Tải bản đầy đủ (.docx) (7 trang)

Phân tích truyện ngắn Chữ người tử tù – Nguyễn Tuân

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (53.26 KB, 7 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

CHỮ NGƯỜI TỬ TÙ
(NGUYỄN TUÂN)


Chữ người tử tù là một trong những thiên truyện xuất sắc nhất của Nguyễn Tuân
và tiêu biểu nhất cho tư tưởng cũng như phong cách nghệ thuật của ông trước
Cách mạng tháng Tám 1945.


Tác phẩm ra mắt lần đầu trên tạp chí Tao đàn, số 1 (1938) lấy tên Dịng chữ
cuối cùng, với lời đề từ : ""Ngày xưa có một tử tù viết chữ đại tự rất đẹp" -
Truyện cổ nước Nam".


Năm 1940, tác phẩm được in lại trong tập Vang bóng một thời và đổi tên là Chữ
người tử tù.


1.Nguyễn Tuân là một cây bút có phong cách nghệ thuật rất độc đáo và sâu sắc.
Ông luôn luôn tiếp cận thế giới, tiếp cận sự vật nghiêng về phương diện văn hoá
nghệ thuật, phương diện thẩm mĩ, và tiếp cận con người nghiêng về phương
diện tài hoa nghệ sĩ. Thế giới nhân vật của ông cũng có hai hạng chính diện và
phản diện, nhưng có tiêu chí phân loại riêng (cũng nghiêng vể phương diện
thẩm mĩ) : đấy là những con người, hoặc tạo ra cái đẹp và say mê cái đẹp, hoặc
đối lập với cái đẹp, chà đạp lên cái đẹp. Đặc điểm này thấy rất rõ trong Chữ
người tử tù.


Nhân vật chính diện ớ đây là Huấn Cao, quản ngục và viên thơ lại. Huấn Cao là
một nghệ sĩ tài hoa trong nghệ thuật thư pháp : "Chữ ông Huấn Cao đẹp lắm,
vuông lắm [...] có được chữ ơng Huấn mà treo là có một báu vật trên đời". Quản
ngục và viên thơ lại không tạo ra được cái đẹp, nhưng say mê cái đẹp đến mức
"lo mai mốt đây, ơng Huấn Cao bi hành hình mù khơng kịp xin được mấy chữ,
thì ân hận suốt đời". Còn nhân vật phản diện là tất cả đám nhân sự còn lại của
nhà ngục "sống bằng tàn nhẫn, bằng lừa lọc".



</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

truyện cịn có tác động tới kịch tính của tác phẩm, tạo thêm sức hấp dẫn cho
thiên truyện.


Tình huống truyện của Chữ người tử tù là gì ? Ấy là một tình huống khá éo le :
những nhân vật sau này sẽ là tri âm tri kỉ (ông Huấn Cao, quản ngục và viên thơ
lại) lại bị đặt vào hai vị thế đối (tịch : tử tù và cai ngục.)


Nhưng phải có tình huống này thì tính cách các nhân vật mới bộc lộ rõ.


Khơng có tình huống đó thì làm sao biết được tinh thần hiên ngang, bất khuất
của Huấn Cao. Khi coi viên quản ngục chỉ như mọi tên cai ngục khác, nghĩa là
kẻ đại diện trực tiếp cho chính quyền phi nghĩa, bất lương, ơng đã cố tình tỏ thái
độ khinh bạc : đối lại thái độ mềm mỏng của quản ngục, ông đã ném ra những
lời lẽ rất khó chịu :


" - Ngươi hỏi ta muốn gì ? Ta chỉ muốn có một điều. Là nhà ngươi đừng đặt
chân vào đây".


