văn

5

CHƢƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ XÉT XỬ VỤ ÁN HÀNH
CHÍNH

6

1.1. Những khái niệm cơ bản về xét xử vụ án hành chính

6

1.1.1. Vụ án hành chính

6

1.1.2. Xét xử vụ án hành chính

8

1.2. Những quy định của pháp luật về xét xử vụ án hành chính

12


1.2.1 Chủ thể tham gia xét xử vụ án hành chính

12

1.2.2 Đối tượng của xét xử vụ án hành chính

14

1.2.3. Thẩm quyền xét xử vụ án hành chính tại Tịa án nhân dân cấp tỉnh

18

1.3 Vai trị của xét xử vụ án hành chính

20

1.4 Các yếu tố đảm bảo hoạt động xét xử vụ án hành chính

23

TIỂU KẾT CHƢƠNG 1

27

CHƢƠNG 2: THỰC TRẠNG XÉT XỬ VỤ ÁN HÀNH CHÍNH TẠI TỊA
ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HÀ NỘI

28


2.1. Đặc điểm kinh tế, chính trị trên địa bàn và Q trình phát triển của Tịa
Hành chính Tịa án nhân dân Thành phố Hà Nội

28

2.2 Tình hình xét xử vụ án hành chính tại Tịa án nhân dân Thành phố Hà Nội
giai đoạn 2013 - 2017

30


2.2.1 Cơ sở pháp lý của xét xử vụ án hành chính tại Tịa án nhân dân Thành phố
Hà Nội

30

2.2.2 Kết quả xét xử vụ án hành chính tại Tịa án nhân dân Thành phố Hà Nội
giai đoạn từ năm 2013 tới năm 2017

32

2.2.3 Đánh giá kết quả xét xử vụ án hành chính tại Tịa án nhân dân Thành phố
Hà Nội giai đoạn 2013 - 2017

34

TIỂU KẾT CHƢƠNG 2

53


CHƢƠNG 3: PHƢƠNG HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP ĐẢM HOÀN THIỆ
ỘNG XÉT XỬ VỤ ÁN HÀNH CHÍNH TỪ THỰC TIỄN TẠI
TỊA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HÀ NỘI

54

3.1. Phương hướng hoàn thiện hoạt động xét xử vụ án hành chính

54

3.2. Một số giải pháp góp phần hồn thiện hoạt động xét xử vụ án hành chính từ
thực tiễn Tịa án nhân dân thành phố Hà Nội

55

3.2.1. Tăng cường tính độc lập của Tịa án

55

3.2.2. Hồn thiện hệ thống pháp luật tố tụng hành chính

57

3.2.3. Kiện tồn hoạt động xét xử vụ án hành chính của Tịa án nhân dân theo
hướng cải cách tư pháp

66

3.2.4. Tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật tố tụng hành chính


75

TIỂU KẾT CHƢƠNG 3

76

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


1

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết và lí do chọn đề tài
Ở nước ta, quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân cơng, phối hợp,
kiểm sốt giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp,
hành pháp, tư pháp. Trong đó, Tịa án nhân dân là cơ quan xét xử của nước Cộng
hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp. Tịa án nhân dân thực
hiện chức năng xét xử, có quyền ra phán quyết về các tranh chấp theo quy định
của pháp luật và các vấn đề pháp lý liên quan đến quyền, lợi ích hợp pháp của tổ
chức, cá nhân. Cụ thể, Tòa án nhân danh nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam xét xử các vụ án hình sự, dân sự, hơn nhân và gia đình, kinh doanh, thương
mại, lao động, hành chính và giải quyết các việc khác theo quy định của pháp
luật. Hiện nay hệ thống Tòa án nhân dân gồm 4 cấp: Tòa án nhân dân tối cao,
Tòa án nhân dân cấp cao; Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung
ương; Tòa án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và tương đương
cùng Tòa án quân sự và các tòa án khác được thành lập theo luật định.
Trong hoạt động của Tòa án nhân dân, xét xử án hành chính là lĩnh vực
xét xử cịn mới mẻ nhưng khơng kém phần quan trọng và cần thiết so với các xét
xử khác. Đặc biệt, trong bối cảnh nền kinh tế thị trường còn non trẻ của đất nước
ta còn tồn tại khơng ít bất cập, hạn chế từ cơng tác điều hành của nhà nước gây

ảnh hưởng tới quyền và lợi ích hợp pháp của nhân dân. Nhiều năm qua, xét xử
vụ án hành chính có sự tăng dần về số vụ và tính chất phức tạp so với giai đoạn
trước. Cũng bởi tính chất mới mẻ và phức tạp nên xét xử án hành chính hiện nay
tồn tại khơng ít khó khăn, vướng mắc trong cơng tác xét xử cũng như thi hành
án. Đặc biệt, trong một thời gian ngắn, xét xử vụ án hành chính ít nhiều chịu ảnh
hưởng từ việc thay đổi mơ hình tổ chức của Tòa án; thay đổi hệ thống văn bản
quy phạm pháp luật là cơ sở pháp lý, làm phát sinh nhiều nghĩa vụ và trách
nhiệm mới đối với hệ thống Tòa án. Đặc biệt, cấp tỉnh, thành phố trực thuộc


2

trung ương ln là cấp có tổng số vụ án hành chính được thụ lý cao nhất và tính
chất phức tạp. Theo thống kê toàn quốc, từ khi Quốc hội ban hành Luật tố tụng
hành chính, tổng số vụ án được thụ lý tại Tòa án nhân dân cấp tỉnh trên cả nước
đã lên tới hàng nghìn vụ trên năm, tăng hàng trăm vụ qua các năm. Trong đó,
thực tiễn xét xử án hành chính tại Tịa án nhân dân thành phố Hà Nội có thể
được xem là một trọng điểm của cơng tác xét xử án hành chính của hệ thống Tòa
án trên cả nước. Nguyên nhân do Thành phố Hà Nội là thủ đô của nước Việt
Nam, là một trong hai đơ thị có tốc độ tăng trưởng kinh tế - xã hội nhanh nhất cả
nước. Nền kinh tế càng phát triển thì các mẫu thuẫn trong xã hội càng gia tăng,
không ngoại trong trừ lĩnh vực quản lý của các cơ quan hành chính nhà nước.
Trong những năm qua, số vụ án hành chính mà Tịa án nhân dân Thành phố Hà
Nội thụ lý đã tăng vượt bậc; nhiều năm số án năm sau tăng gấp hai, ba lần so với
năm liền trước. Đối tượng của khiếu kiện ngày càng phức tạp, đa dạng, liên quan
tới nhiều ngành, lĩnh vực quản lý hành chính. Mặc dù ln nỗ lực đổi mới, nâng
cao chất lượng xét xử, nhưng thực tế xét xử án hành chính tại Tịa án nhân dân
Thành phố Hà Nội hiện nay cịn gặp khơng ít vướng mắc, điển hình như: Qua
một thời gian ngắn thực hiện các quy định của Luật tố tụng hành chính (2015) đã
làm phát sinh một số khó khăn đối với tòa án trong các vấn đề xác định đối

