Tải bản đầy đủ (.doc) (147 trang)

Luan van ThS ve DanLorca

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (602.38 KB, 147 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

<b>MỞ ĐẦU</b>



<b>1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI</b>


Vào thập niên tám mươi, khúc ghi ta mang tựa đề ấn tượng “Nếu tôi
<i>chết hãy chôn tôi với cây đàn ghi ta ” với những ca từ như đốt cháy hồn</i>
người bằng chính ngọn lửa cuộc đời của một “di sản” xứ sở Flamenco –
FEDERICO GARCIA LORCA – do Thanh Tùng sáng tác, dường như là
một thông điệp nhân sinh lý tưởng cho một thế hệ người Việt trẻ… Cịn với
tơi, số phận của “con chim họa mi xứ Andalucia” và cây đàn ghi ta huyền
diệu, thực sự trở thành một niềm cảm mến khi đọc “Thơ Federico Garcia
Lorca” do Hoàng Hưng chuyển ngữ... Đọc “Memento”, tôi mới hiểu
<i>“Cuando yo muera enterradme con mi guitarra” – “Bao giờ tôi chết, hãy</i>
<i>chôn tôi cùng cây đàn ghi ta”, là khát vọng cống hiến cháy bỏng cho nghệ</i>
thuật, cho cuộc đời của một Con Người Thơ – niềm tự hào vĩnh cửu của đất
nước Tây Ban Nha xinh đẹp, vốn đã rất tuyệt vời với vũ điệu Flamenco
nồng cháy và những trận đấu bị tót rực lửa của những chàng hiệp sĩ áo
choàng đỏ màu kiêu hãnh.


Đối với Thanh Thảo, “Đàn ghi ta của Lor-ca” bắt đầu từ những ám
ảnh… Từ những bản dịch của Hoàng Hưng, Lor-ca đã sống trong vô thức
của Thanh Thảo gần mười năm, để rồi được viết ra trong một khoảnh khắc
thăng hoa của xúc cảm, mùa hè năm 1979… Và đến năm 1985, bài thơ được
xuất hiện lần đầu tiên trong tập thơ “Khối vng Rubíc”


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

đại chúng… Nhưng có thể tìm được vấn đề chung nhất như sau: “Đàn ghi
<i>ta của Lor-ca” là một tác phẩm văn học mới, được (bị) đánh giá là một</i>
<i>trong những văn bản “hai khó”: KHĨ HỌC và KHĨ DẠY. Dẫu vậy, những</i>
câu thơ đẫm chất suy tưởng và siêu thực, ngập tràn phức điệu của hình ảnh
và âm nhạc trong bài thơ vẫn cuốn hút, ám ảnh người đọc một cách lạ
thường… Điều đó khẳng định giữa XÃ HỘI – VĂN HỌC – NHÀ


TRƯỜNG luôn tồn tại mối quan hệ sâu sắc và cũng đồng nghĩa với việc đổi
mới, sáng tạo và lựa chọn phương pháp để nâng cao chất lượng Dạy – Học
môn Văn trong nhà trường THPT luôn là một trọng trách cao cả đối với mỗi
GV bộ môn Ngữ Văn. Bản thân tôi, khi trực tiếp giảng dạy tiết 40 – Đọc
văn: “Đàn ghi ta của Lor-ca” tại hai lớp 12A12 và 12A13 – Trường THPT
Ngô Quyền – HP, năm 2008-2009, cũng là năm học đầu tiên bài thơ này
được chính thức đưa vào chương trình Ngữ Văn 12 – THPT, tơi đã vấp phải
“một chướng ngại vật” thực sự trong quá trình soạn giảng “Đàn ghi ta của
<b>Lor-ca” của Thanh Thảo. Hơn nữa, trong thời gian học tập và nghiên cứu</b>
tại khóa đào tạo Thạc sĩ Lý luận và Phương pháp dạy học Văn – K17 –
Trường Đại học Sư phạm Hà Nội, tơi cũng khơng tìm thấy một đề tài nào
nghiên cứu trực tiếp về vấn đề tiếp cận bài thơ “Đàn ghi ta của Lor-ca” của
nhà thơ Thanh Thảo… Tôi biết mình đã định hướng được đề tài để thực hiện
luận văn tốt nghiệp.


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

<b>2. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ</b>


Thanh Thảo đã tâm sự: “Đàn ghi ta của Lor-ca” là khoảnh khắc
được bắt đầu từ những ám ảnh, rồi được viết rất nhanh trong một ngày của
năm 1979 tại trại sáng tác Quân khu 5 – Đà Nẵng, và được xuất hiện lần đầu
tiên trong tập thơ “Khối vng Rubíc” của ơng in năm 1985… Đến năm
2008-2009, khi được chọn vào chương trình SGK mơn Ngữ Văn lớp 12, bài
thơ đã trở thành một sự kiện xôn xao dư luận. Trong khoảng thời gian gần
hai mươi năm, “Đàn ghi ta của Lor-ca” cũng mang một lịch sử của riêng
nó, tuy chưa có bề dày nhưng khá phong phú và đa dạng…


<b>2.1. Những lời cảm nhận và phẩm bình</b>


Trước hết, chúng tơi đề cập đến bài phỏng vấn “Trò chuyện với tác giả
<i>bài thơ “Đàn ghi ta của Lor-ca” của Nguyễn Trọng Hồn trong Tạp chí Văn</i>


học và Tuổi trẻ - số 3/2009. Ngoài việc cung cấp cụ thể hoàn cảnh ra đời của
bài thơ, Thanh Thảo cịn chia sẻ:“Tơi viết bài thơ trong trạng thái khơng nghĩ
<i>ngợi gì, một trạng thái mà vơ thức chiếm lĩnh tôi trọn vẹn… Bài thơ của tôi</i>
<i>chỉ là một gợi ý nhỏ, một chút “men” gây cảm hứng nào đó… Tơi muốn mọi</i>
<i>người tiếp nhận nó như một bài thơ. Những gì bài thơ muốn nói, nó đã nói</i>
<i>bằng ngơn ngữ, bằng nhịp điệu, bằng nhạc tính trong tồn bộ bài thơ. Có thể</i>
<i>thấy phần nào số phận Lor -ca, số phận của thơ ông qua bài thơ ấy ”</i>


Trong bài “Đàn ghi ta của Lor-ca và nỗ lực đổi mới thơ của Thanh
<i>Thảo” – Thẩm bình tác phẩm Ngữ Văn 12- NXB Giáo dục/2008, tác giả</i>
Nguyễn Văn Bính nhận xét: Đây là bài thơ giàu nhạc tính và nhạc tính được
tạo nên bởi thể thơ, cấu trúc trùng điệp, âm hưởng tiếng đàn… Bên cạnh đó,
đặc sắc của bài thơ cịn là sự sáng tạo hình ảnh, những hình ảnh tượng trưng
gợi nhiều suy tưởng. Bài thơ “Đàn ghi ta của Lor-ca” nằm trong mạch cảm
xúc của nhà thơ Thanh Thảo về cuộc đời và số phận ngang trái của những
con người sống có nhân cách và nghĩa khí…


</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

được tác giả Nguyễn Thị Minh Duyên khẳng định: Thanh Thảo đã ghi được
“dấu chân” của mình trên “trảng cỏ” nghệ thuật, dấu chân ấy in hình những
tìm tịi, đổi mới về tư duy và hình thức diễn đạt của bài thơ và cho rằng bài
thơ là sự gặp gỡ đồng điệu giữa những tấm lòng tri kỉ….


<i>“Một tìm tịi thú vị của Thanh Thảo” in trong tập “Thơ – điệu hồn và</i>
cấu trúc” – NXB Giáo dục/2006 cũng là một phát hiện đầy hấp dẫn của nhà
nghiên cứu Văn học – TS.Chu Văn Sơn về bài thơ “Đàn ghi ta của
<b>Lor-ca”. Tác giả khám phá: Thanh Thảo “vay mượn” khơng ít vốn liếng âm</b>
nhạc để đầu tư cho thơ mình. Mạch triển khai của thi phẩm tuân theo cấu
trúc của một ca khúc, nhập cấu trúc ca khúc vào cốt tự sự để chúng đồng thể
với nhau. Bài thơ là sự “đồng bệnh tương lân” của Thanh Thảo với
F.G.Lor-ca và là thành quả đặc sắc về cách tân nghệ thuật thơ của Thanh Thảo.



<b>2.2. Những hướng khai thác </b>


Trên Tạp chí Văn học và Tuổi trẻ - Số 6/2009, tác giả Lê Thị Tú Anh
đã khai thác “Lời đề từ trong Đàn ghi ta của Lor-ca” trên góc độ tình u
q hương xứ sở và lời đề từ là khát vọng cách tân nghệ thuật, cũng như sự
hy sinh chân chính của người nghệ sĩ hết mình vì nghệ thuật – F.G.Lorca.
Bài viết ngợi ca nhân cách cao đẹp của người nghệ sĩ Tây Ban Nha như một
hiện thân của khát vọng tự do và cách tân nghệ thuật.


</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

Bài viết của TS. Phan Huy Dũng ở chuyên mục Văn học và Nhà
trường trên Tạp chí Nghiên cứu Văn học số 12/2008 có tiêu đề “Đàn ghi ta
<i>của Lor-ca của Thanh Thảo dưới góc nhìn liên văn bản”, đề cập đến lý</i>
thuyết “liên văn bản” mặc định của mỗi TPVC. Tác giả cho rằng: mỗi văn
bản cụ thể đều có rất nhiều văn bản khác làm nền cho nó, muốn giải mã được
văn bản chính thức khơng thể khơng tìm đến những văn bản đó dựa trên sự
chỉ dẫn của các từ ngữ, hình ảnh, câu thơ trong TPVC. Muốn giải mã bài thơ
<b>“Đàn ghi ta của Lor-ca” một cách chính xác, cần phải vận dụng lý thuyết</b>
“liên văn bản”


</div>
<span class='text_page_counter'>(6)</span><div class='page_container' data-page=6>

Lê Thị Hường trong Bộ sách Chuyên đề dạy - học Ngữ Văn 12 của NXB Giáo
<i>dục/2008; và gần đây nhất là của TS. Nguyễn Ái Học trong cuốn Phương pháp</i>
<i>tư duy hệ thống trong dạy - học Văn – NXB Giáo dục Việt Nam/2010… Và một</i>
hệ thống giáo án đăng tải trên các trang web: ,
http:// www.giaoandientu.com... Tuy nhiên, đối chiếu với những gợi ý và
thiết kế bài giảng đã liệt kê, hướng khai thác bài thơ “Đàn ghi ta của
<b>Lor-ca” mà chúng tôi nghiên cứu vẫn là một con đường để ngỏ.</b>


<b>2.3. Những cơng trình nghiên cứu liên quan</b>



Theo thống kê của chúng tôi, một số Luận văn Thạc sỹ Khoa học Giáo
dục thuộc Khoa Ngữ Văn - Trường ĐHSP Hà Nội cũng đã chọn đối tượng
nghiên cứu là “Thơ và Trường ca của Thanh Thảo” như: “Những đóng góp của
<i>thơ trẻ thời kỳ chống Mỹ cứu nước”- Hoàng Kim Ngọc/1997; “Trường ca của</i>
<i>những nhà thơ trẻ thời kỳ chống Mỹ”- Đào Thị Bình/1999; “Một số trường ca</i>
<i>tiêu biểu về cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước”- Nguyễn Thị Thu</i>
Hương/2002; “Trường ca của Thanh Thảo”- Trần Thị Thu Hường/2002; “Tìm
<i>hiểu quan niệm nghệ thuật của Thanh Thảo”- Đặng Thị Hương Lý/2006… Tuy</i>
nhiên, vì bắt đầu được đưa vào giảng dạy trong chương trình Ngữ văn 12 từ năm
học 2008-2009, nên vấn đề: Hướng tiếp cận tác bài thơ <b>“Đàn ghi ta của </b>
<b>Lor-ca” của Thanh Thảo, vẫn chưa được sử dụng là một đề tài nghiên cứu cụ thể. </b>


Vì vậy, đề tài chúng tơi chọn nghiên cứu là một khát khao kiếm tìm
và khám phá cách giải mã thành công một bài thơ được (bị) coi là “chướng
ngại vật” trong chương trình cải cách SGK Ngữ văn 12 – “Đàn ghi ta của
<b>Lor-ca” của Thanh Thảo, cũng như định hướng một lối đi trên hành trình</b>
tìm đường hướng dẫn học sinh tiếp nhận những tác phẩm “có vấn đề” khác
trong chương trình Ngữ Văn – THPT.


<b>3. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(7)</span><div class='page_container' data-page=7>

- Chỉ ra được những đổi mới đặc trưng về nghệ thuật của Thanh Thảo
trong bài thơ “Đàn ghi ta của Lor-ca”


- Đề xuất một hướng dạy – học bài thơ “Đàn ghi ta của Lor-ca” của
Thanh Thảo ở trường THPT hiệu quả trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực tiễn.
<b>4. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU</b>


- Đặc trưng nghệ thuật thơ Thanh Thảo (những sáng tác sau 1975) và
bài thơ “Đàn ghi ta của Lor-ca”



- Học sinh lớp 12 THPT


+ Trường THPT Chu Văn An – Huyện Văn Chấn – Tỉnh Yên Bái
+ Trường THPT Nguyễn Đức Cảnh – TP. Thái Bình – Tỉnh Thái Bình
+ Trường THPT Ngơ Quyền – Quận Lê Chân – Thành phố Hải Phòng
<b>5. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU</b>


- Phương pháp nghiên cứu lý luận – thực tiễn
- Phương pháp phân tích – tổng hợp


- Phương pháp khảo sát – thực nghiệm
<b>6. ĐÓNG GÓP CỦA LUẬN VĂN</b>


- Đề xuất một hướng dạy – học hiệu quả bài thơ “Đàn ghi ta của
<b>Lor-ca” của Thanh Thảo</b>


- Tạo tiền đề cho việc phát triển đề tài nghiên cứu về lý luận và
phương pháp dạy học những tác phẩm thơ văn trong chương trình Ngữ Văn
– THPT chịu ảnh hưởng trực tiếp từ quan niệm mĩ học của chủ nghĩa tượng
trưng – siêu thực.


<b>7. CẤU TRÚC LUẬN VĂN</b>


Ngoài phần Mục lục – Mở đầu – Kết luận – Thư mục – Phụ lục, nội
dung của luận văn được chia làm 3 chương:


<b>Chương 1: Đặc trưng nghệ thuật thơ Thanh Thảo và bài thơ “Đàn ghi </b>
<b> ta của Lor-ca”</b>



</div>
<span class='text_page_counter'>(8)</span><div class='page_container' data-page=8>

<b>Chương 3: Thực nghiệm sư phạm</b>


<b>NỘI DUNG</b>


<i><b>CHƯƠNG I</b></i>


<b>ĐẶC TRƯNG NGHỆ THUẬT THƠ THANH THẢO</b>
<b>VÀ BÀI THƠ “ĐÀN GHI TA CỦA LOR-CA”</b>
<b> </b>


<b>1. NGƯỜI LÀM THƠ – THANH THẢO </b>
<b>1.1. Thanh Thảo – Một cuộc đời thơ</b>


<i><b>1.1.1. “… Chúng tôi đã đi khơng tiếc đời mình</b></i>


<i><b> (Nhưng tuổi hai mươi làm sao không tiếc)</b></i>


<i><b> Nhưng ai cũng tiếc tuổi hai mươi thì cịn chi Tổ quốc</b></i>
Cỏ sắc mà ấm quá, phải không em..?”


</div>
<span class='text_page_counter'>(9)</span><div class='page_container' data-page=9>

Thanh Thảo là “người làm nghề có ý thức về nghề” và như một lẽ tất
yếu, Thanh Thảo nghĩ về thơ, khát khao kiếm tìm bản chất của nghệ thuật
thơ ca. “Cách Thanh Thảo làm thơ cũng không khác cách Nguyễn Tuân làm
<i>cho tùy bút trước đây, Nguyễn Đình Thi làm chi thơ ca và kịch, Nguyễn Huy</i>
<i>Thiệp làm cho truyện ngắn” (48;257). Thanh Thảo hiểu rõ làm thơ là chạm</i>
đến thế giới tâm hồn – một tiểu vũ trụ mênh mơng, bí ẩn “và tơi tin mãi mãi
<i><b>con người là bí mật, mãi mãi chúng ta khơng đi hết bản thân mình</b></i><b>” (Gửi</b>
I.U. Bônđarep). Với Thanh Thảo, thơ ca không chỉ là sự sáng tạo mà nó đã
trở thành một nỗi niềm day dứt, trăn trở và ám ảnh suốt cuộc đời…


Sau lần lỗi hẹn với bạn đọc bởi một “bài thơ rất hay nhưng mà xót xa


<i>quá” – Chế Lan Viên/1972, năm 1974 Thanh Thảo đã được nhắc đến trên</i>
thi đàn với tập thơ “Dấu chân qua trảng cỏ” và đặc biệt là sau tập trường
ca “Những người đi tới biển”- 1977 và “Những ngọn sóng mặt
trời”-1981, vị trí của Thanh Thảo trong VHVN đã được xác lập. Tập thơ “Khối
<b>vng rubíc” là bước chuyển biến quan trọng trong sự nghiệp sáng tác của</b>
Thanh Thảo, anh đã tìm được lối ra cho những cơn xuất hứng, dù ngắn ngủi
nhất. Trên con đường mới, sáng tác của Thanh Thảo tiếp tục nở rộ với
những tập thơ và trường ca như: “Đêm trên cát”, “Từ một đến trăm”,
<b>“Bạch đàn gửi bạch dương”, “Tàu sắp vào ga”, “Trò chuyện với nhân</b>
<b>vật của mình”, “Cỏ vẫn mọc”… Ngồi ra, Thanh Thảo cịn là một cây bút</b>
sắc sảo với một số tập tiểu luận phê bình như: “Ngón thứ sáu của bàn tay”,
<b>“Mãi mãi là bí mật”, “Trị chuyện với dịng sơng”…</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(10)</span><div class='page_container' data-page=10>

Về mặt thẩm mỹ, Thanh Thảo tìm đến cái đẹp “thô sơ và hực sáng”
trong vô vàn vẻ đẹp khác vốn có của cuộc sống này. “Thơ sơ” trước hết là
vẻ đẹp tiềm ẩn trong những gì giản dị nhất, mộc mạc nhất và đời thường
nhất. Có khi đó chỉ là “tiếng gà bất chợt” vang lên “bên bờ kinh hoang
<i><b>tàn” để khẳng định sự sống, là “ánh sáng bí ẩn” của “búp xà lách” xanh</b></i>
non như một sự khởi đầu, là “hoa nhài tinh khiết, thơm một cách tự tin”
giữa chợ đời xơ bồ, là “tiếng khóc tiếng cười tan rất mau” của trẻ thơ để lại
cho cuộc đời những dư vị nguyên sơ, thuần phác và trong trẻo. Cái đẹp thô sơ
là cái đẹp từ bản chất, không giả dối và chân thành. Phẩm chất thứ hai trong
quan niệm thẩm mỹ của Thanh Thảo đó chính là sự “hực sáng” – vẻ đẹp của
ánh sáng có sức nóng, bất ngờ, bùng nổ và quyết liệt. Có thể coi đó là khoảnh
khắc huy hồng nhưng có sức soi chiếu và lan tỏa khôn cùng. “Thô sơ và
<i><b>hực sáng” vừa tương phản vừa bao hàm, hòa hợp như vẻ đẹp của hoa cúc</b></i>
đã được tôn vinh trong thơ Thanh Thảo: “đầy dáng vẻ tầm thường đến
<i><b>tuyệt vời tinh tế/ kiêu hãnh vì đạm bạc”. Bên cạnh đó, cái đẹp trong thơ</b></i>
Thanh Thảo cịn “lấp lánh chất người”, đó là một vẻ đẹp sáng và thẳng:



<i><b>“Trải qua rét buốt lửa nồng</b></i>
<i><b>Gia tài cịn lại tấm lịng ấy thơi</b></i>
<i><b>Những người mọc thẳng giữa đời</b></i>


<i><b>Như rừng dương chắn ngang trời cát bay”</b></i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(11)</span><div class='page_container' data-page=11>

mà âm vang. Nó đánh thức cảm xúc, khơi gợi suy nghĩ của người đọc, mở ra
đa tầng suy nghĩa của cuộc sống… Nó là <i><b>“những vệt bùn làm vinh hạnh</b></i>
<i><b>cho thơ”.</b></i>


Thanh Thảo quan niệm bản chất của thơ “mãi mãi là bí mật”. Có thể
ta “mãi mãi dị tìm” nhưng “mãi mãi khơng thể nào chạm đáy”. Anh
khẳng định thơ là sự đối lập căng thẳng giữa tâm hồn và khơng – có – tâm
hồn: “Có những tâm hồn cao cả. Có những tâm hồn dằn vặt. Có những tâm
<i>hồn vị tha. Có những tâm hồn đớn đau. Nhưng dứt khốt khơng có thơ cho</i>
<i>những kẻ khơng có tâm hồn”. Nhưng tâm hồn thơ phải mang bản chất chân</i>
thành. Đó là sự thành thực của cảm xúc thơ:


<i><b>“Tơi sẵn sàng gặp gió, gặp bão, gặp em</b></i>
<i><b>Riêng sự hững hờ là tôi không chờ gặp” </b></i>


(Trăm mảnh gỗ vng – Thanh Thảo)
Đó là cái thành thực lặng lẽ “Ta như cọng bàng vươn lên chầm
<i><b>chậm/ Như hoa móng bị làm dịu mát đường đi”. Thậm chí “anh có thể</b></i>
<i>dối em, nhưng thơ khơng thể dối” – Sanparp. Đó cịn là tính chất vơ tư lợi</i>
của thơ: “sinh ra từ lao động, thơ là kẻ thù của lười nhác. Sống thật thà vô
<i>tư, thơ không sao chịu nổi thói giả dối và vụ lợi” (Trị chuyện với nhân vật</i>
<b>của mình – Thanh Thảo). Thơ cịn sống bởi những điều giản dị, kì lạ của</b>
cảm xúc và sự khám phá bản chất chiều sâu của sự vật hiện tượng. Đối với
Thanh Thảo, điều đó là cả một khát vọng trong thơ:



“Bạn ơi tôi làm sao tới được


<i><b> Những khoảng rừng nguyên sinh trong tâm hồn bạn</b></i>
<i><b> Nơi cành lá um tùm dây leo chằng chịt</b></i>


<i><b>Lớp lớp rễ ngầm ứa những giọt nước đầu tiên” </b></i>
(Thơ bốn câu – Thanh Thảo)


</div>
<span class='text_page_counter'>(12)</span><div class='page_container' data-page=12>

hiện một cái nhìn vừa khách quan, vừa trân trọng, vừa tự hào về bản chất,
chức năng và vai trị của thơ để từ đó, thơ là người giữ ngọn lửa niềm tin để
Thanh Thảo và những người làm thơ tiếp tục sáng tạo và cống hiến.


Về yếu tố thứ ba trong quan niệm nghệ thuật của Thanh Thảo đó là
hình thức thơ. Khơng có hình thức thì cũng chẳng bao giờ có nghệ thuật.
Cách nhìn, cách cảm về thế giới và con người cần có một hình thức tương
ứng để biểu hiện. Thanh Thảo đã đưa ra nhiều quan niệm nghệ thuật mới về
thẩm mĩ và bản chất thơ… nhưng cách tân mạnh mẽ nhất của thơ Thanh
Thảo là trên phương diện hình thức. Anh quan niệm: “Rubíc – đó là cấu
<i><b>trúc thơ” bởi “Tơi xoay những ơ vng. Những sắc màu chưa đồng nhất.</b></i>
<i><b>Rubíc là trò chơi kỳ lạ. Chúng ta phải vất vả bao nhiêu để sắp xếp những</b></i>
<i><b>ý nghĩ. Có hàng tỷ cách sắp xếp”. Phải chăng thơ cũng là một trò chơi đầy</b></i>
bí ẩn mà mỗi lần thay đổi, diện mạo thơ lại xuất hiện đầy bất ngờ ? Nhưng
điều quan trọng là thơ phải có một trục quay vơ hình, đó là điểm tựa để thơ
khởi phát và sinh tồn. Vì vậy, cấu trúc, quan niệm về ngơn ngữ, hình ảnh,
nhịp điệu, thể loại thơ mang đậm cá tính của một cái đầu tỉnh táo và trái tim
lửa cháy, đã làm nên một gương mặt thơ Thanh Thảo không thể trộn lẫn.


Cách phát biểu quan niệm nghệ thuật của Thanh Thảo khá đa dạng,
nhưng chủ yếu tập trung và tự giác qua ba dạng chính. Thứ nhất, thơng qua


những sáng tác, Thanh Thảo dùng thơ như là phương tiện, như là đối tượng
suy cảm để phát biểu quan niệm nghệ thuật của mình. “Những tráng ca
<i><b>thuở trước / Cịn hát trong sách thôi / Những thanh gươm yên ngựa / Giờ</b></i>
<i><b>đã cũ mèm rồi / Bài ca của chúng tơi / Là bài ca ống cóng…” (Bài ca ống</b></i>
<b>cóng – Thanh Thảo)</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(13)</span><div class='page_container' data-page=13>

xuất hiện theo cấp số cộng trong sáng tác của anh. Nhưng nàng thơ đỏng
đảnh, chẳng chịu ở yên để nhà thơ hoàn thiện bức chân dung, nên Thanh
Thảo vẫn mải miết tìm kiếm gương mặt đích thực của thi ca. Thứ hai, Thanh
Thảo phát biểu trực tiếp quan niệm nghệ thuật trong những bài báo, những
tập tiểu luận bàn về thơ và trả lời người đọc… Dù có thể chỉ bàn tới một hay
vài khía cạnh của thơ ca nhưng tất cả đều thể hiện những suy nghĩ nghiêm
túc, khao khát tìm kiếm và khái quát về thơ ca của Thanh Thảo. Thứ ba, bàn
về thơ người khác cũng là cách Thanh Thảo lựa chọn để bộc lộ quan niệm
thơ của mình. Anh đọc, nghĩ và viết về thơ và những nhà thơ trong quá khứ
- hiện tại và tương lai… Nhưng dù viết về đối tượng nào thì Thanh Thảo vẫn
tiếp cận bằng con mắt kiếm tìm đau đáu “như thỏi nam châm hút tìm những
<i>mạt quý kim của bạn hữu đồng nghiệp”. Hơn thế nữa, bàn về thơ người</i>
khác là để bộc lộ quan niệm thơ của mình bởi “viết về bạn cũng là viết về
<i>mình, viết về những khát khao và được mất của mình”. </i>


Thơ Thanh Thảo ẩn sau sự cộng hưởng của những sắc nhọn, những
đùa chơi, những mềm mại, là một năng lượng thơ hay nói đúng hơn là một
ám ảnh thơ của cả một cuộc đời, mà cho đến bây giờ anh vẫn ln khao khát
đi tìm…


<b>1.2. Thanh Thảo – Một con đường thơ mới sau 1975</b>


“Thơ hay là chết”? “Chết” trong tâm hồn hay “sống” để được chết
cho thơ? Đối với Thanh Thảo, khơng có một sự lựa chọn nào khác. Nếu


Federico Garcia Lorca từng nói: “Khi tôi chết, hãy chôn tôi với cây đàn ghi
<i>ta”, thì người ngưỡng mộ ơng – nhà thơ Thanh Thảo – cũng sẵn sàng “tử vì</i>
đạo”, hiến dâng cuộc đời một cách vơ điều kiện cho cuộc hành trình theo
đuổi những ám ảnh day dứt về nghệ thuật thi ca.


</div>
<span class='text_page_counter'>(14)</span><div class='page_container' data-page=14>

<i>“Thơ vẫn là cái gì mờ mờ ảo ảo, vẫn là cái gì ta vừa bắt được đó lại tuột</i>
<i>đâu mất. Thơ vẫn là hình bóng, đơi khi là bóng của bóng nữa” – Thanh</i>
Thảo. Và dù có tới được hay khơng, thì Thanh Thảo vẫn ln chọn cho mình
vị trí tiên phong với tinh thần táo bạo của một bản lĩnh dám dấn thân. <i>“Số</i>
<i>phận của một nhà thơ cách tân là luôn phải ở vạch xuất phát. Và luôn phải</i>
<i>biết quên”- Thanh Thảo. Bắt đầu với “Dấu chân qua trảng cỏ”, “Những</i>
<b>người đi tới biển”, và “Những ngọn sóng mặt trời”… Thanh Thảo đã trở</b>
thành một tiếng thơ mới mẻ, ấn tượng trong thơ ca cách mạng Việt Nam.
Nhưng vì, “ngồi xa, cịn xa nữa” – Tvardopxki, Thanh Thảo đã khơng
dừng lại. Anh là một hiện tượng đặc biệt, vì sau những bước đi ban đầu của
mình, Thanh Thảo vẫn khơng ngừng theo đuổi những dự định sáng tạo mới.
Anh sẵn sàng quên đi những gì đã đạt được để trở về điểm xuất phát đầu
tiên, để khám phá “những nẻo mới, những bụi gai mới, những cạm bẫy
<i>mới”, “tự nguyện chìm vào cuộc chiến tranh buồn dai dẳng” và chấp nhận</i>
những rủi ro, thua thiệt… Vì điều gì? Nếu khơng phải vì Thơ?


Sáng tạo và đổi mới là sứ mệnh cay đắng và vinh quang của những
người nghệ sĩ chân chính, trong đó có Thanh Thảo. Đối với anh, dấn thân
trên con đường sáng tạo không chỉ là ý thức trách nhiệm, là bản lĩnh mà còn
là niềm đam mê không thể lý giải. Nhà thơ đổi mới là nhà thơ đang lầm lũi,
tự đày ải mình trên “con đường người không khôn ngoan gập ghềnh lầy
<i>thụt/ Sao anh không đi con đường đã dọn sạch/ Hành hạ thân mình như thế</i>
<i>để làm chi?” (Từ một đến trăm – Thanh Thảo). Tuy nhiên, không thể dừng</i>
bước quay lại, vì khơng thể đành lịng là một kẻ ngủ qn…



<i><b>“Bãi cát, bãi cát dài</b></i>


<i><b>dù phía trước chân trời mù mịt</b></i>
<i><b>dù bước chân dẫn về cõi chết</b></i>
<i><b>không thể không đi” </b></i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(15)</span><div class='page_container' data-page=15>

Có những lúc dường như Thanh Thảo cũng cảm thấy thất bại, đã hồi
cơng vơ ích, đau xót và bất lực:


<i><b>“Con chim quyên lỡ vận</b></i>
<i><b> lang thang trên mặt đất</b></i>
<i><b>tiếng kêu sao nghẹn ngào</b></i>


<i><b> ta đã phí hồi q nhiều sức lực</b></i>


<i><b>gót chân mịn những bước khơng đâu” </b></i>


(Đêm trên cát – Thanh Thảo)
Và cái giá phải trả cho đổi mới thật đắt. Đó khơng chỉ là đau khổ, là
hiểm nguy như “trước mõm chó, trước vó ngựa” mà cịn có thể cịn là cái
chết “tóc bạc trắng chờ lưỡi dao – chưa – biết – bao – giờ – đến”… Nhưng
Thanh Thảo vẫn “ném thơ của mình vào thác xiết”, sẵn sàng trả bất cứ giá
nào để nhích lên dù chỉ một bước trên còn đường sáng tạo và tự hào vì được
là người mở đường “dù phải húc đầu vào đá, để mở cửa”, là “những con
<i><b>còng khơng hối tiếc, đã mở những con đường bí mật giữa mênh mơng”.</b></i>
Thanh Thảo có đủ niềm tin vào con đường mình đã chọn, vì như nhạc sĩ tài
hoa Văn Cao đã nói: “Người ta yêu những người cố mở đường mà thất bại,
<i>yêu những người biết thất bại mà dám mở đường. Bởi vì những người đó đã</i>
<i>nghĩ đến sự tiến bộ của nghệ thuật”.</i>



Làm nghề, yêu nghề, trọng nghề, khát vọng với nghề và dám hy sinh
vì nghề, Thanh Thảo đã tự nguyện dấn thân, tự nguyện đốt cháy mình để
“sống” và “chết” cho thơ. Nếu khơng có những người khao khát được xuyên
phá, sẵn sàng là cảm tử qn vì nghệ thuật, làm sao chúng ta có thể tiến lên?
<b>2. ĐẶC TRƯNG NGHỆ THUẬT THƠ THANH THẢO</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(16)</span><div class='page_container' data-page=16>

Khởi nguyên của thơ là cảm xúc (sensibilité) (5;985), đó là mạch
ngầm xun suốt q trình sáng tạo của thơ ca. Đối với thơ hiện đại, sự vận
động của mạch cảm xúc cũng chính là quá trình tạo lập nên hình thức nghệ
thuật. Làm thơ như thế nào, khơng một điều gì có thể khẳng định ngồi
mạch cảm xúc của người làm thơ, bởi đó cũng là hơi thở, là nhựa sống của
thi nhân. Đọc thơ hiện đại, ta có thể cảm nhận được dịng nội cảm cuồng
say, dạt dào tuôn chảy trong tâm hồn nhà thơ, khơng hề có sự “hàm súc” và
“cơ đọng” như thơ cổ điển. Thơ hiện đại là mạch cảm xúc của tâm hồn đã
giải phóng khỏi mọi quy phạm, giáo huấn, rất đỗi thành thực, bộc lộ chính
mình mà khơng cần bất cứ một ước lệ nào, để tự khẳng định chất Người của
mình và sự tự do tâm hồn của mình. Khơng nằm ngồi phương thức trữ tình
nên thơ hiện đại lấy điểm tựa ở sự bộc lộ thế giới nội cảm của nhà thơ ở
trước cuộc đời. Những suy nghĩ có ý nghĩa khái quát triết học, những nhận
thức mang màu sắc đạo lý, những tình cảm xã hội sâu sắc, những cảm giác
với nhiều sắc thái cảm nhận và rung động tinh vi đều thuộc về cuộc sống
bên trong của nhà thơ và là đối tượng biểu hiện của thơ. Dấu hiệu của thơ
hiện đại dễ nhận biết với cấu trúc không đều đặn, về cơ bản khơng theo vần
luật, khơng có một quy định nào trong ngắt nhịp, tách câu… Nhưng tất cả
những cái không đều đặn ấy đều tùy theo cái hơi thở nóng hổi, cái sức mạnh
của cảm xúc tâm linh sâu thẳm trong thơ quyết định chỗ này có vần – chỗ
kia khơng vần, tất cả những cái xô lệch, cái vênh, cái nhấp nhô đầy dụng ý
ấy tập trung thành một cấu trúc nhất quán, một nhạc điệu tâm hồn tùy theo
tâm trạng của nhà thơ.



