Tải bản đầy đủ (.doc) (144 trang)

Xây dựng hệ thống bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ ở việt nam phù hợp với hiệp định của WTO về các khía cạnh của quyền sở hữu trí tuệ liên quan đến thương mại (hiệp định TRIPS)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (792.86 KB, 144 trang )

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hội nhập kinh tế quốc tế đã, đang và sẽ ngày càng trở nên một nhu cầu tất yếu và
cần thiết của Việt Nam. Gia nhập Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) năm 1995,
ký kết và phê chuẩn Hiệp định Thương mại Việt Nam- Hoa Kỳ (BTA) năm 2000, ký kết và
phê chuẩn các Hiệp định thương mại đầu tư với nhiều quốc gia là một số ví dụ điển hình về
các hoạt động hội nhập tích cực của Việt Nam. Gần đây nhất là việc Việt Nam trở thành
thành viên chính thức của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO). Trở thành thành viên của
tổ chức này đồng nghĩa với việc Việt Nam phải tham gia tất cả các hiệp định đa biên của
WTO, trong đó có Hiệp định về các khía cạnh liên quan tới thương mại của quyền sở hữu
trí tuệ (sau đây gọi tắt là Hiệp định TRIPS).
Quyền sở hữu trí tuệ lần đầu tiên được bàn tới trong chương trình nghị sự của Hiệp
định chung về Thương mại và Thuế quan (GATT) tại Vòng đàm phán về hàng giả ở Tokyo
năm 1978. Tuy nhiên phải đến Vòng đàm phán Urugoay của GATT (1986-1994), quyền sở
hữu trí tuệ mới thực sự trở thành đối tượng thuộc phạm vi điều chỉnh của GATT và với
việc thông qua Hiệp định TRIPS, quyền sở hữu trí tuệ trở thành đối tượng điều chỉnh của
WTO. Tại các nước phát triển, nơi có nền kinh tế tri thức, thương mại điện tử và khoa học
cơng nghệ ở trình độ cao, vai trị của bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ được nhìn nhận và đánh
giá đúng giá trị đích thực của nó. Tuy nhiên, tại các nước đang phát triển và đặc biệt là
chậm phát triển thì quyền sở hữu trí tuệ đang bị vi phạm nghiêm trọng. Các sản phẩm sao
chép, bắt chước được bán với giá thấp hơn rất nhiều so với các sản phẩm hợp pháp. Kết
quả là nhà sản xuất chân chính khơng có khả năng thu hồi vốn và lợi nhuận cần thiết để
tiếp tục tồn tại, tiếp tục nghiên cứu và tiếp tục sáng tạo.
Việt Nam khơng nằm ngồi hiện tượng trên. Là một nước đang phát triển, đang
trong quá trình chuyển đổi, Việt Nam đang phải đối mặt với nạn hàng giả, hàng nhái tràn
lan. Bản thân các doanh nghiệp Việt Nam vẫn chưa nhận thức được tầm quan trọng của
vấn đề bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ và cịn cho rằng đó là việc của Nhà nước. Thậm chí,
nhiều doanh nghiệp vẫn hàng ngày vi phạm quyền sở hữu trí tuệ và khơng ít doanh nghiệp
chưa biết làm thế nào để bảo vệ quyền lợi bị vi phạm. Đây thực sự là một khó khăn cho
Việt Nam khi phải thực hiện các cam kết đối với WTO về bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ.