tượng khởi kiện, xác định người tham gia tố tụng; về thủ tục đối thoại; xác định
căn cứ đánh giá tính hợp pháp của quyết định hành chính, hành vi hành chính;
xác định cơ chế đảm bảo thi hành bản án... Kéo theo đó, tồn tại tình trạng án hủy,
sửa cịn cao; thời gian xét xử kéo dài gây bức xúc trong quần chúng nhân dân.
Mặt khác, hiểu biết về khiếu kiện hành chính của người dân cũng chưa được đầy
đủ, gây khó khăn cho cơ quan xét xử trong việc thụ lý bản án, vv. Với thực trạng
nêu trên, công tác xét xử án hành chính tại Tịa án nhân dân thành phố Hà Nội
hồn tồn có cơ sở trở thành căn cứ để phân tích và rút ra các bài học kinh
nghiệm, là tài liệu để tham khảo và áp dụng, nhằm nâng cao chất lượng xét xử án
hành chính tại các Tịa án nhân dân cấp tỉnh trên phạm vi cả nước.


3

Xuất phát từ những lý do trên, tôi chọn đề tài: “Xét xử vụ án hành chính
từ thực tiễn Tịa án nhân dân thành phố Hà Nội” làm luận văn thạc sĩ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Từ năm 1996 tới nay, xét xử án hành chính ngày càng được quan tâm
nghiên cứu sâu rộng. Tới nay, liên quan tới mảng đề tài này đã có rất nhiều tác
phẩm và cơng trình nghiên cứu cá nhân có chất lượng, trở thành cơ sở khoa học
cả về lý luận và thực tiễn. Trong số đó có thể nêu lên các tác phẩm: “Thiết lập
tài phán hành chính ở nước ta”, GS.TS Nguyễn Duy Gia (chủ biên), NXB Giáo
dục, Hà Nội, năm 1995; “Tài phán hành chính ở Việt Nam”, PTS. Đinh Văn
Mậu và PTS. Phạm Hồng Thái, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, 1995; “Một số
vấn đề về đổi mới cơ chế giải quyết khiếu kiện hành chính ở Việt Nam”, TS.
Nguyễn Văn Thanh và LG. Đinh Văn Minh, Nxb Tư pháp, Hà Nội, năm 2004;
“Luật tố tụng hành chính”, Nxb Chính trị quốc gia, 2011; “Một số vấn đề lý
luận và thực hiện trong hoạt động xét xử các vụ án hành chính ở nước ta hiện
nay”, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Nguyễn Hồng Bách, năm 2006;“ Tịa hành
chính – Thiết chế cơ bản bảo vệ quyền cơng dân”, Ngồi ra cịn một số nghiên

cứu khác đã được cơng bố rộng rãi trên sách báo, tạp chí và trong các báo cáo
công tác xét xử hàng năm của Tịa hành chính.
Tuy nhiên, nghiên cứu sâu về đề tài xét xử án hành chính tại Tịa án nhân
dân cấp tỉnh vẫn chưa vẫn chưa được khai thác, nghiên cứu sâu sắc. Đặc biệt
trong bối cảnh Hiến pháp (2013) và Luật tố tụng hành chính (2015) được sửa
đổi, đặt ra rất nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn; nhất là với công tác xét xử tại
một đô thị lớn như thành phố Hà Nội. Vì vậy việc lựa chọn đề tài “Xét xử án
hành chính - Từ thực tiễn Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội” trên tinh thần kế
thừa những nghiên cứu trước đó nhưng có hướng tiếp cận cụ thể, không trùng
khớp với các công trình đã được cơng bố.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Trên cơ sở phân tích hệ thống pháp luật hiện hành về hoạt động tố tụng


4

hành chính, luận văn đi sâu nghiên cứu, đánh giá hoạt động xét xử án hành chính
tại Tịa án nhân dân Thành phố Hà Nội; từ đó đưa ra những nhận định, đánh giá
và đề xuất giải pháp nhằm hoàn hiện hệ thống pháp luật nói chung và cơng tác
xét xử tại Tòa án nhân dân Thành phố Hà Nội nói riêng. Cụ thể:
- Luận văn tiến hành nghiên cứu, hệ thống hóa cơ sở lý luận cùng những
quy định của pháp luật hiện hành về hoạt động tố tụng hành chính làm căn cứ soi
chiếu thực trạng xét xử vụ án hành chính tại Tịa án nhân dân Thành phố Hà Nội.
- Tiến hành phân tích, đánh giá thực trạng xét xử vụ án hành chính tại
Tịa án nhân dân Thành phố Hà Nội trong giai đoạn từ năm 2013 tới hết năm
2017, nêu lên những ưu điểm, hạn chế cùng nguyên nhân của thực trạng.
- Trên cơ sở thực tiễn, luận văn rút ra những vấn đề cần được quan tâm
nhằm góp phần hồn thiện cơng tác xét xử vụ án hành chính của Tịa án nhân
dân Thành phố Hà Nội nói riêng, Tịa án nhân dân cấp tỉnh trên cả nước nói
chung trong thời gian tới.