Tất cả ưu thế vốn có trong mạch xúc cảm của thơ hiện đại đã được
Thanh Thảo chiếm lĩnh và đóng dấu ấn riêng trong các tập thơ và trường ca
của mình. Những sáng tác của Thanh Thảo như lưu trữ một dòng xúc cảm
mãnh liệt, lúc nào cũng chờ đợi cơ hội để được ào ạt tuôn chảy…


</div>
<span class='text_page_counter'>(17)</span><div class='page_container' data-page=17>

<i><b>Hơn những giấc mơ kỳ diệu nhất</b></i>
<i><b>Nếu lúc nào tơi ở ngồi Tổ quốc</b></i>
<i><b>Đó là điều bất hạnh của đời tôi</b></i>
<i><b>Này đây bạc vàng</b></i>


<i><b>Này đây nhà cửa</b></i>


<i><b>Này đây lon gạo cuối cùng cho bầy con bụng đói</b></i>
<i><b>Và máu- những nợ nần - những nỗi đau</b></i>


<i><b>Và khoảng sáng hồn tôi chân thực..”</b></i>


(Bùng nổ của mùa xuân – Thanh Thảo)
Thanh Thảo quan niệm rằng: quá trình sáng tác nghệ thuật là sự thăng
hoa, bùng nổ của cá nhân – “như khoảng tối trong tay người hoạ sĩ, được
<i>nén chặt để nổ bùng ngọn lửa”. Đó là một khoảnh khắc khơng bao giờ lặp</i>
lại với chính bản thân nhà thơ. Không chỉ hay đề cập đến những cái đẹp
khoảnh khắc, Thanh Thảo cịn ln canh cánh những “khoảnh khắc” trong
sáng tạo thơ ca, và cho rằng đó chính là cội nguồn cho xúc cảm trào dâng,
để thi nhân có được những phút giây hạnh phúc nhất vì những gì vốn mang
nghẹt trong đáy linh hồn mình đã được giải toả… Những trường ca của
Thanh Thảo là minh chứng cho sự giải phóng những ấn tượng, những cảm
xúc… mà nhà thơ tích tụ bằng chính những trải nghiệm của đời mình…


<i><b>“… Ta thích hoa phượng</b></i>


<i><b>Cháy tận cùng ngọn lửa</b></i>


<i><b>Dù phải thiêu đốt cả mùa hạ…</b></i>


<i><b>…Ai cắn răng qua cầu mùa đông</b></i>
<i><b>Cầm cố áo bơng đổi vài đấu cám</b></i>
<i><b>Chợt ấm lịng nghĩ tới người thân</b></i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(18)</span><div class='page_container' data-page=18>

<i><b>Cảm sao nổi phút ấm lòng kỳ lạ ấy…”</b></i>


(Đêm trên cát – Thanh Thảo)


Như khát vọng được sống hết mình rồi hóa thân, mạch cảm xúc trong
thơ Thanh Thảo dữ dội và lai láng, tiềm ẩn một sức chảy ngầm của qng
cuối dịng sơng. Mỗi yếu tố cảm xúc đều muốn được khai thác nhanh chóng
đến tận cùng và đồng loạt nhằm đẩy nhanh tứ thơ đến những hình tượng
giàu chất suy nghĩ và một vẻ đẹp riêng:


<i><b>“Mười tám hai mươi sắc như cỏ</b></i>
<i><b>Dày như cỏ</b></i>


Yếu mềm và mãnh liệt như cỏ”


(Những người đi tới biển – Thanh Thảo )
Có thể nói đó là mạch cảm xúc mang kết cấu trùng phức bởi tất cả
những biểu hiện từ nội dung đến hình thức, từ hình ảnh đến cú pháp, từ âm
vận đến nhịp điệu trong mỗi tâm trạng sâu kín và dữ dội của hồn thơ. Với
cái mạch ngầm xúc cảm mãnh liệt này, thơ Thanh Thảo ngỡ như khơng có
gì để giấu lại trở thành “mãi mãi là bí mật”.



<i><b>2.1.2. Cấu trúc thơ lạ lẫm</b></i>


“Cấu trúc (structure) là phương thức tác động và quy định nhau của
<i>các yếu tố (thành phần) của chỉnh thể”. Cấu trúc của TPVH bao gồm nhiều</i>
cấp độ: ngơn từ, hình tượng, kết cấu, cấu tứ… Tìm hiểu cấu trúc tác phẩm,
người đọc có thể nắm được những vấn đề cốt lõi, mang tính quy luật của tác
phẩm cũng như kiểu sáng tác của nhà thơ, nhà văn đó.


</div>
<span class='text_page_counter'>(19)</span><div class='page_container' data-page=19>

xếp những khối vng nhỏ, đa sắc thành từng mảng màu thống nhất trên sáu
mặt của hình khối do người chơi điều khiển bằng những vịng xoay tự do,
ngẫu nhiên hoặc có tính tốn quanh một trục cố định. Thanh Thảo đã tìm ra
nét tương đồng giữa “cấu trúc rubíc” và “cấu trúc thơ” đó là: những vòng
xoay quanh một trục cố định; bởi anh vốn quan niệm rằng: thơ phải lặn sâu
vào cái dòng chảy thực luôn chuyển động theo khoảnh khắc, đầy bất định
với những liên tưởng bất chợt không theo một lôgic nào của đời sống tinh
thần con người, nhưng khơng có nghĩa là phân tán và vơ nghĩa; vì những ý
tưởng có vẻ bất chợt, ít trật tự, càng cách xa ấy không hề hỗn loạn, mà đã
được liên kết bởi những sợi dây xâu chuỗi khó nhận biết và đầy bí mật.
Dường như những chất liệu của thơ cũng giống như những khối vng nhỏ
đa sắc của rubíc - “chuyển động tự do” quanh một “trục cố định bí ẩn” và
làm thơ cũng giống trị chơi rubíc – ngỡ như ngẫu nhiên mà lại là sự “sáng
tạo có ý thức”. Hành động mà sự cố ý ẩn sâu trong tiềm thức, đã đẩy những
màu sắc ngẫu nhiên nổi lên như rubíc xoay quanh cái trục bí mật của nó,
giống “những con chữ rải rác, những hình ảnh rải rác mà người đọc rất
<i>khó tìm sự kết hợp chặt chẽ của lý trí, nhưng tồn thể chúng bao giờ cũng</i>
<i>hướng tới một cái gì, cũng khắc khoải một điều gì: Đó là cái Đẹp!”.</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(20)</span><div class='page_container' data-page=20>

<i><b>khơng ai bán: màu và mùi”… Rồi mỗi mảnh gỗ trong “Trăm mảnh gỗ</b></i>
<b>vuông” cũng là một dòng suy tưởng riêng của Thanh Thảo về nhiều vấn đề</b>
khác nhau…



Cấu trúc thơ rubíc cịn dẫn đến sự hồ trộn các phạm vi thời gian và
khơng gian, giữa thực và ảo… “Chiều thứ tư của Rubíc: thời gian trong
<i><b>tiềm thức. Những cố gắng định vị các phần tử đang chuyển động hỗn</b></i>
<i><b>loạn, cố gắng giải nghĩa chúng. Những giấc mơ đầy màu sắc biến ảo.</b></i>
<i><b>Quá khứ, hiện tại, tương lai cùng nổi lên trên một bề mặt. Lúc đó thời</b></i>
<i><b>gian như khơng tồn tại nữa” (59;12). Đó là sự xáo trộn giữa thời gian quá</b></i>
khứ với hiện tại và tương lai, đúng hơn là những khoảnh khắc đồng hiện và
chuyển động như những ơ vng rubíc. Tuy nhiên, xáo trộn nhưng vẫn
thống nhất, tản mạn mà khơng phân tán, vì đó là sự hỗn loạn có trật tự của
một mạch liên kết ngầm, một cái lõi tư tưởng được tác giả che dấu đi như
trục quay bí ẩn của rubíc. Dù được độc giả đón nhận như những dòng liên
tưởng tự do, miên man nhưng những tập thơ, trường ca, thơ bốn câu, thơ
tám câu, xonne và những tập tiểu luận phê bình của Thanh Thảo vẫn xoay
quanh một trục tư tưởng xuyên suốt cõi thơ ơng, đó là: Sự sống – Nhân tính
và Nghệ thuật.


Cấu trúc thơ rubíc mang sự giản lược và sự gợi mở tối đa của hình
thức thơ. Thơ khơng tác động trực tiếp đến người đọc bằng cảm xúc mà gián
tiếp thông qua sự dẫn dắt của liên tưởng. Nhà thơ tổ chức TPVC theo mạch
liên tưởng tự do, và người đọc cảm nhận bằng chính sự trải nghiệm của cá
nhân mình. Khơng khn khổ, khơng giới hạn, thơ vào tận đáy sâu tâm hồn,
đánh thức kho ấn tượng vô tận, khám phá nguồn cảm xúc vô hạn của người
đọc… Và tạo nên sức sống cho chính mình.


</div>
<span class='text_page_counter'>(21)</span><div class='page_container' data-page=21>

<b>Giuộc”, “Bùng nổ của mùa xuân”… Bắt nguồn từ lôgic liên tưởng của các</b>
trường ca sáng tác sau 1975, nhưng cấu trúc thơ Thanh Thảo lạ lẫm và đột
phá bởi dòng liên tưởng tự do hơn, bất định hơn với mạch liên kết bí ẩn hơn.
Sự đổi mới cấu trúc thơ mang tính đặc trưng này đã xác lập vị trí một nhà thơ
tiên phong trên bước đường sáng tạo và phát triển của VHVN – Thanh Thảo.


<i><b>2.1.3. Hình ảnh thơ ấn tượng</b></i>


Trong văn học, hình ảnh (image) (5;983) là thủ pháp miêu tả dưới
nhiều hình thức. Với thơ, hình ảnh là yếu tố rường cột, bởi thế giới hình ảnh
thơ là tấm gương phản ánh trung thực tâm hồn của thi nhân. Quan niệm về
hình ảnh và tổ chức hình ảnh trong thơ Thanh Thảo vừa thống nhất vừa biến
đổi, nhưng có một lơgic tạo nên sức ám ảnh và gợi tả của hình ảnh và âm
thanh. Thanh Thảo đã kiến tạo cõi thơ của riêng mình bằng những hình ảnh
bình thường giản dị mà ấn tượng có sức gợi mở những vấn đề bản thể của sự
tồn tại, gợi mở chiều sâu của tâm hồn:


<i><b>“Buổi sáng trở bấc</b></i>


<i><b>chim yến biển xanh núi mờ xa các thứ</b></i>
<i><b>sáo lắm rồi!</b></i>


<i><b>Chỉ còn các em</b></i>


<i><b>quần đùi áo rách mặt mày đen nhẻm</b></i>
<i><b>cười sáng bãi cát”</b></i>


(Bến cá – Thanh Thảo)


</div>
<span class='text_page_counter'>(22)</span><div class='page_container' data-page=22>

Lửa và Nước trong thơ Thanh Thảo chứa đựng nhiều đối cực: mềm
mại và dữ dội, sự sống và huỷ diệt… nhưng lại là mối quan hệ tương sinh,
chuyển hoá “mặt trời lặn sâu trong nước để bùng lên đám lửa dữ dằn<i>”…</i>
Lửa là biểu tượng của những yếu tố thử thách con người, để qua sự tôi luyện
<i>“chất người” ngời lên sáng chói…“Bài ca và ngọn lửa / Tơi đi giữa bàn</i>
<i><b>tay hơi thở bạn đường / Khơng phải bó đuốc một trái tim riêng lẻ / Dắt ta</b></i>
<i><b>qua rừng đêm / Những đớn đau mơ ước hy sinh / Không của riêng một</b></i>


<i><b>trái tim nào nữa / Bài ca và ngọn lửa / Tôi đi trong ánh sáng mọi người”</b></i>
(Những người đi tới biển – Thanh Thảo). Có thể nói, khơng chỉ cịn là một
hình ảnh, một hình tượng nghệ thuật thông thường, Lửa đã trở thành biểu
tượng tập trung nhất cho vẻ đẹp “sáng rực và nóng ấm” trong cõi thơ Thanh
Thảo. Sóng đơi với Lửa là Nước - biểu tượng của vẻ đẹp tươi mát, sáng
trong. Có lúc, nước dịu dàng. Có khi, nước cuồng nộ… Hơn hết, nước là cội
nguồn, là sức mạnh của nhân dân...


<i><b>“Những con sóng cuộn lên bờ đời sống</b></i>
<i><b>Chói chang mặt trời</b></i>


<i><b>Ta sẽ có những bài hát khác</b></i>
<i><b>Xin nhớ lại</b></i>


<i><b>Giai điệu đầu tiên</b></i>
<i><b>Lối mòn</b></i>


<i><b>Những chồi non</b></i>
<i><b>Hoa</b></i>


<i><b>Hơi thở</b></i>


<i><b>Những bàn tay</b></i>
<i><b>Tia sáng dò đường</b></i>


<i><b>Tiếng huýt sáo dội vào vách núi</b></i>


<i><b>Chợt mỉm cười khoảnh khắc thấy trời xanh”</b></i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(23)</span><div class='page_container' data-page=23>

Nếu Lửa và Nước tạo nên hình tượng lớn lao là dáng hình của đất


nước, như ngọn lửa ven bờ Thái Bình Dương để mọi con tàu tâm hồn Việt
tìm được hướng về, thì Đất và Cỏ là biểu tượng của những điều thơ mộc,
bình dị và thầm lặng nhất…“Những tên tuổi thật thà như đất / Như cây cỏ
<i><b>trong làng dàng dịt lấy nhau”. Ý nghĩa của Đất và Cỏ suy cho cùng là biểu</b></i>
tượng của sự sống bất diệt với nhiều góc độ khác nhau. Tuy khơng nổi bật
như Lửa và Nước, nhưng có lẽ, Đất và Cỏ là biểu tượng có sức ám ảnh dài
lâu nhất trong thơ Thanh Thảo: “đất qua tôi những gương mặt khác
<i><b>nhau/những luống cày ngây dại/...” ( Đất qua tôi-Thanh Thảo)</b></i>


Tương đồng về bản chất, đó là biểu tượng Chất Gạo – Chất Người mà
Thanh Thảo đã sử dụng để khẳng định sự bền vững của bản chất Con Người
dẫu trải qua bao thử thách.


“Những hạt gạo trên sàng
<i><b>Sàng qua lửa qua bom</b></i>


<i><b>Qua đắng cay cịn ngun chất gạo”</b></i>


Gạo mộc mạc, bình dị…đồng hành cùng dân tộc Việt từ thuở khai
sinh với lịch sử hào hùng của nền văn minh lúa nước; giữa đen trắng chợ
đời, “gạo có gương mặt hiền, đố thấy một mảy may ác ý”( Đặng Đình
<b>Hưng)… Phải chăng vì thế, Thanh Thảo đã chọn “Chất Gạo” để biểu hiện</b>
quan niệm về “Chất Người” – nghĩa khí và lịng tốt – trong những sáng tác
của mình?


Hình ảnh biểu tượng trong thơ Thanh Thảo khơng chỉ là một hệ thống
nhiều cấp độ và được tổ chức theo ngun tắc trùng điệp, mà cịn là những
hình ảnh bất chợt, những hình ảnh được xây dựng bởi ấn tượng của nhiều
giác quan…



<i><b>“Thân cây dừa mọc rêu</b></i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(24)</span><div class='page_container' data-page=24>

<i><b>lá tre bắt đầu rơi</b></i>


<i><b>chồi măng mập mạp lớn phồng</b></i>
<i><b>mưa tí tách</b></i>


<i><b>hạt mưa mắt cá mở to</b></i>
<i><b>thuỷ tinh trong nước</b></i>


<i><b>những cây keo xanh trần truồng</b></i>
<i><b>những quả táo rụng mùi thơm chua</b></i>
<i><b>biến mất sau tiếng reo bầy trẻ</b></i>


<i><b>…</b></i>


<i><b>Chim chốc mào kêu sốt ruột</b></i>


<i><b>những trái ổi khơng thể chín nhanh hơn</b></i>
<i><b>dù đã cố hết sức…”</b></i>


Bài thơ là một chuỗi hình ảnh tiếp nối ngẫu nhiên, được đón nhận
bằng tất cả giác quan dù khơng thấy bóng dáng của ý tứ hay cảm xúc của tác
giả… Và ẩn trong đó là một thơng điệp chân thành và nhân bản của hồ
bình: hãy để vạn vật được sống đời tự nhiên vốn có, để đôi mắt con trẻ cảm
nhận được “những hạt ngọc tuổi thơ lấp lánh qua đám bụi”.


Hình ảnh là một phương diện quan trọng của thơ, bởi nó khơng chỉ
biểu đạt chân thực, sinh động những sự vật hiện tượng trong đời sống, mà
còn hé mở những rung cảm nội tâm của cái tơi trữ tình. Là nhà thơ ln


khao khát tìm đường đổi mới nghệ thuật, Thanh Thảo đã sáng tạo một kiểu
tư duy hình ảnh ấn tượng, độc đáo, giàu sức gợi mở và tránh được sự sáo
mòn, cầu kỳ khơng cần thiết trong thế giới thơ mình.


<i><b>2.1.4. Ngơn ngữ thơ cá tính</b></i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(25)</span><div class='page_container' data-page=25>

<i>văn với ngơn ngữ là quan hệ đắm say” (5;475) và “ Thơ trước hết và cuối</i>
<i>cùng là cuộc hành trình trọn vẹn của ngôn từ. Đối với người Hy Lạp, thi sĩ</i>
<i>là người tạo tác ngôn từ”. Với Thanh Thảo, ngôn ngữ là lĩnh vực để nhà thơ</i>
có thể tự do sáng tạo vì thế những đổi mới trong ngơn ngữ thơ là vơ tận…
Tuy nhiên, thơ khơng phải là một trị chơi đơn giản mà nó thực sự là một
<i>“cuộc chiến đấu đến tuyệt vọng của nhà thơ để chống lại sự sáo mịn của</i>
<i>ngơn ngữ trong thơ mình”. Ý thức đó đã khiến Thanh Thảo có những câu</i>
thơ nghe qua như thật bình thường, nhưng khi đọc lại, ta thấy có từ ngữ
“khơng bình thường” tạo sức sống cho thơ…


<i><b>“Chúng tôi không mệt đâu</b></i>
<i><b>Nhưng cỏ sắc và ấm quá</b></i>


<i><b>Tuổi hai mươi thằng em tôi sững sờ”</b></i>


(Những ngưịi đi tới biển – Thanh Thảo)
Ngơn ngữ thơ Thanh Thảo tự nhiên và tối giản. Chữ trong thơ như vơ
ý, tình cờ vừa nhặt được ở đâu đó… Anh cho rằng, sức sống của ngơn ngữ
thơ bắt đầu từ sự tự nhiên và đơn giản của nó, nhưng không phải là sự ngẫu
nhiên, tuỳ tiện… Quan niệm về ngôn ngữ thơ này xuyên suốt cuộc đời thơ
Thanh Thảo. Trước năm 1985, ngơn ngữ giàu tính khẩu ngữ, gần với văn
xi, mang hơi thở nóng hổi của cuộc sống…đã làm nên chất thơ giản dị mà
giàu chất nghĩ, một sức sáng riêng của thơ Thanh Thảo.



<i><b>“Những thằng con trai 18 tuổi</b></i>
<i><b>Nhiều khi cực q khóc ồ</b></i>


<i><b>Nhiều lúc tức mình chửi bâng quơ</b></i>
<i><b>Phanh ngực áo và mở trần bản chất”</b></i>


(Những người đi tới biển – Thanh Thảo)


</div>
<span class='text_page_counter'>(26)</span><div class='page_container' data-page=26>

<b>trời – Thanh Thảo). Không chỉ vậy, Thanh Thảo đã đề xuất những hướng</b>
đổi mới, hiện đại hố – ngơn ngữ thơ trên nền tảng sẵn có… Song hành
cùng ngơn ngữ thơ tự nhiên, thô mộc, là ngôn ngữ gián cách chứa đựng
nhiều khoảng trống tạo nên những không gian rỗng trong thơ…


<i><b>“Tôi hay nghĩ điều chưa thành</b></i>


<i><b>Những sắc màu lạ thoáng nhanh trong đầu</b></i>
<i><b>Tôi hay xâu chuỗi vào nhau</b></i>


<i><b>Những chữ rời rạc như xâu hạt cườm</b></i>
<i><b>Có khi dùng sợi chỉ thường</b></i>


<i><b>Có khi là một chuỗi cườm không dây”</b></i>


(Chuỗi cườm – Thanh Thảo)


Đặc biệt trong những sáng tác gần đây, Thanh Thảo hay tổ chức câu
thơ theo từng đoạn, chuỗi ngôn từ, lược bỏ cách dùng dấu câu thơng
thường… Đó cũng là cái nhìn nghệ thuật táo bạo và mới lạ của nhà thơ vốn
“dị ứng” vơ cùng với những gì cũ mịn, khơng cá tính – Thanh Thảo.



<i><b>1.1.5. Nhịp thơ đa sắc điệu</b></i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(27)</span><div class='page_container' data-page=27>

nhịp điệu của cảm xúc. Thế Lữ cũng đã từng mượn hình ảnh của “cây đàn
mn điệu” để nói về những rung động xúc cảm trước cuộc đời của nhà
thơ… Cây đàn xúc cảm ấy ngân lên nốt nhạc nào, hợp thành bài ca nào thì
sẽ có nhịp điệu riêng như thế, bởi mỗi nhà thơ “<i>có một thứ nhạc cụ riêng</i>
<i>với những vang hưởng riêng và tâm trạng riêng khơng giống với những</i>
<i>người khác”</i>


<i><b>“Có viên đá óng ánh bảy màu </b></i>
<i><b>Ai tìm thấy đời sẽ nhiều hạnh phúc</b></i>
<i><b>Vẫn khơng bằng sự thật</b></i>


<i><b>…</b></i>


<i><b>Có lồi ngựa q phi nhanh hơn tên bay </b></i>
<i><b>Ai cưỡi nó sẽ thành người chinh phục</b></i>
Vẫn khơng bằng sự thật”


(Những ngọn sóng mặt trời
– Thanh Thảo)


Nhịp điệu trong thơ đã giúp Thanh Thảo khẳng định sự thật – là giá
trị lớn nhất hơn mọi hương vị trên đời, hơn cả hạnh phúc, địa vị và sự sống.
Thanh Thảo cho rằng: không chỉ là “nhịp điệu riêng”, trong thơ cịn có “nhịp
điệu ngầm”. Bởi “nhịp điệu thơ nó xuất phát đâu từ trong máu, nó vọt trào
<i>ra đâu từ một cái giếng ngầm nào đó ở bên trong nhà thơ. Nó băng đi hay</i>
<i>ngắt quãng, dồn nén hay bùng cháy cũng từ một bộ điều khiển nào đó trong</i>
<i>thân thể nhà thơ, nhiều khi có vẻ như tự động, như vô ý”. Thơ Thanh Thảo</i>
không thiên về việc tạo lập nhịp điệu của ngôn ngữ, mà mạnh về nhịp điệu


của tâm hồn, nhịp điệu của hình ảnh. Vì vậy, nhịp điệu trong những sáng tác
của Thanh Thảo biến hoá với những sắc thái phong phú… Có khi là nhịp
thổn thức của những tình cảm sâu lắng, tha thiết…


<i><b>“Anh nhớ em</b></i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(28)</span><div class='page_container' data-page=28>

<i><b>…</b></i>


<i><b>Anh nhớ </b></i>


<i><b>Anh nhớ gì hơm nay</b></i>


<i><b>cả những điều nhỏ nhoi bình lặng nhất”</b></i>


(Những người đi tới biển – Thanh Thảo)
Có khi là nhịp trầm lặng của những suy tư…


Có khi là nhịp đồng dao để nói về những truyền thống đã ngấm vào
máu thịt mỗi người một cách tự nhiên… Có khi là nhịp gấp gáp, cuồn cuộn
của sóng dồn, lửa cháy, của những mùa xuân bùng nổ…Tất cả đã tạo nên
nhịp điệu sống động và biến hoá đa sắc thái của thơ Thanh Thảo… Bên cạnh
đó, Thanh Thảo cịn cho rằng nhịp điệu trong thơ hiện đại là nhịp gãy
(break-rhythm), bởi thường có những “nghịch âm”, những “quãng nghịch”,
những “cú ngắt”, những “nhịp hẫng”…bất chợt. Trong quan niệm của
Thanh Thảo, sự du dương của thơ Mới hay nhịp hẫng - nhịp gãy của thơ
hiện đại đều không thể thiếu trong thơ… Và thế nào cũng được, miễn là phải
xuất phát từ tâm hồn, làm phong phú thêm cho đời sống tinh thần của con
người… Đừng lệ cổ, cũng đừng phủi sạch những gì mới bắt đầu… Có lẽ, đó
khơng chỉ là một thơng điệp dành riêng cho nghệ thuật của Thanh Thảo?
<b>2.2. Chủ nghĩa Tượng trưng – Siêu thực và thơ Thanh Thảo</b>



</div>
<span class='text_page_counter'>(29)</span><div class='page_container' data-page=29>

xướng một thuật làm thơ mới: dùng câu tự do, xố bỏ dần sự phân biệt giữa
câu thơ có vần và văn xi có nhịp điệu…


Thơ tượng trưng thể hiện sự hiểu biết về siêu tự nhiên (cái đẹp hay ý
tưởng) qua những hưng phấn nghệ thuật của quá trình sáng tác; được coi là
khúc ca của tâm hồn với những chủ đề về sự nuối tiếc quá khứ, về quê
hương xứ sở, về nỗi sầu vương vấn cuối thế kỷ, về sự suy đồi…và đôi khi là
sự hài hước buồn… Nhà thơ tượng trưng là người hiểu các biểu tượng, thể
hiện thế giới của những bản thể như: Mallarmee - người có ý đồ tạo ra một
thế giớí được xây dựng bằng những từ ngữ theo xu hướng hình thức chủ
nghĩa ; Rimbaud – người có “thiên nhãn”, có những cảm nhận hỗn độn,
không theo quy luật để đạt tới một cách nhìn nhận về một thế giới mới, và
có những hình dung trước về chủ nghĩa siêu thực. Hình tượng trong thơ
tượng trưng mang tính chất đa nghĩa, bất định vì nó ghi lại cảm xúc của con
người trong sự tồn tại của “khu vực bí ẩn” hay của “những cái vơ hình và
<i>những thế lực định mệnh”. Tượng trưng được quan niệm như là hình tượng</i>
có khả năng, không chỉ biểu đạt những từ tương hợp của các khách thể và
hiện tượng, mà trước hết có khả năng truyền đạt “nội dung thể nghiệm của ý
<i>thức”, do vậy ở tác phẩm của những người theo trường phái này, biểu tượng</i>
vật thể thực được đan bện chặt với thủ pháp gây ấn tượng. “Lối sáng tác
<i>của chủ nghĩa tượng trưng - với lối liên tưởng, lối nói bóng gió với vai trị</i>
<i>đặc biệt của văn cảnh – đã góp phần cách tân và mở rộng ý thực nghệ</i>
<i>thuật”.</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(30)</span><div class='page_container' data-page=30>

khác với hiện thực đang tồn tại… ra đời. Chủ nghĩa siêu thực trở thành một
cuộc cách tân thi ca với bản “Tuyên ngôn của chủ nghĩa siêu thực” –
A.Breton (1924): “Một chuyển vận tự động thuần tuý tâm thần và qua đó
<i>người ta định biểu thị bằng lời nói, hoặc bằng viết, hoặc bằng bất kỳ cách</i>
<i>nào khác sự chuyển động thực thụ của tư tưởng. Ý đồ này do tư tưởng chỉ</i>


<i>đạo, khơng chịu bất kỳ sự kiểm sốt nào của lý trí, ở ngồi bất kỳ sự bận</i>
<i>tâm nào về thẩm mỹ hay về đạo lý” (5;824). Cùng với quan niệm: Chủ nghĩa</i>
cổ điển và lãng mạn đã cầm tù nghệ thuật quá lâu trong sự kiểm soát chặt
chẽ của lý trí, khiến sự sáng tạo tự hạn chế mình trong những lề thói rập
khn và ngơn ngữ sáo mịn… G.Apollinaire – người khai sinh, A.Breton –
người cổ vũ và P.Soupault, L.Aragon, P.Eluard – người tham gia… Họ đã
đưa ra phương pháp sáng tác được gọi là “lối viết tự động” (automatic
writing) tức là ghi lại những “liên tưởng tự do” (free assosiation) của trạng
thái vô thức.


</div>
<span class='text_page_counter'>(31)</span><div class='page_container' data-page=31>

Tuy nhiên, nếu suy ngẫm thật kỹ, những hành động sáng tạo có vẻ
“ngược đời” ấy lại chứa đựng một nỗ lực đáng trọng của các nhà siêu thực
chủ nghĩa, bởi họ muốn phản ánh hiện thực một cách đa chiều. Nghệ thuật
siêu thực chứa đựng niềm mong mỏi của con người hiện đại, khao khát được
thâm nhập sâu vào nội giới thực thể và đề xuất một hướng tiếp cận mới hữu
hiệu hơn.


</div>
<span class='text_page_counter'>(32)</span><div class='page_container' data-page=32>

<i>nghệ thuật và sáng tạo” – một câu hỏi tự vấn sống động và hứng khởi hấp</i>
dẫn các nghệ sĩ trẻ; là một môi trường văn học mới, tạo điều kiện cho những
thực nghiệm song song và phong phú của thơ hiện đại; là người dạy cho thơ
không nên là một nghệ thuật mà là một thái độ sống… Đó là quan niệm: thơ
khơng cịn là một luận văn hợp lý nữa, cũng không là sự biểu lộ tràn trề tình
cảm, mà hướng tới biểu đạt cái gì mà khoa học và nhận thức sáng suốt
khơng thể tiếp cận được, do đó có “vùng tối”; thơ cịn trở thành một thái độ
sống, khơng chỉ hài lòng là một nghệ thuật đơn thuần và giản đơn, mà thơ
ước vọng đạt tới sự nhận thức siêu hình; và thơ có ngơn ngữ riêng của nó là:
hình ảnh, biểu tượng và âm nhạc…


<i><b>2.2.2. Dấu ấn của chủ nghĩa Tượng trưng – Siêu thực trong thơ Thanh Thảo</b></i>
Trong tiến trình của văn học, sự kế thừa và tiếp thu những thành tựu


tư tưởng nghệ thuật được coi là một quy luật tất yếu của sự phát triển. Kế
thừa thơ truyền thống dân tộc, tiếp thu chủ nghĩa lãng mạn, tượng trưng,
siêu thực phương Tây, thế hệ “thi nhân Việt Nam” đầu thế kỷ XX đã sáng
tạo ra phong trào thơ Mới (1932 - 1945) – Tinh hoa thơ Việt Nam. Một thế
kỷ thi ca Pháp với những đỉnh thơ lừng danh như: Lamartine, V.Hugo,
Baudelaire, Verlaine, Valery, Mallarmee… đã ảnh hưởng trực tiếp đến Xuân
Diệu, Bích Khê, Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên… của Thơ mới Việt Nam.
Hiện tượng đan xen, tổng hoà độc đáo của các yếu tố lãng mạn, tượng trưng
và siêu thực trong sáng tác của các nhà Thơ mới đã tạo nên “Một thời đại
<i>trong thi ca” Việt Nam… Đó cũng là tiền đề cho quá trình hiện đại hố và</i>
cách tân nghệ thuật của nền thơ Việt.


</div>
<span class='text_page_counter'>(33)</span><div class='page_container' data-page=33>

q trình hiện đại hố của văn học nghệ thuật Việt Nam, Thanh Thảo cho
rằng: “tính hiện đại” không chỉ do “những kỹ thuật thơ phương Tây” mang
<i>đến, “mà còn đến từ sự phối hợp tự nhiên và bất ngờ của thơ phương Tây</i>
<i>với khả năng dồn nén, tích chứa, u mặc, phẳng lặng và sâu thẳm của thơ</i>
<i>phương Đông, của tâm hồn thơ Việt. Và cái chính là phải qua ngơn ngữ</i>
<i>riêng biệt của từng nhà thơ” – (Thơ chẳng là gì nhưng cũng có thể là tất</i>
<b>cả - Thanh Thảo). Với quan điểm khách quan này, dù khơng có ý định trở</b>
thành một nhà thơ tượng trưng – siêu thực, Thanh Thảo vẫn tiếp nhận tự
nhiên và đầy sáng tạo những thành tựu của chủ nghĩa tượng trưng – siêu
thực trong văn học nghệ thuật phương Tây để làm nên một cõi thơ mình…
rất riêng, rất lạ…


Quả thực khơng thể nói, Thanh Thảo là nhà thơ tượng trưng – siêu
thực khi thơ anh khơng có những ám ảnh kỳ lạ, huyền bí, ảo diệu… gây nên
sự sùng bái hay khiếp sợ về một thế giới vơ ảnh, nhưng có thể nhận thấy
trong thơ Thanh Thảo ẩn chứa sự cộng hưởng tự nhiên và kỳ diệu giữa các
yếu tố tích cực của chủ nghĩa tượng trưng – siêu thực với một hồn thơ luôn
khát khao sáng tạo và đổi mới nghệ thuật. Phải chăng, đây là điều quan


trọng nhất để hoàn thiện một gương mặt tiêu biểu trong làng thơ Việt Nam
hiện đại?