Trong khi đó, WTO yêu cầu các Thành viên của mình phải xây dựng một hệ thống bảo hộ
hữu hiệu quyền sở hữu trí tuệ nhằm thúc đẩy thương mại quốc tế phát triển.
Thế nào là một hệ thống bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ hữu hiệu ? Việt Nam đã có hệ
thống bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ như vậy hay chưa? Nếu chưa có thì cần phải xây dựng
hệ thống này như thế nào? Nếu đã có thì nó đã phù hợp với u cầu của WTO hay chưa?
Để trả lời tất cả những câu hỏi này, cần phải có sự nghiên cứu vấn đề này một cách đầy đủ
và cụ thể.
Đó là lý do để em chọn Luận án về vấn đề «Xây dựng hệ thống bảo hộ quyền sở
hữu trí tuệ ở Việt Nam phù hợp với Hiệp định của WTO về các khía cạnh của quyền sở
hữu trí tuệ liên quan đến thương mại (Hiệp định TRIPS)»
2. Tình hình nghiên cứu
Trong những năm gần đây, sở hữu trí tuệ và bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ đã và đang
thu hút sự chú ý, sự quan tâm của nhiều học giả, nhiều nhà khoa học Việt Nam và nước
ngoài. Tuy nhiên, vấn đề về hệ thống bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ lại là một vấn đề rất mới.
Vấn đề xây dựng hệ thống bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ phù hợp với u cầu của WTO lại
cịn mới hơn, khơng chỉ đối với Việt Nam mà đối với nhiều nước.
2.1. Ở nước ngồi
Ở nước ngồi, đã có nhiều cơng trình nghiên cứu các quy định của WTO về bảo hộ
quyền sở hữu trí tuệ cũng như những báo cáo về hệ thống pháp luật bảo hộ quyền sở hữu
trí tuệ của Việt Nam. Đáng chú ý nhất là những công trình sau:
- Jorge A. Z. Bermudez và Maria Auxiliadora Oliveira, Rio de Janeiro (2004), Sở
hữu trí tuệ trong bối cảnh WTO/TRIPS : thách thức với sức khoẻ cộng đồng.
- Hansen, Hugh (2004), Sở hữu trí tuệ : Khó khăn về đạo đức, pháp luật, Ohio State
University.
- Tổ chức Sở hữu trí tuệ Thế giới (2001), Cẩm nang sở hữu trí tuệ : Chính sách,
pháp luật và áp dụng.
- Liên minh sở hữu trí tuệ quốc tế (International Interlectual Property AllianceIIPA) (2005-2007), Báo cáo tình hình vi phạm sở hữu trí tuệ ở Việt Nam.



Tuy nhiên, chưa có cơng trình nào nghiên cứu về xây dựng hệ thống bảo hộ quyền
sở hữu trí tuệ phù hợp với hiệp định TRIPS.
2.2. Ở Việt Nam
Ở Việt Nam cũng có những cơng trình đáng chú ý sau :
- Trần Hồng Minh (2006), So sánh hệ thống pháp luật về sở hữu trí tuệ của Việt
Nam theo Hiệp định TRIPS- WTO, đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ.
- Đinh Thị Mai Phương (2004), Cẩm nang pháp luật về sở hữu trí tuệ và chuyển
giao cơng nghệ (Dùng cho doanh nghiệp, doanh nhân), Nxb Chính trị Quốc gia.
- Nguyễn Thị Quế Anh (2005), Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy định về
xác lập quyền sở hữu cơng nghiệp, Tạp chí Dân chủ và pháp luật số tháng 3.
- Đoàn Năng (2005), Thực trạng pháp luật về sở hữu trí tuệ ở Việt nam, Tạp chí
Dân chủ và Pháp luật số tháng 3.
- Trần Lê Hồng (2007), Nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn để đưa sở hữu trí tuệ
vào giảng dạy và đào tạo tại các trường đại học, đề án Nghiên cứu Khoa học cấp Bộ.
Các cơng trình xuất bản ở nước ngồi nêu trên chỉ tập trung khai thác khía cạnh tác
động của Hiệp định TRIPS tới sức khoẻ cộng đồng và tác động tới các nước nghèo trong
việc hưởng lợi từ những phát minh khoa học trên thế giới. Các công trình cơng bố ở Việt
Nam phần lớn chỉ nghiên cứu pháp luật về sở hữu trí tuệ hoặc phân tích vấn đề quyền sở
hữu trí tuệ từ thực trạng điều chỉnh của pháp luật đối với vấn đề bảo hộ quyền sở hữu công
nghiệp và đưa ra hướng dẫn doanh nghiệp Việt Nam về xác lập quyền sở hữu trí tuệ đối với
từng đối tượng cụ thể.
Hiện nay, chưa có một cơng trình nào nghiên cứu vấn đề xây dựng hệ thống bảo hộ
quyền sở hữu trí tuệ ở Việt Nam phù hợp với Hiệp định TRIPS. Đây là Luận án tiến sỹ
kinh tế đầu tiên nghiên cứu về vấn đề này.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở làm rõ những vấn đề có tính lý luận về bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ, bảo
hộ quyền sở hữu trí tuệ theo quy định của hiệp định TRIPS và phân tích sự cần thiết phải