Khi ném ra câu nói đầy tính chất gây sự ấy, ơng Huấn sẵn sàng "đợi một trận lơi
đình báo thù và những thủ đoạn tàn bạo của quan ngục bị sỉ nhục". Nhưng chính
do thái độ ấy mà quản ngục vốn đã kính nể ơng Huấn, lại càng cảm phục tinh
thần bất khuất của vị thủ lĩnh nghĩa quân : "những người chọc trời quấy nước,
đến trên đầu người ta, người ta cũng cịn chẳng biết có ai nữa, huống chi cái thứ
mình chỉ là một kẻ tiểu lại giữ tù".


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

3.Tình huống truyện nói trên cịn tạo ra cho tác phẩm một mâu thuẫn có tính
kịch khá hấp dẫn, và thiên truyện diễn ra tựa như cách trình bày, khai đoan, đỉnh
điểm, thắt nút, mở nút của một vở kịch vậy.


Căn cứ vào mạch truyện, có thể phân chia tác phẩm làm ba đoạn. Từ đoạn đầu


đến đoạn cuối, tính cách nhân vật ngày càng bộc lộ rõ hơn, sâu hơn, trong khi
mâu thuẫn kịch cũng ngày càng phát triển mạnh để đi đến đỉnh điểm và mở nút.


Mâu thuẫn "kịch" ở đây là gì ? Ấy là sự đối lập giữa niềm khát khao của viên
quản ngục nóng lịng muốn xin được chữ của ông Huấn Cao, với thái độ khinh
bỉ của ông Huấn đối với ngục quan.


1.a) Đoạn một: Quản ngục được lệnh tiếp nhận sáu tử tù, trong đó có Huấn Cao
và tính cách hai nhân vật chính bước đầu được giới thiệu : Huấn Cao chẳng
những "viết chữ rất nhanh rất đẹp" mà "văn võ đều có tài cả". Cịn quản ngục là
một người "biết kính mến khí phách [...] biết trọng người có tài" nhưng bị đày ải
vào "một đống cặn bã" ví như "một thanh âm trong trẻo chen vào giữa một bản
đàn mà nhạc luật đều hỗn loạn xô bồ".


Ở đoạn thứ nhất này, mâu thuẫn "kịch" bắt đầu phát tín hiệu khi quản ngục tỏ ý
sửa soạn tiếp đón Huấn Cao một cách khác thường : Ơng ta lệnh cho viên thơ
lại : "Thầy bảo ngục tốt nó quét dọn lại cái buồng trong cùng. Có việc dùng
đến".


1.b) Đoạn hai : Huấn Cao nhập ngục. Sự biệt đãi của quản ngục đối với ông
Huấn trước sự ngạc nhiên của bọn lính giải tù. Tính cách hiên ngang, bất khuất
của vị thủ lĩnh nghĩa quân bộc lộ đậm nét. Mâu thuẫn "kịch" càng trở nên căng
thẳng khi ơng Huấn cố tình sỉ nhục viên quản ngục. Cịn quản ngục thì vừa khổ
tâm, vừa nóng lịng sốt ruột : "có một ơng Huấn Cao trong tay mình, dưới quyền
mình mà khơng biết làm thế nào mà xin được chữ. Không can đảm giáp lại mặt
một người cách xa y nhiều quá, y chỉ lo mai mốt đây, ơng Huấn bị hành hình mà
khơng kịp xin được mấy chữ, thì ân hận suốt đời".


</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

kịch mở nút và mâu thuẫn triệt tiêu : Huấn Cao hiểu rõ lòng quản ngục và quyết
định cho chữ : "Ta cảm cái tấm lòng biệt nhỡn liên tài của các người. Nào ta có


biết đâu một người như thầy Quản đây mà lại có những sở thích cao quý như
vậy. Thiếu chút nữa, ta đã phụ mất một tấm lòng trong thiên hạ".