</div>
<span class='text_page_counter'>(34)</span><div class='page_container' data-page=34>

Bắt đầu bằng quan niệm <i>coi trọng cảm giác, thơ “nghĩ”</i> <i>bằng cảm</i>
<i>giác, thơ Thanh Thảo cũng tràn đầy những hình ảnh của sự sống, của hạnh</i>
phúc và sự bình dị của đời thường… nhưng có sức đánh động hồn người…


<i><b>“Anh sẽ đeo vào tay em gié lúa</b></i>
<i><b>vòng ngọc xanh tiếng dế kêu lá cỏ</b></i>
<i><b>ngọn lửa của da thịt</b></i>


<i><b>chìm trong đơi núm vú hồng hồng</b></i>
<i><b>Anh sẽ đeo vào cổ em</b></i>


<i><b>sợi dây chuyền bí ẩn của bóng đêm</b></i>
<i><b>những chiếc chuông mùa thu trong trẻo</b></i>
<i><b>rung lên khi thành phố bay về trời</b></i>


<i><b>Anh sẽ đeo vào ngực em</b></i>
<i><b>cơn bão”</b></i>


(Trang sức – Thanh Thảo)


</div>
<span class='text_page_counter'>(35)</span><div class='page_container' data-page=35>

dùng độ dài của khơng gian để nói về màu sắc: “Dọc con lộ những chiếc
<i><b>tăng nằm rỉ nát/ Màu hoa như phảng phất rất gần”.</b></i>


Đến giai đoạn sau của sáng tác, Thanh Thảo đào sâu vào thế giới
<i>phức tạp và sâu kín của tâm hồn con người – từ chỗ “nghiêng về đời sống</i>
thực” đến chỗ “hướng nội vào tâm tình thực” – Chu Văn Sơn. Đây cũng là
một trong những điều mà chủ nghĩa tượng trưng cố gắng nắm bắt được


trong xu hướng chung của nó – ý nghĩa của cuộc sống nội tâm sâu kín
(5;837). Con người ngồi phần ý thức cịn có vơ thức, ngồi lúc thức tỉnh
cịn có những giấc mơ. Theo triết học Freud, phần vô thức luôn chứa những
nội dung phức tạp, lúc nào cũng muốn tràn ra ngoài và nghệ thuật là nơi giải
toả những khát vọng, những ẩn ức của vô thức. Thơ hiện đại là những mảng
sáng – tối, có nghĩa – vơ nghĩa đan xen, nhà thơ cũng như người đọc chợt
“ngộ ra” khi chạm vào những mảng tối vơ nghĩa, nó buộc tiềm thức và vơ
thức phải hoạt động… Thanh Thảo hay nói đến bóng tối, ban đêm với ý
nghĩa là sự bí ẩn, là biểu tượng cho tiềm thức và vô thức của con người.
<i>“Thơ khơng từ chối bất cứ cái gì, nhưng thơ khao khát sự bí ẩn” vì “chỉ có</i>
<i>sự bí ẩn mới khiến con người khao khát, mơ mộng, hành động, suy nghĩ,</i>
<i>tưởng tượng”.</i>


<i><b>“Có những điều khơng nói được ban ngày</b></i>
<i><b>Ban đêm nói được</b></i>


<i><b>Chúng ta thèm ánh sáng vơ cùng</b></i>
<i><b>Nhưng thiếu bóng tối thì chết mất</b></i>
<i><b>Có nhiều ngơn ngữ</b></i>


<i><b>giống một số lồi hoa</b></i>
<i><b>chỉ thơm về đêm”</b></i>


(Một trăm mảnh gỗ vng – Thanh Thảo)


</div>
<span class='text_page_counter'>(36)</span><div class='page_container' data-page=36>

<i>thì khơng bao giờ có nghệ thuật” và sự “hiện diện nghệ thuật” ấy trước hết</i>
là ở việc kiến tạo một cấu trúc thơ lạ lẫm của riêng mình – cấu trúc Rubíc.
Đối sánh cùng tư tưởng của trường phái tượng trưng, có thể nhận thấy nét
tương đồng từ việc tổ chức tác phẩm theo nguyên lý liên tưởng tự do cho
đến việc hoà trộn các phạm vi thời gian và không gian trong cấu trúc thơ


Thanh Thảo. Hiện tượng này đã xuất hiện ở giai đoạn cuối của phong trào
Thơ mới với những nhà thơ theo khuynh hướng tượng trưng – siêu thực
như: Bích Khê, Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên…


<i><b>“Hỡi lời ca man dại </b></i>
<i><b>Điệu nhạc thở hơi rừng</b></i>
<i><b>Đêm nay xuân đã lại</b></i>


<i><b>Thuần tuý với tượng trưng”</b></i>


(Xuân tượng trưng – Bích Khê)


</div>
<span class='text_page_counter'>(37)</span><div class='page_container' data-page=37>

Thanh Thảo khẳng định vai trò quan trọng cũng như đưa thêm những quan
niệm mới về nhịp điệu và tính nhạc trong thơ – biểu tượng hàng đầu của thơ
tượng trưng. “Âm nhạc là trước hết” (De la musicque avant toute chose) –
Verlaine. Quan niệm nhịp điệu thơ là nhịp điệu của tâm hồn đã được khơi
nguồn từ thơ Mới do sự ảnh hưởng của chủ nghĩa tượng trưng – siêu thực
Pháp. Đó là sự tương hợp sâu xa giữa âm thanh và ý nghĩa, thơ nhờ âm thanh
của các từ mà gợi lên được những sắc thái tinh tế, vi diệu của tâm hồn, mà
như Verlaine nói: “một thứ nhạc điệu chiêu hồn gợi những giấc mơ kỳ lạ”…


<i><b>“Tôi yêu</b></i>


<i><b>Chất người đầu tiên</b></i>


<i><b>Những giọt sương lặn vào lá cỏ</b></i>
<i><b>Qua nắng gắt qua bão tố</b></i>


<i><b>Vẫn giữ lại cái mát lành đầy sức mạnh</b></i>
<i><b>Vẫn long lanh bình thản trước vầng dương”</b></i>


(Những ngọn sóng mặt trời – Thanh Thảo)


</div>
<span class='text_page_counter'>(38)</span><div class='page_container' data-page=38>

đại. Bứt phá khỏi tất cả những khn phép vốn có, thơ tự do biến những
điều không thể trở thành hiện thực…


<i><b>“Cho con xin bắt đầu từ mẹ</b></i>
<i><b>Để nói về chúng con</b></i>


<i><b>Lớp tuổi hai mươi, ba mươi điệp trùng áo lính</b></i>
<i><b>Xanh màu áo lính</b></i>


<i><b>Đã từng sung sướng đã từng nghẹn ngào</b></i>
<i><b>Được làm con mẹ</b></i>


<i><b>Được ra trận những năm đất nước mình khốc liệt </b></i>


<i><b>Những năm</b></i>


<i><b>Chiếc áo dính chặt vào thân bạc màu ngắn nhanh rồi rách</b></i>


<i><b>Những năm </b></i>


<i><b>Một chiếc áo có thể sông lâu hơn một cuộc đời”</b></i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(39)</span><div class='page_container' data-page=39>

<b>3. BÀI THƠ “ĐÀN GHI TA CỦA LOR-CA”</b>


<b>3.1. Tập thơ “Khối vuông Rubíc” – một tun ngơn nghệ thuật, một cấu</b>
<b>trúc thơ của Thanh Thảo</b>


<i>“Chúng ta sống vì sự khác biệt” và “miễn là dám bước qua giới hạn</i>


<i>của mình”... đó là lời bàn luận khách quan của Thanh Thảo trong cuốn</i>
<i><b>“Mãi mãi là bí mật”. Nhưng tơi biết, Thanh Thảo là nhà thơ “tuyệt đối chân</b></i>
thành với chính mình”, nên cho dù anh nói về ai, về cái gì cuối cùng cũng
chỉ nhằm bộc lộ mình. Đúng như vậy! Thanh Thảo khác biệt. Thanh Thảo
ln bước qua giới hạn của mình để kiếm tìm những điều mới lạ… Vì vậy
mới có “Khối vng Rubíc” – một tun ngơn nghệ thuật, một cấu trúc thơ!
Thế giới nghệ thuật thơ Thanh Thảo dường như chưa bao giờ bình
lặng… Con sóng sau gối lên con sóng trước, mãnh liệt và ồn ào hơn… Từ
<i><b>“Thử nói về hạnh phúc” đến “Dấu chân qua trảng cỏ”; từ “Những người</b></i>
<i><b>đi tới biển” đến “Những con sóng mặt trời”; từ “Bùng nổ của mùa xn”</b></i>
đến “Khối vng Rubíc”… Mỗi lần xuất hiện thơ Thanh Thảo lại mang một
diện mạo mới… Cứ như không cách tân, Thanh Thảo sẽ không “sống” vậy.
Và thật lạ, Thanh Thảo luôn được “cấp bằng sáng tạo” cho những khám phá
nghệ thuật đầy mâu thuẫn và “trái khốy” của mình. Thanh Thảo vốn đề cao
tính hồn nhiên của thơ gần như tuyệt đối và coi thơ là “dòng sống thực từ
<i>khoảnh khắc sang khoảnh khắc”, nhưng ông cũng lại là gương mặt tiên</i>
phong của sự cách tân hình thức với những cấu trúc thơ phức tạp và gị bó.
Rõ ràng là hai đối cực, nhưng lại hòa hợp để làm nên những “giao hưởng
<i>thơ”, những “rubíc thơ”, những “kịch bản thơ”, những “metro thơ”… đầy</i>
ám ảnh.


</div>
<span class='text_page_counter'>(40)</span><div class='page_container' data-page=40>

<i>xa cách nhau, thì lại càng gần với dòng cảm nghĩ, dòng sống thực từ</i>
<i>khoảnh khắc sang khoảnh khắc của mỗi con người. Như thế khơng có nghĩa</i>
<i>là hỗn loạn, nhưng sợi dây xâu chuỗi khó nhận biết hơn, bí mật hơn”. Có lẽ,</i>
trong một tích tắc nào đó của sự sáng tạo, Thanh Thảo chợt nhận thấy: cái
<b>“Khối vng rubíc” kia không chỉ đơn thuần là những khối vuông nhỏ, sắp</b>
xếp hỗn loạn, có thể chuyển động tự do quanh một trục cố định theo cấu tạo
vật lý nữa, mà đã trở thành một điều kỳ diệu với cái trục quay chứa đầy bí
ẩn. Cái trục lạ lùng kia cho phép các ơ màu mặc sức tán loạn, nhưng nó cũng
chi phối để các ô màu châu tuần một cách trật tự quanh mình. Lỏng lẻo mà


chặt chẽ. Hỗn loạn mà nhất qn… Hình như Thanh Thảo có một năng lực
mạnh mẽ trong việc phát hiện ra sự hài hòa giữa những đối cực: hỗn loạn và
trật tự, mãnh liệt và mềm mại, gị bó và tự nhiên..? Và cũng là người đầu
tiên thiết lập được trật tự cho sự hỗn loạn, để sáng tạo ra một <i>“cấu trúc thơ</i>
<i>rubíc”. </i>


<b>“Khối vng Rubíc” tập hợp mười một tác phẩm, là những trở trăn</b>
không biên độ của hồn thơ Thanh Thảo về nhân tình thế thái, về quan niệm
nhân sinh và sáng tạo nghệ thuật…


Ta có thể lắng nghe lời tâm sự của “Một thế hệ thức nhiều hơn ngủ /
<i><b>xoay trần đào công sự / xoay trần trong ý nghĩ / đi con đường người trước</b></i>
<i><b>đã đi / bằng rất nhiều lối mới” (Một người lính nói về thế hệ mình). Một</b></i>
thế hệ con người. Một chặng đường lịch sử của dân tộc. Vì đã trải nghiệm
bằng chính mồ hơi, nước mắt và máu thịt của mình… nên người ta hiểu như
thế nào là “thế hệ chúng tôi – nhìn rất rõ – mặt mình”…Cũng bởi vậy,
người ta biết cái giá phải trả trong cuộc chiến tàn khốc đến mức nào…


<i><b>“… những cụ già bị giết bên cầu</b></i>


<i><b>… những bà mẹ tay xách nách mang chạy trong tầm pháo</b></i>
<i><b>… ngơi nhà cịn trơ mảng tường cháy đen</b></i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(41)</span><div class='page_container' data-page=41>

<i><b>những góc yên lành hờ hững của đời ta”</b></i>


(Thị xã Lạng Sơn – Khối vng Rubíc)
Những mất mát ám ảnh vào từng đường gân, thớ thịt, từng khoảnh
khắc của cuộc sống… Gương mặt chiến tranh ẩn hiện cả trong một bản giao
hưởng ở nước Nga xa xôi…



<i><b>“…bản giao hưởng lăn vào đạn bom hầm hào bùn đất</b></i>
<i><b>Cuộc chiến tranh dài hơn bốn chương nhạc</b></i>


<i><b>Nhưng cuộc đời còn dài hơn chiến tranh”</b></i>


(Có một lần tôi nghe bản giao hưởng số Bảy – Khối vng Rubíc)
Rồi cuộc chiến cũng tàn… Vết thương sẽ lành… Và nỗi đau dần
ngi ngoai… Để có một lần được thong thả “Từ đền Cao” ơm “giấc mơ
<i><b>bạch đàn”, tìm “khúc hát Trương Chi trầm đáy nước” đọng lại trong buổi</b></i>
chiều bình an và bảng lảng khói sương của hàng trăm năm trước…


Trong “Khối vng Rubíc”, số phận những vần thơ, số phận một con
người, số phận cả dân tộc cứ đan cài, xen lẫn với nhau… “Đọc những nhà
<b>thơ da đen” ta thấy sự khốn cùng của một dân tộc bị kỳ thị, bị khinh miệt,</b>
bị dập vùi hết mức… Nhưng vẫn sống trọn vẹn với niềm tự hào là những
Con Người chân chính với tất cả khát khao cháy bỏng của tâm hồn


<i><b>“nếu so với cuộc đời chó đẻ các anh đang sống</b></i>
<i><b>thì màu da các anh</b></i>


<i><b>trong trắng vơ ngần”</b></i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(42)</span><div class='page_container' data-page=42>

<i><b>người bốc vác dịng sơng / làm đầy lên ngọn gió / thổi mát qua thành phố</b></i>
<i><b>suốt trưa nồng”. </b></i>


<b>“Khối vng Rubíc” vốn là một trị chơi với những mảng màu đa sắc</b>
ẩn hiện trong mỗi vịng xoay. Nhưng với Thanh Thảo, nó là cuộc sống, chất
chứa bao điều bất định và ngẫu nhiên. Bài thơ đầu tay của anh mang tên
<b>“Thử nói về hạnh phúc” trĩu nặng bao nỗi niềm khao khát, dẫu đã trải qua</b>
cả một chặng đường thơ, câu hỏi ấy như vẫn khắc khoải khơn ngi… “Tơi


<i><b>xoay những ơ vng. Đêm bình yên. Có thật anh yêu em là hạnh phúc?</b></i>
<i><b>Có thật nếu thiếu anh, em sẽ thiếu hạnh phúc?”. “Tơi xoay những ơ</b></i>
<i><b>vng. Làm sao tính tốn được hạnh phúc? Anh có thể xoay những ơ</b></i>
<i><b>vng, tìm các màu sắc, nhưng anh hãy chỉ tôi xem: ô vuông nào cất giữ</b></i>
<i><b>hạnh phúc, màu sắc nào tượng trưng hạnh phúc?”. </b></i>


Rồi lại trăn trở… “Tôi xoay những ô vuông…” để trải dòng tâm sự
về thơ, về đời, về kỷ niệm, về cái đẹp, về bao điều được – mất của một kiếp
người… Không chỉ vậy, mười một tác phẩm in trong “Khối vng Rubíc”
cũng mang dáng dấp của những vịng xoay đầy ngẫu hứng, vượt khỏi mọi
ranh giới của không gian và thời gian…


Vòng xoay này là…


<i><b>“…Maia</b></i>


<i><b> đứng hài hòa</b></i>


<i><b> trước họ</b></i>
<i><b>Vẻ lặng im </b></i>


<i><b> kỳ lạ</b></i>


<i><b> của thiên tài</b></i>
<i><b>Một tay người giơ cao củ cà rốt</b></i>
<i><b>Và tay kia – là những ngôi sao…”</b></i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(43)</span><div class='page_container' data-page=43>

<i><b>“Lor-ca bơi sang ngang</b></i>
<i><b>trên chiếc ghi-ta màu bạc</b></i>



<i><b>chàng ném lá bùa cơ gái di-gan </b></i>
<i><b>vào xốy nước</b></i>


<i><b>chàng ném trái tim mình</b></i>
<i><b>vào lặng yên bất chợt…”</b></i>


(Đàn ghi ta của Lor-ca – Khối vng Rubíc)
Rồi vịng xoay sau..


<i><b>“A-ra-gơng</b></i>


<i><b>nước Pháp có thể vắng Người những giờ hoan lạc</b></i>
<i><b>nhưng không thể thiếu Người những lúc đắng cay”</b></i>


(Ở năm tám mươi lăm của một con tàu – Khối vng Rubíc)
Và vịng xoay cuối cùng là một đêm của nhà thơ Cao Bá Quát…


<i><b>“…ta xin đứng lại</b></i>


<i><b>chiến đấu như một con người</b></i>
<i><b>chặn đường nỗi sợ</b></i>


<i><b>và chết như một người</b></i>
<i><b>đã vượt lên nỗi sợ</b></i>


<i><b>ở những ranh giới mơ hồ</b></i>
<i><b>đây là điều sáng tỏ</b></i>


<i><b>phải trả giá cho mỗi phẩm chất người</b></i>
<i><b>dù rất nhỏ…”</b></i>



(Đêm trên cát – Khối vng Rubíc)


</div>
<span class='text_page_counter'>(44)</span><div class='page_container' data-page=44>

quanh cái trục tư tưởng “Sự sống – Nhân tính – Nghệ thuật” vốn chưa bao
giờ phân tán trong thơ Thanh Thảo.


Xuất hiện vào năm 1985, “Khối vng Rubíc” là một tun ngơn thơ
độc đáo cũng như là một sự đột phá về cấu trúc thơ của Thanh Thảo. Đây
cũng là thời điểm mà nền văn học Việt Nam vừa ra khỏi quỹ đạo của văn
học kháng chiến khoảng mười năm và đang đứng trước yêu cầu được đổi
mới toàn diện, Thanh Thảo đã chứng tỏ bản lĩnh của một nhà thơ cách tân
với “cái đầu lạnh và trái tim nóng”.


<b>3.2. Bài thơ “Đàn ghi ta của Lor-ca”</b>


<i><b>3.2.1. “Chất Người” khơi nguồn cảm hứng sáng tác bài thơ “Đàn ghi ta</b></i>
<i><b>của Lor-ca” </b></i>


<i><b>“hạnh phúc nào cho tôi</b></i>
<i><b>hạnh phúc nào cho anh</b></i>
<i><b>hạnh phúc nào cho chúng ta</b></i>
<i><b>hạnh phúc nào cho đất nước</b></i>


<i><b>những câu hỏi chưa bao giờ nguôi được</b></i>


<i><b>mảnh đất hôm nay bè bạn chúng tôi nằm</b></i>
<i><b>nơi máu đổ phải sống bằng thực chất</b></i>
<i><b>nơi cao nhất thử lòng ta u đất nước</b></i>
<i><b>thử lịng ta chung thủy vơ tư</b></i>



<i><b>nơi vỡ vụn dưới chân bao mảng đêm hèn nhát</b></i>
<i><b>những gương mặt ngẩng lên lấp lánh chất người”</b></i>
(Thử nói về hạnh phúc – Thanh Thảo)


</div>
<span class='text_page_counter'>(45)</span><div class='page_container' data-page=45>

tìm hiểu thơ Thanh Thảo… Đúng là ám ảnh thực sự, bởi không chỉ là
<i>“những gương mặt ngẩng lên lấp lánh chất người”, mà cịn là “tơi u /</i>
<i>chất người đầu tiên / những giọt sương lặn vào lá cỏ / qua nắng gắt qua bão</i>
<i>tố / vẫn giữ lại cái mát lành đầy sức mạnh / vẫn long lanh bình thản trước</i>
<i>vầng dương” (Bùng nổ của mùa xuân); không chỉ là “mong một ngày hiện</i>
<i>rõ / chất thật mỗi con người” mà còn là “phải trả giá cho mỗi phẩm chất</i>
<i>người / dù rất nhỏ” (Đêm trên cát)… Tại sao cứ phải là hai chữ “chất</i>
<i>người” hiển hiện rõ ràng trong khi thơ vốn “mạch kỵ lộ” và “ý tại ngôn</i>
ngoại”..? Phải chăng, đây là một “cố ý nghệ thuật” mà Thanh Thảo dùng để
bộc lộ nỗi niềm trăn trở của cả đời thơ mình về “bản chất con người”? Theo
Thanh Thảo, làm nên sự “lấp lánh” của “chất người” chính là vẻ đẹp
“nghĩa khí” và chỉ có trong những con người sẵn sàng xả thân vì nghĩa
lớn… Những nghĩa sĩ Cần Giuộc, nghĩa sĩ Ba Tơ… Trương Cơng Định rồi
Nguyễn Trung Trực… Nguyễn Đình Chiểu và Cao Bá Quát… Với Thanh
Thảo, họ là những tượng đài bất tử về nghĩa khí ngàn đời của dân tộc Việt!
Điều đặc biệt là Thanh Thảo không chỉ kiếm tìm “chất người” trong mỗi
tâm hồn Việt, mà còn mở rộng biên độ của vẻ đẹp ấy với những cái tên mà
thế giới phải nghiêng mình khi nhắc đến… Đó là Dostoievski – người khai
sáng cho một dịng văn xuôi lớn nhất, là Boris Pasternak – coi số phận trớ
trêu của mình như một sự hy sinh cho sự thật và cái đẹp, là Federico Garcia
Lorca – một cuộc đời vinh quang và bi kịch… Như thấm nhuần tư tưởng
của Cao Chu Thần – “nhất sinh đê thủ bái mai hoa” – Thanh Thảo cũng
dành những vần thơ tuyệt vời nhất của mình để bày tỏ tấc lòng tri mộ với
<i>“những gương mặt ngẩng lên lấp lánh chất người”…</i>


<i><b>3.2.2. “Đàn ghi ta của Lor-ca” – Vinh quang và bi kịch của “Họa mi xứ</b></i>


<i><b>Andalucia”</b></i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(46)</span><div class='page_container' data-page=46></div>
<span class='text_page_counter'>(47)</span><div class='page_container' data-page=47>

nhưng vẫn phảng phất một nỗi buồn mênh mang… cũng chính từ những vần
thơ ấy. Khơng có riêng mộ phần, thể phách F.G.Lorca như đã hòa quyện vào
mỗi ngọn cỏ, mỗi tấc đất, mỗi dịng sơng… của đất nước Tây Ban Nha mà
trước đó anh đã thầm ước nguyện…


<i><b>“Bao giờ tôi chết,</b></i>


<i><b>hãy chôn tôi cùng cây đàn ghi ta</b></i>
<i><b>trong cát.</b></i>


<i><b>Bao giờ tôi chết,</b></i>
<i><b>giữa những cây cam</b></i>
<i><b>và cây bạc hà tốt lành.</b></i>


<i><b>Bao giờ tơi chết,</b></i>
<i><b>xin vui lịng chơn tôi</b></i>
<i><b>trong ngọn phong tiêu.</b></i>


<i><b>Bao giờ tôi chết…”</b></i>


(Ghi nhớ - Hoàng Hưng dịch)


</div>
<span class='text_page_counter'>(48)</span><div class='page_container' data-page=48>

của Thanh Thảo với “một sản vật vĩ đại của thế giới” – F.G.Lorca! Mang
một số phận bi thảm, nhưng về mặt sự nghiệp sáng tạo, Lor-ca lại hạnh phúc
hiếm có. Với tư cách là nhà thơ, anh ln ln giữ được lịng trung thành
với thiên chức sẵn có của mình, khơng hề dao động, thay đổi. Sau khi mất,
thơ anh tiếp tục đạt tới đỉnh cao của vinh quang, được cả nhân loại ca tụng.
Cùng với năm tháng, thơ Lor-ca ngày càng được đọc nhiều hơn, được dịch


ra tiếng nước khác nhiều hơn. Và nhịp cầu tri âm nối những tâm hồn đồng
điệu của thi ca, đã khiến F.G.Lor-ca trở thành đề tài nghiên cứu và sáng tác
đầy hấp dẫn của giới văn – nghệ sĩ Việt Nam. Có thể kể đến những trang
viết giá trị và tập thơ F.G.Lor-ca chuyển ngữ tiếng Việt của Hoàng Hưng;
hay ca khúc nổi tiếng của nhạc sĩ Thanh Tùng – “Nếu tôi chết, hãy chôn tôi
<i>với cây đàn ghi ta”; đặc biệt là tất cả vinh quang và bi kịch của “chim họa</i>
mi xứ Andalucia” qua những vần thơ Thanh Thảo…


Giữa không gian Tây Ban Nha tự nhiên mà đầy mê hoặc, cuộc đời
F.G.Lor-ca được phác thảo qua những hình ảnh thật lạ, đậm sắc siêu thực…


<i><b>“những tiếng đàn bọt nước</b></i>
<i><b>Tây Ban Nha áo choàng đỏ gắt</b></i>
<i><b>li-la li-la li-la</b></i>


<i><b>đi lang thang về miền đơn độc</b></i>
<i><b>với vầng trăng chuếnh chống</b></i>
<i><b>trên n ngựa mỏi mịn…”</b></i>


(Đàn ghi ta của Lor-ca – Thanh Thảo)


Bắt đầu bằng “tiếng đàn”, nhưng không đơn thuần để tả âm thanh
phát ra từ sáu dây của cây đàn ghi ta hay còn gọi là “Tây Ban cầm”, mà
Thanh Thảo đề cập đến những ám ảnh xa gần về tài năng và số phận của
Lor-ca. Bẩm sinh là một thi sĩ không thể cải hồi, cuộc đời Lor-ca lại gắn với
cây đàn của dân tộc như một định mệnh…


</div>
<span class='text_page_counter'>(49)</span><div class='page_container' data-page=49>

<i><b>bắt đầu</b></i>


<i><b>Những ly rượu bình minh</b></i>


<i><b>tan vỡ</b></i>


<i><b>Tiếng khóc của phím đàn </b></i>
<i><b>bắt đầu</b></i>


<i><b>Hãm thanh vơ ích</b></i>
<i><b>Khơng thể nào</b></i>
<i><b>tắt được</b></i>


<i><b>Đàn nhỏ lệ, giọt đều </b></i>
<i><b>như hạt nước sầu ngân </b></i>


<i><b>như băng phong than vãn trên từng cánh tuyết rơi</b></i>
<i><b>Khơng thể nào</b></i>


<i><b>tắt được</b></i>


<i><b>Đàn khóc những gì đã xa khuất</b></i>
<i><b>Cuồng sa từ phương trời nam ấm áp</b></i>
<i><b>nguyện cầu cho trà mi trắng </b></i>


<i><b>Đàn khóc, như làn tên </b></i>
<i><b>lao vào vơ định</b></i>


<i><b>hồng hơn khơng nắng mai</b></i>
<i><b>lồi quyện điểu đầu tiên chết </b></i>
<i><b>trên cành</b></i>


<i><b>Đàn ơi!</b></i>
<i><b>Xé tim</b></i>



<i><b>bằng năm làn dao sắc</b></i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(50)</span><div class='page_container' data-page=50>

vầng trăng đỏ” trên hành trình vơ định. Những “chếnh chống”, “mỏi
<i><b>mịn” trong khơng gian mờ ảo, lãng đãng… như ám cả vào cuộc đời và thơ</b></i>
ca của Lor-ca.


</div>
<span class='text_page_counter'>(51)</span><div class='page_container' data-page=51>

<i><b>“Tây Ban Nha</b></i>
<i><b>hát nghêu ngao</b></i>
<i><b>bỗng kinh hoàng</b></i>
<i><b>áo choàng bê bết đỏ</b></i>
<i><b>Lor-ca bị điệu về bãi bắn</b></i>
<i><b>chàng đi như người mộng du”</b></i>


(Đàn ghi ta của Lor-ca – Thanh Thảo)


Mang một bản năng sống đích thực, Lor-ca đã từng thảng thốt kêu lên
trong “Bi ca cho Ignacio Sanchez Mezias” rằng: “!Que no quiero verla!” –
<i>“Tơi khơng muốn nhìn thấy máu!”, nhưng máu của chính anh cùng bao</i>
người dân vơ tội vẫn chảy tràn trên đất Tây Ban Nha khi chế độ phát xít độc
tài Franco bắt đầu ra tay tàn phá nền văn minh nhân loại bằng những cuộc
thảm sát đẫm máu từ mùa thu năm 1936...


<i>“Lor-ca là nhà thơ của những giấc mơ, của những linh cảm nhoi</i>
<i>nhói, một nhà thơ có thể biến những giấc mơ thành nhịp điệu, có thể biến</i>
<i>những linh cảm thành ngơn ngữ” (65;317). Thơ trữ tình của Lor-ca minh</i>
chứng cho sự trác việt trong tưởng tượng, sự lấp lánh trong chất liệu, sự
uyển chuyển trong âm điệu... Nhưng nổi bật hơn cả là những giá trị âm nhạc
đích thực, mang đậm dấu ấn về bản thể tự nhiên Andalucia – cội nguồn dân
gian của thơ Lor-ca. Tính đa dạng và thanh thoát của nhịp điệu đã tạo nên


những sắc màu hội họa kỳ ảo, những chất liệu kiến trúc độc đáo đậm chất
siêu thực và tượng trưng… trong sáng tác nghệ thuật của anh…


<i><b>“tiếng ghi ta nâu</b></i>
<i><b>bầu trời cô gái ấy</b></i>


<i><b>tiếng ghi ta lá xanh biết mấy</b></i>
<i><b>tiếng ghi ta tròn bọt nước vỡ tan</b></i>
<i><b>tiếng ghi ta ròng ròng </b></i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(52)</span><div class='page_container' data-page=52>

(Đàn ghi ta của Lor-ca – Thanh Thảo)


Dâng hiến cả đời mình cho thơ, F.G.Lor-ca nhập vai chàng danh ca
Orpheus của thần thoại Hy Lạp, nhưng không phải với cây đàn Lyre bảy dây
nhiệm màu qui ước mà là tiếng đàn ghi ta của một trái tim Con Người sẵn
sàng ngân lên trước những rung động nhỏ nhất của tâm hồn, của tự nhiên...
Lời thơ là ca từ. Dịng thơ là khng nhạc. Nhịp thơ là giai điệu… Nhà thơ
xứ Andalucia đã giao tiếp với cuộc đời bằng những bản tình ca thơ mê đắm
và kiêu hãnh như tiếng hót của lồi chim họa mi huyền thoại, bằng trái tim
mà mỗi nhịp đập như chỉ dành riêng cho con người và đất nước mình…


Tình yêu, Cái đẹp và Cái chết là ba nỗi ám ảnh lớn trong trong thơ
Lor-ca, nó hốn đổi, làm tiền đề cho nhau và kết thành một vòng tròn vĩnh
hằng. Lor-ca đã chấp nhận và tơn vinh cái chết như đã tơn vinh tình yêu và
cái đẹp, vì anh nhận thấy trong cái đẹp đã có bóng hình cái chết, và trong cái
chết tình yêu lại nẩy mầm, cái đẹp được hồi sinh… “Bởi cái chết đã dựng
<i>hình tượng trong cõi sống… Con người chỉ là một lồi thiêu thân vơ tội bay</i>
<i>mãi vào ảo – tưởng – tình – u. Chỉ có trong tình u, ta mới bắt gặp được</i>
<i>cái chết của chính mình. Tình u cũng mở ngõ cho những lần hóa kiếp.</i>
<i>Hãy thử bước vào thế giới đó để khởi đầu bằng một cái chết thật vô cùng</i>


<i>yêu dấu” – Trịnh Công Sơn…</i>


<i><b>“không ai chôn cất tiếng đàn</b></i>
<i><b>tiếng đàn như cỏ mọc hoang</b></i>
<i><b>giọt nước mắt vầng trăng</b></i>
<i><b>long lanh trong đáy giếng”</b></i>


(Đàn ghi ta của Lor-ca – Thanh Thảo)


</div>
<span class='text_page_counter'>(53)</span><div class='page_container' data-page=53>

chuyện về hai chàng trai trong “Bài ca mộng du” của Lor-ca, cứ mải miết
<i>“leo mút lan can xanh / lan can của vầng trăng / nơi nước gieo vang dội”,</i>
<i>“để lại một vệt máu / để lại vệt nước mắt” cũng như tất cả những điều bình</i>
dị mà thân thiết nhất với cuộc đời… để được đi đến tận cùng khát vọng tình
u, cái đẹp cho dù đó cũng là cái chết của chính mình… Trong khoảnh
khắc cuối cùng họ chứng kiến sự hịa quyện hồn hảo đến nghiệt ngã của cái
đẹp và cái chết…


<i><b>“Trên gương mặt hồ nước</b></i>
<i><b>nàng Digan đong đưa</b></i>
<i><b>xanh thân hình, xanh tóc</b></i>
<i><b>mắt bạc lạnh</b></i>


<i><b>một nhũ băng vầng trăng</b></i>
<i><b>treo nàng trên mặt nước”</b></i>


(Bài ca mộng du – Thanh Thảo dịch thơ Lor-ca từ tiếng
Anh)


Bỏ lại “vầng trăng Digan”, “con ngựa trong núi mờ”, trên tay là cây
đàn thơ, kiêu hãnh như một torero khốc tấm áo chồng đỏ gắt... Lor-ca


bước vào đấu trường trong cuộc tử chiến với định mệnh – một “con bị cơ
đơn với trái tim cao thượng”, và sẵn sàng chết vì “những vết thương bốc
cháy như mặt trời”…


<i><b>“đường chỉ tay đã đứt</b></i>
<i><b>dịng sơng rộng vơ cùng</b></i>
<i><b>Lor-ca bơi sang ngang</b></i>
<i><b>trên chiếc ghi ta màu bạc</b></i>


<i><b>chàng ném lá bùa cô gái Digan </b></i>
<i><b>vào xoáy nước</b></i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(54)</span><div class='page_container' data-page=54>

<i><b>vào lặng yên bất chợt</b></i>


<i><b>li-la li-la li-la…”</b></i>


(Đàn ghi ta của Lor-ca – Thanh Thảo)


Bình thản đến ngạo nghễ, Lor-ca giáp mặt với bạo tàn và cái chết, rồi
hịa vào nó để trở thành bất tử… Như truyền thuyết về loài chim phượng
hoàng lửa – tự hủy rồi tái sinh, Lor-ca ươm những hạt giống của cái đẹp và
tình yêu vào tận đáy sâu cái chết, để từ đó sự sống trổ hoa… <i><b>“Li-la la </b></i>
<i><b>li-la…” như một “cú vê ghi ta” ngẫu hứng đầy xao xuyến trong bản đàn bất tử,</b></i>
hay cũng chính là mn ngàn đóa hoa sự sống đang bừng nở từ cõi vĩnh
hằng, khẳng định sức sống bất diệt của Chân – Thiện – Mỹ trên cõi đời này.


<b>“Đàn ghi ta của Lor-ca” ngập tràn xúc cảm về một cuộc đời vinh</b>
quang và bi kịch của thi sĩ thiên tài F.G.Lor-ca trong bão táp thời đại, đặc
biệt là sự hủy diệt những giá trị Chân – Thiện – Mỹ đích thực của các thế
lực bạo tàn. Khi cái cũ đã mất đi và chưa có chút gì của cái mới để thay thế,


con người chỉ là khả năng của một cái gì sẽ có thật trong tương lai và là một
ảo ảnh trong hiện tại. Đó là lúc con người cảm thấy rõ nhất cái cá nhân – cái
tơi của chính mình. Lor-ca là “một cơ quan của Thiên Nhiên được sinh ra để
làm thơ” (65;318), cho đến phút giây những viên đạn phát xít xé toang lồng
ngực… Người nằm xuống…Giản dị và bình tâm, bởi “cái chết không phải
<i>là điều mất mát lớn nhất trong cuộc đời. Sự mất mát lớn nhất là bạn để tâm</i>
<i>hồn tàn lụi ngay khi còn sống” – N. Kusin</i>


<i><b>3.2.3. “Đàn ghi ta của Lor-ca” – Ám ảnh vô thức, lời đồng vọng tri âm và</b></i>
<i><b>khoảnh khắc thăng hoa của Thanh Thảo</b></i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(55)</span><div class='page_container' data-page=55>

nơi, vào thế kỷ trước, kẻ thù đã muốn buộc bạn đọc quên anh đi – tức Tổ
quốc anh, ngày nay những tác phẩm thi ca của Lor-ca vẫn được tiếp tục tìm
đọc. Có lẽ, thật lâu nữa mới đến ngày lũ trẻ con ngâm những bản đồng ca
balad của Lor-ca và các cô gái hát thầm những khúc tình ca của anh…
Nhưng số phận ấy, tài năng ấy luôn là một ám ảnh với những độc giả đã
từng biết đến cái tên G.F.Lor-ca.


<i>“Nòi thi sĩ vốn dễ đồng bệnh tương lân. Do đồng bệnh mà đồng điệu.</i>
<i>Cho nên, có một cách để hiểu kẻ viết: cứ xem anh viết về ai, có thể biết anh</i>
<i>là ai” – lời nhận xét của nhà nghiên cứu văn học, T.S Chu Văn Sơn thật</i>
chính xác về Thanh Thảo, nhà thơ của mạch xúc cảm “yếu mềm và mãnh
<i>liệt như cỏ…”. Với Thanh Thảo, “Đàn ghi ta của Lor-ca” là khoảnh khắc</i>
bắt nguồn từ những ám ảnh… Những bài thơ của Lor-ca qua bản dịch của
Hoàng Hưng đã được chép vào cuốn sổ tay dưới đáy ba lô, theo chân người
chiến sĩ Thanh Thảo ra chiến trường… bất chợt ùa về tâm trí trong một ngày
của năm 1979, để nhà thơ chợt nhận ra rằng: “Thực ra, Lor-ca đã sống
<i>trong tôi từ những năm 1969 – 1970 qua bản dịch chép tay mà chúng tôi</i>
<i>truyền cho nhau”. Và Thanh Thảo đã viết “Đàn ghi ta của Lor-ca” như sự</i>
giải tỏa nỗi ám ảnh, trong một trạng thái không nghĩ ngợi, một trạng thái mà


vô thức chiếm lĩnh nhà thơ trọn vẹn…


<i><b>“những tiếng đàn bọt nước</b></i>
<i><b>Tây Ban Nha áo choàng đỏ gắt</b></i>
<i><b>li-la li-la li-la</b></i>


<i><b>đi lang thang về miền đơn độc</b></i>
<i><b>với vầng trăng chuếnh choáng</b></i>
<i><b>trên yên ngựa mỏi mòn”</b></i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(56)</span><div class='page_container' data-page=56>

<i>hoa li-la, chàng kị sĩ giang hồ, hành trình đơn độc, vầng trăng đỏ, con ngựa</i>
<i>đen, khúc hát dân gian, đấu trường đẫm máu, bài ca mộng du, nàng Di-gan,</i>
<i>lá bùa hộ mệnh... </i>Và cả một dịng sơng miên man chảy với đơi bờ mênh
mơng cỏ mọc hoang… chưa bao giờ thơi đeo bám ngịi bút Thanh Thảo. Vì
vậy, nói bài thơ là sự “cộng hưởng, đồng cảm, đồng điệu, đồng tình, đồng ý,
<i>đồng chí, đồng vọng” (39;35) của Thanh Thảo và F.G.Lor-ca, đâu có gì khó</i>
hiểu? Hình tượng Lor-ca và suy cảm Thanh Thảo đã cùng cất lên bằng một
dòng thi liệu hòa quyện khơng thể tách rời nhau… Cịn có thể là gì khác
hơn, ngồi tình cảm tri âm, tâm giao… mà Thanh Thảo đã dành để tôn vinh
Lor-ca?