xây dựng hệ thống bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ; sau khi phân tích thực trạng xây dựng hệ
thống bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ ở Việt Nam, Luận án đề xuất phương hướng và giải pháp
xây dựng hệ thống bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ ở Việt Nam phù hợp với các quy định của
Hiệp định TRIPS nhằm tạo cơ sở để Việt Nam thực hiện tốt các cam kết trong WTO về bảo
hộ quyền sở hữu trí tuệ trong WTO.
3.2. Nhiệm vụ cụ thể
Để đạt được mục đích nói trên, Luận án có những nhiệm vụ cụ thể sau đây:
- Làm rõ những vấn đề lý luận chung về sở hữu trí tuệ và bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ
và hệ thống bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ.
- Phân tích những nguyên tắc pháp lý cơ bản của Hiệp định TRIPS và các yêu cầu
đặt ra đối với việc xây dựng hệ thống bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ, trên cơ sở đó nêu bật
những u cầu có tính bắt buộc mà Việt Nam phải tuân thủ.
- Nêu rõ sự cần thiết khách quan phải xây dựng hệ thống bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ
phù hợp với hiệp định TRIPS.
- Phân tích thực trạng bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ ở Việt Nam hiện nay và nêu bật
những bất cập, nguyên nhân cũng như thực trạng xây dựng hệ thống bảo hộ quyền sở hữu
trí tuệ ở Việt Nam, đặc biệt trong khoảng thời gian 2 năm kể từ khi Việt Nam trở thành
thành viên của WTO và phải thực thi các cam kết theo yêu cầu của Hiệp định TRIPS.
- Chỉ ra các điểm chưa tương thích giữa hệ thống bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ ở Việt
Nam so với các yêu cầu của Hiệp định TRIPS.
- Đề xuất các giải pháp cụ thể về xây dựng hệ thống bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ của
Việt Nam phù hợp với các quy định của Hiệp định TRIPS nhằm tạo thuận lợi để Việt Nam
thực hiện tốt các cam kết quốc tế của mình.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của Luận án bao gồm những vấn đề liên quan đến sở hữu trí
tuệ, quyền sở hữu trí tuệ, bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ và hệ thống bảo hộ quyền sở hữu trí
tuệ. Đối tượng nghiên cứu của Luận án còn bao gồm những quy định của Hiệp định