4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu:
Luận văn tập trung đi sâu nghiên cứu thực trạng xét xử vụ án hành
chính tại Tịa án nhân dân Thành phố Hà Nội.
4.2. Phạm vi nghiên cứu:
- Không gian: Luận văn nghiên cứu công tác xét xử vụ án hành chính tại
Tịa Hành chính thuộc Tịa án nhân dân Thành phố Hà Nội.
- Thời gian: Luận văn nghiên cứu thực trạng hoạt động xét xử vụ án hành
chính tại Tịa án nhân dân Thành phố Hà Nội trong giai đoạn 5 năm: Từ năm
2013 tới hết năm 2017.
5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu đề tài, luận văn đã được vận dụng những
phương pháp nghiên cứu sau:
- Phương pháp luận duy vật biện chứng của chủ nghĩa Mác – Lênin


5

- Phương pháp quan sát thực tế;
- Phương pháp nghiên cứu tài liệu; hồ sơ, bản án;
- Phương pháp phân tích, thống kê, tổng hợp số liệu; đánh giá, so sánh.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Luận văn đã đề cập và hệ thống hóa các vấn đề lý luận trong hoạt động
Xét xử vụ án hành chính từ thực tiễn Tịa án nhân dân Thành phố Hà Nội, đặc
biệt trong bối cảnh cải cách tư pháp theo nghị quyết 48/NQ-TW và Nghị quyết
số 49/NQ-TW. Trên cơ sở thực tiễn, luận văn đã đưa ra các đề xuất, giải pháp
hữu ích, góp phần hồn thiện, nâng cao chất lượng hoạt động xét xử vụ án hành
chính trên phạm vi cả nước nói chung và tại Tịa án nhân dân Thành phố Hà Nội
nói riêng. Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể làm tài liệu tham khảo trong
hoạt động nghiên cứu khoa học.

7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về xét xử vụ án hành chính
Chương 2: Thực trạng xét xử vụ án hành chính tại Tịa án nhân dân Thành
phố Hà Nội
Chương 3: Phương hướng và giải pháp hoàn thiện hoạt động xét xử vụ án
hành chính từ thực tiễn tại Tòa án nhân dân Thành phố Hà Nội.


6

CHƢƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ XÉT XỬ
VỤ ÁN HÀNH CHÍNH
1.1. Những khái niệm cơ bản về xét xử vụ án hành chính
1.1.1 Vụ án hành chính
Quản lý hành chính nhà nước là hoạt động chấp hành, điều hành của cơ
quan hành chính nhà nước, của các cơ quan nhà nước khác và các tổ chức được
nhà nước ủy quyền quản lý trên cơ sở của luật và để thi hành luật nhằm thực
hiện chức năng tổ chức, quản lý, điều hành xã hội của nhà nước. Trong q trình
vận hành, hoạt động quản lý hành chính nhà nước cũng không tránh khỏi những
xung đột, tranh chấp giữa các chủ thể, thường là các cơ quan quản lý hành chính
và tổ chức, cá nhân. Những xung đột, tranh chấp này chủ yếu xuất phát từ việc
cơ quan quản lý hành chính nhà nước đơn phương áp đặt ý chí của mình, gây
hậu quả ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của chủ thể bị quản lý.Trong
trường hợp đó, chủ thể bị quản lýcó quyền khiếu kiện vụ án hành chính tới Tịa
án nhân dân có thẩm quyền để yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của mình.
Quy định tại Khoản 1, Điều 30, Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam năm 2013, khiếu nại, tố cáo là một trong những quyền cơ bản

của cơng dân. Đây chính là cơ sở pháp lý cao nhất để xác định quyền khiếu kiện
vụ án hành chính của cá nhân, cơ quan, tổ chức. Điều 115, Luật Tố tụng hành
chính 2015 đã quy định cơ quan, tổ chức, cá nhân có quyền khiếu kiện vụ án đối
với quyết định hành chính, hành vi hành chính trong trường hợp khơng đồng ý
với quyết định, hành vi đó.
Như vậy, nguồn gốc của vụ án hành chính là khiếu kiện hành chính.
Quyết định hành chính hay hành vi hành chính được cho là xâm hại đến quyền
và lợi ích hợp pháp của chủ thể bị quản lý, nhưng nếu khơng đượckhiếu kiện lên
Tịa án thì khơng được coi là vụ án hành chính. Ngồi ra, để trở thành vụ án hành


7

chính, khiếu kiện hành chính đó cịn cần được phía Tòa án xem xét, thụ lý giải
quyết mới đảm bảo có điều kiện đủ làm phát sinh một vụ án hành chính. Theo
Từ điển tiếng Việt, “thụ lý” là “tiếp nhận giải quyết vụ kiện”[18, tr. 961] . Trong
tố tụng hành chính, việc thụ lý vụ án hành chính là căn cứ làm xuất hiện trách
nhiệm giải quyết vụ án hành chính của Tịa án, là cơ sở giúp Tịa án có những
nhận định ban đầu về tình trạng tranh chấp hành chính, phương hướng giải quyết
vụ việc và hạn chế tình trạng tranh chấp về thẩm quyền giải quyết vụ việc có thể
xảy ra [19, tr. 237]
Có thể nói, khiếu kiện hành chính là nguồn gốc làm phát sinh trách nhiệm
của Tòa án trong việc tiếp nhận và trả lời cơng khai, chính thức về việc khiếu
kiện hành chính đó có được giải quyết tại Tịa án hay khơng. Trường hợp vụ việc
đó được chấp nhận, Tịa án tiến hành thụ lý thì lúc này vụ án hành chính mới
phát sinh, kéo theo đó là trách nhiệm của Tịa án trong việc giải quyết vụ án hành
chính.Để tránh việc lạm dụng quyền khiếu kiện, đồng thời tạo cơ sở cần thiết để
Tịa án có thể giải quyết vụ án hành chính theo đúng quy định của pháp luật, Tịa
án có quyền xem xét tính hợp pháp của các u cầu khởi kiện và sự phù hợp của
yêu cầu này với thẩm quyền của mình để quyết định thụ lý hay khơng thụ lý [19,

tr.237]. Có thể nói, một vụ án hành chính khơng đương nhiên phát sinh khi có
đơn khởi kiện của người khởi kiện, mà nó cịn phải thỏa mãn các điều kiện thụ lý
theo quy định pháp luật và được Tòa án chấp nhận.
Trên cơ sở phân tích về nguồn gốc và điều kiện phát sinh của vụ án hành
chính nêu trên, có thể hiểu, “Vụ án hành chính là vụ việc tranh chấp hành chính
được Tịa án có thẩm quyền thụ lý theo yêu cầu khởi kiện của cơ quan, tổ chức,
cá nhân đối với quyết định hành chính, hành vi hành chính mà chủ thể khiếu
kiện cho rằng việc thực hiện quyết định hành chính, hành vi hành chính đó gây
ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của họ.”