<i><b>“Tây Ban Nha</b></i>
<i><b>hát nghêu ngao</b></i>
<i><b>bỗng kinh hoàng</b></i>
<i><b>áo choàng bê bết đỏ</b></i>
<i><b>Lor-ca bị điệu về bãi bắn</b></i>
<i><b>chàng đi như người mộng du”</b></i>


(Đàn ghi ta của Lor-ca – Thanh Thảo)



</div>
<span class='text_page_counter'>(57)</span><div class='page_container' data-page=57>

<i>chết? Chính tơi chăng?”. Một Trịnh Công Sơn tâm sự về cái chết giản đơn</i>
đến nao lịng: “Càng sống nhiều thì càng thấy cái chết dễ dàng đến với bất
<i>cứ một ai. Chết q dễ mà sống thì q khó. Hơm nay gặp nhau đấy, ngày</i>
<i>mai lại mất nhau. Sống thì có hẹn hị hơm nay, hơm mai. Chết thì chẳng bao</i>
<i>giờ có cuộc hẹn hị nào trước”. Vậy mà, dù ln dự cảm về cái chết, nhưng</i>
Lor-ca cũng không ngờ đến một ngày mình bị sát hại phũ phàng đến vậy...


“tiếng ghi ta nâu
<i><b>bầu trời cô gái ấy</b></i>


<i><b>tiếng ghi ta lá xanh biết mấy</b></i>
<i><b>tiếng ghi ta tròn bọt nước vỡ tan</b></i>
<i><b>tiếng ghi ta ròng ròng </b></i>


<i><b>máu chảy”</b></i>


(Đàn ghi ta của Lor-ca – Thanh Thảo)


Những “tiếng ghi ta” tồn tại ám ảnh và bất tử như khát vọng sống
mãnh liệt của chính chủ nhân… Một “màu nâu” trầm lắng mà bao dung
như mảnh đất quê hương trù phú, trẻ trung như bầu trời mỗi buổi bình minh,
rạng ngời như niềm hạnh phúc trên khuôn mặt cô gái căng tràn sức sống…
<i><b>“Màu nâu” ấy nuôi dưỡng nguồn thơ Lor-ca, làm nên “con người anh kỳ</b></i>
diệu, màu nâu, kêu gọi sự toàn phúc” – Pablo Neruda. Trong thơ Lor-ca,
<i><b>“màu xanh” là một khát khao mê mải, khắc khoải qua từng câu, từng chữ…</b></i>
nó mang sức sống mãnh liệt và niềm tin bất diệt của anh…


“Xanh, ta kết em biết mấy, xanh
<i>xanh gió, xanh cành…</i>



<i>…xanh thân hình, xanh tóc…</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(58)</span><div class='page_container' data-page=58>

<i>xanh gió, xanh cành…”</i>


(Bài ca mộng du – Thanh Thảo dịch thơ Lor-ca từ tiếng Anh)
Phải chăng đó cũng là sắc màu của “Đóa hoa Xanh” – biểu trưng cho
nghệ thuật của thi sĩ lãng mạn người Đức – Novalis trong truyền thuyết đi
tìm ý nghĩa của tình yêu, nghệ thuật và cái chết? Từ “tiếng ghi ta tròn bọt
<i><b>nước vỡ tan”, lúc hiện lúc tan, nhưng tan rồi lại hiện, nó mong manh nhưng</b></i>
khơng thể hủy diệt, đến “tiếng ghi ta rịng ròng máu chảy”, đau đớn, vỡ ra
thành màu sắc, đường nét, hình khối… Tất cả là nỗi ngậm ngùi cho số phận
của cái Đẹp, của nghệ thuật đích thực, dù ở thời đại nào, ở nơi đâu cũng
song hành với truân chuyên, sóng gió: “Chi phấn hữu thần liên tử hận. Văn
<i>chương vô mệnh lụy phần dư” – Nguyễn Du. Lời thơ như cung đàn đứt</i>
ngang dây dang dở, không tin nổi vào hiện thực nghiệt ngã đang tồn tại. Đối
với lòng tiếc thương, mọi cái chết đều ngang trái…


Dòng cảm xúc bi tráng như bật ra từ tiềm thức Thanh Thảo bởi sự ám
ảnh khôn nguôi của một ước nguyện mang tên F.G.Lor-ca: “Cuando yo
<i>muera enterradme con mi guitarra” – “Bao giờ tôi chết, hãy chôn tôi cùng</i>
<i>cây đàn ghi ta”…</i>


<i><b>“không ai chôn cất tiếng đàn</b></i>
<i><b>tiếng đàn như cỏ mọc hoang”</b></i>


(Đàn ghi ta của Lor-ca – Thanh Thảo)


</div>
<span class='text_page_counter'>(59)</span><div class='page_container' data-page=59>

<i>đất họ đang giày xéo dưới chân; dù cho họ có lấy đá lát kín đi để khơng</i>
<i>một mầm non nào hịng chồi lên được; dù cho họ vặt kỳ hết từng ngọn cỏ</i>
<i>mới nhú; dù cho họ đốt than, đốt dầu, hun khói mù mịt cả bầu trời; dù cho</i>


<i>họ phạt trụi cây cối, đuổi hết chim muông, mặc, mùa xuân vẫn cứ là mùa</i>
<i>xuân, ngay cả trong thành phố. Trời nắng ấm, <b>cỏ sống lại, mọc lên xanh</b></i>
<i><b>rờn ở khắp nơi…” – L. Tolstoi. Phải chăng, trong sâu thẳm tim mình,</b></i>
Thanh Thảo đã nhận thấy nỗi đau lớn của cuộc đời Lor-ca lại là một nỗi đau
đẹp đến diệu kỳ..?


<i><b>“giọt nước mắt vầng trăng</b></i>
<i><b>long lanh trong đáy giếng”</b></i>


(Đàn ghi ta của Lor-ca – Thanh Thảo)


Và vì lẽ đó, những câu thơ diễn tả cuộc hành trình định mệnh đối mặt
với cái chết của người thi sĩ thiên tài trở nên bình thản và giản đơn như đời
sống ln có cái chết hầu cận, cái chết luôn tháp tùng đời sống, cả hai cùng
“nối liền một vòng tử sinh”, coi sự sống và cái chết như “một cõi đi – về”,
quan trọng là sống thế nào cho trịn đầy sự có mặt và chết cho ngập tràn cõi
hư không. Con người phải đi đến tận cùng hai cõi sống – chết để làm tan
biến đi những giấc mơ và mộng đời không thực.


<i><b>“đường chỉ tay đã đứt</b></i>
<i><b> dịng sơng rộng vơ cùng</b></i>
<i><b> Lorca bơi sang ngang</b></i>
<i><b> trên chiếc ghi-ta màu bạc </b></i>


<i><b> chàng ném lá bùa cơ gái di-gan </b></i>
<i><b> vào xốy nước</b></i>


<i><b> chàng ném trái tim mình</b></i>
<i><b> vào lặng yên bất chợt </b></i>
<i><b> li-la li-la li-la...”</b></i>



</div>
<span class='text_page_counter'>(60)</span><div class='page_container' data-page=60>

“Đường chỉ tay đã đứt” như những gì linh giác Lor-ca mách trước.
Và dịng sơng vắt ngang đơi bờ sinh – tử thật mênh mơng, khơng có lấy một
cây cầu, người ta sẽ vứt lại sau lưng tất cả những hệ lụy trần ai, để đi tiếp đến
thế giới vĩnh hằng. Lor-ca đã dứt khốt: “ném lá bùa cơ gái di-gan / vào xốy
<i>nước / chàng ném trái tim mình / vào lặng yên bất chợt”, như </i>ném lại sau
lưng những đớn đau, những khát vọng, những nuối tiếc của đời người, để cây
đàn thơ – “chiếc ghi ta màu bạc” đưa chàng qua dịng sơng Hữu Hạn đến bến
bờ Vĩnh Viễn. Bằng cái chết của mình, Lor-ca đã khẳng định Cái Đẹp thật
mong manh nhưng khơng gì có thể hủy diệt, cũng như tôn vinh sự bất tử của
Thơ… Và Thanh Thảo, chỉ còn một cách duy nhất là ngợi ca sự hiến dâng
đau thương mà cao đẹp cho cuộc sống nhân loại của Lor-ca, bằng một bài thơ
nhỏ nhưng lại là chiếc cầu nối chúng ta với một nền văn hóa – nghệ thuật
lớn, một nền thơ tuyệt vời của đất nước Tây Ban Nha và một nhà thơ thiên
tài không chỉ của xứ sở Flamenco, mà của toàn thế giới – F.G.Lor-ca.


Với tất cả những điều đã lĩnh hội được trong quá trình tìm hiểu,
nghiên cứu về cuộc đời và số phận người nghệ sĩ thiên tài – một “sản vật”
của nhân loại, chúng tơi muốn gọi chính danh F.G.Lor-ca là Người ca thơ –
một danh từ để nói về các thi ca sĩ (troubadour / minstrel) – những sứ giả
sống để phụng thờ và ca tụng Tình Yêu và Cái Đẹp như là nguồn sáng cứu
rỗi cuộc sống con người trong đêm trường Trung cổ. Với họ, một khoảnh
khắc sống với quả tim yêu nồng nhiệt đáng giá hơn một trăm năm sống bằng
quả tim khô héo, dù ngay cả khi họ ca tụng tình yêu bằng những bài tình ca
khơng có hạnh phúc…


<b>TIỂU KẾT</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(61)</span><div class='page_container' data-page=61></div>
<span class='text_page_counter'>(62)</span><div class='page_container' data-page=62>

<i>theo cách riêng của tơi, thì tơi mới có thể làm thơ về Lor-ca được. Điều đó</i>
<i>cũng phù hợp với qui trình để có thơ”. </i>



Những lời chia sẻ của Thanh Thảo cũng là minh chứng xác thực nhất
cho những vấn đề chúng tơi đã trình bày về bài thơ “Đàn ghi ta của
<b>Lor-ca” của Thanh Thảo trong chương I.</b>


<i><b>CHƯƠNG II</b></i>


<b>DẠY – HỌC BÀI THƠ “ĐÀN GHI TA CỦA LOR-CA”</b>
<b> </b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(63)</span><div class='page_container' data-page=63>

chật hẹp của bản thân để “nếm trải” những cuộc đời riêng biệt từ nhiều xứ
sở, nhiều thời đại xa xôi. Sứ mệnh của văn học, xét cho cùng, không nằm
ngồi sự đóng góp thực tiễn của nó, tức là khơng nằm ngồi mối liên hệ của
nó với cuộc đấu tranh chung cho tiến bộ xã hội. Tuy nhiên, văn học nghệ
thuật khơng thể thay thế được vũ khí trong các cuộc đấu tranh và cũng
khơng tự mình làm nên cách mạng; nhưng với khả năng cảm hóa và giáo
dục của nó, văn học góp phần khơng nhỏ cho sự sản sinh những con người
biết cầm vũ khí và sáng tạo xã hội. Trên tinh thần ấy, chức năng giáo dục,
xây dựng con người vẫn là thiên chức cao quý, là lí do tồn tại chính đáng
nhất và sâu xa nhất của văn học nghệ thuật.


Vì lẽ đó, mỗi người GV dạy Văn phải luôn ý thức được trách nhiệm
của bản thân trong quá trình dạy – học, bằng việc định hướng kiến thức
chính xác và lựa chọn phương pháp nghiên cứu thích hợp để giải mã thành
cơng tất cả các TPVH của bộ mơn “vừa mang tính khoa học, vừa mang tính
nghệ thuật” (30;5) này. Muốn hồn thành mục đích tốt đẹp ấy, cần hiểu rõ
cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn để đề xuất phương hướng dạy – học thực sự
hiệu quả.


<b>1. CƠ SỞ LÝ LUẬN</b>



</div>
<span class='text_page_counter'>(64)</span><div class='page_container' data-page=64>

không dựa trên dạy học. Dù ở phương thức nào thì để giáo dục người khác
và tự giáo dục, nhất thiết phải có chuyện dạy và học cái gì đó. Dạy học được
xem như một q trình và chức năng chủ yếu của nó là xử lý những kinh
nghiệm xã hội: từ hình thái xã hội thành hình thái cá nhân, từ trừu tượng
thành cụ thể, từ khách quan thành chủ quan, được thực hiện bởi người học
trong môi trường được tổ chức đặc biệt về mặt sư phạm do người GV tạo ra
và giữ vai trò quyết định. Bản chất của dạy học chính là gây ảnh hưởng có
chủ đích, đến hành vi học tập và q trình học tập của người khác, tạo ra
mơi trường và những điều kiện để người học duy trì việc học, cải thiện hiệu
quả, chất lượng học tập, kiểm soát quá trình và kết quả học tập của mình.
Dạy học chính là cơ cấu và quy trình tác động đến người học và quá trình
học. Chủ thể dạy học là GV và bất kỳ người nào tiến hành bảo ban người
khác học tập. Vì thế, dạy học tức là “dạy – bảo – chỉ dẫn” người khác học,
điều đó có nghĩa là: dạy người học “muốn học” (có nhu cầu học tập), dạy
người học “biết học” (có kỹ năng và biện pháp học tập), dạy người học “học
lành mạnh” (có động cơ đúng đắn), dạy người học “học bền bỉ” (có ý chí
học tập), dạy người học “học thành cơng” (có kết quả và chất lượng), dạy
người học “học chủ động và độc lập” (có khát vọng và có ý thức tự giác học
tập). Làm được như vậy, thì GV mới thực sự là người thầy, HS mới thực sự
là người học. Lý luận dạy học hiện đại yêu cầu phải rèn luyện các hoạt động
tư duy, phát triển trí tuệ của HS theo hướng lấy HS làm trung tâm trong quá
trình dạy học. Vì vậy, với đặc thù của bộ môn Ngữ văn, GV cần tăng cường
các hoạt động khám phá của HS khi tìm hiểu TPVC để phát huy năng lực trí
tuệ, từ đó hình thành các phẩm chất tư duy của các em như: khả năng phán
đoán, khả năng hình thành giả thuyết hoặc khái niệm, khả năng sử dụng
ngôn ngữ chuẩn xác, tinh tế…


</div>
<span class='text_page_counter'>(65)</span><div class='page_container' data-page=65></div>
<span class='text_page_counter'>(66)</span><div class='page_container' data-page=66></div>
<span class='text_page_counter'>(67)</span><div class='page_container' data-page=67>

hơn (do được tiếp xúc với rất nhiều kênh thông tin), đặc biệt là HS ở các
thành phố trực thuộc tỉnh và TW. Các em đang có sự phát triển tâm lý khá


mạnh, nên theo một số nhà tâm lý học giáo dục thì quá trình dạy học phải
coi trọng vấn đề phát triển tiềm năng trí tuệ thuộc về chức năng của bán cầu
não (bán cầu có chức năng tạo cảm xúc, trực giác, sáng tạo của con người).
Tuổi của HS theo học THPT, cũng là lứa tuổi trí tuệ con người đang phát
triển mạnh. Các em đã ý thức được những việc mình làm, xác định được
mục đích trong hành động của bản thân. Hoạt động trí tuệ ở lứa tuổi này
tăng lên một cách rõ rệt. Các em có khả năng ghi nhớ và phân hóa kiến thức
rất nhanh, đặc biệt từ những ghi nhớ tản mạn, các em bắt đầu có khả năng
khái quát và tổng hợp hóa vấn đề, để rút ra những kiến thức cơ bản nhất cần
lĩnh hội. Các em có khả năng tư duy lý luận, tư duy trừu tượng một cách độc
lập, sáng tạo trước những đối tượng quen biết đã được học hoặc chưa được
học ở trường. Tư duy của các em chặt chẽ hơn, có căn cứ và nhất qn hơn.
Đồng thời tính phê phán của tư duy cũng phát triển. Cho nên, trong nhà
trường hiện đại, không phải lúc nào HS bậc THPT cũng công nhận kiến thức
mà GV đã truyền giảng như những “con chiên ngoan đạo”, bởi các em đang
ở lứa tuổi mong muốn được độc lập suy nghĩ, tự do khám phá, chủ động tiếp
thu và bắt đầu có nhu cầu tự khẳng định mình, cũng như địi hỏi sự tôn trọng
của mọi người... để tạo tiền đề cho những ý tưởng sáng tạo của bản thân.


</div>
<span class='text_page_counter'>(68)</span><div class='page_container' data-page=68>

<i>dục không phải là dạy cách kiếm sống hay cung cấp cơng cụ để đạt được sự</i>
<i>giàu có, mà đó phải là con đường dẫn lối tâm hồn con người vươn đến cái</i>
<i>Chân và thực hành cái Thiện” – Vijaya Lakshmi Pandit. Điều đó địi hỏi</i>
mỗi GV phải chủ động đa dạng hóa các phương pháp dạy – học, phải thay
thế lối diễn xuất một chiều của GV thành hoạt động tương tác tích cực đầy
hứng thú giữa thầy và trò, phải tận dụng mức độ và hiệu quả thành tựu khoa
học kỹ thuật (cụ thể là sự vận dụng cơng nghệ thơng tin) trong q trình dạy
– học… Với đặc thù của bộ môn Văn, người GV phải trở thành nghệ sĩ của
những giờ lên lớp để giúp HS tự khám phá tri thức trên cơ sở tự giác và tự
do suy nghĩ, tranh luận, đề xuất, giải quyết, đánh giá và kết luận vấn đề.
<i>“Đối với người giáo viên, cần phải có kiến thức, có hiểu biết sư phạm về</i>


<i>quy luật xã hội, có khả năng dùng lời nói để tác động đến tâm hồn học sinh.</i>
<i>Có kỹ năng đặc sắc nhìn nhận con người và cảm thấy những rung động tinh</i>
<i>tế nhất của trái tim con người” – Xukhomlinxki. </i>Và khi ấy: thầy cô giáo
khơng cịn là người nhồi nhét kiến thức mà thực sự là người khơi dậy ngọn
lửa tâm hồn trong mỗi người học trò.


</div>
<span class='text_page_counter'>(69)</span><div class='page_container' data-page=69>

thơ, sự tinh tế của kỹ xảo, vần điệu), của khổ thơ (âm hưởng chính, câu thơ
văn xi, khổ dân ca), của tính hình ảnh (biểu tượng tổng thể, ấn tượng, so
sánh, ký hiệu kín và ẩn dụ tuyệt đối), của phong cách (nhân vật – hình
tượng, mỹ từ pháp, cú từ pháp), của tính đề tài (mơ típ) và những mối quan
hệ giao tiếp văn học, những tác động khác nhau (cắt nghĩa nội tại tác phẩm,
cách thức cấu trúc, phân tích thực tế văn bản)” (21;98). Bên cạnh đó, người
GV dạy Văn cần có ý thức sâu sắc về đối tượng phương pháp của giảng
dạy TPVC (văn học trữ tình) là mối quan hệ giữa văn bản – học sinh – hoạt
động bên trong.


H.R.Jauz quan niệm: TPVC là một “đề án tiếp nhận” và cũng là một
“kết cấu vẫy gọi” những hoạt động tiếp nhận của độc giả. “Kết cấu” là cách
tổ chức, cấu trúc hình thức của tác phẩm, được thể hiện rõ ở tính nhiều tầng
bậc và tính nhiều lớp của nó. Đó là lớp tổ chức chất liệu, lớp cấu trúc hình
tượng, lớp ý nghĩa nghệ thuật. Chính các lớp tổ chức trong một TPVC, có
tác động rất lớn đến nhận thức và tình cảm của độc giả, giữ vai trị chủ đạo
là lớp cấu trúc hình tượng, vì vậy GV và HS cần nghiên cứu các cấp độ hình
tượng trong quá trình dạy học.


</div>
<span class='text_page_counter'>(70)</span><div class='page_container' data-page=70>

<i>thức về chính mình; mặt khác, nó gồm nghĩa mình mong thốt khỏi chính</i>
<i>mình” – Octavio Paz.</i>


- Tình huống trữ tình: Mỗi người đều suy nghĩ, nói, viết, hành động
trong một tình huống cụ thể và thơ cũng khơng nằm ngồi điều đó. Chủ thể


trữ tình được nhà thơ đặt vào một tình huống nhất định như: địa điểm, thời
gian, xã hội hoặc hồn cảnh cá nhân mà nó xuất hiện, thể hiện và bộc lộ
những cảm xúc chủ đạo trong tác phẩm. Tình huống trữ tình thường ở ngay
trong văn bản, yêu cầu người đọc phải tự phát hiện và phân tích, nó khuyến
khích sức tưởng tượng và huy động vốn hiểu biết của người đọc.


- Hình tượng trữ tình: Như người họa sĩ, nhà thơ cũng xây dựng hình
tượng trữ tình thơng qua những phần hoặc những đoạn khác nhau, cịn được
gọi là hình tượng thơ. Tác giả đã dùng ngơn ngữ nghệ thuật để thể hiện hình
tượng đó, nó cụ thể và hấp dẫn đến mức có thể vẽ ra hoặc dựng thành phim.
Để đề cao sức tưởng tượng cho người đọc, tác giả đã sử dụng phương tiện
quan trọng là ngôn ngữ nghệ thuật xây dựng nên hình tượng trữ tình


- Hình tượng ngơn ngữ: Từ tiếng nói quen thuộc của đời sống, ngơn
ngữ thơ ca đã tạo thêm cho mình những năng lực mới rất kỳ diệu. Ngôn ngữ
thơ gợi cảm, giàu nhạc điệu, biến hóa qua nhiều sắc thái bất ngờ, thậm chí
cịn được một số nhà lí luận đẩy lên bình diện thứ nhất và xem thực chất sự
sáng tạo trong thơ là sáng tạo ngôn từ hoặc tổ chức kết cấu hơn là ở những
nhân tố nội dung. Tuy nhiên, khuynh hướng chung của các nhà thơ tiến bộ
qua các thời đại, đều có ý thức gắn bó sứ mệnh và bản chất thơ ca với xã
hội, vì thế hình tượng ngơn ngữ được coi là hình tượng văn học, là bức tranh
sinh dộng nhất của cuộc sống được xây dựng bằng ngơn ngữ nhờ có trí
tưởng tượng và cách đánh giá của người nghệ sĩ.


<b>2. CƠ SỞ THỰC TIỄN</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(71)</span><div class='page_container' data-page=71>

Như đã trình bày trong phần Mở đầu, bài thơ “Đàn ghi ta của
<i><b>Lor-ca” của Thanh Thảo chính thức được đưa vào chương trình SGK Ngữ văn</b></i>
lớp 12 (Tập 1 – Xuất bản năm 2008) từ năm học 2008-2009. Sự kiện này trở
thành một “điểm nóng” đối với dư luận xã hội vốn đang rất quan tâm đến


việc “Dạy – học môn Văn trong nhà trường THPT” với vấn đề chung nhất
như sau: “Đàn ghi ta của Lor-ca” là một tác phẩm văn học mới, được (bị)
<i><b>đánh giá là một trong những văn bản “hai khó”: KHĨ HỌC và KHĨ</b></i>
<i><b>DẠY. Trước thực tế khơng hề thuận lợi ấy, việc dạy học bài thơ là một thử</b></i>
thách thực sự đối với GV và HS lớp 12 – THPT.


<i><b>2.1.1. Về phía giáo viên: Xuất phát từ yếu tố chủ quan, bản thân là một GV</b></i>
Ngữ văn – THPT, đã tham gia lớp tập huấn thay SGK của Bộ Giáo dục và
Đào tạo tổ chức vào tháng 8 / 2008 tại TP. Hải Phòng và trực tiếp giảng dạy
<b>“Đàn ghi ta của Lor-ca” của Thanh Thảo vào năm học đầu tiên bài thơ</b>
chính thức được đưa vào chương trình Ngữ văn 12; cũng như yếu tố khách
quan là những cuộc trao đổi kinh nghiệm và học tập chuyên môn với các
bạn đồng nghiệp, người viết có những ý kiến như sau về thực trạng giảng
dạy bài thơ của GV bậc THPT như sau:


</div>
<span class='text_page_counter'>(72)</span><div class='page_container' data-page=72>

mã bài thơ “Đàn ghi ta của Lor-ca”. Ví dụ như: hình ảnh “đi lang thang về
<i>miền đơn độc” hay bị hiểu lầm rằng: Lor-ca là một nhạc sĩ lang thang nay</i>
đây mai đó; hình ảnh “người mộng du” trong câu thơ “chàng đi như người
<i>mộng du” cũng bị hiểu là người đi lang thang, khơng biết đi đâu, về đâu;</i>
hoặc là hình ảnh “bầu trời cô gái ấy” đâu phải chỉ cần hiểu một cách đơn
giản là người con gái đã dành trọn trái tim mình cho Lor-ca?..


</div>
<span class='text_page_counter'>(73)</span><div class='page_container' data-page=73>

khơng thể “tới được” và “chạm đáy”… theo quan niệm của chính
F.G.Lor-ca về nghệ thuật thi F.G.Lor-ca; hoặc “lá bùa cô gái Di-gan” khơng nên chỉ bằng
lịng với cách hiểu như chú thích 3 và 4 – trang 165 – SGK Ngữ văn 12 bộ
Cơ bản, với lời giải thích tách bạch như sau: “Bùa: vật thường làm bằng
giấy hoặc vải, có những dấu hiệu riêng đặc biệt, được tin là có phép thiêng
trừ ma quỷ, tránh được tai nạn, mê hoặc được người khác…” và “Di-gan:
cịn có tên gọi khác là người Bơ-hê-miêng, một tộc người thích sống lang
thang, tự do, mưu sinh bằng múa, hát, xem tướng và bùa chú”, bởi hình ảnh


đó cịn là sự tơn vinh cái Đẹp, là lời khẳng định giá trị cũng như sức mạnh
của cái Đẹp có thể chế ngự và chiến thắng tất cả... mà Thanh Thảo đã gửi
gắm theo dòng tư tưởng của Lor-ca (trong thơ Lor-ca “cô gái Di-gan” là
hiện thân của cái Đẹp rực rỡ, cháy bỏng và huyền nhiệm...)


- Thể thơ tự do và chịu ảnh hưởng sâu sắc của khuynh hướng tượng
trưng – siêu thực, không phải là “mảnh đất hứa” cho những PPDH đã cũ
mịn, khn sáo và cơng thức. Những thao tác phân tích TPVC quen thuộc
đến “mệt mỏi” của đa số GV dạy Văn như: tìm chủ đề, bố cục, chia đoạn,
phân tích theo ý 1, ý 2...; quá thiên về nội dung hoặc về ngôn ngữ mà khơng
chú ý đến những tình huống cảm thụ nghệ thuật; thậm chí chưa thuộc trọn
vẹn để “ngấm” ngơn ngữ tác phẩm nên không thể đọc diễn cảm (một bước
quan trọng, chủ công trong tiếp cận TPVC), sử dụng câu hỏi chưa phù hợp
(số lượng nhiều nhưng vụn vặt, dạng câu hỏi phát hiện – tháo gỡ nhiều hơn
câu hỏi cảm thụ…)


</div>
<span class='text_page_counter'>(74)</span><div class='page_container' data-page=74>

yêu cầu giảng dạy của bộ môn. Thiết nghĩ, đây là một “chướng ngại vật” khó
vượt nhất của của mỗi GV trên hành trình đổi mới và sáng tạo PPDH Văn.
<i><b>2.1.2. Về phía học sinh: Không biết tự khi nào, môn Văn đã trở thành một</b></i>
“ám ảnh” gồm những tính từ: khó, chán, mệt mỏi, nặng nề, sáo rỗng, rập
khuôn, chép mỏi tay… với đa số HS bậc THPT… Đau lòng hơn là những
phát ngơn thiếu tính xây dựng và đầy tiêu cực của dư luận, thậm chí có cả
những gương mặt đã từng một thời gắn bó với bộ mơn khoa học nhưng lại là
một nghệ thuật này (bài đối thoại cũ trên báo Văn nghệ Trẻ số 34/2008 của
Vương Trí Nhàn…). Tuy nhiên, đó cũng là một thực tế mà HS đang phải đối
mặt khi theo học chương trình Ngữ văn – THPT nói chung và bài thơ “Đàn
<b>ghi ta của Lor-ca” của Thanh Thảo nói riêng. Cùng với định danh “hai</b>
khó” trong chương trình dạy học của Bộ Giáo dục và Đào tạo, bài thơ còn
thực sự là một “quan hà hiểm trở” với các thí sinh đăng ký thi Đại học –
khối D, tháng 7/2010 vừa qua. Từ sự khảo sát khách quan, người viết thống


kê được những tồn tại trong quá trình học bài thơ “Đàn ghi ta của Lor-ca”
của HS lớp 12 như sau:


- Đa số HS học mơn Văn theo cách “thầy là cái máy nói, trị là cái
máy chép”, “đọc – chép” chứ khơng phải là “đọc – hiểu” như nguyện vọng
đổi mới, sáng tạo của các Giáo sư, Phó Giáo sư, và Tiến sĩ trong ngành
PPDH Văn. Và bài thơ “Đàn ghi ta của Lor-ca” cũng khơng nằm ngồi
“truyền thống” học tập đó. Nghĩa là, HS thụ động, phụ thuộc hồn tồn vào
GV để lĩnh hội kiến thức, tiếp cận bài thơ theo bài giảng chủ quan của GV,
thầy dạy như thế nào thì trị hiểu như vậy, yếu tố chủ động và sáng tạo trong
quá trình học Văn của HS gần như bị triệt tiêu.


</div>
<span class='text_page_counter'>(75)</span><div class='page_container' data-page=75>

GV; 3- không soạn bài với nhiều lý do, mà “không hiểu bài thơ” có thể coi
là chính đáng nhất.


- Hầu hết khơng nắm bắt được điều gì từ bài thơ “Đàn ghi ta của
<b>Lor-ca” và nhà thơ Thanh Thảo, ngoài những ý kiến a dua do không tự nhận thức</b>
mà chỉ chạy theo dư luận, như kiểu: “bài thơ 3 “kh”: khó, khơ, khổ”…


- Tuy nhiên, vẫn cịn một bộ phận HS u thích mơn Văn, ln mong
nhận được sự chỉ dẫn, định hướng chuẩn xác của GV để có thể tự tin khám
phá bài thơ với khả năng và sự say mê môn học này. Đây cũng là một “áp
lực” với GV dạy Văn, vì những tồn tại chủ quan của HS trong quá trình tiếp
cận bài thơ “Đàn ghi ta của Lor-ca”, có khơng ít ngun nhân bắt nguồn từ
việc “thầy giảng khơng ra”...


<i><b>2.1.3. Về phía sách giáo khoa: Tiếp nhận cái mới bao giờ cũng gặp nhiều</b></i>
khó khăn cả về văn bản, chương trình, phương pháp. Qua một vài năm dạy
học theo chương trình mới, người viết cũng nhận thấy những điểm ưu việt
đáng kể của bộ SGK Ngữ văn 12 – Cơ bản. Có thể nói rằng, đây là tâm


huyết và sự nỗ lực hết mình của đội ngũ các tác giả soạn sách trong việc
chọn văn bản hay, phù hợp tầm nhận thức và tâm lý lứa tuổi của HS, đồng
thời chủ trương giảm tải chương trình cũng được thực hiện triệt để. Tuy
nhiên, cũng cần phải đưa ra những nhận xét mang tính khách quan nhất về
hai mặt ưu điểm và nhược điểm của bộ SGK Ngữ văn 12 – Cơ bản nói
chung và bài thơ “Đàn ghi ta của Lor-ca” nói riêng.


</div>
<span class='text_page_counter'>(76)</span><div class='page_container' data-page=76>

- Các văn bản được chọn trong SGK khá tiêu biểu, bao quát được
nhiều kiểu văn bản và được phân bố đều ở các giai đoạn. Nguyên tắc tích
hợp là một yêu cầu hàng đầu được các tác giả biên soạn sách rất chú trọng.
Tích hợp vừa giúp cho HS liên kết bài học, củng cố bài học, đi sâu vào văn
bản tác phẩm lại vừa có khả năng ứng dụng để thực hành.


- Hệ thống bài tập củng cố kiến thức cần thiết, phát huy tính tích cực,
độc lập và sáng tạo trong suy nghĩ của HS. Bài học trong sách thiên về luyện
tập hướng HS thực hành. Đặc biệt là kỹ năng ứng dụng bài học của HS vào
cuộc sống.


<i>2.1.3.2. Bên cạnh những ưu điểm trên, bộ SGK có một số hạn chế cần phải</i>
khắc phục triệt để, và điều đầu tiên người viết muốn đề cập đến là: chương
trình giới thiệu, tuyển chọn đọc – hiểu một số văn bản mới, khó đối với cả
người dạy và người học, ví dụ như bài thơ “Đàn ghi ta của Lor-ca”. Đây là
một TPVC tiêu biểu cho những thành công trong cách tân nghệ thuật thơ
Thanh Thảo: sự kết hợp giữa hình thức thơ tự do và quan niệm mỹ học của
thơ tượng trưng – siêu thực phương Tây, sự giao hịa trong tư tưởng, văn
hóa, con người của hai nền văn minh Đông – Tây… Điều đó gây khó khăn
khơng ít cho HS trong việc tiếp nhận bài thơ.