Ớ đoạn kết thúc này, tính cách các nhân vật cũng bộc lộ đầy đủ, toàn vẹn. Té ra,
trái tim Huấn Cao không phải chỉ đúc bằng sắt thép. Đúng là con người này,
không vàng ngọc hay quyền thế nào ép được, thậm chí đến "chết chém ơng cịn
chẳng sợ", thế mà hố ra cũng dễ mềm lịng trước những tâm hồn tri kỉ, nghĩa là
cũng như ông, biết quý trọng cái tài, cái đẹp và chất thiên lương của con người.
Ơi, trên đời mà khơng biết q trọng ba cái đó thi là lồi quỷ sứ chứ đâu phải
giống người. Đánh giá vẻ đẹp của Huấn Cao mà chỉ thấy cái phía sắt thép, cái
phía "vơ uý" không biết sợ của ống, là một cách đánh giá phiến diện. Đây là
một nhân cách toàn diện, là con người của một chủ nghĩa nhân văn cao quý.


Nhân vật quản ngục cũng vậy - rất xứng đáng là tri âm tri kỉ của Huấn Cao :
dám biệt đãi một thủ lĩnh phiến loạn, thì quả là cũng không thiếu chất thép ;
nhưng đồng thời lại sẵn sàng cúi đầu vái lạy Huấn Cao, có nghĩa là biết kính
trọng cái tài, cái đẹp và chất thiên lương cao đẹp ở người tử tù : Sau khi cúi đầu
lắng nghe mấy lời khuyên răn của người tù "Ngục quan cảm động, vái người tù
một vái, chắp tay nói một câu mà dịng nước mắt rỉ vào kẽ miệng làm cho nghẹn
ngào : "Kẻ mê muội này xin bái lĩnh"".


Đúng là có những cái cúi đầu làm cho con người trở nên hèn hạ, có những cái
vái lạy làm cho con người đê tiện. Nhưng cũng có những cái cúi đầu làm cho
con người bỗng trở nên cao cả hơn, lớn lao hơn, lãm liệt hơn, sang trọng hơn.
Đấy là cái cúi đầu trước cái tài, cúi đẹp, cái thiên lương.


Chính Cao Chu Thần, nguyên mẫu của nhân vật Huấn Cao trong Chữ người tử
tù từng có một câu thơ thật đẹp, thật sang :


Nhất sinh đê thủ bải mai hoa.



</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

Cái cúi đầu của thầy quản ngục vái lạy Huấn Cao chính là cái cúi đầu của Cao
Bá Quát trước hoa mai vậy.


4.Chữ người tử tù kết thúc bằng một bức tranh đầy ấn tượng. Người ta thường
đặt cho Nguyễn Tuân danh hiệu : "Người đi tìm cái đẹp". Nhưng thế nào là
đẹp ? Đối với Nguyễn Tuân, cái đẹp phải là những gì đập mạnh vào giác quan
nghệ sĩ. Bức tranh kết thúc Chữ người tử tù quả là đã gây được ấn tượng mãnh
liệt đúng như yêu cầu thẩm mĩ của Nguyễn Tuân. Thủ pháp đối lập được nhà
văn khai thác triệt để đã tạo ra ấn tượng đó : đối lập giữa ánh sáng và bóng tối,
đối lập giữa cái đẹp và sự nhơ bẩn, nhem nhuốc, đối lập giữa thiên lương và tội
ác.


Ba con người ở vị trí đối địch được cái đẹp của nghệ thuật tập hợp lại, tạo nên
một cảnh tượng thật cảm động : "Trong một khơng khí khói toả như đám cháy
nhà, ánh sáng đỏ rực của một bó đuốc tẩm dầu rọi lên ba cái đầu người đang
chăm chú trên một tấm lụa bạch còn nguyên vẹn lần hồ".


Tác giả gọi đây là "một cảnh tượng xưa nay chưa từng có". Đúng là một cảnh
tượng hết sức kì lạ ở một trại tù, trong đó mọi trật tự thông thường đều bị đảo
ngược : nơi ngục thất tăm tối bỗng rực rỡ lửa hồng, chốn trại giam bẩn thỉu
"tường đầy mạng nhện, đất bừa bãi phân chuột, phân gián' bỗng trở thành nơi
sáng tạo nghệ thuật; lạ hơn nữa là nhà tù lại là nơi tù nhân làm chủ : một tử tù,
tư thế hiên ngang lồng lộng, đường hồng dõng dạc răn dạy ngục quan. Cịn
ngục quan thì cúi đầu khúm núm : "Kẻ mê muội này xin bái lĩnh",...