8

1.1.2. Xét xử vụ án hành chính
1.1.2.1. Khái niệm xét xử vụ án hành chính
Theo từ điển tiếng Việt, “xét xử” là hoạt động đặc trưng, là chức năng của
Tòa án, Tòa án là cơ quan duy nhất được đảm nhiệm chắc năng xét xử. Trong
giới luật học, có nhiều quan điểm lại cho rằng“xét xử”là hoạt động xem xét,
đánh giá bản chất pháp lý của vụ việc nhằm đưa ra một phán xét về tính chất,
mức độ pháp lý của vụ việc, từ đó nhân danh Nhà nước đưa ra phán quyết tương
ứng với bản chất, mức độ trái hay không trái pháp luật của vụ việc.Xét xử là hoạt
động mang tính quyền lực nhà nước do Tịa án thực hiện. Đây là một quyền
thuộc nhóm quyền tư pháp, mang tính quyền lực nhà nước, do Tịa án thực hiện
và cũng là quyền đặc thù của Tòa án. Tòa án thực hiện chức năng xét xử để giải
quyết những vụ án thuộc nhiều lĩnh vực như hình sự, dân sự, kinh tế, hành
chính,... Mọi bản án do Tịa án tuyên đều phải qua hoạt động xét xử. Không ai bị
buộc tội khi chưa qua xét xử của Tòa án. Trên cơ sở đó, Nghị quyết số 08 –
NQ/TW (2002) về một số nhiệm vụ trọng tâm của công tác tư pháp ban hành bởi
Bộ chính trị tiếp tục nhấn mạnh vai trò Tòa án là trung tâm của hệ thống tư pháp,
hoạt động xét xử của Tòa án là trọng tâm của hệ thống tư pháp.

Hiểu chung nhất, “xét xử” là việc đưa ra các phán quyết dưới hình thức
một bản án hoặc quyết định của Tịa án có thẩm quyền nhằm giải quyết các xung
đột, tranh chấp hoặc những phát sinh trong các quan hệ pháp lý cụ thể do pháp
luật quy định nhằm đảm bảo pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của Nhà nước và cơng dân. Do đó, có thể thấy xét xử là một hoạt động
đặc biệt do Tòa án thực hiện nhằm giải quyết các vụ án trong đó có các vụ án
hành chính.
Từ sự phân tích hai khái niệm “vụ án hành chính” và “xét xử”nêu trên, có
thể định nghĩa: “Xét xử vụ án hành chính là việc phán xét của Tịa án về tính hợp
pháp của các quyết định hành chính, hành vi hành chính, quyết định kỷ luật buộc
thôi việc do cơ quan quản lý hành chính nhà nước ban hành bị khiếu kiện trên


9

cơ sở luật Tố tụng hành chính”. Xét xử vụ án hành chính là cơ chế hữu hiệu
trong kiểm sốt quyền lực nhà nước giữa nhóm quyền tư pháp với nhóm quyền
hành pháp, giúp đảm bảo pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo vệ các quyền, lợi ích
hợp pháp của cơng dân.
Xét xử hành chính là mảng xét xử vẫn còn khá mới mẻtrong lịch sử tố
tụng tư pháp Việt Nam, xét cả trên phương diện lý luận và thực tiễn haytrong
tương quan với các xét xử khác như hình sự, dân sự, kinh tế,…. Nhu cầu nghiên
cứu, tìm hiểu về xét xử án hành chính, trình tự thủ tục tố tụng giải quyếtvụ án
này là nhu cầu cần thiết nhằm hoàn thiện cơ sở lý luận và thực tiễn xét xử, góp
phần bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, tổ chức, cơ quan trước
những khả năng bị xâm hại bởi quyết định hành chính, hành vi hành chính của
cơ quan quản lý hành chính nhà nước.
1.1.2.2. Đặc điểm xét xử vụ án hành chính
ột mảng xét xử củ
, tương đồng với các


khác. Giống như xét xử dân sự, hình

sự, hay kinh tế…, xét xử vụ án hành chính là hoạt động mang tính quyền lực nhà
nước, dựa trên các quy định của pháp luật nhằm xem xét, đánh giá một vụ việcvà
đưa ra phán xét về tính chất, mức độ trái hay khơng trái pháp luật của vụ viêc.
Đồng thời, xét xử vụ án hành chính cũng tn theo trình tự, thủ tục tố tụng chung
từ giai đoạn nhận hồ sơ, thụ lý vụ án, chuẩn bị xét xử, đưa ra xét xử và ra phối
hợp thi hành án.
.
Tuy nhiên xét xử vụ án hành chính có những đặc điểm riêng xuất phát từ
chủ thể và đối tượng của tranh chấp hành chính, bao gồm:
Thứ nhất, về đối tượng xét xử của vụ án hành chính
Xét xử vụ án hành chính là một mảng cơng tác đặc thù trong các xét xử
của Tòa án hiện nay. Nếu các mảng xét xử khác như dân sự, hình sự, lao động,
kinh tế chủ yếu hướng tới giải quyết các tranh chấp phát sinh về đời sống dân sự


10

thì xét xử hành chính hướng tới giải quyết các tranh chấp phát sinh trong hoạt
động quản lý và điều hành của các cơ quan nhà nước (khối công) với cá nhân, tổ
chức. Đối tượng xét xử vụ án hành chính là các quyết định hành chính, hành vi
hành chính của cơ quan quản lý nhà nước. Các quyết định, hành vi này có tính
chất mệnh lệnh – phục tùng, bắt buộc và áp đặt đối với cá nhân, cơ quan, tổ chức
liên quan. Để rõ hơn về tính đặc biệt của đối tượng xét xử trong xét xử vụ án
hành chính, có thể làm một phép so sánh: Nếu như quan hệ nhân thân, tài sản, có
thể được hình thành từ sự thỏa thuận của các bên đương sự trên cơ sở bình đẳng;
thì trong quan hệ quản lý hành chính xuất phát từ hoạt động quản lý của cơ quan
nhà nước là hoạt động mang tính quyền lực đơn phương. Mà trong đó, quyết