- Để nắm được bài thơ cần có lượng kiến thức khá lớn như: phong
cách thơ Thanh Thảo, cuộc đời vinh quang và số phận bi kịch của người thi


sĩ thiên tài F.G.Lor-ca, hình thức thơ tự do nhuốm sắc thái siêu thực mà
Thanh Thảo tiếp thu từ chính nhân vật Lor-ca trong bài thơ ấy, kể cả một sở
nguyện sáng tác những bài tụng ca về những “gương mặt ngẩng lên lấp lánh
chất người” vốn luôn trăn trở trong thơ Thanh Thảo... Nhưng phần trình bày
của SGK vẫn chung chung, chưa sáng rõ, cụ thể… chính vì thế HS có tâm lí
chưa tích cực và thiếu chủ động khi tìm hiểu văn bản này. Ví dụ như:


</div>
<span class='text_page_counter'>(77)</span><div class='page_container' data-page=77>

tượng trưng – siêu thực, hay sự ngưỡng mộ Lor-ca của Thanh Thảo, cũng
như sự ảnh hưởng sâu sắc nghệ thuật thi ca của Lor-ca trong sáng tác của
Thanh Thảo, đặc biệt với bài thơ “Đàn ghi ta của Lor-ca”


+ Phần chú giải 2 / trang 163 là một tiểu sử khá đầy đủ để giới thiệu về
Federico Garcia Lorca, nhưng cũng là một thử thách cho HS khi đi đến những
kết luận cơ bản nhất về Lor-ca như: “Lor-ca là nhà thơ thiên tài, vĩ đại của Tây
Ban Nha và thế giới” hay vẫn cứ hiểu một cách chung chung, vô thưởng vô
phạt và thiếu sâu sắc như: Lor-ca “là một tài năng sáng chói của văn học Tây
Ban Nha”, “là một thần đồng với năng khiếu thiên bẩm trên nhiều lĩnh vực
nghệ thuật”; thậm chí đã bị lệch lạc như “Lor-ca là người chiến sĩ cách mạng,
trực tiếp tham gia chiến đấu”, như “một người anh hùng Tây Ban Nha”…


+ Phần chú giải 1 / trang 165 lại sử dụng từ “có thể” đầy cảm tính để
giải thích về hình ảnh “cơ gái ấy” như sau: “ở đây có thể chỉ An-na Ma-ri-a,
người yêu của Lor-ca. Sau cái chết của Lor-ca, An-na Ma-ri-a ở vậy, không
một lần lên xe hoa”. Tất nhiên với thơ, ta khơng thể lúc nào cũng địi hỏi sự
rành mạch như “2+2=4”, nhưng những gì chưa được khẳng định thì khơng
nên giải thích, nhất là giải thích thêm q nhiều những điều khơng có trong
văn bản, khơng cần thiết, không phù hợp với văn bản. Đây là điều tối kị đối
với sự tiếp nhận TPVC của HS.


+ Một số hình ảnh cần cắt nghĩa chính xác mang tính định hướng (cả


nghĩa hiển ngơn và hàm ẩn) thì chưa được nói đến như: “đi lang thang”,
<i><b>“hát nghêu ngao”, “người mộng du”… nên đã bị giải thích một cách máy</b></i>
móc theo nghĩa gốc trong Từ điển Tiếng Việt, khiến HS, thậm chí cả một bộ
phận khơng nhỏ GV, cũng hiểu nhầm ý nghĩa của những hình ảnh đó.


<b>2.2. Vấn đề đặt ra khi dạy – học bài thơ “Đàn ghi ta của Lor-ca”</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(78)</span><div class='page_container' data-page=78>

HS rất yêu Văn mà người dạy Văn cũng rất tâm huyết. Các thầy cô giáo dạy
Văn ngày ấy từ phổ thông cho đến bậc đại học đã truyền cho chúng tơi tình
u văn chương, dạy chúng tôi biết rung động thực sự trước những áng văn
hay… chứ không phải chỉ dạy kiến thức” (1) và những trăn trở trong thực
tại: “cách giảng văn “cầm tay chỉ chữ” mà khơng ít các thầy cô áp dụng ở
trường phổ thông hiện đã và đang làm hạn chế cảm xúc của HS. Với PPDH
một chiều, dường như, thầy cô mới chỉ truyền đạt cái xác của chữ, chứ chưa
đưa các em bắt được cái hồn của chữ. Vậy nên, HS chán học văn, ghét văn,
không hứng thú với văn… khơng có gì là q khó hiểu”, hoặc “học trò rời
lớp học văn chỉ còn ghi, nhớ được những ý này, ý khác. Dạy và học văn
dường như chỉ để mà… đi thi” (1)… Người viết nhận thức được rằng: Dạy
văn là sự đối thoại song phương giữa thầy và trị, trong đó, điểm chung của
thầy và trị chính là TPVC. Vì vậy, trước một thực trạng dạy học Văn nói
chung và bài thơ “Đàn ghi ta của Lor-ca” của thầy và trò bậc THPT,
những vấn đề mà người viết đặt ra sau đây, là mong muốn được góp thêm
một hướng khai thác, giải mã bài thơ hiệu quả, cũng như một tiếng nói tích
cực, tâm huyết vào cơng cuộc đổi mới, sáng tạo PPDH Văn – một sứ mệnh
vinh quang nhưng cũng không ít những nhọc nhằn của người GV dạy Văn.
<i><b>2.2.1. Về phía giáo viên</b></i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(79)</span><div class='page_container' data-page=79>

đưa câu hỏi vụn vặt, mà nên tập hợp các câu hỏi thành những gợi ý hướng
dẫn giải quyết một vấn đề, một nội dung học tập tương đối trọn vẹn); Dành
thời gian cho HS làm việc; GV hướng dẫn HS kỹ năng hệ thống và khẳng


định lại kiến thức cơ bản đã được dạy học của từng bài.


<i>2.2.1.2. Đối với việc giảng dạy TPVC: Phải đọc kỹ TPVC để thẩm thấu,</i>
hiểu và sống cùng tác giả, tác phẩm; Phải nắm vững tiểu sử, sự nghiệp sáng
tác của tác giả và hoàn cảnh ra đời của tác phẩm; Phải giảng dạy theo loại
thể của TPVC; Phải có “nghệ thuật đổi chỗ” vào vị trí của HS, thầy cảm
hiểu TPVC theo con mắt và cảm xúc của trị… từ đó tiên liệu được những
chi tiết khó hiểu, nhàm chán mà HS dễ vướng mắc để có hướng tháo gỡ thực
tế; Và mỗi GV dạy văn không chỉ là nhà khoa học sư phạm, mà còn là một
người nghệ sĩ trong mỗi giờ lên lớp.


<i>2.2.1.3. Với bài thơ “Đàn ghi ta của Lor-ca”: </i>


- Đây là một TPVC được viết theo lối tượng trưng – siêu thực với
hình thức thơ tự do, “một thể thơ không tuân theo những quy tắc về cách
luật như thể thơ Đường, thơ lục bát…” (33;104), được xếp vào thể loại trữ
tình – một trong ba khái niệm “tính tự sự - tính trữ tình - tính kịch” (21;97).
Vì vậy, cần bám sát đặc trưng riêng của thể loại trữ tình để có những kết
luận về PPDH bài thơ như những đúc kết của GS.TS. Nguyễn Thanh Hùng
trong bài viết “Tác phẩm trữ tình và phương pháp giảng dạy” (21;97).


</div>
<span class='text_page_counter'>(80)</span><div class='page_container' data-page=80>

ghi ta của Lor-ca”. Bởi chính nhà thơ Thanh Thảo đã tâm sự về tình cảm của
mình và hồn cảnh sáng tác của bài thơ: “Tơi nhớ, lần đầu tiên tôi được đọc
<i>một số bài thơ Lorca, qua bản dịch của Hoàng Hưng, những bản dịch được</i>
<i>bạn bè chép tay truyền cho nhau, tơi đó cảm nhận về Lor-ca như vậy, và</i>
<i>bây giờ, sau 40 năm, tôi vẫn cảm nhận như thế. Lor-ca là “một cơ quan của</i>
<i>Thiên Nhiên được sinh ra để làm thơ”, như câu nói của M.Gorki về</i>
<i>X.Êxênhin. Và cái “cơ-quan-thơ” đó hoạt động cho tới phút những viên đạn</i>
<i>phát-xít găm vào ngực nó. Nhưng trước cái ngày bi thảm của năm 1936,</i>
<i>Lorca đã đoán trước Định Mệnh của mình từ lâu lắm, và đón bằng tất cả</i>


<i>những bài thơ của mình. Vì thế, có lẽ cái chết đối với Lorca khơng đột ngột,</i>
<i>dù nó đột ngột với tồn thế giới. Ơng đã bình thản đi tới cái chết, trên tay là</i>
<i>cây đàn thơ, một cây “ghi ta màu bạc”. Từ những cảm nhận mơ hồ, bị ngắt</i>
<i>quãng nhưng cũng dài lâu ấy, vào năm 1979 đó, tơi đó viết bài thơ “Đàn</i>
<i>ghi-ta của Lorca”. Cả bài thơ bật lên nhờ một câu thơ của Lor-ca dẫn dắt:</i>
<i>“Khi tôi chết hãy chôn tôi với cây đàn”, và chính là qua thơ Lor-ca mà tơi</i>
<i>hình dung ra cái chết của ông” – Thanh Thảo.</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(81)</span><div class='page_container' data-page=81>

<i>Trước khi viết được bài thơ nhỏ về Lorca, thì thơ ơng đã sống trong tơi ít</i>
<i>nhất là hàng chục năm, sống trong cả những năm tháng tôi ở chiến trường.</i>
<i>Thơ ông đã chia sẻ với những nhọc nhằn hay buồn bã mà tôi phải chịu trong</i>
<i>chiến tranh và cả sau chiến tranh” – Thanh Thảo. 2- Giúp HS hiểu được</i>
“hiện thực nghệ thuật của tác phẩm” với đối tượng miêu tả và những biến cố
đang diễn ra, những dấu hiệu, những q trình tư tưởng có mối liên hệ khăng
khít với tác giả nhờ sự diễn đạt phong phú của tư tưởng nghệ thuật để tạo ra
bức tranh nghệ thuật toàn vẹn. Đọc “Đàn ghi ta của Lor-ca” nếu không ý
thức được yêu cầu này, GV sẽ rơi vào tình trạng khó có thể hiểu để truyền đạt
cái hay, cái đẹp, cái cảm xúc của bài thơ tới HS. Bài thơ thực sự là một sáng
tạo nghệ thuật độc đáo của Thanh Thảo vì từ nội dung tư tưởng đến hình thức
nghệ thuật của “Đàn ghi ta của Lor-ca” là sự ảnh hưởng sâu sắc, hòa quyện
đến mức nhập thân của Thanh Thảo vào cuộc đời và sự nghiệp của Lor-ca. Vì
thế, “Thơ Lorca mang đậm chất dân ca miền Andalucia, nhưng hình thức
<i><b>thể hiện của nó lại là thơ siêu thực, có phần tượng trưng và đặc biệt là rất</b></i>
<i><b>giàu nhạc tính. Có thể nói Lor-ca – thi sĩ “dân tộc trong tâm hồn và hiện</b></i>
<i><b>đại trong hình thức thể hiện”. Cả hai phía này đều tự nhiên, hồn nhiên,</b></i>
<i><b>và hòa nhập vào nhau cũng rất đương nhiên” và bài thơ của Thanh Thảo</b></i>
cũng vậy. 3- Giúp HS hiểu được “hiện thực riêng” tức là hiện thực cuộc
sống bên ngoài, là nguồn gốc và cơ sở hình thành nên mối quan hệ đối với
“hiện thực xã hội của tác giả” và “hiện thực nghệ thuật trong TPVC”.



</div>
<span class='text_page_counter'>(82)</span><div class='page_container' data-page=82>

tham gia vào quá trình đọc – hiểu, cắt nghĩa – chú giải, tạo bầu không khí
văn chương, tái hiện hình tượng và bình giảng bài thơ trong giờ dạy học.
<i><b>2.2.2. Về phía học sinh</b></i>


<i>2.2.2.1. Yêu cầu chung về phương pháp học môn Văn: Chú trọng học bài cũ,</i>
học thuộc lòng một số văn bản, nắm vững phần ghi nhớ, phân tích văn bản
theo định hướng của bài học đặt ra. Chuẩn bị bài mới, bắt đầu từ việc đọc kỹ
văn bản, có thể tóm tắt được văn bản, tóm lược và nắm vững những ý cơ
bản của văn bản để có thể soạn bài theo hệ thống câu hỏi hướng dẫn học bài
trong SGK. Tích cực, chủ động trong học tập, tránh tâm lí đối phó, thụ động,
dựa dẫm vào một số sách tham khảo, sách giải bài tập đã trả lời sẵn những
câu hỏi trong SGK. Tăng cường thực hành kỹ năng ứng dụng theo yêu cầu
của SGK (phần luyên tập cuối bài), học cách làm việc độc lập, hợp tác theo
nhóm… để hoàn thành nhiệm vụ GV giao cho.


</div>
<span class='text_page_counter'>(83)</span><div class='page_container' data-page=83>

Con đường tiếp cận TPVC bao giờ cũng bắt đầu từ cơng việc tri giác
ngơn ngữ và lĩnh hội hình tượng tác phẩm ở những bình diện cao – thấp
khác nhau. Điều khó khăn nhất là phải vượt qua bước khai thác, phân tích
mối quan hệ thống nhất giữa hình tượng, âm điệu và ý nghĩa của tác phẩm
trong một chỉnh thể. “Không phải là da, thịt, xương, máu, tủy… mà là cái
thần thái, cái rung động cần phải lĩnh hội được bằng sức mạnh của cả kỹ
thuật lẫn tâm hồn người đọc”. Căn cứ vào cơ sở lý luận và thực tiễn đã nêu,
chúng tôi đề xuất một số biện pháp cụ thể của phương pháp: DẠY HỌC
BÀI THƠ “ĐÀN GHI TA CỦA LOR-CA” CỦA THANH THẢO Ở
TRƯỜNG THPT.


<b>3.1. Định hướng đọc hiểu – một biện pháp hữu hiệu tạo tâm thế, tạo</b>
<b>cảm xúc ban đầu cho HS</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(84)</span><div class='page_container' data-page=84>

văn”. Đọc văn không chỉ đọc đúng mà cần phải đọc có định hướng. Đọc


định hướng là kiểu đọc theo một yêu cầu nhất định mà người đọc đề ra hay
do nhiệm vụ nghiên cứu yêu cầu. Đọc có định hướng xác định những nội
dung cơ bản trong tác phẩm để hướng HS vào những phần, những đoạn làm
sao cho phù hợp với dự kiến và ý đồ nghệ thuật của tác giả. Đọc có định
hướng cần đặt văn bản trong bối cảnh mà tác giả giả định, nắm được nguồn
gốc tạo nên văn bản, hiểu được quan hệ của tác giả với tác phẩm khác, đặt tác
phẩm trong chuỗi văn học để xác định vị trí lịch sử, vai trị và tầm quan trọng
của nó. Khi đọc tác phẩm phải làm rõ giọng điệu của nhà văn khi kể chuyện
(lúc hào hùng, mạnh mẽ lúc lại sâu lắng mềm mại, mượt mà, giàu chất
thơ... ); phải thể hiện được tính cá thể hố, tính đối thoại trong ngơn ngữ tác
phẩm qua giọng kể chuyện, cách trần thuật (giọng đối thoại giữa các nhân
vật, lời độc thoại ...); thể hiện được các cung bậc cảm xúc của tác giả…


Có thể hiểu đọc định hướng là hình thức tiếp nhận tích cực nhằm tác
động vào văn bản văn chương và tác giả để tạo ra cách hiểu đúng, sâu văn
bản văn chương đó. Đọc là thứ lao động vừa có cơ năng và trí năng, là một
thứ lao động tồn diện, vất vả mà vẫn yêu cầu phải đảm bảo đặc trưng thể
loại. Việc đọc tác phẩm phải đạt được hai yêu cầu: giúp cho HS tìm hiểu thế
giới nghệ thuật, nhận thức về cuộc sống mà nhà văn thể hiện; tạo nên sự hoà
điệu giữa tác giả và bạn đọc. Tiếng nói của nhà văn gửi cho bạn đọc, thơng
qua hệ thống ngơn ngữ kết dệt nên những hình tượng của tác phẩm, nhưng
trước mắt bạn đọc vẫn chỉ là những ký hiệu chết. Đọc sẽ làm âm vang lên
những tín hiệu của cuộc sống mà nhà văn, nhà thơ định gửi gắm. “Đọc tác
phẩm là biến chữ viết thành lời nói sinh động, biến dịng chữ vơ tình thành
lời nói hữu tình, từ đó giúp học sinh đi sâu vào thế giới hình tượng, thế giới
cảm xúc...” (30;87) của tác phẩm.


</div>
<span class='text_page_counter'>(85)</span><div class='page_container' data-page=85>

khoảnh khắc bừng sáng của tâm linh con người... Âm vang của lời đọc kích
thích quá trình tri giác, tưởng tượng và tái hiện hình ảnh. Cảm xúc bắt đầu
từ đọc và được duy trì và phát triển trong quá trình đọc, để nhập thân vào tác


phẩm chỉ có thể bắt đầu từ đọc diễn cảm. Đọc diễn cảm của GV và HS sẽ
luôn gây được ấn tượng sâu sắc về tác phẩm văn học, kích thích hoạt động
tưởng tượng của HS, giúp các em hiểu được nội dung biểu cảm của tác
phẩm qua văn bản. Việc đọc diễn cảm sẽ gây được hứng thú cho người
nghe, làm cho họ cảm xúc được và tiếp thụ được tình cảm của tác giả gửi
gắm trong văn bản. Mặt khác, đọc diễn cảm sẽ giúp cho việc phân tích tác
phẩm được tốt hơn.


Sẽ sai lầm, nếu coi đọc chỉ là một việc rèn luyện kỹ năng, là một việc
tách khỏi quá trình đưa tác phẩm vào thế giới tâm hồn của học sinh. Bởi lẽ,
do hiểu đúng tác phẩm mà đọc đúng, mặt khác cũng nhờ đọc đúng mà hiểu
tác phẩm tốt hơn. Nhiều giáo viên thất bại trong giờ giảng văn vì khơng biết
phát huy sức mạnh của việc đọc diễn cảm: giờ Văn rời rạc, khô khan, thiếu
cảm xúc, nặng nề diễn giải... Người GV đơn độc, xa cách với nhà văn và
không được sự hỗ trợ của nhà văn trong giờ giảng. Đọc diễn cảm gắn bó
trong suốt q trình giảng văn, làm cho tiếng nói của nhà văn ln ln gần
gũi với học sinh. Giờ giảng văn trở thành một công việc tâm tình, một cuộc
trao đổi thật sự với tác giả về con người và cuộc sống mà khơng cịn là một
lời bàn luận về chính trị, luân lý... nặng màu sắc xã hội học.


Những thiếu sót trong quan niệm về vai trò của phương pháp đọc Văn
trong nhà trường, gắn liền với trình độ hiểu biết chưa đầy đủ về lý luận đọc
diễn cảm của nhiều giáo viên hiện nay.


</div>
<span class='text_page_counter'>(86)</span><div class='page_container' data-page=86>

tiếp nhận tác phẩm cho học sinh và làm sáng tỏ lời phân tích, bình giá ở
phần sau của giáo viên. Bởi câu chữ của tác phẩm Văn học là ký hiệu thể
giới nghệ thuật bằng tinh thần. Thế giới ấy chỉ được bộc lộ , trọn vẹn hình
thức nghệ thuật của nó trong thưởng thức, trong cảm thụ của người đọc- tức
là hình thức bồi dưỡng năng lực tiếp nhận văn chương của học sinh (30;90)



Đọc diễn cảm phụ thuộc rất nhiều vào ngữ điệu. Ngữ điệu phải có sự
đổi thay tuỳ theo giọng điệu của nhà văn mà người đọc phải thể hiện được.
Bằng ngữ điệu của mình, người đọc làm nổi bật được tiếng nói và nhất là
ngụ ý của nhà văn trong từng câu thơ qua việc nhấn mạnh trọng tâm lơgíc,
trọng tâm tâm lý và ngữ pháp (30;149)


Đọc diễn cảm đúng, là nắm vững ở mức độ cao nhất cao độ, cường
độ, trường độ, chỗ ngắt ngừng, nghỉ lấy hơi, chuyển giọng và biết phát huy
cao độ chất giọng... để tạo thành mạch cảm xúc trong nghệ thuật đọc tác
phẩm văn chương. Cách đọc đó đã tái hiện lại nội dung phong phú, đa dạng
và đầy cảm xúc của tác phẩm, là cách đọc có tình cảm. Đó là sự miêu tả
bằng giọng nói, trên cơ sở người đọc đã thấm nhuần tác phẩm . Giáo viên
đọc diễn cảm, hướng dẫn học sinh đọc diễn cảm tác phẩm cũng có nghĩa là
khám phá ra một lần nữa thái độ của tác giả đối với những điều đã nói trong
tác phẩm. Và người đọc ln mong muốn, cố gắng gây cho thính giả những
ấn tượng mà tác giả muốn nói đến.


<b>“Đàn ghi ta của Lor-ca” là bài thơ mang nhiều giọng điệu, cung bậc,</b>
nên cần nắm vững ý nghĩa của từng câu thơ để có cách đọc hiệu quả. Bắt
đầu là câu đề từ vốn là một câu trong bài thơ được coi như “bản di chúc”
của nhà thơ F.G.Lor-ca, giữ vai trị thâu tóm tồn bộ tư tưởng nghệ thuật,
cũng như mạch cảm xúc của tác phẩm, vì vậy cần phải đọc chậm rãi, ngắt
nghỉ để tạo sự nhấn mạnh về ý nghĩa của một lời trăng trối lạ lùng mà tha
thiết: “khi tôi chết / hãy chôn tôi / với / cây đàn”.


</div>
<span class='text_page_counter'>(87)</span><div class='page_container' data-page=87>

lý và cuộc sống tự do, dân chủ. Vì thế, cần đọc với giọng điệu trang trọng và
ngữ điệu chia sẻ, để làm nổi bật lên hình tượng một con người khát khao
cống hiến cả cuộc đời cho mục tiêu theo đuổi, nhưng không phải lúc nào
cũng nhận được sự đồng cảm…



<i><b>“những tiếng đàn… bọt nước…</b></i>
<i><b>Tây Ban Nha / áo choàng đỏ gắt</b></i>
<i><b>li-la… li-la… li-la…</b></i>


<i><b>đi lang thang / về miền đơn độc /</b></i>
<i><b>với / vầng trăng chuếnh choáng / </b></i>
<i><b>trên yên ngựa / mỏi mịn…”</b></i>


Những hình ảnh tồn tại trong đoạn thơ thứ hai, gợi nỗi kinh hoàng về
cái chết đột ngột và thảm khốc của F.G.Lor-ca. Điều đặc biệt là, người ngã
xuống như chẳng hề quan tâm đến nỗi đau đớn ấy, nhưng đối với nhân dân
Tây Ban Nha, toàn thể nhân loại và cả một hồn thơ Thanh Thảo đang thổn
thức, tiếc thương… thực sự là nỗi “kinh hoàng”. Nhưng cái chết ấy, không
chất chứa sự bi lụy, mà lại mang gương mặt của sự bi tráng, hào hùng…
Cách ngắt nhịp trầm lặng phù hợp và âm hưởng đọc xót xa, sẽ khiến người
nghe tiếp nhận được cái chết đầy oan khốc của người con ưu tú xứ sở Tây
Ban cầm…


<i><b>“Tây Ban Nha /</b></i>
<i><b>hát nghêu ngao…</b></i>
<i><b>bỗng kinh hoàng/</b></i>
<i><b>áo choàng / bê bết đỏ /</b></i>
<i><b>Lor-ca bị điệu về bãi bắn / </b></i>
<i><b>chàng đi / như người mộng du”</b></i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(88)</span><div class='page_container' data-page=88>

tiếp như khơng có điểm dừng, được đọc bằng tiết tấu nhanh, mạnh, gấp gáp,
liên hoàn… tương ứng với cách ngắt nhịp: 4/5, 3/4, 3/5, 3/2/2… Rồi lại
chùng xuống như một lời khóc than ngậm ngùi, bao trùm cả khơng gian là
nỗi đau câm lặng.



<i><b>“không ai / chôn cất tiếng đàn /</b></i>
<i><b>tiếng đàn / như cỏ mọc hoang /</b></i>
<i><b>giọt nước mắt vầng trăng /</b></i>
<i><b>long lanh / trong đáy giếng”</b></i>


Trong những câu thơ cuối cùng, nỗi đớn đau như được gạt bỏ, cái
chết kinh hồng khơng cịn là ám ảnh. Nhịp thơ giãn ra, thanh thản, nên cách
đọc cũng thật bình tâm với giọng điệu dàn trải, xa xôi… Để lưu luyến tiễn
đưa một thiên tài về bên kia cõi sống… “đường chỉ tay / đã đứt / dịng sơng
<i><b>/ rộng vô cùng / Lor-ca bơi sang ngang / trên chiếc ghi ta / màu bạc /</b></i>
<i><b>chàng ném lá bùa cô gái Di-gan / vào xoáy nước / chàng ném trái tim</b></i>
<i><b>mình / vào lặng yên / bất chợt / li-la… li-la… li-la…”</b></i>


Trong quá trình đọc cần chú ý yếu tố nghệ thuật: hơi thở, giọng điệu,
ngắt ngừng... tạo ý nghĩa nhấn mạnh và tránh ngộ nhận trong tiếp nhận. “Do
đó, đọc Văn chính là hình thức bồi dưỡng năng lực tiếp nhận văn chương
của HS” (30;90).


<b>3.2. Biện pháp cắt nghĩa – điều kiện then chốt tạo hiệu quả trong dạy</b>
<b>học Văn</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(89)</span><div class='page_container' data-page=89>

Cắt nghĩa là để tìm ra ý nghĩa của văn bản. Thông qua việc cắt nghĩa ,
các yếu tố, các hình ảnh, các từ, câu, các bộ phận... trong chỉnh thể của
mạch văn, làm cho chúng bộc lộ ý nghĩa riêng của từng thành phần. Song
mọi yếu tố nội dung trong văn bản ln có quan hệ với hình thức. Chúng
xác định lẫn nhau, bổ sung, soi sáng cho nhau. Do đó, cắt nghĩa phải ln
ln đối chiếu các bộ phận, các thành phần được cắt nghĩa với chỉnh thể của
văn bản, làm bộc lộ ý nghĩa chung của tồn văn bản.


Cắt nghĩa (interpretation) và phân tích (analyse) phải đi liền với nhau,


nhưng cần xác định rõ: “Cắt nghĩa văn học là tái tạo lôgic chỉnh thể tác
phẩm văn học… Cắt nghĩa có giá trị như là hoạt động nhận thức tổng hợp
theo đặc trưng nghiêm ngặt của tác phẩm… Cắt nghĩa là một q trình phân
tích và tổng hợp” (25;54). Quá trình cắt nghĩa là làm sáng tỏ những quan
điểm sáng tạo độc đáo của TPVC, góp phần làm phát triển ngày càng cao
năng lực tiếp nhận độc lập của HS, đồng thời làm sâu sắc thêm sự hiểu biết
về văn học nghệ thuật của HS, giúp HS đi sâu vào sự lĩnh hội thẩm mỹ, nắm
chắc những yêu cầu trong giao tiếp văn học một cách trực tiếp và phát triển
nhân cách trên cơ sở đó.


</div>
<span class='text_page_counter'>(90)</span><div class='page_container' data-page=90>

Việc cắt nghĩa bao gồm: 1- Cắt nghĩa từ (hàm ngôn, hiển ngôn);
2-Cắt nghĩa câu (cắt nghĩa cấu trúc ngữ pháp của câu để từ hình thức biểu đạt
chỉ ra cái được biểu đạt trong câu); 3- Cắt nghĩa hình ảnh (để làm bật ánh
sáng hình ảnh trong bài thơ, làm rõ dụng ý nghệ thuật của tác giả). Trong
quá trình cắt nghĩa, thì việc cắt nghĩa từ và cắt nghĩa hình ảnh đóng vai trị
hết sức quan trọng. Cắt nghĩa từ cần chú ý: vừa phải tách từ ấy ra khỏi văn
bản để soi chiếu, nhìn nhận từ nhiều góc độ, vừa phải đặt nó trong văn cảnh
để thấy nghĩa nào là tiêu biểu và đúng hơn cả.


Bài thơ “Đàn ghi ta của Lor-ca” chịu ảnh hưởng của phong cách thơ
tượng trưng – siêu thực nên “ý tại ngôn ngoại” càng nhiều; vốn hiểu biết của
GV và HS lớp 12 – THPT về nền văn hóa, văn học Tây Ban Nha và nhà thơ
F.G.Lor-ca, nhìn chung cịn rất hạn chế; hơn nữa, trong bài thơ này, mạch
cảm xúc của Thanh Thảo tập trung vào các hình tượng thơ, ngơn ngữ thơ,
dịng thơ, vần điệu, tiết tấu… nên việc cắt nghĩa bài thơ là rất khó khăn.
Người GV phải cắt nghĩa sâu sắc và triệt để từ nhan đề bài thơ cho đến các
hình ảnh, từ ngữ… để có thể nêu bật lên những điều tác giả đã ký thác trong
đó như: hình tượng người nghệ sĩ thiên tài F.G.Lor-ca và khát vọng cách tân
nghệ thuật cháy bỏng; hình tượng “đàn ghi ta” và nỗi lòng tri âm, tưởng mộ
của nhà thơ Thanh Thảo đối với Lor-ca.



</div>
<span class='text_page_counter'>(91)</span><div class='page_container' data-page=91>

nhận thức rõ rằng: Lor-ca là nhà thơ chứ không phải nhạc sĩ, càng không
phải là ca sĩ, dù Lor-ca học âm nhạc từ bé, chơi piano và ghi ta rất hay, và
đặc biệt am hiểu âm nhạc, nhất là am hiểu nhạc dân ca miền Andalucia quê
hương ông. Nhưng Lorca là nhà thơ, nhà thơ vĩ đại không chỉ của Tây Ban
Nha mà của thế giới, một trong những gương mặt thơ ca lớn nhất trong thế
kỉ hai mươi. Việc cắt nghĩa sâu và chuẩn xác nhan đề bài thơ của GV, khiến
HS có thể tự tin để khai thác và cảm nhận bài thơ theo đúng ý đồ của tác giả.
- Hình tượng người “thi sĩ thiên bẩm không thể cải hồi” F.G.Lor-ca được
Thanh Thảo xây dựng bằng những thi liệu đầy ám ảnh trong thế giới nghệ
thuật thơ của chính Lor-ca. Đây cũng là một sáng tạo nghệ thuật mang dấu
ấn đặc trưng Thanh Thảo. Vì thế, nếu người GV khơng lĩnh hội được điều
này, thì khơng thể tránh khỏi những lời cắt nghĩa cảm tính, suy diễn, áp đặt
và sai lệch. Ví dụ như:


+ Hình ảnh “áo chồng” lúc thì “đỏ gắt”, khi lại “bê bết đỏ” có thể
dựa vào chú giải 1 / trang 164 – SGK Ngữ văn 12 Cơ bản và phát triển
thêm cho rõ ý: trong thơ Lor-ca, chiếc áo choàng ấy gắn liền với sắc máu
của những đấu trường đấu bị tót, với người đấu sĩ can trường Ignacio
Sanchez Mezias; cịn trong bài thơ của Thanh Thảo nó là một hình ảnh
tượng trưng cho chính cuộc đời vinh quang và bi kịch của Lor-ca . Bởi vậy,
chúng tôi không tán đồng với cách hiểu bị ám ảnh nặng nề tư tưởng chính
trị, mà khơng hề có trong bài thơ này như ý kiến sau: “áo chồng đỏ gắt” có
hai cách hiểu, một là khơng khí chính trị đương thời, hai là khát vọng nghệ
thuật lớn lao như ý chí của võ sĩ đấu bị tót.


</div>
<span class='text_page_counter'>(92)</span><div class='page_container' data-page=92>

dụng để giao cảm với cuộc đời, phát ngôn với cuộc sống… Cái khéo của
Thanh Thảo đó là biến những điều Lor-ca day dứt, trăn trở suốt 38 năm đã
sống, thành chất liệu giàu sức gợi tả để tạc nên hình tượng bất tử của chính
Lor-ca trong bài thơ. GV có thể căn cứ vào chú giải số 2 / trang 163 – SGK


Ngữ Văn 12 Cơ bản để bổ sung thêm cho HS dễ cảm nhận về nhà thơ Lor-ca.


- Hình tượng “tiếng đàn ghi ta” cũng là một sáng tạo mới mẻ của
Thanh Thảo so với thơ của Lor-ca. Tất nhiên, Thanh Thảo vẫn duy trì tính
biểu tượng của “đàn ghi ta” như Lor-ca quan niệm: đó là cây đàn tượng
trưng cho nghệ thuật, nhưng khác biệt ở chỗ: “đàn ghi ta” và “tiếng đàn ghi
ta”. Là “đàn ghi ta” thì có thể đập vỡ, có thể chơn vùi, có thể đốt phá rồi xóa
tan dấu vết; nhưng là “tiếng đàn ghi ta” thì khơng một ai, khơng một tác
động nào có thể làm tan biến… Vì vậy, mới có “tiếng ghi ta nâu / bầu trời
<i><b>cơ gái ấy / tiếng ghi ta lá xanh biết mấy / tiếng ghi ta tròn bọt nước vỡ</b></i>
<i><b>tan / tiếng ghi ta ròng ròng / máu chảy” đầy ấn cảm với người đọc, để nói</b></i>
về tài năng nghệ thuật trác việt và khát vọng cách tân khôn cùng của người
thi sĩ thiên tài F.G.Lor-ca.


Khác với thơ truyền thống, thơ viết theo lối mới tượng trưng – siêu
thực, thường đòi hỏi người đọc phải có vốn tri thức, su trải nghiệm và trí
tưởng tượng phong phú cùng với sụ tri âm, đồng cảm… mới có thể cảm
nhận được sâu sắc từng ý thơ. Với kiến thức của HS – THPT các em chưa
thể đáp ứng được đầy đủ những điều này, vì thế để tiết học thành cơng GV
cần thiết phải cắt nghĩa sâu, xem đây như một chìa khóa để mở tác phẩm
cho HS.


</div>
<span class='text_page_counter'>(93)</span><div class='page_container' data-page=93>

mọc hoang”, “giọt nước mắt vầng trăng”, “đường chỉ tay”, “dịng sơng”, “lá
bùa cơ gái Di-gan”, “xốy nước”… cũng cần được cắt nghĩa một cách cặn
kẽ, để HS hiểu sâu hơn tác phẩm, nhân vật trữ tình và sẽ tự tin hơn trong
quá trình đọc – hiểu TPVH. Phần này, chúng tơi sẽ trình bày cụ thể trong
thiết kế bài giảng thực nghiệm ở chương III.


<b>3.3. Xây dựng hệ thống câu hỏi tạo bầu khơng khí văn chương, nhằm</b>
<b>thúc đẩy quá trình tiếp nhận bài thơ của HS</b>



<i><b>3.3.1. Bầu khơng khí văn chương: là ở đó, GV và HS bình đẳng, cùng thảo</b></i>
luận một hiện tượng, một vấn đề văn học hay một nhân vật cụ thể trong tác
phẩm. Trong quá trình thảo luận, thầy trị khơng chỉ khẳng định suông
những kết luận quen thuộc mà đẩy suy luận theo một hướng mới, biến nó
thành một cuộc kiếm tìm chân lý. Trong bầu khơng khí đó HS, hoặc cố gắng
tự khẳng định những suy nghĩ có tính chất phát hiện độc đáo và phù hợp với
nội dung bài học, hoặc có thể hình thành những cảm xúc mới đạt tới trí tuệ
và thay đổi cách nghĩ cũ.


Để tạo những hướng thiết lập bầu khơng khí văn chương cần xây
dựng những câu hỏi tổng hợp, nêu vấn đề. Câu hỏi có thể đi dần từ đơn giản
đến phức tạp, nhưng mỗi câu hỏi phải tiềm ẩn trong nó khả năng đa dạng
hố câu trả lời để châm ngòi cho sự bùng nổ cuộc tranh luận. Các câu hỏi để
tạo bầu khơng khí văn chương cần phải chứa đựng tính phức tạp, đơi khi có
dạng mâu thuẫn; phải làm nhiệm vụ thu hút, lôi cuốn Hs, đáp ứng nhu cầu
và bao quát, mở rộng.


</div>
<span class='text_page_counter'>(94)</span><div class='page_container' data-page=94>

làm cho con người hiểu được ý nghĩa của văn bản sau những ngôn từ chết
cứng trên trang giấy. Trong quá trình thăng hoa, thường xuất hiện một số
hiện tượng tâm lí: sự liên tưởng và cảm xúc thẩm mỹ. Quá trình thăng hoa
bắt đầu là sự tâm đắc, sự hiểu sâu, sự nhập thần và giai đoạn cuối cùng, là sự
thăng hoa.


