Tải bản đầy đủ (.docx) (5 trang)

Phân tích bài thơ Lưu Biệt khi xuất dương – Phan Bội Châu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (51.62 KB, 5 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

LƯU BIỆT KHI XUẤT DƯƠNG


( Xuất dương lưu biệt - PHAN BỘI CHÂU )


Sau khi tham gia thành lập Duy tân hội, đầu năm 1905, theo chủ trương của tổ
chức, Phan Bội Châu nhận nhiệm vụ xuất dương tới Trung Quốc rồi Nhật Bản,
mở đầu phong trào Đông du, đặt cơ sở đào tạo cốt cán cho cách mạng trong
nước và cầu Nhật giúp Việt Nam đánh Pháp. Lúc này đất nước đã mất chủ
quyền ; ngọn lửa của phong trào Cần vương đã tắt, báo hiệu sự bế tắc của con
đường cứu nước theo tư tưởng phong kiến do các sĩ phu lãnh đạo. Thời cuộc
thay đổi đòi hỏi phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc phải có phương hướng,
nội dung và hình thức hoạt động mới. Phan Bội Châu lúc này còn tương đối trẻ
(38 tuổi), là hình ảnh tiêu biểu của một thế hệ cách mạng mới, quyết tâm vượt
mình, vượt qua giáo lí đã lỗi thời của đạo Nho. Khơng để đón nhận luồng tư
tưởng tiên phong trong giai đoạn, mong tìm ra hướng đi mới cho sự nghiệp khôi
phục giang sơn. Phong trào Đơng du được nhóm lên cùng với bao hi vọng...
Lưu biệt khi xuất dương được viết ra trong bữa cơm ngày Tết mà Phan Bội
Châu tổ chức tại nhà mình để chia tay các đồng chí trước lúc lên đường . về sau,
trên Binh sự tạp chí (Hàng Châu, Trung Quốc) số 34 (2-1917), Phan Bội Châu
cho đăng bài thơ này dưới nhàn đề Đông du kí chư đồng chí (Gửi các đồng chí
khi Đơng du) với một vài sửa đổi về câu chữ (so với bản được lưu hành trước
đó/2).


Phan Bội Châu tuy văn tài lỗi lạc nhung không bao giờ xem văn chương là cứu
cánh của đời mình. Ơng chỉ muốn dùng nó để xốc người đời (đặc biệt là tầng
lớp thanh niên) đứng dậy làm cách mạng, cứu nước, cứu dân. Với định hướng
này, sáng tác của ông có được một âm hưởng đầy kích thích, khiến người đọc
không thể ngồi yên một khi đã được tiếp xúc với nó. Bài Lưu biệt khi xuất
dương chính là một ví dụ điển hình.


Bài thơ được mở ra khơng phải với những tình cảm bịn rịn, nhớ nhung. Hiện lên


lồ lộ là lí tưởng và hồi bão của một con người đang quyết xoay chuyển càn
khôn, vũ trụ :


Sinh vi nam tử yếu hi kì,


Khẳng hứa càn khôn tự chuyển di.
(Làm trai phải lạ ở trên đời,


Há để càn khơn tự chuyển dời.)


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

khích lệ. Nhà thơ hiểu rằng hơn lúc nào hết, cả người ở lại lẫn người ra đi cần
có một niềm tin, nếu chưa phải vào kết quả hành động thì cũng vào cái đúng của
hành động mà mình đã lựa chọn. Quan niệm về chí làm trai của các nhà nho xưa
đã được nhắc lại trên tinh thần này. Không thể nói điều được nhà thơ phát biểu
ở hai câu thơ là hoàn toàn mới mẻ. Trước Phan Bội Châu, bao nhiêu con người
ưu tú đã nói về chí làm trai với nhiệt tình cháy bỏng và với một hình thức ngơn
từ rất gây ấn tượng. Ngay câu thơ thứ nhất của Phan Bội Châu, có thể nói, cũng
thốt thai từ hai câu chữ Hán mở đầu bài Chí nam nhi của Nguyễn Cơng Trứ :
"Thông minh nhất nam tử - Yếu vi thiên hạ kì" (Một người trai thơng minh ắt
phải lùm được những việc khiên thiên hạ phải thấy kì lạ). Vậy vấn đề ở đây
khơng phải là xét tính độc đáo của tư tưởng mà là xét mục đích của việc phát
biểu tư tưởng trong một hoàn cảnh cụ thể. Nêu lên tín niệm của các trang nam
tử muôn đời, thực chất Phan Bội Châu đang muốn nhắc nhở, cật vấn chính bản
thân : lẽ nào để trời đất tự xoay vần tới đâu thì tới, cịn mình là kẻ đứng ngồi,
vơ can ? Là câu hỏi nhưng cũng là một lời đáp. Tính hai mặt này của lời thơ đã
ngay từ đầu tạo được cho thi phẩm một khơng khí dồn nén và thúc giục rất rõ
rệt. Từng chữ, từng lời cứ bện chặt lấy tâm trí người đọc, khiến họ khơng thể
lảng tránh vấn đề đã được nhà thơ đặt ra một cách tâm huyết.