định hành chính, hành vi hành chính là phương tiện của quản lý hành chính nhà
nước và cũng là đối tượng dễ gây phát sinh tranh chấp, được đưa ra xét xử.
Thứ hai, về chủ thể trong vụ án hành chính
Quan hệ quan giữa hai chủ thể có tranh chấp trong các khiếu kiện hành
chính vốn không ngang bằng nhau khi một bên chủ yếu là công dân, là chủ thể
cũng là đối tượng chịu sự quản lý nhà nước và một bên là cơ quan hành chính
thực thi quyền lực cơng, là chủ thể quản lý hành chính nhà nước. Do mối quan
hệ đặc biệt này, trong tố tụng hành chính khơng có khái niệm “nguyên đơn”, “bị
đơn”, mà là “người khởi kiện” và “người bị kiện”. Khơng những thế, ở nước ta,
Tịa án trên thực tế cũng là đối tượng của hoạt động quản lý hành chính nhà nước
do bộ máy nhà nước được tổ chức theo các cấp địa phương. Chính vì vậy, có thể
nói việc xét xử vụ án hành chính có tính phức tạp, địi hỏi tính độc lập và chun
mơn hóa cao của của Tịa án cũng như trình độ, chuyên môn và bản lĩnh của
thẩm phán. Để làm được điều này hệ thống pháp luật cần được nghiên cứu, hồn
thiện hơn nữa để có thể tăng cường tính độc lập của hệ thống Tòa án.
Thứ ba, thành phần, cơ cấu phiên tòa, thủ tục xét xử vụ án hành chính
khác với phiên tịa hình sự, dân sự.
Nếu như tại

trên thế giới, việc xét xử vụ án hành chính


11

thì ở

. Tuy

nhiên, việc
Thứ tư, về thủ tục đối thoại

Khác với tố tụng dân sự, trong tố tụng hành chính khơng có thủ tục “hịa
giải” mà thay vào đó là thủ tục “đối thoại”. Vì tính chất mệnh lệnh – phục tùng
của hoạt động quản lý hành chính nhà nước và mối quan hệ không tương đồng
giữa các chủ thể, q trình xét xử vụ án hành chính khơng thể hướng tới thoả
thuận hay đồng thuận giữa các bên, do đó khơng thể có thủ tục “hịa giải” –
mang tính ngang bằng về địa vị giữa hai bên tranh chấp. Việc sử dụng từ “đối
thoại” thay vì “hịa giải” cho thấy rõ sự khác biệt về vị thế trong mỗi quan hệ
giữa các bên đương sự.
Thứ năm, việc xét xử vụ án hành chính khơng làm mất hiệu lực của quyết
định hành chính, hành vi hành chính hay bản án hành chính đã có hiệu lực thi
hành trừ trường hợp áp dụng biện pháp khẩn cấp.
của

Thứ sáu, xét xử vụ

c


12

1.2. Những quy định của pháp luật về xét xử vụ án hành chính
1.2.1 Chủ thể tham gia xét xử vụ án hành chính
Q trình xét xử vụ án hành chính có sự tham gia của nhiều đối tượng.
Những người này tham gia vào quan hệ pháp luật tố tụng hành chính với tư cách là
chủ thể của quan hệ pháp luật này. Họ có vị trí tố tụng khác nhau nên quyền và
nghĩa vụ của họ cũng khác nhau theo quy định của pháp luật tốt tụng hành chính.
Căn cứ vào vị trí tố tụng, quyền và nghĩ vụ tố tụng, có thể phân chia chủ
thể của quan hệ xét xử hành chính thành hai nhóm: chủ thể tiến hành tố tụng và
người tham gia tố tụng
1.2.1.1 Chủ thể tiến hành tố tụng

Chủ thể tiến hành tố tụng là chủ thể được pháp luật cho phép trong phạm
vi, thẩm quyền của mình, có tồn quyền áp dụng pháp luật, mà ở đây là pháp luật
tố tụng hình hành chính để thực hiện mục đích tố tụng hành chính là giải quyết
khiếu kiện của công dân, tổ chức, cơ quan đối với quyết định hành chính, hành
vi hành chính của cơ quan nhà nước, công chức. Chủ thể tiến hành tố tụng hành
chính gồm: cơ quan tiến hành tố tụng hành chính và người tiến hành tố tụng
hành chính.
Cơ quan tiến hành tố tụng hành chính, gồm:
- Tịa án nhân dân;
- Viện Kiểm sát nhân dân.
Những người tiến hành tố tụng, gồm:
- Chánh án Tòa án nhân dân, Thẩm phán, Thư ký Tòa án;
- Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân, Kiểm sát viên;
- Kiểm tra viên, Thẩm tra viên;
- Hội thẩm nhân dân tham gia phiên tòa xét xử sơ thẩm (trừ trường hợp
xét xử theo thủ tục rút gọn).
1.2.1.2 Người tham gia tố tụng hành chính
Người tham gia tố tụng là người tham gia vào việc giải quyết vụ án hành


13

chính để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình hay của người khác hoặc hỗ
trợ Tịa án trong việc giải quyết vụ án hành chính. Người tham gia tố tụng có
trách nhiệm thực hiện yêu cầu và phối hợp với các cơ quan tiến hành tố tụng,
người tiến hành tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án hành chính, đặc biệt là
trong q trình xét xử vụ án hành chính.
Những người tham gia tố tụng hành chính gồm:
Đương sự
Xác định các đối tượng là đương sự tham gia q trình xét xử hành chính,