Trong bầu khơng khí văn chương, nhiệm vụ của GV khơng phải là
trọng tài trung lập, tự tách mình ra khỏi cuộc tranh luận. Trái lại, GV phải
giúp HS cụ thể từng vấn đề, từng quan điểm và tổng kết thật gây ấn tượng
cho HS. Điều này địi hỏi giáo viên phải có nghệ thuật trong giao tiếp sư
phạm. Giáo viên cần bình đẳng và chăm chú lắng nghe các ý kiến của HS dù
rất khác nhau, đồng thời cần nắm bắt những khía cạnh khác nhau của cách


giải quyết, so sánh với những phương án trả lời, cũng cần chọn câu hỏi mấu
chốt cho giờ giảng, phù hợp với thị hiếu của HS.


</div>
<span class='text_page_counter'>(95)</span><div class='page_container' data-page=95>

tính hệ thống của câu hỏi, phụ thuộc vào cách tiếp cận đối tượng cũng như
vấn đề. Tiếp cận tái hiện, chúng ta có câu hỏi nhằm vào dạng thức bên ngồi
(về số lượng, tính chất và đặc điểm đối tượng), vào trí nhớ (việc học, việc
đọc thuộc lịng và liệt kê). Tiếp cận sáng tạo, sẽ có những câu hỏi theo một
hệ thống khác, đó là những câu hỏi nhằm vào việc so sánh nhiều đối tượng
(câu hỏi nhận định, đánh giá rút bài học, nội dung khái quát; câu hỏi mở
rộng đi sâu vấn đề; câu hỏi về mối quan hệ bên trong; câu hỏi về bản chất sự
vật hiện tượng và những câu hỏi vận dụng tư duy tổng hợp và tư duy phê
phán…). Nếu tiếp cận theo hệ thống PPDH tác phẩm văn học, sẽ có câu hỏi
đọc hiểu, đọc diễn cảm, đọc sáng tạo… Ngoài ra, cịn có câu hỏi gợi mở, câu
hỏi nêu và giải quyết vấn đề, câu hỏi giảng bình, câu hỏi nghiên cứu. Và GS
nhắc GV cũng như HS, cần tìm hiểu, đánh giá xác đáng về câu hỏi trong
SGK để dạy và học văn tốt hơn. Theo như lời trao đổi tâm huyết của tác giả
Cao Tố Nga, trong bài viết “Vài suy nghĩ về hệ thống câu hỏi trong bài
giảng văn trên tinh thần đổi mới” – Tạp chí Ngơn ngữ số 12 – 2001 thì: với
phương pháp gợi mở, đối thoại, nêu vấn đề thì hệ thống câu hỏi quan trọng
tới mức có thể ví như “xương cốt” của bài giảng, khơng nên cho rằng một
bài học có nhiều câu hỏi là giờ học tốt, vì nó dễ làm nát vụn bài giảng,
khơng khí giờ học bị lỗng, thiên về tranh luận, giảm cái lắng sâu cần có của
một giờ dạy học văn, dễ gây tình trạng kiến thức gián đoạn, không hệ thống,
thiếu lôgic chặt chẽ.


</div>
<span class='text_page_counter'>(96)</span><div class='page_container' data-page=96>

đạt đến hiệu quả tối ưu. Yêu cầu chính đặt ra là người GV phải tạo cảm xúc,
tác động đến thị hiếu và hứng thú cuả HS khi lựa chọn phương pháp này
giảng dạy.


Với bài “Đàn ghi ta của Lor-ca”, GV có thể sử dụng hệ thống câu


hỏi trong Hướng dẫn học bài của SGK Ngữ văn 12 Cơ bản và xây dựng
thêm những câu hỏi có tính mở rộng, tổng hợp cao, để giúp HS có thêm kiến
thức cuộc sống, khái quát và nắm vững được trọng tâm kiến thức bài học,
cũng như phát huy được tính tích cực của mình. Ví dụ như:


- Lịch sử về cây đàn ghi ta? (Trình bày những hiểu biết của bản thân
về..? Cây đàn ghi ta ở xứ sở Tây Ban cầm..?)


- F.G.Lor-ca là ai? (Trong hiện thực..? Trong cái nhìn của nhà thơ
Thanh Thảo..? Trong cảm nhận của bản thân..?)


- Hiểu như thế nào về lời đề từ? (Ý nghĩa đối với cuộc đời Lor-ca..?
Đối với Thanh Thảo..? Đối với bài thơ..?)


- Hình tượng “tiếng đàn ghi ta” mang ý nghĩa như thế nào đối với bài thơ?
- Cái chết và sự bất tử của Lor-ca có ý nghĩa gì?


-…


Để tránh sự trùng lặp, chúng tơi sẽ trình bày chi tiết biện pháp này
trong thiết kế thực nghiệm ở chương III.


<b>3.4. Tái hiện hình tượng nghệ thuật</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(97)</span><div class='page_container' data-page=97>

cuả người thưởng thức, thì hình tượng và tác phẩm lại chuyển trở về dạng
tâm lý – tinh thần, trở thành một sự kiện trong tâm hồn người thưởng thức.


Người GV dạy văn cần đặc biệt quan tâm đến việc tạo điều kiện cho
HS, qua môi giới của từ ngữ, của lời văn, tái hiện được hình tượng nghệ
thuật, nội dung tác phẩm trong tâm trí HS; nghĩa là làm cho hình tượng hiện


lên dưới dạng là một hiện tượng tâm lý – tinh thần trong trí tưởng tượng của
HS. Nếu khơng có sự tái hiện này, thì dù cho học sinh có học thuộc lịng
cũng vẫn chưa tiếp xúc được với tác phẩm, mà chỉ mới tiếp xúc với chất liệu
đã tạo nên dạng tồn tại vật chất của nó. Xác định như vậy về nội dung
TPVC, thì người GV chuẩn bị bài giảng không thể chỉ quan tâm tới sự cảm
thụ của riêng mình, mà phải cịn đặc biệt coi trọng sự cảm thụ của HS. Quá
trình dạy tác phẩm, chỉ thực hiện một cách có hiệu quả thật sự khi nào nội
dung tác phẩm đựơc tái hiện trong trí tưởng tượng và “trở thành một sự kiện
trong tâm hồn” HS. Bởi vì, một khi HS chưa tái hiện được hình tượng trong
tâm trí của mình, thì tác phẩm vẫn cịn xa lạ với các em. Khi HS chưa tiếp
xúc với tác phẩm, thì khó có thể hiểu được lời phân tích dẫn dắt của GV.
Giờ lên lớp, là giờ mà thầy trò cùng làm việc thực sự với các hình tượng
đang sống lại trong tâm trí. Có thế mới làm cho “giờ giảng văn trở thành
một giờ hấp dẫn, một giờ sôi nổi, một giờ hứng thú đối với học sinh”.


Tái hiện là một hiện tượng tâm lý vừa có tính phản ánh, vừa có tính
phản xạ. Trên cơ sở đó, GV có thể hướng dẫn HS tái hiện hình tượng bằng
hai bước sau:


</div>
<span class='text_page_counter'>(98)</span><div class='page_container' data-page=98>

cảm giác, những khái niệm sai lệch, làm cho thị hiếu thẩm mỹ của HS trở lên
hời hợt, mờ nhạt, thậm chí dẫn đến cách hiểu méo mó các phương diện của
các sự kiện. Hai là, nếu HS có năng lực ngơn ngữ, cũng như năng lực tưởng
tượng, cộng thêm với sự hướng dẫn của GV, các em sẽ dễ dàng tiếp nhận
được các sự kiện lịch sử, các hình tượng nghệ thuật trong TPVC.


- Hướng dẫn HS hiện thực hố hình tượng nghệ thuật thành lời. Đây
là một bước quan trọng, nhưng vơ cùng khó khăn, cũng có hai trường hợp
xảy ra khi hướng dẫn HS trong bước này. Một là, có khi các em nắm bắt
được chính xác hình tượng, nhưng khơng thể đạt được thành lời hoặc ngôn
ngữ không diễn đạt được hết ý, nên dẫn đến hiểu sai. Hai là, có thể ngay từ


đầu, các em nắm bắt sai hình tượng nên diễn tả sai. GV hướng dẫn HS sử
dụng ngơn ngữ thật chính xác và chọn lọc để diễn tả đúng điều mà các em
hiểu sai khi đã nắm bắt được các sự kiện, các hình tượng nghệ thuật.


Một điều mà GV và HS cần chú ý là có nhiều cách tái hiện hình tượng
nghệ thuật.


- Tái hiện trực tiếp: Là cách dùng lời để miêu tả, làm cho các sự kiện,
con người và cuộc sống hiện lên như thật. Cách này đòi hỏi GV và HS phải
cắt nghĩa hoặc phân tích từ ngữ, từ đó tiếp tục những liên tưởng, tưởng
tượng nhằm gây ấn tượng thẩm mỹ sâu sắc cho các em thơng qua nghệ thuật
của nhà văn. GV có thể kết hợp sử dụng phương pháp trực quan bằng cách
thu nhập những bức tranh, ảnh, bản đồ, thậm chí là phim... để HS có điều
kiện so sánh, phân tích, đánh giá văn bản tác phẩm đầy đủ và khách quan
hơn. Tuy nhiên, tranh, ảnh, bản đồ, phim... cũng chỉ dừng lại ở việc diễn tả
bề mặt của sự việc chứ không nói được chiều sâu trong tâm hồn nhân vật
hoặc ý nghĩa sâu xa của các sự kiện.


</div>
<span class='text_page_counter'>(99)</span><div class='page_container' data-page=99>

sự liên tưởng và tưởng tượng cho HS, hoặc có thể dùng biện pháp so sánh
để gợi ý cho HS tưởng tượng hoặc tái hiện.


Việc tái hiện thế giới hình tượng trong “Đàn ghi ta của Lor-ca”, là
điều cần thiết với quá trình dạy học bài thơ. Nghệ thuật sáng tạo hình ảnh
đậm nét tượng trưng – siêu thực, vốn là đặc trưng thi ca của F.G.Lor-ca, và
lại càng độc đáo hơn nữa khi song hành với Thanh Thảo – một hồn thơ ngập
tràn phức điệu và hình tượng nghệ thuật. Vì thế, người GV cần phải hướng
dẫn HS khám phá hệ thống hình tượng trong thế giới nghệ thuật của “Đàn
<b>ghi ta của Lor-ca” và khiến nó sống thực sự trong tư duy nghệ thuật của</b>
người dạy và người học.



</div>
<span class='text_page_counter'>(100)</span><div class='page_container' data-page=100>

- F.G.Lor-ca là hình tượng trung tâm của bài thơ, làm khắc khoải
người đọc qua hình ảnh của người kị sĩ cô đơn “với vầng trăng chếnh
<i><b>chống”, “trên n ngựa mỏi mịn”, đi “về miền đơn độc”. Cụm từ “Tây</b></i>
<i><b>Ban Nha” được nhắc lại hai lần, với một dụng ý nghệ thuật rõ nét. Không</b></i>
chỉ là tên của một dân tộc, một quốc gia như nghĩa vốn có của nó, mà ở đây,
cịn được dùng để gọi tên Lor-ca, một người con ưu tú đã vinh danh đất
nước mình trên bản đồ thế giới, như một minh chứng về sự hóa thân, hịa
nhập khơng thể tách rời của nhà thơ và xứ sở mình. Lor-ca là tinh hoa của
Tây Ban Nha và quốc hồn, quốc túyTây Ban Nha hiện diện trong Lor-ca.
Con người ấy thuộc về Tây Ban Nha và là tất cả những gì xứ sở Tây Ban
cầm này có. Cùng với một hệ thống thi ảnh có sức ám gợi mạnh mẽ, Thanh
Thảo cịn khắc họa hình tượng Lor-ca cụ thể hơn qua hai dấu mốc quan
trọng nhất trong cuộc đời ông: “Tây Ban Nha / áo choàng đỏ gắt” và “Tây
<i><b>Ban Nha / áo choàng bê bết đỏ”, qua số phận ngắn ngủi và nghiệt ngã:</b></i>
<i><b>“đường chỉ tay đã đứt / dịng sơng rộng vơ cùng / Lor-ca bơi sang ngang /</b></i>
<i><b>trên chiếc ghi ta màu bạc”, qua tư thế hiên ngang, kiêu bạc đón nhận định</b></i>
mệnh chính mình của Lor-ca: “chàng ném lá bùa cơ gái Di-gan / vào xốy
<i><b>nước / chàng ném trái tim mình / vào lặng im bất chợt”…</b></i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(101)</span><div class='page_container' data-page=101>

lý giải, có lẽ khi sáng tác bài thơ, bản thân Thanh Thảo cũng không xác định
trước và đến bây giờ, khi ý thức được, lại ngại đề cập trực tiếp, dù Thanh
Thảo đã tâm sự: “Lorca đã “phát ngôn” qua thơ tôi. Cao Bá Quát cũng đã
<i>từng “phát ngôn” qua thơ tôi như vậy. Và đó là điều tơi khơng thể giải</i>
<i>thích, nhưng đúng là nó có. Khi ta u đối tượng mà mình muốn thể hiện tới</i>
<i>một mức nào đó, nhất là khi đối tượng ấy có một số phận bi thảm nhưng lớn</i>
<i>lao, thì ta có thể nhận được những câu thơ “như có ai nói hộ”. Đó có thể</i>
<i>coi là hiện tượng “nhà thơ trong nhà thơ” và “thơ trong thơ” vậy”</i>… Phải
chăng vì… người Việt của chúng ta vốn hay có tính khiêm nhường, “phi
ngã”… nhất là khi đặt chính mình bên cạnh một vĩ nhân? Tuy nhiên, bằng
trực giác, bằng nghiên cứu thực tiễn, chúng tôi hy vọng sẽ nhận được những


ý kiến ủng hộ, tích cực của các nhà nghiên cứu, GV và HS về nhận định này
trong quá trình dạy học bài thơ.


“Tiểu thuyết nói bằng nhân vật, thơ nói bằng hình ảnh”, “nhà thơ
khơng được nói ý bằng ý, mà phải nói ý bằng hình ảnh”, vì thế, sự sáng tạo
hình ảnh thực sự là nét nghệ thuật đặc sắc của bài “Đàn ghi ta của Lor-ca”.
Thanh Thảo vốn có thói quen thiết kế những hình ảnh mới lạ, hoặc là xâu
chuỗi, hoặc là tầng tầng lớp lớp, liên kết với nhau bằng những ý tưởng bất
ngờ, mang chiều sâu trí tuệ và cảm xúc, “Đàn ghi ta của Lor-ca” gần như
đã được tác giả huy động hết những thủ pháp nghệ thuật, để sáng tạo nên
một thế giới hình tượng độc đáo. Thơ Thanh Thảo mộc mạc nhưng khơng hề
dễ dãi. Nó ln là sự giao hòa đầy bất ngờ, của một năng lượng thơ lúc nào
cũng sẵn sàng “bùng nổ mùa xuân” và một thế giới quan, nhân sinh quan tài
hoa, sắc sảo, nhằm “phát giác sự việc ở cái bề chưa thấy, ở cái bề sâu, ở cái
bề sau, ở cái bề xa”.


</div>
<span class='text_page_counter'>(102)</span><div class='page_container' data-page=102>

việc tiếp nhận, giảng dạy TPVC nói chung và “Đàn ghi ta của Lor-ca” nói
riêng.


<b>3.4. Giảng bình – phương pháp đặc thù trong cảm thụ và truyền thụ TPVC</b>
Giảng bình là phương pháp đặc thù quen thuộc, mang tính truyền
thống của q trình giảng dạy TPVC và cũng trở thành thước đo cái tài, cái
đức và nhận thức mỹ học của người GV dạy văn một cách ngẫu nhiên.
Dường như, nó đã trở thành một thứ bí quyết nghề nghiệp? Ai biết bình và
bình giỏi, giờ giảng văn sẽ hứng thú, mang màu sắc cảm xúc văn chương rõ
rệt; khơng có giảng bình, rõ ràng việc dạy học TPVC sẽ mất đi cái hồn của
nó. Khơng có một giờ giảng văn nào thành công, mà lại thiếu được lời bình
của GV. Vậy, giảng bình là gì?


- Giảng: là giảng giải, phân tích giúp người nghe hiểu được ngơn từ ,


ngơn ngữ, hình ảnh nghệ thuật và nội dung văn bản.


- Bình: là sự nhận xét, đánh giá về một vấn đề nào đó, bình văn là
bình cái hay, cái đẹp, cái tinh tế, cái độc đáo… được rút ra từ TPVC.


</div>
<span class='text_page_counter'>(103)</span><div class='page_container' data-page=103>

bình văn có một sức mạnh đặc biệt, không thể không vận dụng trong quá
trình giảng văn ở nhà trường, nhất là ở trường THPT, với độ tuổi HS thường
từ 15-18, lứa tuổi đã có sự tri thức và cảm nhận chủ quan. “Bình thơ cũng
như đánh đàn đệm cho người ta hát, lên dây chùng một tí hay căng một tý
cũng lạc điệu. Bình thơ mà nói chưa đến thì khơng đạt. Nói q đi là tán.
Nói nhiều cũng khơng nên, phải biết dừng lại đúng chỗ, đúng lúc để cho
người đọc suy nghĩ mở rộng. Có khi khơng nên nói gì mà để cho người đọc
tiếp xúc với câu thơ khơng mơi giới...” (55;20). Việc giảng bình của GV,
khơng phải là làm hộ, cảm thụ hộ HS, mà trên cơ sở HS chiếm lĩnh kiến
thức, GV giảng bình để hướng HS đến sự bừng tỉnh, tri ngộ cùng tác phẩm,
cùng nhà văn.


</div>
<span class='text_page_counter'>(104)</span><div class='page_container' data-page=104>

chê đúng mức. Nhờ bình mà lời giảng thêm sâu, nhưng bình phải dựa trên
giảng. Giảng khơng bình thì ý gọn và khơ, bình khơng giảng thì ý đồ miên
man và tản mạn…


Đối với “Đàn ghi ta của Lor-ca”, được viết theo lối thơ tự do mang
màu sắc tượng trưng – siêu thực, thì vấn đề giảng bình lại càng cần thiết và
quan trọng. Xen giữa những đọc hiểu, đọc diễn cảm, cắt nghĩa sâu, tái hiện
hình tượng nghệ thuật, đặt câu hỏi định hướng… thì hoạt động giảng bình
giúp GV thể hiện khả năng cảm nhận văn chương khá chính xác, và khiến
HS được sống trong một không gian văn học thực sự. Bài thơ “Đàn ghi ta
<b>của Lor-ca” giống như một miền đất hứa cho bình giảng, nhưng cũng là</b>
một cửa ải khốc liệt cho những thói quen diễn xi, dung tục hóa TPVC.
Bắt đầu, là hình ảnh “những tiếng đàn bọt nước” cho đến chuỗi âm thanh


“li-la li-la li-la” đầy ám ảnh, từ tấm “áo choàng đỏ gắt” đến chiếc “áo
choàng bê bết máu” nhức nhối một màu đỏ của những “vết thương bốc cháy
mặt trời”, từ “tiếng ghi ta lá xanh biết mấy” đến “tiếng ghi ta ròng rịng /
máu chảy”, từ người nghệ sĩ trong hành trình cô độc đến ngọn cỏ mọc hoang
trên mặt đất, từ dịng sơng định mệnh đến sự bất tử mang tên một lồi hoa…
Bất cứ một hình ảnh, chi tiết nào, cũng đáng để giảng bình. Có điều, người
GV phải biết lựa chọn để khẳng định được dấu ấn của mình trong quá trình
truyền thụ TPVH cho HS một cách hiệu quả, sâu sắc.


Số phận nghiệt ngã, tài năng trác việt, khát vọng cách tân nghệ thuật
bỏng cháy và lời trăng trối “khi tôi chết, hãy chôn tôi với cây đàn” của
Lor-ca … như đã ám cả vào đời thơ Thanh Thảo từ khi họ “hữu duyên thiên lý
năng tương ngộ” qua những bản dịch thơ Lor-ca của Hoàng Hưng… Để rồi,
sau những đồng điệu, tri âm, là một khoảnh khắc thăng hoa của Thanh Thảo,
bài thơ đã được viết rất nhanh, hầu như khơng phải sửa chữa gì thêm và bức
chân dung cuộc đời của Lor-ca hiện lên qua những dòng thơ giàu sức gợi…


</div>
<span class='text_page_counter'>(105)</span><div class='page_container' data-page=105>

<i><b>Tây Ban Nha áo choàng đỏ gắt</b></i>
<i><b>li-la li-la li-la</b></i>


<i><b>đi lang thang về miền đơn độc </b></i>
<i><b>với vầng trăng chếnh choáng</b></i>
<i><b>trên n ngựa mỏi mịn”</b></i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(106)</span><div class='page_container' data-page=106>

phần thưởng chính là số phận của mình. Vì thế, cuộc đời dẫu có tủi cực, dẫu
có cơ đơn – một nỗi đau đớn định mệnh của những nghệ sĩ thiên tài
(Lermontov với cánh buồm đơn độc, cánh buồm nổi loạn; Cao Bá Quát với
người bộ hành trên cát lạc loài, đơn độc; Nguyễn Du với câu hỏi đớn đau,
khắc khoải “Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như?”…) thì họ vẫn kiêu hãnh đón
chờ, như hình ảnh “Tây Ban Nha áo chồng đỏ gắt” và dù trong đau đớn


đến tột cùng, họ vẫn hạnh phúc “hát nghêu ngao” và nhận lời cảm ơn của
cuộc đời, của con người: “Cảm ơn người hát rong đã căng số phận mình /
<i>trên sợi dây đàn độc nhất / để hát về những ngọn sóng bình minh”</i> (Những
<b>ngọn sóng mặt trời – Thanh Thảo)</b>


<i><b>-“tiếng ghi ta nâu</b></i>
<i><b>bầu trời cô gái ấy</b></i>


<i><b>tiếng ghi ta lá xanh biết mấy</b></i>
<i><b>tiếng ghi ta tròn bọt nước vỡ tan</b></i>
<i><b>tiếng ghi ta ròng ròng </b></i>


<i><b>máu chảy”</b></i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(107)</span><div class='page_container' data-page=107></div>
<span class='text_page_counter'>(108)</span><div class='page_container' data-page=108>

<i><b>hoang” ở những dòng thơ sau. Đặc biệt, “tiếng ghi ta” như một sinh thể có</b></i>
linh hồn, cũng cay đắng, ngậm ngùi khi là “bọt nước vỡ tan”, cũng xót xa,
đớn đau khi bị “ròng ròng / máu chảy”… Khiến ta nhớ về những câu thơ
diễm lệ: “Cây đàn ghi ta /Cất tiếng thở than / Những cuộc rượu ban mai /
<i>Sóng sánh đổ tràn …” trong bài thơ “Đàn ghi ta” do Lor-ca sáng tác…</i>
Nói tóm lại, giảng – bình là hai hoạt động song song khơng thể tách
rời và chúng có mối quan hệ tương tác bổ sung cho nhau. Cũng có khi
khơng cần giảng, vì “khơng nên nói gì cả, mà cho người đọc tiếp xúc với
câu thơ trong mơi giới”, nhưng một lời bình sâu sắc sẽ tiết kiệm được thời
gian giờ dạy học, mà vẫn lắng đọng, khêu gợi trí tưởng tưởng, cảm xúc của
HS. Giảng bình được đánh giá là phương pháp đem lại hiệu quả giảng dạy
cao nhất từ trước đến nay.


<b>TIỂU KẾT</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(109)</span><div class='page_container' data-page=109></div>
<span class='text_page_counter'>(110)</span><div class='page_container' data-page=110>

<i><b>CHƯƠNG III</b></i>



<b>THỰC NGHIỆM SƯ PHẠM</b>


Thực nghiệm là một phương pháp tối ưu để kiểm định lại những giả
thiết, những đề xuất, những kết luận đã được tìm ra trong quá trình nghiên
cứu khoa học. Quy trình thực nghiệm chính là thước đo chuẩn xác về tính
khoa học, tính thực tiễn và tính khả thi của vấn đề đã nghiên cứu. Vì thế, thực
nghiệm yêu cầu các đối tượng tham gia phải tuân thủ nghiêm túc theo một
quy trình phức tạp và chặt chẽ. Đối với đặc thù của bộ môn Lý luận và
Phương pháp Dạy – Học Văn, điều đó đồng nghĩa với những yêu cầu và sự
đánh giá khắt khe hơn. Khi thực hiện đề tài luận văn, chúng tơi đã xác định
vai trị và trách nhiệm của mình để cố gắng hồn tất quy trình thực nghiệm
một cách tốt nhất. Tuy nhiên, trong thực tế tiến hành cịn gặp nhiều khó khăn
như: điều kiện thực nghiệm hạn chế, phạm vi thực nghiệm không nhiều…nên
sẽ là chủ quan khi nói: kết quả thực nghiệm đã chứng minh hướng nghiên
cứu của chúng tôi là hồn tồn chính xác, nhưng cũng cần khẳng định rằng:
kết quả thực nghiệm là sự thể nghiệm bước đầu hiệu quả, đã đánh giá khách
quan khả năng thực hiện những phương pháp Dạy – Học TPVC và là nguồn
động lực tích cực đối với chúng tơi trong q trình nghiên cứu khoa học.
<b>1. MỤC ĐÍCH – YÊU CẦU THỰC NGHIỆM</b>


<b>1.1. Mục đích thực nghiệm</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(111)</span><div class='page_container' data-page=111>

<b>1.2. Yêu cầu thực nghiệm</b>


Quá trình thực nghiệm đề tài phải được tiến hành một cách khách quan;
người thực nghiệm phải tuân thủ nghiêm túc các nguyên tắc thực nghiệm;
địa bàn và đối tượng thực nghiệm phải khác biệt… để đảm bảo kết quả chân
thực, chuẩn xác và khách quan của vấn đề thực nghiệm.



<b>2. ĐỐI TƯỢNG – ĐỊA BÀN THỰC NGHIỆM</b>
<b>2.1. Đối tượng thực nghiệm</b>


<i><b>2.1.1. </b><b>Bài thơ “Đàn ghi ta của Lor-ca” của nhà thơ Thanh Thảo in trong</b></i>
SGK Ngữ văn 12 Cơ bản – (Tập 1) – NXB Giáo dục.


<i><b>2.1.2. Học sinh: lớp 12 – THPT, đang học sách giáo khoa Ngữ Văn 12 theo</b></i>
phân phối chương trình của Bộ Giáo dục và Đào tạo từ năm học 2006 – 2007.
Chúng tôi đã chọn HS ở ba khu vực: thành phố trực thuộc TW; thành phố
trực thuộc tỉnh khu vực đồng bằng; huyện trực thuộc tỉnh khu vực miền núi;
có HS khá giỏi – trung bình – yếu kém; có lớp thực nghiệm và đối chứng
tương đương về mặt bằng trình độ kiến thức và số lượng HS.


<i><b>2.1.3. Giáo viên: Để đảm bảo tính khách quan của q trình thực nghiệm,</b></i>
chúng tơi đã mời cộng tác những GV có tuổi nghề khác nhau, đáp ứng đủ
khả năng chuyên môn và nghiệp vụ sư phạm, hiện đang trực tiếp giảng dạy
môn Ngữ Văn tại các lớp 12 của trường THPT được tiến hành thực nghiệm.
<b>2.2. Địa bàn thực nghiệm</b>


- Trường THPT Chu Văn An – Huyện Văn Yên – Tỉnh Yên Bái
- Trường THPT Nguyễn Đức Cảnh – T.P Thái Bình – Tỉnh Thái Bình
- Trường THPT Ngơ Quyền – Thành phố Hải Phòng


<b>3. DẠY – HỌC THỰC NGHIỆM</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(112)</span><div class='page_container' data-page=112>

kế giáo án thực nghiệm dạy – học bài thơ “Đàn ghi ta của Lor-ca” đúng với
ý đồ sáng tạo nghệ thuật của tác giả:


<i><b>“Ngọc Trâm thân mến! Anh đã đọc và đã ghi ln những chú giải</b></i>
<i><b>của mình bổ sung vào luận văn của em chứ không nhận xét riêng. Em</b></i>


<i><b>xem lại thật kỹ để hiểu những ý của anh đã bổ sung vào đó.</b></i>


<i><b>- Cần nhấn mạnh để em nhấn mạnh lại với học sinh một điều: </b></i>
<i><b>Lor-ca là nhà thơ TBN vĩ đại, chứ không phải người nghệ sĩ chơi đàn ghi-ta</b></i>
<i><b>hay nhạc cụ nào khác, mặc dù Lor-ca rất giỏi âm nhạc và đã từng nhiều</b></i>
<i><b>năm học âm nhạc và đàn piano.</b></i>


<i><b>- Thơ Lor-ca rất giàu nhạc tính. Trong ngun bản tiếng Tây Ban</b></i>
<i><b>Nha, thơ Lor-ca có độ ngân vang rất cao. Khi dịch ra tiếng Việt, mặc dù ở</b></i>
<i><b>một ngơn ngữ khác, nhưng nhạc tính thơ Lor-ca vẫn rất đậm và đẹp. Nó</b></i>
<i><b>là một thứ âm nhạc mang tính mê hoặc người đọc và người nghe. Điều</b></i>
<i><b>này rất hiếm thấy trong các nhà thơ thế giới. Được như thế vì thơ Lor-ca</b></i>
<i><b>như sống tận nguồn âm nhạc và thơ ca dân gian Tây Ban Nha, đặc biệt là</b></i>
<i><b>dân ca và âm nhạc miền Andalucia.</b></i>


<i><b>- Lor-ca là nhà dân chủ, là người thuộc lý tưởng phe Cộng hồ, dĩ</b></i>
<i><b>nhiên, nhưng ơng khơng phải là “người chiến sĩ” trực tiếp tranh đấu như</b></i>
<i><b>lâu nay ta hiểu nhầm. Chỉ cần là nhà thơ dân chủ, Lor-ca đã là “đích</b></i>
<i><b>ngắm”, là cái gai trong mắt bọn phát xít rồi! </b></i>


<i><b>- Tất cả những hình ảnh “cây đàn”, “người hát rong” hay bất cứ</b></i>
<i><b>hình ảnh nào dính dáng tới âm nhạc, nhạc cụ trong bài thơ này đều</b></i>
<i><b>mang tính tượng trưng. Nếu hiểu ở cấp độ cao nhất, thì đó là cây đàn</b></i>
<i><b>Lyre-tượng trưng cho Thi Ca có từ thời cổ Hy Lạp. Nghĩa là Lor-ca vĩnh</b></i>
<i><b>viễn là Nhà Thơ, chứ không phải là nhà nào khác, dù ông rất nổi tiếng</b></i>
<i><b>với nhiều vở kịch cách tân, dù ông rất gần gũi với âm nhạc, với dân ca</b></i>
<i><b>miền Andalucia. Trong Nhà Thơ Lor-ca đã có đủ mọi nhà rồi!</b></i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(113)</span><div class='page_container' data-page=113>

<b>3.1. Thiết kế giáo án thực nghiệm</b>



<b>ĐÀN GHI TA CỦA LOR-CA</b>


<i><b> (2 tiết)</b></i>


<b> - Thanh </b>
<b>Thảo-A. MỤC TIÊU CẦN ĐẠT</b>


Giúp HS:


- Hiểu và cảm nhận được vẻ đẹp bi tráng của hình tượng F.G.Lor-ca
qua mạch cảm xúc và suy tư đa chiều vừa sâu sắc, vừa mãnh liệt của nhà thơ
Thanh Thảo


- Tiếp xúc với con người, đất nước và những nét đặc trưng của văn
hóa Tây Ban Nha.


- Tiếp cận với thể thơ tự do biến thể (tự do – siêu thực – tượng trưng)
để thấy được vẻ đẹp độc đáo của hình thức thơ mang phong cách hiện đại.


<b>B. PHƯƠNG TIỆN THỰC HIỆN</b>


<b>- SGK – SGV môn Ngữ Văn 12 (Tập 1)</b>
<b>- Thiết kế thực nghiệm</b>


<b>C. TIẾN TRÌNH DẠY – HỌC</b>
<b>1. Ổn định tổ chức</b>


<b>2. Kiểm tra bài cũ</b>
<b>3. Nội dung bài mới</b>


<b>*GV: Hướng dẫn HS đọc phần Tiểu dẫn trong SGK để nắm được nội</b>


<i>dung cơ bản về nhà thơ Thanh Thảo và bài thơ “Đàn ghi ta của Lor-ca”</i>


<b>I. Tiểu dẫn: (Dựa vào kiến thức SGK cung cấp, GV cần bổ sung và</b>


<i>nhấn mạnh những khía cạnh sau)</i>


<b>1. Nhà thơ Thanh Thảo </b>
<i><b>1.1. Tiểu sử</b></i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(114)</span><div class='page_container' data-page=114>

- Thanh Thảo là một gương mặt tiêu biểu của lớp nhà thơ trẻ trưởng
thành trong kháng chiến chống Mỹ, là người lính đã trực tiếp cầm súng
chiến đấu ở chiến trường miền Nam thời kỳ cuộc chiến khốc liệt nhất.


- Thanh Thảo là nhà thơ ln có ý thức tìm tịi, đổi mới nội dung và
nghệ thuật thơ nên ông đã đạt được nhiều thành tựu trên lĩnh vực thơ và
trường ca. Đã được nhận giải thưởng của Hội Nhà văn Việt Nam (1979) và
Giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật (2001)


<i><b>1.2. Sự nghiệp sáng tác</b></i>
* Thơ Thanh Thảo


- Là tiếng nói của người trí thức – chiến sĩ – nhà thơ luôn suy tư, trăn
trở về các vấn đề xã hội và thời đại. Ơng ln cảm nhận cuộc sống ở cái bề
sâu, bề sau, bề xa của nó trên cơ sở những trải nghiệm của chính mình


- Một phong cách nghệ thuật độc đáo, luôn đào sâu vào cái tôi nội
cảm để suy ngẫm, chiêm nghiệm và khái quát bằng những bài thơ kết hợp
thơ tự do xen lẫn yếu tố tượng trưng và siêu thực


- Ln sáng tạo và đổi mới hình thức nghệ thuật thơ: câu thơ, nhịp
điệu, hình ảnh, ngơn ngữ, cấu trúc…



* Tác phẩm tiêu biểu


- Trường ca: Những người đi tới biển (1977), Những ngọn sóng mặt
trời (1982), Trị chuyện với nhân vật của mình (2002)…


- Tập thơ: Dấu chân qua trảng cỏ (1978), Khối vuông Ru-bic (1985),
Bạch đàn gửi bạch dương (1987)…


- Tiểu luận - phê bình và tản văn : Từ một đến trăm (1988), Ngón thứ sáu
của bàn tay (1995), Mãi mãi là bí mật (2004), Trị chuyện với dịng sơng (2009)…


<b>2. Bài thơ “Đàn ghi ta của Lor-ca”</b>
<i><b>2.1. Federico Garcia Lorca (1898 – 1936)</b></i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(115)</span><div class='page_container' data-page=115>

- Là người dẫn đầu của phong trào cách tân thơ ca đương thời với
phong cách thơ siêu thực – tượng trưng, người nghệ sĩ đấu tranh cho tự do
và cơng lý, dùng tài năng nghệ thuật của mình (thơ ca) để cổ vũ tinh thần
đấu tranh của nhân dân chống lại chế độ độc tài phát xít Franco, đã bị sát hại
thảm khốc ngày 19/8/1936 và trở thành biểu tượng cho sự đấu tranh cho lý
tưởng cao đẹp vì hịa bình và tiến bộ của lồi người.