TRIPS, của Việt Nam về bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ và xây dựng hệ thống bảo hộ quyền
sở hữu trí tuệ. Ngồi ra, để hồn thành luận án, việc phân tích kinh nghiệm của một số
nước về xây dựng hệ thống bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ cũng là đối tượng nghiên cứu của
luận án.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về mặt nội dung, phạm vi nghiên cứu của Luận án giới hạn ở việc phân tích các
quy định trong pháp luật Việt Nam và của Hiệp định TRIPS về quyền sở hữu trí tuệ, bảo hộ
quyền sở hữu trí tuệ và hệ thống bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ.
Hệ thống bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ là một khái niệm rất rộng và phức tạp với ý
nghĩa là tập hợp các bộ phận có mối quan hệ hữu cơ với nhau. Trong khuôn khổ của một
Luận án tiến sỹ, khi phân tích những vấn đề liên quan đến hệ thống bảo hộ quyền sở hữu
trí tuệ, nội dung của Luận án giới hạn sự phân tích ở ba bộ phận cấu thành hệ thống bảo
hộ quyền sở hữu trí tuệ. Đó là tập hợp các hoạt động bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ của nhà
nước, là tập hợp các hoạt động bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ của chủ sở hữu và tập hợp các
hoạt động tạo thành hệ thống bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ của xã hội.
- Về mặt thời gian, Luận án nghiên cứu quá trình xây dựng hệ thống bảo hộ quyền
sở hữu trí tuệ ở Việt Nam chủ yếu từ năm 1995 (năm ban hành Bộ luật Dân sự đầu tiên của
Việt Nam trong đó có các quy định về quyền sở hữu trí tuệ) cho đến hết 6 tháng đầu năm
2008 và tầm nhìn đến năm 2015.
5. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp luận nghiên cứu của Luận án là phương pháp duy vật biện chứng của
chủ nghĩa Mác- Lê nin. Tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm phát triển kinh tế và hội
nhập kinh tế quốc tế của Đảng và Nhà nước cũng là kim chi nam cho phương pháp luận
nghiên cứu của Luận án.
Ngoài ra, để hoàn thành luận án, tác giả áp dụng tổng hợp các phương pháp nghiên
cứu cụ thể của Luận án là phương pháp nghiên cứu tổng hợp, phân tích, thống kê, hệ thống
hố và diễn giải. Đặc biệt, phương pháp so sánh luật học cũng được Luận án áp dụng
thường xuyên nhằm nêu bật những quy định có tính chất bắt buộc của Hiệp định TRIPS
đối với các quốc gia thành viên và những bất cập trong các quy định của Việt Nam về bảo
hộ quyền sở hữu trí tuệ cũng như xây dựng hệ thống bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ.



6. Những điểm mới và đóng góp của luận án
- Luận án đã hệ thống hoá các vấn đề lý luận về bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ và
những khía cạnh của quyền sở hữu trí tuệ liên quan đến thương mại theo cách hiểu của
Hiệp định TRIPS.
- Lần đầu tiên Luận án đưa ra khái niệm về hệ thống bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ và
các bộ phận cơ bản cấu thành hệ thống bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ.
- Luận án đã đánh giá một cách khách quan thực trạng bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ
và thực trạng xây dựng hệ thống bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ ở Việt Nam.
- Đề xuất phương hướng và các giải pháp cụ thể về xây dựng hệ thống bảo hộ
quyền sở hữu trí tuệ hữu hiệu ở Việt Nam phù hợp với các quy định của Hiệp định TRIPS.
7. Bố cục của luận án
Ngoài lời nói đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, các bảng biểu, nội dung
của Luận ánđược phân bổ thành ba chương, cụ thể:
Chương 1: Cơ sở khoa học của việc xây dựng hệ thống bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ
phù hợp với Hiệp định TRIPS.
Chương 2: Thực trạng xây dựng hệ thống bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ ở Việt Nam.
Chương 3: Phương hướng và giải pháp xây dựng hệ thống bảo hộ quyền sở hữu trí
tuệ ở Việt Nam phù hợp với Hiệp định TRIPS.


CHƯƠNG 1
CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA VIỆC XÂY DỰNG HỆ THỐNG BẢO HỘ QUYỀN SỞ
HỮU TRÍ TUỆ PHÙ HỢP VỚI HIỆP ĐỊNH TRIPS
1.1.

Sở hữu trí tuệ, quyền sở hữu trí tuệ và bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ

1.1.1. Sở hữu trí tuệ và quyền sở hữu trí tuệ

Sở hữu trí tuệ là một thuật ngữ được cấu tạo bởi hai cụm từ là cụm từ “sở hữu” và
cụm từ “trí tuệ”. Muốn hiểu rõ khái niệm này, cần phải tìm hiểu nghĩa cả hai cụm từ “sở
hữu” và “trí tuệ”.
“Sở hữu” là khái niệm dùng để chỉ sự chiếm hữu của con người đối với tài sản. Sự
chiếm hữu như vậy xuất hiện trong quá trình con người lao động sản xuất ra của cải vật
chất cho xã hội. Trong quá trình lao động sản xuất này, con người đã tham gia vào các mối
quan hệ xã hội- quan hệ sản xuất, đồng thời con người cũng chiếm hữu của cải vật chất để
phục vụ cho cuộc sống của mình và phục vụ cho q trình sản xuất. Đó là quan hệ sở hữu.
Quan hệ sở hữu là quan hệ giữa người với người, trong quá trình lao động sản xuất và
chiếm hữu của cải thu được trong quá trình sản xuất đó. Quan hệ sở hữu tồn tại trong mọi
chế độ xã hội. Sở hữu là “chiếm hữu, sử dụng và hưởng thụ của cải vật chất trong xã hội”
[46, tr.1077]. Của cải vật chất trong xã hội là những giá trị hữu hình hoặc vơ hình đem lại
lợi ích thiết thực cho người sở hữu. Hay nói cách khác, của cải vật chất này chính là tài sản
[46, tr.1096].
Có hai loại tài sản, tài sản hữu hình và tài sản vơ hình. Tài sản trí tuệ là tài sản vơ
hình. “Trí tuệ” là thuật ngữ chỉ “khả năng nhận thức lý tính của con người đạt đến một
trình độ nhất định” [40, tr.1280] về một sự vật hay hiện tượng nào đó. Tài sản trí tuệ là kết
quả nghiên cứu thông qua hoạt động lao động sáng tạo của con người và đem lại cho người
sáng tạo những lợi ích thiết thực. Tài sản trí tuệ là tài sản vơ hình. Chúng bộc lộ ra bên
ngồi dưới một hình thức khách quan nhất định nhưng bản thân chúng không phải là vật
chất mà là sản phẩm của sáng tạo. Để xác định số lượng và chất lượng của tài sản trí tuệ,
người ta khơng thể dùng các đại lượng đo lường thông thường như cân, đo, đong, đếm, …
mà ngược lại, người ta phải căn cứ vào chính nội dung và phạm vi của tài sản trí tuệ được
thể hiện dưới hình thức khách quan. Việc chiếm hữu, sử dụng và hưởng thụ tài sản trí tuệ
cũng có những đặc điểm riêng so với việc chiếm hữu, sử dụng và hưởng thụ tài sản hữu
hình. Các tài sản trí tuệ khơng mang tính giới hạn và khơng bị loại trừ. Một bản nhạc, một


chương trình phần mềm máy tính sau khi được sáng tác, có thể được hàng triệu người nghe
và sử dụng dù cho họ ở bất kỳ đâu trên thế giới.

Từ phân tích ở trên có thể kết luận sở hữu trí tuệ là sở hữu tri thức, sở hữu những
sản phẩm sáng tạo của bộ óc con người. Một cách dễ hiểu, sở hữu trí tuệ là việc chiếm hữu,
sử dụng và hưởng thụ lợi ích có được từ các sản phẩm sáng tạo đó. Do đặc tính vơ hình của
tri thức, của loại tài sản trí tuệ nên khó có thể xác định được đặc điểm vật chất của sở hữu
trí tuệ.
Một người đầu tư cơng sức, tiền bạc để viết một cuốn sách nhưng sau khi cơng bố
thì thông tin trong cuốn sách trở thành của chung và ai cũng có thể sử dụng và hưởng thụ
thơng tin đó. Như vậy, từ giác độ kinh tế, nếu khơng có một cơ chế hồn trả chi phí thì sẽ
khơng thể khuyến khích các chủ thể sáng tạo, càng khơng thể phát triển nền kinh tế dựa
trên tri thức. Vì thế, chính sách và pháp luật phải được ban hành để bảo hộ tài sản trí tuệ
nhằm xác lập, thừa nhận, củng cố quyền sở hữu trí tuệ, tạo điều kiện cho tài sản trí tuệ phát
triển và đóng góp vào sự tăng trưởng kinh tế của đất nước.
Quyền sở hữu trí tuệ là tập hợp các quy phạm pháp luật được ban hành nhằm xác
lập, ghi nhận, củng cố và bảo vệ các quan hệ sở hữu trí tuệ trong xã hội. Theo từ điển tiếng
Việt năm 2008, khái niệm quyền sở hữu trí tuệ được hiểu là “quyền của tổ chức, cá nhân
đối với tài sản trí tuệ” [46, tr.1076]. Luật Sở hữu trí tuệ Việt Nam năm 2005 quy định rằng
quyền sở hữu trí tuệ là “quyền của tổ chức, cá nhân đối với tài sản trí tuệ, bao gồm quyền
tác giả và quyền liên quan đến quyền tác giả, quyền sở hữu công nghiệp và quyền đối với
giống cây trồng.” (Điều 4, khoản 1 Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005). Quyền sở hữu cơng
nghiệp được hiểu (tại điều 4 khoản 4 Luật này) là quyền đối với sáng chế, kiểu dáng công
nghiệp, thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn, bí mật kinh doanh, nhãn hiệu, tên thương
mại và chỉ dẫn địa lý.
Pháp luật nhiều nước không định nghĩa thế nào là quyền sở hữu trí tuệ mà chỉ liệt
kê các đối tượng của quyền sở hữu trí tuệ.. Ví dụ, Bộ luật Sở hữu trí tuệ năm 2003 của Pháp
khơng nêu khái niệm về quyền sở hữu trí tuệ mà chỉ liệt kê những đối tượng thuộc sự điều
chỉnh của Bộ luật này, đó là quyền tác giả, quyền sở hữu cơng nghiệp và quyền đối với
giống cây trồng mới tại điều L111-1, L412-1, L511-1, L611-2 [63]. Theo đó, quyền sở hữu
cơng nghiệp gồm quyền đối với phát minh, sáng chế, nhãn hiệu hàng hố, kiểu dáng cơng
nghiệp và bí quyết cơng nghệ.