Hai câu tiếp theo của bài thơ vẫn đi theo mạch đó :


Ư bách niên trung tu hữu ngã,


Khởi thiên tải hậu cánh vô thuỳ.
(Trong khoảng trăm năm cần có tớ,
Sau này mn thuở, há khơng ai ?)


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

lời nói hết sức vơ tư, hồn hậu : "Chúc phường hậu tử tiến mau !" (Từ giã bạn bè
lần cuối cùng - 1940). Cảm nhận ý nghĩa các câu thơ theo hướng đó, ta dễ nhận
ra cái "non" của từ tớ trong bản dịch (nguyên tác là ngã). Phan Bội Châu không
phải là kẻ tự thị. Ơng phát ngơn nhân danh những kẻ làm trai, những người yêu
nước nói chung trong cuộc đời !


Bốn câu đầu bài thơ nghiêng về nói tới cái lẽ thường của đấng nam nhi, dù đọc
chúng, người đọc vẫn nhận ra nỗi bức xúc trong tâm trạng tác giả. Sang hai câu
5-6, nỗi bức xúc ấy được biểu hiện trực tiếp hơn, qua việc nhà thơ nêu lên hiện
trạng thê thảm của đời sống lúc bấy giờ :


Giang sơn tử hĩ sinh đồ nhuế,
Hiền thánh liêu nhiên tụng diệc si !
Non sông đã chết, sống thêm nhục,
Hiền thánh cịn đâu, học cũng hồi )


Đúng là những câu thơ đau đớn. Đau đớn cho việc mất nước. Đau đớn cho sự
tồn tại trơ trơ nhục nhã của mình khi cơ đồ của dân tộc đã bị đắm chìm. Đau
đớn cho cái học, kiểu học mà bản thân từng một thời theo đuổi, giờ đã thành vơ
ích, vơ vị...


Là người chịu ảnh hưởng của Tân thư (tức sách báo tuyên truyền cho tư tưởng
dân chủ tư sản phương Tây, tư tưởng cải cách xã hội theo mơ hình Âu-Mỹ,...
được dịch qua hoặc được viết bằng Hán văn, đưa tới từ Trung Quốc), Phan Bội


Châu tuy khơng phủ nhận hồn tồn Nho giáo nhưng khơng cịn giữ thái độ
sùng kính đối với nó. Cái gì tỏ ra khơng cịn có ích cho sự nghiệp cứu nguy
giống nịi thì ơng dứt khốt giã từ. Có thể xem đây là hệ quy chiếu mà ơng đã
dùng để nhìn nhận, đánh giá mọi vấn đề của đời sống xã hội và mọi ứng xử của
kẻ sĩ lúc ấy.


</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

trong bản dịch thơ sự thực chưa truyền lại đầy đủ khí lực dồi dào của các từ
nhuế, si trong nguyên tác.


Phải hành động, phải hành động - tự mạch thơ toát lên lời giục giã. Hai câu cuối
đến như một cơn gió mạnh, bốc nhà thơ thốt khỏi những tủi thẹn, day dứt, đau
buồn. Việc lạ (kì) mà nhân vật trữ tình nung nấu thực hiện được khởi đầu từ
điểm này chăng :


Nguyện trục trường phong Đông hải khứ,
Thiên trùng bạch lãng nhất tề phi.


(Muốn vượt bể Đơng theo cánh gió,
Mn trùng sóng bạc tiễn ra khơi)


Người có hiểu biết về phong trào Đơng du hẳn sẽ nhận ra tính tự nhiên, hợp lơ
gích của việc nhà thơ liên tưởng tới Đông hải cùng hình ảnh thiên trùng bạch
lãng. Nhật Bản - niềm hi vọng mới của các sĩ phu yêu nước như Phan Bội Châu
- ở phía đơng, giữa biển khơi, cách nước ta mn dặm hải trình. Chính vì vậy,
sang Nhật cũng đồng nghĩa với chuyện vượt bể. Tuy nhiên, trong hai câu thơ,
các hình ảnh chủ yếu mang ý nghĩa biểu tượng. Câu thơ dịch khơng hồn toàn
bám sát ý nguyên tác, đã chuyển một khát vọng, một dự cảm, một liên tưởng bất
chợt thành sự tường thuật - miêu tả thực tế, do vậy, chưa truyền đạt được phong
độ hào hùng, niềm hăm hở dấn thân cùng trí tưởng tượng bay bổng của nhà thơ.
Tâm thế cùng tư thế của nhân vật trữ tình lúc này là muốn lao ngay vào một


trường hoạt động mới mẻ, sôi động ; bay lên làm quẫy sóng đại dương hay bay
lên cùng những đợt sóng trào sơi vừa thống hiện trong tâm tưởng.


</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5></div>

<!--links-->

×