- Là một trong những nhà thơ nghĩa khí mà Thanh Thảo ngưỡng mộ,
cuộc đời và tài năng nghệ thuật của Lor-ca có ảnh hưởng trực tiếp đến
phong cách thơ tự do biến thể của Thanh Thảo (yếu tố siêu thực – tượng
trưng trong thơ Thanh Thảo).


<b>*GV: </b><i>Cung cấp tư liệu cho HS</i>


<i><b>- </b></i>Chủ nghĩa tượng trưng:<i> tìm vào trạng thái tâm hồn với những linh</i>


<i>cảm được khơi dậy từ vô thức, cho rằng hiện tượng trong vũ trụ tồn tại như</i>
<i>những dấu hiệu tượng trưng cho bản chất huyền bí của tạo vật mà chỉ riêng</i>
<i>nhà thơ mới có những thiên bẩm kì diệu để thâm nhập và biểu đạt được</i>
<i>những hình ảnh tượng trưng ấy. Thơ là một thứ “siêu cảm giác”, khơng thể</i>
<i>giải thích được. Khơng cần có hình tượng rõ nét, thơ được quan niệm như</i>
<i>một bản hoà âm hồn hảo. Dường như có nét tương đồng giữa sinh sơi của</i>
<i>tạo hố với sự sáng tạo thơ ca.</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(116)</span><div class='page_container' data-page=116>

<i><b>2.2. Bài thơ “Đàn ghi ta của Lor-ca”</b></i>
- Hoàn cảnh sáng tác bài thơ


<i><b>Câu hỏi 1: Căn cứ vào sự hiểu biết của bản thân, cho biết bài thơ</b></i>
<i><b>“Đàn ghi ta của Lor-ca” được Thanh Thảo sáng tác trong hoàn cảnh nào?</b></i>


<b>*GV: Cung cấp tư liệu cho HS</b>


Nhà thơ Thanh Thảo kể lại: “Trong một ngày của năm 1979, tại Trại
<i>sáng tác Quân khu V – Đà Nẵng, tôi với Ngô Thế Oanh (nhà thơ) và Trần</i>
<i>Phương Kỳ (nhà nghiên cứu nghệ thuật Chàm, nhà dịch thuật) ngồi rảnh</i>
<i>việc bèn đưa thơ Pablo Neruda và thơ Lor-ca ra dịch từ bản tiếng Anh…</i>
<i>Sau khi Trần Phương Kỳ dịch rất hay trường ca “Trên đỉnh Macchu Picchu”</i>
<i>của Neruda, chúng tôi xúm lại với mấy bài thơ của Lor-ca, trong đó có “Bài</i>
<i>ca mộng du” và bài thơ dài “Bi ca cho Ignacia Sanches Meijas”. Cùng lúc,</i>
<i>ùa vào tôi những bài thơ Lor-ca qua bản dịch Hồng Hưng mà tơi đã chép</i>
<i>trong sổ tay... Thực ra, Lor-ca đã sống trong tôi từ những năm 1969 –</i>
<i>1970… Và tôi đã viết “Đàn ghi ta của Lor-ca” trong cái ngày rầu rầu của</i>
<i>năm 1979 ấy. Bài thơ được viết rất nhanh, và gần như khơng sửa chữa gì</i>
<i>thêm... Cho tới năm 1985, khi tôi in tập thơ “Khối vuông ru-bic” tại NXB</i>
<i>Tác phẩm mới, bài thơ mới được chính thức xuất hiện lần đầu”.</i>



- Xuất xứ: Rút từ tập “Khối vuông Ru-bic” xuất bản năm 1985


- Bài thơ tiêu biểu cho tư duy thơ Thanh Thảo: giàu chất suy tư, cảm
xúc mãnh liệt, đậm sắc thái tượng trưng – siêu thực.


<b>*GV: Nhấn mạnh, chốt lại vấn đề với HS</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(117)</span><div class='page_container' data-page=117>

<b>=> Nhận xét chung về bài thơ “Đàn ghi ta của Lor-ca”</b>


<i>- Cảm hứng chung: ngợi ca để từ đó phục sinh cái chết đầy bi phẫn,</i>
tái hiện lại cuộc đời bi tráng và xây dựng tượng đài nghệ thuật bất tử về
F.G.Lorca bằng hình tượng nghệ thuật “đàn ghita”


- Nghệ thuật biểu hiện: thể nghiệm một hình thức thơ tự do biến thể
mang yếu tố siêu thực – tượng trưng qua hệ thống hình ảnh mang tính biểu
tượng , cảm nhận sự vật bằng sự chuyển hóa nhiều giác quan, cấu trúc thơ
theo dịng chảy của vơ thức, kết hợp tính liền mạch của cốt truyện tự sự và
tính gián đoạn của cảm xúc thơ.


<b>II. Đọc- hiểu văn bản</b>



<b>*GV: </b><i>Hướng dẫn HS đọc theo định hướng cảm xúc và nội dung bài thơ </i>


<b>-</b><i><b> “những tiếng đàn bọt nước</b></i>
<i><b>Tây Ban Nha áo choàng đỏ gắt</b></i>
<i><b>li-la li-la li-la</b></i>


<i><b>đi lang thang về miền đơn độc </b></i>
<i><b>với vầng trăng chếnh choáng</b></i>
<i><b>trên yên ngựa mỏi mòn”</b></i>



=> Đọc chậm với giọng chiêm ngưỡng, trân trọng bức chân dung
người nghệ sĩ vừa rực rỡ, huy hoàng, vừa cô đơn, vừa lãng tử.


<i><b>- “Tây Ban Nha</b></i>
<i><b> hát nghêu ngao</b></i>


<i><b>bỗng kinh hoàng</b></i>
<i><b>áo choàng bê bết đỏ</b></i>
<i><b>Lor-ca bị điệu về bãi bắn</b></i>
<i><b>chàng đi như người mộng du</b></i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(118)</span><div class='page_container' data-page=118>

<i><b>tiếng ghi ta lá xanh biết mấy</b></i>
<i><b>tiếng ghi ta tròn bọt nước vỡ tan</b></i>
<i><b>tiếng ghi ta rịng rịng </b></i>


<i><b>máu chảy</b></i>


<i><b>khơng ai chơn cất tiếng đàn</b></i>
<i><b>tiếng đàn như cỏ mọc hoang</b></i>
<i><b>giọt nước mắt vầng trăng</b></i>
<i><b>long lanh trong đáy giếng”</b></i>


=> Giọng đọc trầm lắng, ngắt nghỉ hợp lý với những điểm dừng,
khoảng lặng thể hiện sự hụt hẫng, đau đớn, tiếc thương trước cái chết đột
ngột, kinh hoàng của một sinh mệnh con người và của bao khát vọng.


<i><b>“đường chỉ tay đã đứt</b></i>
<i><b> dịng sơng rộng vơ cùng</b></i>
<i><b> Lorca bơi sang ngang</b></i>


<i><b> trên chiếc ghi-ta màu bạc </b></i>


<i><b> chàng ném lá bùa cơ gái di-gan </b></i>
<i><b> vào xốy nước</b></i>


<i><b> chàng ném trái tim mình</b></i>
<i><b> vào lặng yên bất chợt </b></i>


<i><b> li-la li-la li-la...”</b></i>


=> Giọng đọc da diết thể hiện niềm đồng cảm, đồng vọng tri âm của tác
giả dành cho cuộc đời bi kịch và số phận nghiệt ngã của người nghệ sĩ thiên tài.


<b>1. Ý nghĩa nhan đề và câu đề từ của bài thơ</b>


<i><b> </b></i> <b>*GV: </b><i><b> Hướng dẫn HS đọc chú giải số 1 – SGK trang 163</b></i>


<b>*GV:</b><i><b> Cung cấp tư liệu cho HS</b></i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(119)</span><div class='page_container' data-page=119>

<i>Flamencô mê đắm. (Có thể kể đơi nét về truyền thuyết Đàn ghi ta của dân</i>
<i>tộc Tây Ban Nha)</i>


<b>-</b><i> Đàn ghi ta (La Guitarra) cũng là bài thơ nổi tiếng do Federico</i>
<i>Gacia Lorca sáng tác, mà ý nghĩa của nó như là một Định Mệnh cho tài</i>
<i>năng và số phận của thiên tài thi ca này… “Tiếng khóc của phím đàn / bắt</i>
<i>đầu / Những ly rượu bình minh / tan vỡ… Đàn ơi! / Xé tim / bằng năm làn</i>
<i>dao sắc”. </i>


<b>-</b><i> Đối với quan niệm của Thanh Thảo, thì “đàn ghi ta” lại mang ý</i>
<i>nghĩa tượng trưng cho nghệ thuật thi ca giống như cây đàn lyre của Hy Lạp</i>


<i>cổ đại.</i>


<i><b>Câu hỏi 2: Anh (chị) cảm nhận được điều gì về F.G.Lor-ca qua</b></i>
<i><b>câu thơ đề từ?</b></i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(120)</span><div class='page_container' data-page=120>

<i><b>Câu hỏi 3: Nhà thơ Thanh Thảo đã nói: Cả bài thơ bật ra nhờ câu</b></i>
<i><b>thơ của Lor-ca dẫn dắt: “Khi tôi chết hãy chôn tôi với cây đàn”. Anh (chị)</b></i>
<i><b>hiểu điều đó như thế nào. </b></i>


<i><b>- “Đàn ghi ta của Lorca”</b></i><b>:</b> nên hiểu là tiếng nói nghệ thuật thi ca của
riêng Lor-ca. Nó khơng thuần t là hình ảnh, âm thanh, giai điệu trong
những sáng tác mà còn là cuộc đời, là tinh anh, là số phận nhà thơ, với tinh
thần đấu tranh cho tự do dân chủ và khát vọng đổi mới nghệ thuật. “Đàn ghi
ta” là hình ảnh biểu tượng cho tâm hồn, tài năng, tình yêu, khát vọng đối với
cuộc sống và sự cách tân nghệ thuật của nhà thơ F.G.Lor-ca... Đó là ý nghĩa
mà Thanh Thảo đã ký thác trọn vẹn trong bài thơ.


<b>2. Hình tượng “tiếng đàn ghi ta”</b>


<i><b>Câu hỏi 4: Liệt kê và cho biết “tiếng đàn ghi ta” trong bài thơ được</b></i>
<i><b>đặc tả như thế nào? </b></i>


- tiếng đàn có hình ảnh: <i>+ những tiếng đàn bọt nước</i>


<i>+ tiếng ghita tròn bọt nước vỡ tan</i>
<i>+ tiếng ghita ròng ròng máu chảy</i>
<i> </i> <i>+ không ai chôn cất tiếng đàn</i>
<i> </i> <i>tiếng đàn như cỏ mọc hoang</i>
<i> </i> - tiếng đàn có âm thanh: <i> + li-la li-la li-la</i>



- tiếng đàn có màu sắc: <i>+ tiếng ghita nâu</i>
<i> </i> <i>bầu trời cô gái ấy</i>


<i> </i> <i>+ tiếng ghita lá xanh biết mấy</i>


<i><b>Câu hỏi 5: Anh (chị) hiểu ý nghĩa của “tiếng đàn ghi ta” qua</b></i>
<i><b>những hình ảnh cảm nhận của nhà thơ Thanh Thảo như thế nào ?</b></i>


<b>*GV: </b><i>Giảng bình</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(121)</span><div class='page_container' data-page=121>

<i>Kiều” của Nguyễn Du; được liên tưởng như cung nguyệt lạnh, giọt lệ ngân,</i>
<i>nước băng… trong “Nguyệt cầm” của Xuân Diệu… Còn trong bài “Đàn</i>
<i>ghi ta của Lorca”, Thanh Thảo xây dựng hình tượng tiếng đàn để tập trung</i>
<i>miêu tả một thế giới của tưởng tượng và cảm xúc do tiếng đàn ấy gợi lên.</i>
<i>Miêu tả “tiếng đàn” bằng những hình ảnh như khơng có mối liên hệ gì với</i>
<i>nhau: “bọt nước”, “rịng rịng máu chảy”, “cỏ mọc hoang”với những hình</i>
<i>khối, sắc màu cụ thể: “trịn”, “vỡ tan”, “nâu”, “xanh”; và ngay cả “li-la</i>
<i>li-la li-la” cũng không đơn thuần chỉ tả âm thanh tiếng đàn, mà còn gợi lên</i>
<i>hình ảnh về lồi hoa tử đinh hương ngọt ngào và quyến rũ cả đất trời châu</i>
<i>Âu mỗi độ xuân sang… Tất cả, đã tạo nên sự giao thoa kỳ diệu mà đầy gợi</i>
<i>cảm giữa hình ảnh, màu sắc, hình khối và âm thanh. Dường như trong quan</i>
<i>niệm của Thanh Thảo, đó khơng cịn là “tiếng đàn ghi ta” bình thường nữa,</i>
<i>mà là tâm hồn, tài năng và cuộc đời của Lor-ca. </i>


- <i><b>“Đàn ghi ta của Lor-ca”:</b></i> lẽ đương nhiên có thể hiểu là cây đàn ghi
ta thực với âm thanh, giai điệu và sự ngân rung của tâm hồn tràn đầy cảm
xúc của người nghệ sĩ thiết tha với cuộc sống; nhưng ý nghĩa sâu sắc nhất
mà Thanh Thảo gửi vào hình tượng “đàn ghi ta” là tài năng sáng tạo, là thế
giới nghệ thuật, là cuộc đời rực rỡ nhưng ngắn ngủi và đầy bi kịch của thi sĩ
thiên tài F.G.Lor-ca.



- Hệ thống hình ảnh, màu sắc, hình khối và âm thanh mà Thanh Thảo
đã sử dụng, có khả năng gợi mở một bức tranh về tài năng và số phận của
Lor-ca với sức ám ảnh lạ lùng.


<b>*GV: </b><i>Cắt nghĩa</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(122)</span><div class='page_container' data-page=122>

tại trong một khoảng hữu hạn của thời gian, vang lên rồi tắt. Cũng như đời
người, sinh ra rồi lại mất đi. Đây là liên tưởng đầu tiên, lạ lùng, gợi nhiều
ám ảnh và mang những dự cảm không lành về “tiếng đàn ghi ta của Lor-ca”.
Nhất là khi đặt nó trong mối quan hệ với cuộc đời của Lor-ca: rất ngắn ngủi
(chết khi mới 38 tuổi) và rất đau thương (khi chưa hoàn thành khát vọng đấu
tranh và chưa đi hết con đường sáng tạo nghệ thuật, đã bị sát hại một cách
thảm khốc). Và hình ảnh<i>“tiếng ghi ta trịn bọt nước vỡ tan” </i>thật độc đáo, ta
như cảm nhận được tiếng đàn trong trẻo, mát lành, dịu ngọt, phập phồng
theo dòng cảm xúc, tuôn trào, lan tỏa và không gian như vỡ ịa khi tiếng đàn
vừa dứt. Hình khối “trịn” gợi sự hoàn tất, “vỡ tan” gợi sự mất mát, một kết
thúc của sự tồn tại mong manh, khi tiếng ghi ta vang lên những âm thanh
cuối cùng của giai điệu cuộc sống cũng là khi sự sống đột ngột chấm dứt.
Tuy nhiên, <i><b>Thanh Thảo quan niệm: “bọt nước” hiện rồi tan, tan lại hiện,</b></i>
<i><b>mong manh nhưng không thể bị tiêu diệt, nó tồn tại mãi mãi trong mối</b></i>
<i><b>quan hệ “tự hủy và tái sinh”.</b></i>


<i>+“tiếng ghi ta ròng ròng máu chảy”: </i>là sự sống ở dạng tồn tại đau
thương và bi tráng nhất. “Tiếng ghi ta” là giai điệu, là sự sống của tâm hồn,
nhưng “ròng ròng máu chảy” lại gợi những vết thương đau đớn và sự sống
đang bị hủy diệt tàn bạo nhất. Đây cũng là một cách liên tưởng rất tự nhiên
và tất yếu từ thực tế cuộc đời Lor-ca. Song quan trọng hơn, nó cho thấy một
quan niệm của nhà thơ về nghệ thuật: nghệ thuật (tiếng đàn của Lorca) phản
ánh cuộc sống và khi hấp thụ vào mình cái phong phú của cuộc sống thì bản


thân nó cũng trở thành một sinh thể có linh hồn, cũng bị “chảy máu” tổn
thương, tức tưởi, thổn thức, và đớn đau như chính con người.


</div>
<span class='text_page_counter'>(123)</span><div class='page_container' data-page=123>

mặt cách thức, cách so sánh này nằm trong hệ thống của tồn bài (âm thanh
được biểu hiện bằng hình ảnh). Về mặt ý nghĩa, đây là một cách liên tưởng
rất lạ, độc đáo: “cỏ mọc hoang” (người ta vẫn nói “mọc nhanh như cỏ”, và ở
đây lại còn là “cỏ mọc hoang”, không chịu bất cứ sự kiềm hãm nào, chắc
chắn sẽ rất mãnh liệt), nó vừa gợi sức sống mãnh liệt, vừa tả sức lan tỏa
khơng gì ngăn cản được, vừa là chứng nhân, vừa là sự tri âm với người lãng
tử trong khúc “La guitarra” – <i>“Ghi ta bần bật khóc / khơng thể nào / dập</i>
<i>tắt”.</i> Cũng có thể hiểu đây là lời đối thoại của Thanh Thảo với ca:
Lor-ca mong muốn được chôn cùng với cây đàn, Thanh Thảo khơng phải khơng
đồng tình với nguyện ước ấy mà chỉ khẳng định rằng: cây đàn của Lor-ca có
thể bị chơn vùi, thể xác Lor-ca có thể vùi lấp, song tài năng nghệ thuật, tinh
anh trí tuệ, khát vọng tình u của Lor-ca ln được trân trọng và lưu giữ
bởi “tiếng đàn” ấy mang trong nó một sức sống, một sức mạnh vượt qua mọi
không gian, thời gian và trở ngại, để mãi ngân vang tiếng tơ của tình u,
của lí tưởng nghệ thuật cao cả, từ đó vẫy gọi để kết nối mọi cá nhân trong
khát vọng vươn tới tự do và sáng tạo. Đây cũng là lời khẳng định giá trị của
nghệ thuật vĩnh cửu: <i>nghệ thuật nằm ngoài mọi quy luật của sự băng hoại,</i>
<i>chỉ mình nó khơng thừa nhận cái chết</i>.


</div>
<span class='text_page_counter'>(124)</span><div class='page_container' data-page=124>

nên hiểu là không gian nghệ thuật, để các nhà cách tân thỏa sức bay bổng,
sáng tạo. Cịn <i>“cơ gái ấy”</i> là ai? Thật khó để khẳng định như chú giải 1 /
trang 165 – SGK Ngữ văn 12 Cơ bản, nhưng chắc chắn đó là một tình u
rạo rực, say mê của F.G.Lor-ca. Bởi theo chúng tôi, “cô gái ấy” là biểu
tượng cho cái Đẹp lý tưởng muôn đời mà người nghệ sĩ luôn khao khát
chiếm lĩnh và ngợi ca; là Nàng thi ca quyến rũ mà Lor-ca luôn mải miết đi
tìm như chàng lãng tử si tình để dâng nàng một tình yêu cao cả, vĩnh cửu và
bất diệt.



<i>+“tiếng ghi ta lá xanh biết mấy”:</i> “lá xanh biết mấy” là thiên nhiên
tươi tắn, là cỏ cây với cuộc sống tự nhiên, là sắc xanh xao xuyến cả tâm hồn.
“Tiếng ghi ta lá xanh biết mấy” là tiếng ghi ta mang màu xanh của sự sống
và niềm thiết tha khắc khoải với cuộc đời, với khát vọng sáng tạo nghệ thuật
của Lor-ca (Có thể nói đến câu chuyện “Đóa hoa Xanh” của Novalis, bài thơ
“Ghi nhớ” của Lor-ca, sắc“cỏ xanh” miên man trong thơ Thanh Thảo).


</div>
<span class='text_page_counter'>(125)</span><div class='page_container' data-page=125>

những hình dung thậm chí là những ám ảnh về một hình tượng khác hồn
chỉnh và trọn vẹn hơn – hình tượng F.G.Lor-ca.


=> Thơng qua hệ thống hình ảnh, hình khối, màu sắc, âm thanh,
Thanh Thảo vừa gợi ra cuộc đời rực rỡ nhưng ngắn ngủi của thi sĩ thiên tài –
Lor-ca, vừa gợi được sự vận động của “tiếng đàn” trong cuộc sống: từ một
thực thể tồn tại ngắn ngủi, mong manh, đến một thực thể hội tụ trong nó
mn sắc màu của cuộc sống và cuối cùng trở thành một sinh thể với sức
sống bất diệt.


<b>3. Hình tượng người nghệ sĩ thiên tài F.G.Lor-ca</b>


<i><b>Câu hỏi 6: Theo anh (chị), hình tượng Lor-ca được xây dựng từ</b></i>
<i><b>những mối quan hệ nào?</b></i>


<i><b>3.1. Lor-ca và Tây Ban Nha </b></i>


<i><b>Câu hỏi 7: Đất nước Tây Ban Nha qua sự hiểu biết và tưởng tượng</b></i>
<i><b>của anh (chị)?</b></i>


<i><b>*GV: Hướng dẫn HS tiếp cận với khơng gian văn hố đặc trưng và</b></i>
<i>khơng khí dữ dội của những xung đột chính trị và nghệ thuật</i> <i>trên đất nước</i>


<i>Tây Ban Nha đương thời.</i>


- <i>“Tây Ban Nha áo choàng đỏ gắt”</i>: gợi ra một khơng gian văn hố
đặc trưng Tây Ban Nha với những trận đấu bò rực lửa, màu “đỏ gắt” là sự
cộng hưởng của áo đỏ đấu sĩ với màu nắng rực cháy trên đấu trường đầy cát
bỏng. Đó cũng là màu chiến thắng, góp phần tạo nên chất men say đắm của
vũ điệu flamenco truyền thống, thường được biểu diễn ngay sau chiến thắng
của người võ sĩ đấu bò. Trong ý nghĩa biểu tượng, gợi đến tính chất dữ dội
của một đấu trường đặc biệt – nơi diễn ra những xung đột gay gắt giữa khát
vọng dân chủ và nền chính trị độc tài, giữa khát vọng cách tân nghệ thuật
với nền nghệ thuật già nua, của đất nước Tây Ban Nha đương thời.


</div>
<span class='text_page_counter'>(126)</span><div class='page_container' data-page=126>

chuốt với nhịp điệu nhanh, hòa quyện cùng những bước nhảy, tiếng vỗ tay
hay dậm gót của các vũ cơng flamenco – hình ảnh của một Tây Ban Nha
tươi đẹp và mê đắm. Nhưng cũng đột ngột và đầy thảng thốt, khi “bỗng kinh
hoàng”, thể hiện sự hoảng hốt, ghê sợ tột độ, liên tưởng đến sự khủng bố dữ
dội, tàn bạo của chế độ độc tài, và một không gian đầy những ấn tượng chết
chóc, nhất là khi đặt bên cạnh “áo chồng bê bết đỏ” và “tiếng ghi ta rịng
rịng máu chảy”.


=> Chế độ độc tài Franco với những cơn cuồng bạo phát xít là thời kỳ
đen tối nhất của Tây Ban Nha và sự tàn bạo như “cái chết đẻ trứng vào vết
thương”. Nên dù nhân dân Tây Ban Nha và Lor-ca đã ước nguyện: “Tơi
khơng muốn nhìn thấy máu” (! Que no quiero verla!), thì chỉ một năm sau
“máu đã chảy tràn”, trong đó có máu của chính nhà thơ…


<i><b>3.2. Lor-ca và cuộc hành trình đơn độc</b></i>


<i><b>Câu hỏi 8: Đọc và nêu cảm nhận của anh (chị) với những dịng thơ</b></i>
<i><b>đầu tiên nói về Lor-ca?</b></i>



<i>“… Tây Ban Nha áo choàng đỏ gắt</i>
<i>li-la li-la li-la</i>


<i>đi lang thang về miền đơn độc</i>
<i>với vầng trăng chuếnh chống</i>
<i>trên n ngựa mỏi mịn”</i>


<b>*GV:</b><i>Cung cấp tư liệu cho HS</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(127)</span><div class='page_container' data-page=127>

<i>- Thanh Thảo không kể một câu chuyện cụ thể và mạch lạc, cũng</i>
<i>không xây dựng một hệ thống chi tiết tường minh về cuộc đời bi kịch của</i>
<i>Lor-ca. Lối thơ tượng trưng, siêu thực khiến ngòi bút nhà thơ đầy ngẫu</i>
<i>hứng trong lựa chọn hình ảnh. Sự thấu hiểu và ngưỡng mộ một tài năng</i>
<i>khiến Thanh Thảo nghiêng về xu hướng lý tưởng hố, để tạo nên một sự hồ</i>
<i>nhập chuyển hố của cá nhân Lor-ca và đất nước Tây Ban Nha.</i>


-<i>“Tây Ban Nha”</i> khơng chỉ là tên đất nước, mà cịn được dùng để gọi
tên một con người sinh ra đã sống với dân tộc mình bằng cả trái tim và khối
óc, cuộc đời con người ấy thuộc về Tây Ban Nha và cũng là tất cả những gì
mà đất nước này sở hữu. Một danh từ đặc biệt được Thanh Thảo sử dụng độc
đáo vừa gợi lên hình tượng Lor-ca trong không gian đặc trưng của đất nước
Tây Ban Nha, vừa tạo liên tưởng đến một sự hoà nhập của Lor-ca với đất
nước quê hương mình. Sự kết hợp <i>“Tây Ban Nha áo choàng đỏ gắt”</i> một mặt
vẫn cho phép hiểu Lor-ca như một hiệp sĩ trên đấu trường thời đại, một mặt
nâng Lor-ca thành một biểu tượng bi tráng của Tây Ban Nha đương thời.


- Những từ láy <i>“lang thang’, “đơn độc”, “chếnh chống”, “mỏi</i>
<i>mịn”</i> rất Việt Nam với giá trị tạo hình biểu cảm được dùng một cách hợp lí
để gợi ra một hình tượng mang đậm cốt cách Tây Ban Nha: hình tượng hiệp


sĩ cô đơn với bước chân mỏi mệt trong cuộc hành trình đơn độc, song lịng
vẫn đắm say mải miết theo đuổi lý tưởng vì cái đẹp, cái cao cả của đời mình.


<i><b>Câu hỏi 9: Nhận xét về giá trị nghệ thuật của đoạn thơ trên?</b></i>


=> Bản thân các từ láy vốn giàu giá trị biểu cảm, khi kết hợp lại đã
tạo nên những hình ảnh vừa chân thực và vừa thi vị, vừa rất cụ thể và vừa có
sức khái quát để lại những ấn tượng đầy lãng mạn.


</div>
<span class='text_page_counter'>(128)</span><div class='page_container' data-page=128>

(Xecvantec), lại cũng gợi ra một ấn tượng lãng mạn, say đắm, một hình
tượng đậm chất lý tưởng và chất nghệ sĩ.


=> Đoạn thơ là những phác thảo đầu tiên khá chân thực, chính xác về
Lor-ca:


Người nghệ sĩ thiên tài với cuộc hành trình kiếm tìm đích đến trong
nghệ thuật và cuộc đời. Chàng mang trong tâm hồn mình cái dữ dội của
cuộc sống và sự lãng mạn của những giấc mơ, cả ý chí kiên cường và những
xúc cảm say đắm làm “chếnh choáng” cả vầng trăng. Đồng thời, có thể hình
dung ra hình tượng người nghệ sĩ cơ đơn trên hành trình đi tìm cái Đẹp
trong thế giới bạo tàn, cơ đơn trong chính cuộc đấu tranh vì tự do và cái Đẹp
mà khơng phải ai cũng thấu hiểu.


<i><b>3.3. Lor-ca và số phận bi thảm </b></i>


<i><b>Câu hỏi 10: Số phận bi thảm của Lor-ca được gợi ra qua những</b></i>
<i><b>hình ảnh, những mối liên hệ nào?</b></i>


- Được gợi ra qua mối liên hệ tương phản:
<i>Tây Ban Nha</i>



<i>hát nghêu ngao</i>


=> Thi sĩ thiên tài và những cách tân
nghệ thuật vĩ đại đối với Tây Ban
Nha và cả nhân loại. Nhưng Lor-ca
lại luôn mong muốn có cuộc đời của
chàng kị sĩ giang hồ, để tự truyền bá
những sáng tác bằng ngơn ngữ, tiếng
nói, giọng điệu chính con người
mình (sở nguyện của Lor-ca – TCS)
=> Lor-ca với tâm hồn thanh thản và
phong thái tự do như một người du


<i>Tây Ban Nha</i>
<i>bỗng kinh hoàng</i>
<i>áo choàng bê bết đỏ</i>


=> Dân tộc Tây Ban Nha đã choáng
váng đến tột độ, đau đớn đến tột cùng
và bàng hoàng đến ghê sợ, khi hiện
thân của khát vọng, tự do và tinh thần
chiến đấu không mỏi mệt cho lý tưởng
cách tân nghệ thuật, cho sự ngợi ca cái
Đẹp – Lor-ca, bị sát hại tàn bạo.


</div>
<span class='text_page_counter'>(129)</span><div class='page_container' data-page=129>

ca, hát lên bài ca thơ do mình sáng
tạo làm say đắm lịng người.


thuật.



<i><b>Câu hỏi 11: Anh (chị) hãy cho biết: Thanh Thảo muốn nhắn gửi</b></i>
<i><b>điều gì qua cái chết của Lor-ca?</b></i>


<b>*GV:</b><i><b> Giảng bình</b></i>


<i>=> Thanh Thảo như nhập thân vào hình tượng, đồng thời như tự</i>
<i>phân thân, để trải nghiệm đến tận cùng hai tâm trạng: Lor-ca và dân tộc</i>
<i>Tây Ban Nha. Nỗi kinh hoàng của cả dân tộc khơng chỉ là vì cái chết của</i>
<i>Lor-ca, mà còn là niềm căm hận trước sự bạo tàn, vơ nhân đạo của chế độ</i>
<i>độc tài phát xít Franco, đã hủy diệt cái Đẹp và khát vọng kiếm tìm cái Đẹp</i>
<i>cũng như tự do của con người.</i>


<i>=> Nếu khổ thơ đầu, hình ảnh “áo chồng đỏ gắt” có khả năng khái</i>
<i>quát, thể hiện phong thái tự do và cá tính nghệ sĩ, thì ở đây, hình ảnh “áo</i>
<i>choàng bê bết đỏ” lại là một sự kiện cụ thể, gợi đến thảm kịch của người</i>
<i>nghệ sĩ thiên tài đã bị sát hại một cách lén lút và hèn hạ.</i>


<i>=> Thanh Thảo không đi sâu miêu tả sự kiện Lor-ca bị giết, mà chỉ</i>
<i>gợi một ấn tượng dữ dội về nó, để biểu hiện cảm xúc đau đớn của chính</i>
<i>mình và gợi nỗi đau trong lịng người đọc. Song, nỗi đau trước cái chết của</i>
<i>Lor-ca, không phải điều cuối cùng Thanh Thảo muốn bày tỏ. Cái đọng lại</i>
<i>sau cùng chính là niềm tin vào sự bất tử của Lor-ca, của cái Đẹp và Tự do.</i>
<i>Bởi cái Đẹp luôn là một nguồn sáng cứu rỗi cho nhân loại.</i>


<i><b>3.4. Lor-ca và sự bất tử</b></i>


<i><b>Câu hỏi 12: Những chi tiết, hình ảnh nào đề cập đến sự bất tử của</b></i>
<i><b>Lor-ca?</b></i>



</div>
<span class='text_page_counter'>(130)</span><div class='page_container' data-page=130>

bên trong, từ vận động của đôi chân đến sự vận động của tâm hồn, từ sự kết
thúc của vật chất đến sự khởi đầu bất tử của tinh thần. Vì “mộng du” tức là
thốt khỏi thế giới thực tại để sống và bay bổng trong một thế giới khác với
sức sống mạnh mẽ, phóng khống và bất diệt. Thanh Thảo đã tạo nên một
sự hố thân, hồ nhập tuyệt đối giữa <i><b>hình tượng tiếng đàn</b></i> và <i><b>hình tượng</b></i>
<i><b>Lor-ca</b></i>: khi Lor-ca bị điệu về bãi bắn, cũng là lúc tiếng đàn ngân lên “<i>tiếng</i>
<i>ghi ta nâu”, “tiếng ghi ta lá xanh</i> <i>biết mấy”;</i> khi Lor-ca bị những viên đạn
phát xít găm vào ngực, tiếng ghi ta cao trào rồi tắt lịm “<i>tiếng ghi ta tròn bọt</i>
<i>nước vỡ tan”, “tiếng ghi ta ròng ròng / máu chảy</i>”; khi Lor-ca ngã xuống là
tiếng đàn trỗi dậy <i>“như cỏ mọc hoang” và “Lor-ca bơi sang ngang / trên</i>
<i>chiếc ghita màu bạc”</i>...


=> Hình tượng tiếng đàn và Lor-ca, đã vượt khỏi giới hạn vật chất của
hình ảnh và âm thanh để trở thành hình tượng tinh thần có sức sống bất diệt.


-<i>“giọt nước mắt vầng trăng / long lanh trong đáy giếng”</i>: là lối liên
tưởng độc đáo từ những hình ảnh thường gặp trong thơ của Lor-ca, tượng
trưng cho cái Đẹp, Tình u và cái Chết. Cả ba hịa quyện để mở ra những
nẻo đường kỳ ảo cho cuộc sống và tâm hồn con người. Bọn phát xít giết hại
Lor-ca, nhưng cái chết ấy lại làm cái Đẹp lên ngôi, tỏa sáng, gieo mầm cho
sự sống và sáng tạo.


<b>*GV: </b><i>Giảng bình</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(131)</span><div class='page_container' data-page=131>

<i>đáo. Hình ảnh này, theo lời gợi ý của nhà nghiên cứu văn học – TS. Chu</i>
<i>Văn Sơn, người đọc có thể hiểu theo nhiều cách: “giọt nước mắt” và “vầng</i>
<i>trăng”; “giọt nước mắt” với “vầng trăng”; “giọt nước mắt” như “vầng</i>
<i>trăng”; “giọt nước mắt” của “vầng trăng”; “giọt nước mắt” là “vầng</i>
<i>trăng”… Nhưng dù hiểu theo cách nào thì đây cũng là hình ảnh thơ rất đẹp,</i>
<i>có sức gợi cảm cao. </i>



<i>-“Đường chỉ tay đã đứt / dịng sơng rộng vơ cùng</i>”: dễ gợi một cảm
giác bi quan về sự kết thúc của đời người hữu hạn, khi cuộc sống vô hạn vẫn
tiếp tục chảy trôi. Thế nhưng bằng sức tưởng tượng mạnh mẽ, Thanh Thảo
đã đem đến một cảm nhận bất ngờ: <i><b>“Lor-ca bơi sang ngang / trên chiếc ghi</b></i>
<i><b>ta màu bạc”</b></i>. Chiếc “đàn ghi ta” đã biến ảnh, để chở linh hồn Lor-ca vượt
qua giới hạn ngắn ngủi của đời người để đến với cõi vô cùng. Ấy là khi cháy
lên ngọn lửa và ngọn lửa tìm thấy khoảng chiếu sáng qua những dòng
thơ.Khoảnh khắc vĩnh cửu, khi nhà thơ thành chiếc cầu thông hai cõi những
khát vọng mà cái chết cũng không thể nào dập tắt nổi, Đó là niềm tin tuyệt
đối của Thanh Thảo vào sự bất tử của Lor-ca. Vậy là, sự tưởng tượng xét
đến cùng, lại bắt nguồn từ nhận thức về giá trị tinh thần của tiếng đàn
Lor-ca, từ giá trị của tiếng nói và những cống hiến của Lor-ca cho nghệ thuật. Ở
đây, cịn một khía cạnh nữa trong quan niệm nghệ thuật của Thanh Thảo: sự
sống vật chất của người nghệ sĩ là hữu hạn, song những sáng tạo nghệ thuật
sẽ đưa nghệ sĩ vào cõi bất tử.