Pháp luật của Hoa Kỳ cũng khơng có quy định khái niệm của quyền sở hữu trí tuệ
mà chỉ quy định cụ thể về từng đối tượng của quyền sở hữu trí tuệ. Bộ luật Hoa Kỳ năm
1996 (United States Code 1996) dành hẳn quyển 7, chương 58 để đưa ra những quy định
về bảo hộ giống cây trồng; quyển 15, chương 22 về nhãn hiệu hàng hố; tồn bộ quyển 17
về quyền tác giả; quyển 35 về bằng phát minh, kiểu dáng công nghiệp [74].
Pháp luật về quyền sở hữu trí tuệ của Nhật Bản thay vì nêu khái niệm quyền sở hữu
trí tuệ, cũng chỉ liệt kê các đối tượng của quyền sở hữu trí tuệ bao gồm quyền đối với bằng
phát minh (bao gồm cả bằng bảo hộ giống cây trồng mới), giải pháp hữu ích, kiểu dáng
cơng nghiệp, nhãn hiệu hàng hố, quyền tác giả, bí quyết thương mại, hành vi chống cạnh
tranh không lành mạnh [54, tr.2].
Có thể thấy pháp luật về quyền sở hữu trí tuệ của nhiều nước khơng chú trọng tới
việc nêu khái niệm về quyền sở hữu trí tuệ mà thường liệt kê các đối tượng của tài sản trí
tuệ. Thực tiễn này ảnh hưởng tới nội dung của các điều ước quốc tế lớn trên thế giới về
quyền sở hữu trí tuệ. Hiệp định về các khía cạnh thương mại liên quan đến quyền sở hữu
trí tuệ của WTO (Hiệp định TRIPS) dành toàn bộ phần II để nêu ra các đối tượng của
quyền sở hữu trí tuệ, gồm quyền tác giả, quyền đối với nhãn hiệu hàng hoá, chỉ dẫn địa lý,
kiểu dáng công nghiệp, patent (bằng phát minh), giống cây trồng, thiết kế bố trí mạch tích
hợp, bảo hộ thơng tin bí mật và khống chế các hoạt động chống cạnh tranh trong các hợp
đồng li- xăng [25].
Tổ chức Sở hữu Trí tuệ Thế giới (WIPO) là tổ chức hoạt động trong lĩnh vực sở
hữu trí tuệ lớn nhất thế giới với 184 quốc gia thành viên tính đến hết tháng 4 năm 2008,
cũng chỉ liệt kê đối tượng của quyền sở hữu trí tuệ gồm quyền tác giả và quyền sở hữu
cơng nghiệp, trong đó quyền sở hữu công nghiệp là quyền đối với nhãn hiệu hàng hố, kiểu
dáng cơng nghiệp, bằng phát minh và chỉ dẫn địa lý [76]. Mặc dù vậy, tổ chức này đã cố
gắng khái quát hoá cách hiểu về quyền sở hữu trí tuệ, theo đó quyền sở hữu trí tuệ được
hiểu “là các quyền hợp pháp xuất phát từ hoạt động trí tuệ trong các lĩnh vực cơng nghiệp,
khoa học, văn học và nghệ thuật” [47, tr.3].
Từ phân tích nêu trên, có thể rút ra những nhận xét sau:
- Pháp luật quốc tế và pháp luật nhiều nước không đưa ra một khái niệm về quyền