Luật Tố tụng hành chính (2015) quy định: “Đương sự bao gồm người khởi kiện,
người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan”.
Trong đó, người khởi kiện là cơ quan, tổ chức, cá nhân khởi kiện vụ án
hành chính đối với quyết định hành chính, hành vi hành chính; người bị kiện là
cơ quan, tổ chức, cá nhân có quyết định hành chính, hành vi hành chính bị khiếu
kiện lên Tịa án; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là cơ quan, tổ chức, cá
nhân tuy không khởi kiện, không bị kiện, nhưng việc giải quyết vụ án hành chính
có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của họ nên họ tự mình hoặc đương sự khác
đề nghị và được Tịa án chấp nhận hoặc được Tòa án đưa vào tham gia tố tụng
với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.
Đương sự đủ điều kiện tham xét xử án hành chính là người có đầy đủ
năng lực pháp luật và năng lực hành vi tố tụng hành chính hoặc có người đại
diện hợp pháp theo quy định pháp luật.
Một số chủ thể khác phát sinh trong các trường hợp cụ thể như: người
đại diện của đương sự, áp dụng cho các trường hợp đương sự là người chưa
thành niên hoặc có hạn chế về năng lực hành vi; người bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của đương sự, thường là các luật sư; trợ giúp viên pháp lý hoặc người
tham gia trợ giúp pháp lý theo quy định của Luật trợ giúp pháp lý; người làm
chứng là người biết các tình tiết liên quan tới nội dung vụ án được Tòa án triệu
tập tham gia tố tụng; người giám định là người có kiến thức, kinh nghiệm về lĩnh


14

vực cần giám định được các bên đương sự lựa chọn hoặc được Tòa án trưng cầu
để giám định; người phiên dịch, trong trường hợp người tham gia tố tụng không
sử dụng được tiếng Việt.
1.2.2 Đối tượng của xét xử vụ án hành chính
Đối tượng của xét xử vụ án hành chính là các quyết định hành chính, hành
vi hành chính, quyết định kỷ luật buộc thơi việc, quyết định giải quyết khiếu nại

về quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh, danh sách cử trido cơ quan hành chính
nhà nước ban hành bị khiếu kiện theo đúng trình tự, thủ tục luật định.
Có thể hiểu, mục tiêu xét xử vụ án hành chính hướng đến là giải quyết các
tranh chấp trong lĩnh vực hành chính do nội dung của các quyết định hành chính
và hành vi hành chính gây ra. Do đó, khi chủ thể quản lý hành chính nhà nước
ban hành quyết định hành chính hay thực hiện hành vi hành chính mà gây ảnh
hưởng trực tiếp đến quyền và lợi ích hợp pháp của cơng dân, tổ chức, cơ quan thì
họ có quyền đưa quyết định hành chính hay hành vi hành chính đó ra khiếu kiện
tại Tịa án.
Căn cứ Luật Tố tụng hành chính, đối tượng xét xử vụ án hành chính gồm
quyết định hành chính, hành vi hành chính, quyết định kỷ luật buộc thơi việc
được quy định cụ thể như sau:
Quyết định hành chính
Quyết định hành chính bị khiếu kiện là văn bản do cơ quan hành chính nhà
nước, tổ chức, người có thẩm quyền ban hành, quyết định về vấn đề cụ thể trong
hoạt động quản lý hành chính được áp dụng một lần đối với một hoặc một số đối
tượng cụ thể mà quyết định đó làm phát sinh, thay đổi, hạn chế, chấm dứt quyền, lợi
ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân hoặc có nội dung làm phát sinh nghĩa
vụ, ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân. Tuy
nhiên, không phải quyết định hành chính nào cũng có thể trở thành đối tượng khởi
kiện trong tố tụng hành chính. Để trở thành đối tượng xét xử vụ án hành chính,
quyết định hành chính phải thỏa mãn các điều kiện sau:


15

Thứ nhất, về hình thức, quyết định hành chính phải thế hiện bằng văn bản.
Hình thức văn bản của quyết định hành chính bị khởi kiện có thể được thể hiện
dưới hình thức pháp lý hay khơng pháp lý (quyết định, công văn, kết luận, thông
báo...). Theo khoản 1 Điều 1 Nghị quyết số 02/2011/NQ-HĐTP ngày 29/7/2011

của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao về việc hướng dẫn thi hành
một số quy định của Luật Tố tụng hành chính quy định: nếu văn bản có chứa nội
dung "quyết định về một vấn đề cụ thể trong hoạt động quản lý hành chính được
áp dụng một lần đối với một hoặc một số đối tượng cụ thể" thì đều được coi là
quyết định hành chính có thể bị khởi kiện. Quy định như vậy nhằm bảo đảm
quyền khởi kiện, nhất là trong thực tiễn nước ta đang rất phổ biến các quyết định
hành chính ẩn dưới hình thức các loại văn bản khơng mang tính pháp lý như
cơng văn, kết luận, thông báo... Quy định này cũng phù hợp với các quy định
tương ứng của luật tố tụng hành chính ở các nước phát triển.
Thứ hai, về nội dung, quyết định đó phải là quyết định hành chính cá biệt
gây xâm hại đến quyền và lợi ích của người khởi kiện. Nghĩa là quyết định đó
phải có nội dung liên quan đến việc giải quyết một vấn đề cụ thể trong quản lý
hành chính nhà nước và được áp dụng một lần đối với một hoặc một số đối
tượng cụ thể. Đồng thời, quyết định hành chính bị khởi kiện phải làm phát sinh,
thay đổi, hạn chế, chấm dứt quyền, lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá
nhân hoặc có nội dung làm phát sinh nghĩa vụ, ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp
pháp của người khởi kiện. Tuy nhiên, Điều 30 Luật Tố tụng hành chính cũng
quy định các trường hợp loại trừ quyết định khơng phải là đối tượng xét xử vụ án
hành chính, gồm: quyết định hành chính, thuộc phạm vi bí mật nhà nước trong
các lĩnh vực quốc phòng, an ninh, ngoại giao theo quy định của pháp luật; Quyết
định, hành vi của Tòa án trong việc áp dụng biện pháp xử lý hành chính, xử lý
hành vi cản trở hoạt động tố tụng; Quyết định hành chính, hành vi hành chính
mang tính nội bộ của cơ quan, tổ chức. Việc quy định những trường hợp loại trừ
này nhằm mục đích bảo vệ an ninh quốc gia và duy trì trật tự quản lý nội bộ của
các cơ quan nhà nước.