</div>
<span class='text_page_counter'>(132)</span><div class='page_container' data-page=132>

là mình tự nguyện trở thành một “torero”, một “matador” dũng cảm, đơn
độc bước vào đấu trường tử sinh. Ném “lá bùa” vào “xoáy nước” là sẵn sàng
đối mặt với hiểm hoạ và định mệnh trong cuộc đời, là tư thế đầy kiêu hãnh,
hiên ngang (“xoáy nước” là hiểm hoạ trên dịng sơng số phận, “ném lá bùa”
là ném sự bảo vệ về sinh mạng). “Ném trái tim” là sự dâng hiến trọn vẹn
trong thanh thản và vô tư, là hành động cao cả, chân thành và thiêng liêng
nhất với chính mình. Cả tư thế kiêu hãnh và trái tim cao thượng đều là cốt
cách nghệ sĩ – hiệp sĩ, nó tỏa sáng vẻ đẹp của hình tượng Lor-ca. Hai lần
Thanh Thảo dùng từ “ném”: lần thứ nhất, là hành động của một hiệp sĩ coi
khinh cái chết do kẻ thù gây ra không thể ngăn cản tư tưởng, tâm hồn Lor-ca
hòa vào sự sống bất tử của nhân dân; lần thứ hai, là hành động của người
nghệ sĩ sẵn sàng và tự nguyện dâng trọn tâm hồn mình cho cuộc đời để đi
vào n lặng. Chính sự dâng hiến vô tư và thanh thản ấy đã khiến <i><b>“đàn ghi</b></i>


<i><b>ta của Lor-ca”</b></i> ngân vang bất diệt khơng chỉ bằng âm thanh mà cịn bằng cả
dư âm.


<i>-“li-la li-la li-la”</i>: âm thanh tiếng đàn xuất hiện hai lần trong bài thơ.
Lần thứ nhất, được vang lên trong không gian dữ dội của đất nước Tây Ban
Nha thành lời ca tranh đấu. Lần thứ hai, vang lên trong <i>“lặng im bất chợt”</i>,
vang lên từ cõi vô cùng và sự bất diệt. Lần thứ nhất là âm thanh thực. Lần
thứ hai đã là những dư âm không dứt để khơi dậy và nối dài cảm xúc, rung
động và tỏa sáng lí tưởng cao cả đẹp đẽ của Lor-ca. <i>“Li-la”</i> còn là tên gọi
khác của hoa tử đinh hương, loài hoa thường nở rộ ở Tây Ban Nha vào mùa
xuân với sắc tím mơ màng đầy ám ảnh. Và gợi liên tưởng tới âm vang của
lời hoan hô “viva…viva…”, như khẳng định sức sống bất diệt của Lor-ca.
Vĩ thanh của tiếng đàn? Hương sắc một loài hoa? Xét đến tận cùng, cũng
chính là sự bất tử của Lor-ca trong nỗi niềm đồng cảm, tri âm và ngưỡng mộ
của nhà thơ Thanh Thảo.


</div>
<span class='text_page_counter'>(133)</span><div class='page_container' data-page=133>

<i><b>Câu hỏi 13: Qua phần phân tích trên, anh (chị) cảm nhận được</b></i>
<i><b>những gì về tình cảm của Thanh Thảo dành cho người nghệ sĩ thiên tài</b></i>
<i><b>F.G.Lor-ca?</b></i>


<b>*GV: </b><i>Hướng dẫn HS tổng hợp những kiến thức đã tiếp thu được</i>
<i>trong quá trình đọc – hiểu bài thơ, để rút ra nhận xét.</i>


- Một nét độc đáo trong sáng tác nghệ thuật của Thanh Thảo, là những
vần thơ tri âm, tri ngộ không biên giới với những nghệ sĩ tài hoa, <i>“những</i>
<i>gương mặt ngẩng lên lấp lánh chất người”</i> – viết về Lor-ca là một thành
công của Thanh Thảo. Bài thơ là khúc tưởng mộ, là lời ai điếu xót xa,
thương cảm cho một người nghệ sĩ thiên tài, có số phận bi thảm, nghiệt ngã.


- Thanh Thảo đã cảm nhận: <i>“Lor-ca là nhà thơ của những giấc mơ,</i>


<i>của những linh cảm nhoi nhói, một nhà thơ có thể biến những giấc mơ</i>
<i>thành nhịp điệu, có thể biến những linh cảm thành ngơn ngữ. Lor-ca siêu</i>
<i>thực một cách tự nhiên, và hiện thực một cách tự nhiên… Dường như không</i>
<i>thể phân biệt được cuộc đời của Lor-ca với thơ của ông, bởi chúng quyện</i>
<i>chặt vào nhau, và thơ của Lor-ca chính là cuộc đời của ông, đúng đến từng</i>
<i>câu thơ, từng giây phút một”.</i> Vì vậy, khi bắt gặp hệ thống thi ảnh quen
thuộc của thơ Lor-ca, tràn ngập trong bài thơ mà Thanh Thảo viết về ơng, đó
là minh chứng cho sự “đồng cảm, đồng điệu, đồng tình, đồng ý, đồng chí,
đồng vọng” của hai tâm hồn thi nhân, dù thực tế họ bị ngăn cách bởi không
gian, thời gian và số mệnh.


- Không chỉ là sự cảm phục, ngưỡng mộ và tôn thờ, tình cảm của
Thanh Thảo dành cho F.G.Lor-ca đã vượt tầm tri âm, tri kỷ, tới mức hóa
thân, nhập vai để Thanh Thảo được là người bạn đồng hành ẩn bóng, để đi
đến tận cùng khoảnh khắc cuối của cuộc đời Lor-ca.


<b> III. Tổng kết</b>
<b>1. Ghi nhớ</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(134)</span><div class='page_container' data-page=134>

<b>*GV: </b><i>Tổng hợp </i>


<i><b>1.1.</b><b>“Đàn ghita của Lorca”</b></i> đã tạo dựng một cách trung thực về cuộc
đời bi thảm của nhà thơ F.G.Lorca với vẻ đẹp tâm hồn và tính cách thuần
chất Tây Ban Nha. Bài thơ giàu nhạc điệu, kết quả của sự hòa nhập chất
nhạc đặc biệt của thơ Lor-ca và năng lượng sáng tạo đặc biệt của hồn thơ
Thanh Thảo (những câu thơ không viết hoa đầu dòng, tạo mạch thơ liên tục,
xâu chuỗi với nhau để kết nối các biểu tượng vốn rời rạc và đầy sức ám ảnh;
những liên tưởng thơ bất ngờ, phóng khống tạo một gợi mở độc đáo về
tiếng đàn ghi ta của Lor-ca; những tương phản gay gắt được xây dựng liên
tiếp để làm nổi bật những ấn tượng đậm nét về con người, cuộc sống và sức


sống bất diệt của những giá trị tinh thần mà Lor-ca tạo nên trong bối cảnh xã
hội và thời đại dữ dội lúc bấy giờ; những hình dung từ được dùng một cách
tình cờ, khơng cố ý song đều gắn một cách vô thức với số phận và cuộc đời
Lor-ca để tạo nên một ám ảnh và làm nổi bật chủ đề tư tưởng của bài thơ...).
Nhạc điệu của bài thơ không phải là chất nhạc do âm, vần hay thanh điệu
đem lại mà là giai điệu của tâm hồn, của trái tim đồng điệu trong lí tưởng và
khát vọng, nên khó thấy hơn nhưng lại dễ ám ảnh hơn.


<i><b>1.2.“Đàn ghita của Lorca”</b></i> là tiếng nói tri âm của người nghệ sĩ với
một người nghệ sĩ. Sự đồng cảm lạ kỳ của Thanh Thảo và Lor-ca trong bài
thơ vừa cho người đọc hiểu về Lor-ca vừa có một cái nhìn trọn vẹn hơn về
con người Thanh Thảo – một trí thức giàu suy tư và một người nghệ sĩ tràn
đầy nhiệt huyết, lí tưởng. <i><b>“Đàn ghi ta của Lorca”</b></i> như là sự tiếp nối trọn
vẹn cái mạch thơ đã được khơi dòng từ trường ca <b>“Những người đi tới</b>
<b>biển”</b>: <i>“Chúng tơi đã đi khơng tiếc đời mình /Nhưng tuổi hai mươi làm sao</i>
<i>không tiếc / Nhưng ai cũng tiếc tuổi hai mươi thì cịn chi Tổ quốc?”</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(135)</span><div class='page_container' data-page=135>

đời. Những điều này thực ra không mới, song trong bài thơ này, nó chính là
cơ sở để Thanh Thảo khẳng định giá trị những sáng tạo nghệ thuật và những
cống hiến về tư tưởng của Lor-ca mãi trường tồn, vĩnh cửu.


<b>2. Luyện tập:</b>


<b>*GV: </b><i>Đưa ra hệ thống câu hỏi khảo sát và hướng dẫn HS trả lời</i>
<b>Câu hỏi 1: Trình bày những hiểu biết của em về Thanh Thảo và Lor-ca?</b>
<b>Câu hỏi 2: Tác phẩm “Đàn ghi-ta của Lor-ca” viết theo thể loại gì?</b>
Đặc trưng cơ bản của thể loại văn học ấy?


<b>Câu hỏi 3: Em hiểu gì về lời đề từ của tác phẩm: </b>



“Khi tôi chết hãy chôn tôi với cây đàn”?
<b>Câu hỏi 4: Ý nghĩa ẩn dụ của hình tượng “tiếng đàn ghi-ta”?</b>
<b>Câu hỏi 5: Cảm nhận của em về cái chết của Lor-ca?</b>


<b>Câu hỏi 6: Suy nghĩ của em về ý kiến: “Đàn ghi-ta của Lor-ca” là</b>
<i>một “chướng ngại vật khó vượt” trong chương trình Ngữ Văn 12</i>
<b>Câu hỏi 7: Hình tượng trung tâm của tác phẩm “Đàn ghi-ta của </b>
Lor-ca” là gì?


<b>Câu hỏi 8: Nêu cảm xúc chủ đạo của tác phẩm “Đàn ghi-ta của Lor-ca”</b>
<b>Câu hỏi 9: Trình bày cảm nhận của em về tác phẩm “Đàn ghi-ta của</b>
Lor-ca”


<b>3.2. Kết quả thực nghiệm </b>


Dựa vào các bảng khảo sát trước và sau thực nghiệm của GV các lớp
12 –THPT tham gia thực nghiệm, chúng tôi đã thu được những kết quả cần
thiết, đáp ứng yêu cầu của quá trình thực nghiệm một cách nghiêm túc


* Bảng thống kê khảo sát tình hình học tập bài thơ “Đàn ghi ta của
<b>Lor-ca” của HS lớp 12 – THPT trước TN</b>


STT MỤC KHẢO S ÁT SỐ HS


(233) TỈ LỆ (%)


</div>
<span class='text_page_counter'>(136)</span><div class='page_container' data-page=136>

2 Không nắm được Tiểu dẫn 39 16,7


3 Không nắm được kiến thức cơ bản 49 21,0



4 Không tham gia xây dựng bài 59 25,3


5 Khơng có kiến thức xã hội và văn học 30 12,8


6 Không hiểu TPVH (sau khi nghe giảng) 19 8,1


* Bảng so sánh – đối chiếu câu hỏi khảo sát TN


STT CÂU HỎI KHẢO SÁT


THỰC NGHIỆM
(235 HS)
ĐỐI CHỨNG
(233 HS)
Đúng
(HS-%)
Sai
(HS-%)
Đúng

(HS-%)
Sai

(HS-%)
1 Trình bày những hiểu biết của


em về Thanh Thảo và Lor-ca?


215
91,5%


20
8,5%
154
66,1%
79
33,9%
2


“Đàn ghi-ta của Lor-ca” viết
theo thể loại gì? Đặc trưng cơ
bản của thể loại văn học ấy?


209
88,9%
26
11%
136
58,4%
97
41,6%
3 Em hiểu gì về lời đề từ: “Khi tôi


<i>chết hãy chôn tôi với cây đàn”? </i>


227
96,6%
08
3,4%
176
75,5%


57
24,5%
4 Ý nghĩa ẩn dụ của hình tượng


“tiếng đàn ghi ta”?


220
93,6%
15
6,4%
143
61,4%
90
38,6%
5 Cảm nhận của em về cái chết


của Lor-ca?
196
83,4%
39
16,6%
137
58,8%
96
41,2%
6


Suy nghĩ của em về ý kiến:
“Đàn ghi-ta của Lor-ca” là một
<i>“chướng ngại vật khó vượt”</i>


<i>trong chương trình Ngữ Văn 12</i>


180
76,6%
55
23,4%
120
51,5%
113
48,5%


7 Hình tượng trung tâm của tác phẩm
“Đàn ghi-ta của Lor-ca” là gì?


229
97,4%
06
2,6%
195
83,7%
38
16,3%
8 Nêu cảm xúc chủ đạo của bài


thơ “Đàn ghi-ta của Lor-ca”


227
96,6%
08
3,4%


210
90,1%
23
9,9%
9 Trình bày cảm nhận của em về


bài thơ “Đàn ghi-ta của Lor-ca”


</div>
<span class='text_page_counter'>(137)</span><div class='page_container' data-page=137>

* Bảng thống kê khảo sát tình hình học tập bài thơ “Đàn ghi ta của
<b>Lor-ca” của HS lớp 12 – THPT sau TN</b>


STT MỤC KHẢO SÁT SỐ HS


(235)


TỈ LỆ
(%)


1 Không soạn bài 19 8,0


2 Không nắm được Tiểu dẫn 12 5,1


3 Không nắm được kiến thức cơ bản 24 10,2


4 Không tham gia xây dựng bài 48 20,4


5 Khơng có kiến thức xã hội và văn học 13 5,5


6 Không hiểu TPVH (sau khi nghe giảng) 7 2,9



Với số lượng HS của 5 lớp TN và 5 lớp ĐC ở khối 12 thuộc ba trường
THPT: Chu Văn An – Yên Bái, Nguyễn Đức Cảnh – Thái Bình và Ngơ
Quyền – Hải Phịng, chúng tôi phân loại kết quả HS bằng hệ thống bảng
điểm (theo tiêu chí đánh giá và phân loại HS của môn học)


* Thang điểm xếp loại HS:
- Loại Yếu: > 5 điểm


- Loại Trung bình: = 5, 6 điểm
- Loại Khá: = 7, 8 điểm


- Loại Giỏi: = 9, 10 điểm
* Thống kê bảng điểm


<b>1</b> <b>2</b> <b>3</b> <b>4</b> <b>5</b> <b>6</b> <b>7</b> <b>8</b> <b>9</b> <b>10</b>


TN


(235 HS) 5 7 11 18 35 70 24 48 14 3


ĐC


(233 HS) 11 9 15 22 47 77 22 21 9 0


* Bảng phân loại kết quả


<b>YẾU</b> <b>TB</b> <b>KHÁ</b> <b>GIỎI</b>


Kết quả TN Số bài: 235 41 75 72 22



% 17,4 31,9 30,6 9,3


Kết quả ĐC Số bài: 233 57 124 43 9


</div>
<span class='text_page_counter'>(138)</span><div class='page_container' data-page=138>

Căn cứ vào các bảng tổng kết trên, có thể nhận định một cách khái
quát về kết quả dạy – học của 5 lớp TN và 5 lớp ĐC như sau: Số HS lớp
TN đạt kết quả TB trở xuống có tỉ lệ % thấp hơn so với lớp ĐC, cụ thể:


+ Điểm Yếu ở lớp TN thấp hơn so với lớp ĐC
24,4% - 17,4% = 7%


+ Điểm TB ở lớp TN thấp hơn so với lớp ĐC
53,2% - 31,9% = 21,3%


+ Điểm Khá ở lớp TN cao hơn so với lớp ĐC
30,6% - 18,4% = 12,2%


+ Điểm Giỏi ở lớp TN cao hơn so với lớp ĐC
9,3% - 3,8% = 5,5%


<b>3.3. Đánh giá chung</b>


<i><b>3.3.1. Thiết kế giáo án thực nghiệm: là một kết cấu lôgic và linh hoạt của</b></i>
những tình huống dạy học được đặt ra một cách khách quan và phù hợp với
đặc điểm, trình độ tiếp nhận kiến thức căn cứ vào nội dung của TPVC, nó
giúp GV dự đốn được những tình huống nghịch lý, các mâu thuẫn có khả
năng nảy sinh trong quá trình tiếp nhận của HS. Giáo án thực nghiệm là một
phương án đạt được yêu cầu cảm thụ chung, mở ra nhiều chiều hướng tiếp
nhận trong khuôn khổ cho phép, nhằm phát huy tinh thần sáng tạo của HS
khi học TPVC.



</div>
<span class='text_page_counter'>(139)</span><div class='page_container' data-page=139>

người “đồng sáng tạo”, các em hứng thú khi tự mình tiếp cận, khai thác và
chiếm lĩnh TPVC.


<i><b>3.3.3. Kết quả thực nghiệm: là minh chứng khách quan nhất cho tính khả</b></i>
thi của những phương án khoa học được đề xuất trong luận văn. Tuy nhiên,
cũng như việc đánh giá kết quả của một giờ giảng văn, việc thẩm định hiệu
quả thực tiễn đem lại bởi phương pháp giảng dạy đang được chúng tôi vận
dụng thử nghiệm, hồn tồn khơng phải là chuyện một sớm một chiều và
cũng không phải chỉ dựa vào các con số mang tính định lượng. Vì vậy, nên
coi kết quả thực nghiệm là một cơ sở tin cậy để góp phần đánh giá chuẩn
xác chất lượng của việc dạy và học.


<b>TIỂU KẾT</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(140)</span><div class='page_container' data-page=140></div>
<span class='text_page_counter'>(141)</span><div class='page_container' data-page=141>

<b>KẾT LUẬN</b>



Văn chương vừa là khoa học, vừa là nghệ thuật, là lĩnh vực để con
người hóa thân và thăng hoa, vì thế nó vơ cùng tinh vi, phức tạp. Môn Ngữ
văn trong nhà trường phổ thông là một môn khoa học nhân văn. Tuy vẫn
mang tính phức tạp của đối tượng nghiên cứu, song do đặc thù mơn học, nó
địi hỏi những chuẩn mực khoa học để đánh giá các hoạt động giảng dạy,
học tập của GV và HS. Phải làm như thế nào để HS thực sự là “nhân vật
trung tâm”, là “người đồng sáng tạo” với GV, tác giả trong quá trình tiếp
cận TPVC, luôn là một câu hỏi lớn với mỗi người GV dạy Văn, và bài thơ
<b>“Đàn ghi ta của Lor-ca”, trong chương trình Ngữ văn 12 – THPT cũng</b>
khơng nằm ngồi những trăn trở đó.


Xuất phát từ những tồn tại trong thực tế dạy học bài thơ <b>“Đàn ghi ta</b>
<b>của Lor-ca” của Thanh Thảo, cùng một khao khát kiếm tìm phương hướng</b>


giải mã chuẩn xác bài thơ, luận văn đã cố gắng đi sâu xem xét, nghiên cứu
một cách hệ thống vấn đề này và đi đến một số kết luận như sau:


</div>
<span class='text_page_counter'>(142)</span><div class='page_container' data-page=142>

<b>2. Dù dạy TPVC theo loại thể nào thì việc định hướng khai thác cũng</b>
vơ cùng quan trọng. Điều đó giúp GV thốt khỏi gánh nặng của việc giảng
dạy ôm đồm, tham lam kiến thức, dẫn tới hiện tượng khai thác không sâu,
hoặc “cháy giáo án”. Trong quá trình dạy và hướng dẫn học sinh học tác
phẩm, GV phải luôn định hướng cho HS phân biệt được chủ thể trữ tình và
<i>hình tượng trữ tình để tránh sự nhầm lẫn dẫn đến hiểu sai bài thơ. Chủ thể</i>
<i>trữ tình trong bài thơ này là nhà thơ Thanh Thảo – một chủ thể trữ tình ẩn,</i>
chủ thể đó khơng xuất hiện như một hình tượng cụ thể (khơng có đại từ nhân
xưng, khơng có nhân vật). Người ta nhận ra nó như người phát ngơn để
nhìn, xem xét và đánh giá thế giới. Tác giả đã dùng ngôn ngữ nghệ thuật để
xây dựng hình tượng trữ tình thơng qua việc sử dụng phương tiện quan
trọng là ngơn ngữ nghệ thuật. Hình tượng trữ tình là hình tượng F.G.Lorca
– một thi sĩ thiên tài, yêu nước, yêu tự do và có cuộc đời bi kịch, để HS
không bị lẫn với “tiếng đàn ghi ta” (mà nhiều người coi như một hình
tượng). Tất cả các hình ảnh, biện pháp nghệ thuật mà Thanh Thảo sử dụng
trong bài thơ chỉ nhằm tôn nổi hình tượng Lor-ca và bộc lộ cảm xúc của nhà
thơ. Đây là một bài thơ khó dạy – khó học và còn nhiều vấn đề tranh luận,
cho nên khi dạy – học bài thơ cũng là cơ hội để GV củng cố lại kiến thức về
thể loại của TPVC


<b>3. Các biện pháp mà chúng tôi nêu trong luận văn đã được kiểm</b>
chứng tính hiệu quả và tính khả thi trong thực tiễn giảng dạy, chắc chắn sẽ
góp phần nâng cao hiệu quả giờ dạy, gây hứng thú học tập cho học sinh và
đem lại cảm xúc thẩm mĩ cho các em, góp phần mở rộng tầm nhìn văn hóa
của HS lớp 12 – THPT. Vì vậy trong q trình dạy – học bài thơ này, GV và
HS có thể tham khảo một hướng khai thác có hiệu quả của bài soạn trong
luận văn để nâng cao chất lượng bài giảng



</div>
<span class='text_page_counter'>(143)</span><div class='page_container' data-page=143>

Muốn dạy tốt đòi hỏi GV phải có một sự hiểu biết sâu rộng về nhiều lĩnh
vực, để tránh tình trạng diễn xi tác phẩm hoặc áp đặt cho tác phẩm những
vấn đề quá xa so với ý đồ nghệ thuật của tác giả. Vì thế, xin đề nghị Bộ
Giáo dục và Đào tạo cung cấp thêm cho GV những tư liệu chính xác và phù
hợp với nội dung TPVC, ví dụ với bài thơ “Đàn ghi ta của Lorca”, vốn khó
dạy – khó học và dung lượng kiến thức cần thiết phải cung cấp cho HS khá
lớn, nên cần cung cấp cho GV những tư liệu phù hợp, những gợi ý mang
tính định hướng, về nền văn hóa Tây Ban Nha, nhà thơ Lor-ca, nhà thơ
Thanh Thảo, để trên cơ sở đó, GV có thể định hướng khai thác tác phẩm cho
chuẩn xác và sáng tạo.


<b>5. Sự đồng điệu, tri âm lạ lùng của hai nhà thơ của hai thời đại và hai</b>
nền văn hóa khác biệt: F.G.Lor-ca và Thanh Thảo. Một người là thi sĩ thiên
tài không chỉ của Tây Ban Nha mà còn của thế giới, đã dành trọn cuộc đời và
cả sự sống cho những sáng tạo, cách tân nghệ thuật. Một người là gương mặt
xuất sắc trong phong trào “Thơ trẻ chống Mỹ” Việt Nam, là nhà thơ dũng
cảm sẵn sàng dấn thân vào con đường cay đắng và vinh quang của Sáng tạo
và Cách tân. Thanh Thảo trăn trở với thơ, hạnh phúc vì thơ và đau đớn cũng
vì thơ. Khơng lúc nào anh thơi khao khát kiếm tìm cái “kinh thành Cordoba
xa thẳm” – nơi cất giấu bí mật vĩnh hằng của nghệ thuật thơ ca theo quan
niệm của F.G.Lor-ca, dù vẫn biết đó là con đường đầy chông gai và đơn độc.


</div>
<span class='text_page_counter'>(144)</span><div class='page_container' data-page=144>

<b>Th môc tham kh¶o</b>



<i>1.</i> <b>Dương Kỳ Anh , Dạy văn, hay là chuyện “ăn đấu, làm khoán”, Văn</b>
nghệ Trẻ số 5/6/2005


<i>2.</i> <b>Lê Thị Tú Anh, Lời đề từ trong Đàn ghi ta của Lor-ca</b>“ ”, Tạp chí VH



& TT sè T6 – 2009


<i>3.</i> <b>Vũ Tuấn Anh, Văn học Việt Nam hiện đại, NXB Khoa học và Xã hội</b>


– 2001


<i>4.</i> <b>Lª Huy Bắc (chủ biên), Trọng tâm kiến thức Ngữ Văn 12, NXB ĐH</b>


Quốc gia Hà Nội 2008


<i>5.</i> <b>Henri Benac, Dẫn giải ý tởng văn chơng, NXB Giáo dục 2005</b>


<i>6.</i> <b>Nguyễn Duy Bình, Dạy văn, dạy cái hay, cái đẹp, NXB Giỏo dc </b>


1983


<i>7.</i> <b>Nguyễn Văn Bính (chủ biên), Thẩm bình tác phẩm ngữ văn 12, NXB</b>


Giáo dục 2008


<i>8.</i> <b>Nguyễn Gia Cầu, Những khuynh hớng và thành tựu i mi ca khoa</b>


<i>học PPDH Văn trong hai thập kỷ 70 và 80, Luận án PTSKH S phạm </i>
Tâm lý - 1996


<i>9.</i> <b>Nguyễn Phan Cảnh, Ngôn ngữ thơ, NXB Văn hóa thông tin Hà Nội </b>


-2001


<i>10.</i> <b>Nguyễn Hải Châu (chủ biên), Giới thiệu giáo án ngữ văn 12 Tập</b>



1, NXB Hà Nội 2008


<i>11.</i> <b>Nguyễn Viết Chữ, Phơng pháp dạy học tác phẩm văn chơng, NXB</b>


ĐH S phạm Hà Nội - 2006


<i>12.</i> <b>Phan Huy Dũng, </b><i>Đàn ghi ta của Lor-ca của Thanh Thảo d</i> <i>ới góc</i>


<i>nhìn liên văn bản, Tạp chí Nghiên cứu văn học số T12 2008</i>


<i>13.</i> <b>Ts. Phạm Minh Diệu (Tổng chủ biên), Thiết kế bài giảng Ngữ Văn</b>


<i>12 Tập1, NXB ĐH Quốc gia Hµ Néi – 2008</i>


<i>14.</i> <b>Trần Thanh Đạm, Mấy vấn đề giảng dạy TPVH theo loại thể, NXB</b>


Gi¸o dơc – 1971


<i>15.</i> <b>M.B Khrap Chenko, Cá tính sáng tạo của nhà văn và sự phát triển</b>


<i>văn học, NXB Tác phẩm mới 1978 </i>


<i>16.</i> <b>Lê Bá Hán (chủ biên), Tinh hoa thơ Mới, NXB Giáo dục 1998</b>


<i>17.</i> <b>Lờ Bỏ Hỏn, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (đồng chủ biên), Từ</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(145)</span><div class='page_container' data-page=145>

<i>18.</i> <b>Nguyễn ái Học, Phơng pháp t duy hệ thống trong dạy học Văn, NXB</b>
Giáo dục Việt Nam – 2010



<i>19.</i> <b>Ngun Träng Hoµn, RÌn lun t duy sáng tạo trong dạy học tác</b>


<i>phẩm văn chơng, NXB Giáo dục 2002</i>


<i>20.</i> <b>Nguyễn Trọng Hoàn, Trò chuyện với tác giả bài thơ Đàn ghi ta của</b>


<i>Lor-ca, Tạp chÝ VH & TT sè T3 – 2009 </i>


<i>21.</i> <b>NguyÔn Thanh Hùng, Hiểu văn </b><i> Dạy văn</i>, NXB Giáo dục – 2000


<i>22.</i> <b>NguyÔn Thanh Hïng, §äc </b>–<i> hiÓu TPVC trong nhà trờng, NXB</i>
Giáo dục 2008


<i>23.</i> <b>Nguyễn Thanh Hùng, Đọc văn và tiếp nhận văn chơng, NXB Giáo</b>


dục 2000


<i>24.</i> <b>Nguyễn Thanh Hùng, Văn học và nhân cách, NXB Văn học –</b>
1995


<i>25.</i> <b>Nguyễn Thanh Hùng, Văn học tầm nhìn biến đổi, NXB Văn học –</b>


1996


<i>26.</i> <b>Đỗ Việt Hùng, Nguyn Th Ngõn Hoa (ng Ch biờn), T luyn</b>


<i>Ngữ Văn 12, NXB Giáo dục 2008 </i>


<i>27.</i> <b>Hoàng Hng, Thơ mới và thơ hôm nay, Tạp chí Văn học Số T2 - 1993</b>



<i>28.</i> <b>Hoàng Hng, Thơ Federico Gacia Lorca</b>


<i>29.</i> <b>Nguyễn Thị Thanh Hơng (chủ biên), Bình giảng 28 tác phẩm văn</b>


<i>học ngữ văn 12, NXB Giáo dục Việt Nam – 2009</i>


<i>30.</i> <b>Ngun ThÞ Thanh Hơng, Phơng pháp tiÕp nhËn TPVH ë trêng</b>
<i>THPT, NXB Gi¸o dơc – 1998 </i>


<i>31.</i> <b>Ngun Thị Thanh Hơng, Dạy văn ở trờng phỉ th«ng, NXB ĐH</b>
Quốc gia Hà Nội 2001


<i>32.</i> <b>Lờ Th Hng, Chuyên đề dạy </b>–<i> học Ngữ văn 12 </i>– “<i> Đàn ghi ta của</i>


<i>Lor-ca”, NXB Gi¸o dơc – 2008 </i>


<i>33.</i> <b>Nguyễn Đức Khuông, Phơng hớng bồi dỡng năng lực tiếp nhận thơ</b>


<i>tự do cho HS THPT, Luận án TS. Giáo dục học 2007 </i>


<i>34.</i> <b>Phong Lê, Văn và ngời, NXB Văn học 1976</b>


<i>35.</i> <b>Phan Trọng Luận, XÃ hội văn học nhà trờng, NXB ĐH Quốc gia Hà</b>


Nội – 2002


<i>36.</i> <b>Phan Trọng Luận, Văn chơng bạn đọc sáng tạo, NXB ĐH Quốc gia</b>


Hµ Néi – 2003



<i>37.</i> <b>Phan Träng Luận (chủ biên), Phơng pháp dạy học văn, Tập 1, NXB</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(146)</span><div class='page_container' data-page=146>

<i>38.</i> <b>Phan Trọng Luận (chủ biên), Phơng pháp dạy học văn, Tập 2, NXB</b>
ĐH S phạm Hà Néi –2007


<i>39.</i> <b>Phan Trọng Luận, Trần Đình Sử (đồng Chủ biờn), </b><i>Hng dn thc</i>


<i>hin chơng trình SGK lớp 12, NXB Giáo dục 2008</i>


<i>40.</i> <b>Phan Trọng Luận (tổng Chủ biên), Ngữ Văn 12 Cơ bản (SGK) </b>


T1, NXB Giáo dục 2008


<i>41.</i> <b>Phan Trọng Luận (tổng Chủ biên), Ngữ Văn 12 Cơ bản (SGV) </b>


T1, NXB Giáo dục 2008


<i>42.</i> <b>Nguyễn Văn Long - Nguyễn Đăng Mạnh (đồng Ch biờn), Lch s</b>


<i>văn học Việt Nam, NXB ĐH S phạm Hà Nội 2007</i>


<i>43.</i> <b>Nguyn Vn Long </b><b> Ló Nhõm Thìn (đồng Chủ biên), </b><i>VHVN sau</i>


<i>1975 </i>–<i> Những vấn đề nghiên cứu và giảng dạy</i>, NXB Giáo dục – 2006


<i>44.</i> <b>Nguyễn Đăng Mạnh, Con đờng đi vào thế giới ngh thut ca nh</b>


<i>văn, NXB Giáo dục 2007</i>


<i>45.</i> <b>Cao Tè Nga, Vài suy nghĩ về hệ thống câu hỏi trong bài giảng văn</b>



<i>trên tinh thần đổi mới, Tạp chớ Ngụn ng s 12 - 2001</i>


<i>46.</i> <b>Nhiều tác giả, Từ điển Văn học, NXB Văn học - 1984 </b>


<i>47.</i> <b>Nhiều tác giả, Lí luận văn học (3 tập), NXB Gi¸o dơc – 1986</b>


<i>48.</i> <b>Nhiều tác giả, Chân dung Nhà văn VN hiện đại (2 tập), NXB Giáo</b>


dôc 2006


<i>49.</i> <b>Nhiều tác giả, Thiết kế Bài dạy Ngữ Văn THPT, NXB Giáo dục </b>


2008


<i>50.</i> <b>Nhiều tác giả, T liệu Ngữ Văn 12, NXB Giáo dục 2009 </b>


<i>51.</i> <b>Chu Văn Sơn, Thơ, điệu hồn và cấu trúc, NXB Giáo dục 2007</b>


<i>52.</i> <b>Trần Đình Sử (tổng Chủ biên), Ngữ văn 12 nâng cao (SGK) T1,</b>


NXB Giáo dục 2008


<i>53.</i> <b>Trần Đình Sử (tổng Chủ biên), Ngữ văn 12 nâng cao (SGV) T1,</b>


NXB Giáo dục 2008


<i>54.</i> <b>Trần Đình Sư, Nh÷ng thÕ giíi nghƯ tht th¬, NXB Gi¸o dơc –</b>
1997



<i>55.</i> <b>Ho i Thanh,à</b> Một đôi điều tâm sự trên câu chuyện bình thơ, Tạp chí


Văn học số 6 – 1973


</div>
<span class='text_page_counter'>(147)</span><div class='page_container' data-page=147>

<i>57.</i> <b>Hoài Thanh - Hoài Chân, Thi nhân Việt Nam, NXB Văn học </b>
2006


<i>58.</i> <b>Thanh Tho, Tit hc ngoại khóa về bài thơ “Đàn ghi ta của </b>
<i>Lor-ca”, Bỏo Mc tớm s 937/2010</i>


<i>59.</i> <b>Thanh Thảo, Khối vuông Rubic, NXB Tác phẩm mới 1985</b>


<i>60.</i> <b>Thanh Thảo, Tàu sắp vào ga, NXB Tổng hợp Nghĩa Bình 1986</b>


<i>61.</i> <b>Thanh Tho, Từ một đến trăm, NXB Tổng hợp Nghĩa Bình –1986</b>


<i>62.</i> <b>Thanh Thảo, Bạch Đàn gửi Bạch Dơng, NXB Tổng hợp Nghĩa Bình</b>


1987


<i>63.</i> <b>Thanh Thảo, Ngón thứ sáu của bàn tay, NXB Đà Nẵng 1995</b>


<i>64.</i> <b>Thanh Tho, Trũ truyện với nhân vật của mình, NXB Qn đội nhân</b>


d©n – 2002


<i>65.</i> <b>Thanh Thảo, Mãi mãi là bí mật, NXB Lao động – 2004</b>


</div>

<!--links-->

<a href=' /> Tài liệu de cuong luan van ThS
  • 21
  • 446
  • 2
  • Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

    Tải bản đầy đủ ngay
    ×