Đây là cảnh tượng thể hiện sâu sắc tư tưởng của tác phẩm : ca ngợi ánh sáng
chiến thắng bóng tối, cái đẹp chiến thắng sự thô bỉ, thiên lương chiến thắng tội
ác.



</div>
<span class='text_page_counter'>(6)</span><div class='page_container' data-page=6>

đường hoàng ca ngợi Huấn Cao mà ai cũng biết nguyên mẫu là Cao Bá Quát,
một thủ lĩnh nơng dân nổi loạn chống lại triều đình.


5.Chữ người tử tù rút từ tập truyện Vang bóng một thời, ra đời trước Cách mạng
tháng Tám 1945. Hồi ấy, ông quan niệm cái đẹp, sự tài hoa chỉ có thể có ở thời
xưa, nay cịn vương sót lại ở một số ít người ơng gọi là "sinh lầm thế kỉ". Ông
cho rằng, thời hiện đại là thời của văn minh vật chất, văn minh cơ khí, làm cho
đầu óc con người trở nên máy móc, thời của đồng tiền phàm tục, vì thế cái đẹp
khơng thể tồn tại được. Ơng phải tìm về q khứ, cố gắng dựng lại vẻ đẹp của
cảnh cũ, người xưa. Mọi sự vật ông đều gọi bằng cái tên của thời ấy. Mọi nhân
vật đều được ông mô tả theo tính cách, tâm lí, theo tập quán, cách ăn nói của
người xưa. Ồng cố dựng lại cả cái khơng khí trầm lặng, n tĩnh và cái nhịp
sống từ tốn khoan thai của con người thời ấy,...


Ông đã làm được như vậy nhờ am hiểu sâu sắc xã hội, văn hoá và con người
thời ấy ; và quan trọng hơn nữa, nhờ yêu mến thật sự những điều mình thuật kể,
khiến cho mỗi nét vẽ, mỗi câu văn đều có linh hồn ơng gửi lại.


Nhưng cần chú ý điều này : tất cả từ cảnh vật, con người đến nhịp sống nói trên,
sở dĩ Nguyễn Tuân "phục chế" được thành cơng chính là nhờ ơng đã sử dụng
thành thạo kĩ thuật của văn chương hiện đại. Đó là cách thuật kể gắn liền với
bút pháp tả thực ; đó là con mắt quan sát tinh tường, kết hợp với óc phân tích
sắc sảo,...


"Tiếng trống thành phủ gần đấy đã bắt đầu thu không. Trên bốn chòi canh, ngục
tốt cũng bắt đầu điểm vào cái quạnh quẽ của trời tối mịt, những tiếng kiểng và
mõ đều đặn thưa thớt. Lướt qua cái thăm thẳm của nội cỏ đẫm sương, vẳng từ
một làng xa đưa lại mấy tiếng chó sủa ma. Trong khung cửa sổ có nhiều con
song kẻ những nét đen thẳng lên nền trời lốm đốm tinh tú, một ngôi sao Hơm
nhấp nháy như muốn trụt xuống phía chân giời không định".



</div>
<span class='text_page_counter'>(7)</span><div class='page_container' data-page=7>

"Huấn Cao, lạnh lùng, chúc mũi gơng nặng, khom mình thúc mạnh đầu thang
gơng xuống thềm đá tảng đánh uỳnh một cái. Then ngang chiếc gông bị giật
mạnh, đập vào cổ năm người sau, làm họ nhăn mặt. Một trận mưa rệp đã làm
nền đá xanh nhạt lấm tấm những điểm nâu đen".


</div>

<!--links-->

×