16

Thứ ba, chủ thể ban hành quyết định hành chính cá biệt thuộc đối tượng

xét xử của Tòa án là cơ quan hành chính nhà nước, cơ quan, tổ chức được giao
thực hiện quản lý hành chính nhà nước ban hành hoặc người có thẩm quyền
trong cơ quan, tổ chức đó ban hành. Có nghĩa chủ thể này trước hết và chủ yếu là
các cơ quan và những người có thẩm quyền trong hệ thống cơ quan hành chính
nhà nước từ trung ương đến địa phương. Bên cạnh đó, các cơ quan nhà nước
khác và những người có thẩm quyền trong các cơ quan này cũng thực hiện các
hoạt động quản lý hành chính nhà nước trong những trường hợp nhất định, bao
gồm các cơ quan:Bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Văn phịng
Chủ tịch nước, Văn phịng Quốc hội, Kiểm tốn nhà nước, Tồ án nhân dân tối
cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao và quyết định hành chính của người có thẩm
quyền trong cơ quan; Cơ quan nhà nước cấp tỉnh trở xuống và cán bộ, cơng chức
của các cơ quan nhà nước đó; Cơ quan đại diện ngoại giao của nước Cộng hoà
xã hội chủ nghĩa Việt Nam ở nước ngoài hoặc của người có thẩm quyền trong cơ
quan đó.
Hành vi hành chính
Hành vi hành chính bị khiếu kiện là hành vi của người có thẩm quyền
trong cơ quan hành chính nhà nước hoặc cơ quan, tổ chức được giao thực hiện
quản lý hành chính nhà nước, thực hiện hoặc khơng thực hiện công vụ theo quy
định của pháp luật mà hành vi đó gây ảnh hưởng đến việc thực hiện quyền, lợi
ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân.
Hành vi hành chính được phân thành hai loại là hành vi hành động và
hành vi không hành động. Hành vi hành động được hiểu là hành vi của người
hoặc cơ quan có thẩm quyền khi thực hiện cơng vụ theo quy định của pháp luật.
Hành vi không hành động là hành của người hoặc cơ quan có thẩm quyền khơng
thực hiện công vụ theo quy định của pháp luật.
Hành vi hành chính được coi là đối tượng khởi kiện khi việc hành động
hay không hành động của cơ quan nhà nước, hoặc cá nhân có thẩm quyền gây ra


17


thiệt hại hoặc được cho là gây thiệt hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của cá
nhân, cơ quan, tổ chức.
Quyết định kỷ luật buộc thôi việc
Quyết định kỷ luật buộc thôi việc là văn bản thể hiện dưới hình thức
quyết định của người đứng đầu cơ quan, tổ chức để áp dụng hình thức kỷ luật
buộc thơi việc đối với cơng chức thuộc quyền quản lý của mình.Quyết định kỷ
luật buộc thôi việc thể hiện mối quan hệ trong cơ quan nhà nước đối với công
chức thuộc quyển quản lý. Thực chất quyết định buộc thôi việc là một loại quyết
định hành chính nhưng là quyết định hành chính đặc thù. Vì vậy, nó có thể bị
khiếu kiện và trở thành đối tượng xét xử của Tòa án.
Ở đây cần lưu ý, theo quy định của pháp luật tố tụng hành chính hiện
hành khơng phải tất cả các quyết định kỷ luật buộc thơi việc đều có thể bị khởi
kiện và thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án mà chỉ những quyết định kỷ luật
buộc thôi việc đối với công chức giữ chức vụ Tổng cục trưởng và tương đương
trở xuống nếu bị khiếu kiện thì mới thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án.
Quyết định giải quyết khiếu nại về quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh
Theo quy định của pháp luật cạnh tranh trong trường hợp khơng nhất trí
một phần hoặc tồn bộ nội dung quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh của Hội
đồng xử lý vụ việc cạnh tranh, các bên có quyền khiếu nại lên Hội đồng cạnh
tranh; trường hợp không nhất trí một phần hoặc tồn bộ nội dung quyết định xử
lý vụ việc cạnh tranh của Thủ trưởng cơ quan quản lý cạnh tranh, các bên có
quyền khiếu nại lên Bộ trưởng Bộ Thương mại ( nay là Bộ Công thương). Như
vậy, theo quy định của pháp luật cạnh tranh có hai chủ thể có quyền giải quyết
khiếu nại quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh là Hội đồng cạnh tranh và Bộ
trưởng Bộ Công thương.
Trong trường hợp khơng nhất trí với quyết định giải quyết khiếu nại về
quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh, các bên liên quan có quyền khởi kiện vụ án
hành chính đối với một phần hoặc toàn bộ nội dung của quyết định giải quyết



18

khiếu nại ra Tòa án nhân dân cấp tỉnh. Nếu Tòa án thụ lý đơn khởi kiện quyết
định giải quyết khiếu nại về quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh thì Bộ trưởng
Bộ Cơng thương, Chủ tịch Hội đồng cạnh tranh có trách nhiệm chỉ đạo chuyển
hồ sơ vụ việc cạnh tranh đến Tòa án trong thời hạn mười ngày làm việc, kể từ
ngày nhận được yêu cầu của Tòa án. Trên thực tế, quyết định giải quyết khiếu
nại về quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh cũng là một loại quyết định hành
chính, nên nó có những đặc điểm chung và yêu cầu của một quyết định hành
chính như đã phân tích ở trên để trở thành đối tượng xét xử của Tòa án.
1.2.3. Thẩm quyền xét xử vụ án hành chính tại Tịa án nhân dân cấp tỉnh
Trên thế giới hiện nay tồn tại nhiều mô hình thành lập Tịa hành chính, có
thể nằm trong hoặc tách rời khỏi hệ thống Tòa án. Tuy nhiên tại Việt Nam, tịa
hành chính khơng tổ chức thành hệ thống độc lập mà được mà được tổ chức
thành những tòa chuyên trách về xét xử các tranh chấp hành chính nằm trong
Tòa án(tương tự như tại Trung Quốc, Indonesia …). Việc lựa chọn mơ hình Tịa
hành chính được dựa trên các đặc thù về thể chế chính trị và sự phát triển của
nền kinh tế xã hội, song cũng kết hợp nghiên cứu, học hỏi thành cơng của nhiều
mơ hình Tịa hành chính của các quốc gia trên thế giới.
Theo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật tổ chức Tịa án nhân dân
được Quốc hội thơng qua ngày 26/10/1995, Tịa hành chính chỉthuộc Tịa án
nhân dân cấp cao và Tòa án nhân dân cấp tỉnh; ở Tòa án nhân dân cấp huyện chỉ
có Thẩm phán chuyên trách xét xử vụ án hành chính. Hiện nay, trong cơ cấu Tịa
án nhân dân cấp tỉnh, Tịa hành chính được thành lập là một tòa chuyên trách,
đảm nhận giải quyết, xét xử vụ án hành chính trên địa bàn được giao.
Tịa Hành chính kể từ khi ra đời đã cho thấy vai trò đặc biệt quan trọng
trong việc thiết lập cơ chế bảo vệ quyền khiếu nại, tố cáo của công dân, đảm bảo
công bằng giữa công dân và cơ quan quản lý nhà nước; đồng thời đây cũng là
công cụ giám sát hoạt động quản lý hành chính của các cơ quan nhà nước trong

việc tuân thủ các quy định của pháp luật hiện hành. Tịa Hành chính khơng chỉ là


19

nơi người dân tìm đến yêu cầu bảo vệ quyền lợi của mình, mà đó cịn là nơi phản
ánh tính hiệu quả trong hoạt động quản lý của các cơ quan nhà nước để từ đó,
các cơ quan có thể nhìn ra những thiếu sót, hạn chế trong quy trình vận hành của
mình và tìm cách khắc phục, cải thiện. Đó cũng là cách để hồn thiện, nâng cao
hiệu quả hoạt động của bộ máy nhà nước Việt Nam.
Hiện nay, thẩm quyền của Tịa hành chính thuộc Tịa án nhân dân cấp tỉnh
được quy định chi tiết tại Điều 32, Luật Tố tụng hành chính (2015).
So với quy định của Luật Tố tụng hành chính năm 2010, Điều 32 Luật Tố
tụng hành chính năm 2015 về thẩm quyền giải quyết các vụ án hành chính của
Tịa án nhân dân cấp tỉnh đã có những sửa đổi, bổ sung cơ bản nhằm mở rộng
thẩm quyền, nâng cao tính độc lập, minh bạch trong giải quyết vụ án hành chính
của Tịa án nhân dân cấp tỉnh. Cụ thể, Luật 2015 chính đã sửa đổi, bổ sung thẩm
quyền giải quyết sơ thẩm vụ án hành chính của Tịa án nhân dân cấp tỉnh đối với
quyết định hành chính, hành vi hành chính của Ủy ban nhân dân cấp huyện, Chủ
tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện trên cùng phạm vi địa giới hành chính với Tịa
án. Quy định này có ý nghĩa trong việc thúc đẩy dân chủ, công khai, minh bạch
nền hành chính; tạo điều kiện để thẩm phán thực hiện tốt nguyên tắc xét xử độc
lập và chỉ tuân thủ pháp luật. Việc thay đổi về thẩm quyền giải quyết xuất phát
từ những lý do sau:
-Thực tiễn xét xử các vụ án hành chính cho thấy, đa số các khiếu kiện đối
với quyết định hành chính, hành vi hành chính của Ủy ban nhân dân cấp huyện,
Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện liên quan đến lĩnh vực quản lý nhà nước về
đất đai, có tính chất phức tạp, người bị kiện là người có chức vụ, quyền hạn, nên
thẩm phán cần có kiến thức chuyên sâu, có kinh nghiệm và bản lĩnh thì việc giải
quyết vụ án mới đạt hiệu quả cao.

-Việc giao cho Tòa án nhân dân cấp tỉnh giải quyết khiếu kiện quyết định
hành chính, hành vi hành chính của Ủy ban nhân dân cấp huyện, Chủ tịch Ủy
ban nhân dân cấp huyện sẽ khắc phục được tình trạng e ngại, nể nang của thẩm


20

phán cùng cấp trong việc xét xử; nếu có kháng cáo, kháng nghị thì vấn đề sẽ do
Tịa án nhân dân cấp cao giải quyết theo thủ tục phúc thẩm, giám đốc thẩm, nên
tính khách quan, độc lập và minh bạch trong xét xử của các thẩm phán sẽ được
đảm bảo hơn.
Như vậy, quy định này đã tạo nhiều thuận lợi trong việc đảm bảo tính
nghiêm minh, cơng bằng trong xét xử vụ án hành chính khi chuyển thẩm quyền
xét xử khiếu kiện hành chính của Tịa án nhân dân cấp huyện với chủ thể quản lý
nhà nước ngang cấp vốn dĩ mang nhiều bất cập trong mối quan hệ cấp ủy, chính
quyền địa phương.
Mặt khác, giải quyết khiếu kiện đối với quyết định hành chính, hành vi
hành chính của Ủy ban nhân dân và Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện, đặc
biệt là các quyết định liên quan đến đất đai là loại việc khó và phức tạp, địi hỏi
phải có Thẩm phán chun trách, chun sâu thì việc giải quyết mới hiệu quả.
Trong khi đó Tịa cấp huyện thường hạn chế về đội ngũ thẩm phán chuyên trách
giải quyết các vụ án hành chính. Do đó, Luật tố tụng hành chính (2015) trao
thẩm quyền giải quyết khiếu kiện hành chính đối với Ủy ban nhân dân, Chủ tịch
Ủy ban nhân dân cấp huyện là đúng đắn và hợp lý.
1.3 Vai trò của xét xử vụ án hành chính
Để giải quyết các tranh chấp trong lĩnh vực quản lý hành chính nhà nước,
mặc dù biện pháp giải quyết khiếu nại hành chính được áp dụng từ lâu nhưng
thực tế cho thấy hoạt động này chưa thực sự khách quan, hiệu quả trong việc bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người dân. Vì vậy, chức năng xét xử vụ án
hành chính của tịa án ra đời, cho thấy nhiều ưu điểm hơn trong việc bảo đảm

tính cơng bằng, dân chủ giữa công dân và nhà nước, đồng thời giúp cho hoạt
động quản lý nhà nước, kiểm soát quyền lực nhà nước đạt hiệu quả hơn.
Thứ nhất, xét xử vụ án hành chính là phương thức bảo vệ và đảm bảo các
quyền, lợi ích hợp pháp của cơng dân



×