sở hữu trí tuệ mà chỉ liệt kê các đối tượng của quyền sở hữu trí tuệ. Nói cách khác, khái
niệm về sở hữu trí tuệ và quyền sở hữu trí tuệ là những vấn đề còn bỏ ngỏ, chưa được giới
luật gia các nước đầu tư nghiên cứu và xây dựng.


- Các đối tượng của quyền sở hữu trí tuệ, theo quy định của pháp luật các nước mặc
dù có những điểm khác nhau nhưng về cơ bản đều có điểm chung là đều quy định về
quyền tác giả, quyền sở hữu công nghiệp và quyền đối với giống cây trồng.
- Đối tượng được bảo hộ trong quyền sở hữu cơng nghiệp có thể được mở rộng
hoặc thu hẹp tuỳ theo cách quy định của từng nước. Ví dụ như quyền sở hữu công nghiệp ở
Hoa Kỳ và Nhật không bao gồm chỉ dẫn địa lý trong khi đây lại là đối tượng của quyền sở
hữu công nghiệp theo Hiệp định TRIPS, WIPO, Việt Nam, v.v.
Trên cơ sở nhận xét ở trên, tác giả Luận án cố gắng phân tích để làm rõ hơn khái
niệm về quyền sở hữu trí tuệ. Quyền sở hữu trí tuệ là quyền chiếm hữu, sử dụng và định
đoạt các tài sản trí tuệ. Khơng phải mọi tài sản trí tuệ đều được nhà nước ghi nhận và bảo
hộ. Pháp luật các nước đều liệt kê các tài sản trí tuệ mà các chủ thể có quyền sở hữu. Luận
án chọn cách liệt kê của Hiệp định TRIPS về các tài sản trí tuệ được bảo hộ để nghiên cứu,
theo đó quyền sở hữu trí tuệ gồm quyền tác giả, quyền sở hữu công nghiệp và quyền đối
với giống cây trồng. Quyền sở hữu công nghiệp gồm quyền đối với nhãn hiệu hàng hoá,
chỉ dẫn địa lý, kiểu dáng công nghiệp, patent (bằng phát minh), thiết kế bố trí mạch tích
hợp, bảo hộ thơng tin bí mật và khống chế các hoạt động chống cạnh tranh trong các hợp
đồng li- xăng.
Quyền sở hữu trí tuệ có những đặc điểm sau:
- Quyền sở hữu trí tuệ được điều chỉnh bằng pháp luật rất muộn so với quyền sở
hữu tài sản hữu hình mặc dù trên thực tế đã tồn tại sự sáng tạo không ngừng của con người
trong quá trình lao động, sản xuất, kinh doanh. Cùng với lao động tạo ra của cải vật chất,
con người đã tạo ra các sản phẩm tinh thần như các bài hát, bài thơ, v.v. Đồng thời, cũng
trong lao động tạo ra vật chất, con người tạo ra những giải pháp kỹ thuật dưới dạng sáng
chế, giải pháp hữu ích, kiểu dáng công nghiệp nhằm nâng cao hơn chất lượng cuộc sống
của mình. Tuy nhiên, phải đến năm 1474, đạo luật đầu tiên điều chỉnh quyền sở hữu trí tuệ

mới xuất hiện, đó là đạo luật về văn bằng phát minh do thành phố tự trị Venedig cấp cho
những người phát minh ra những đồ vật mới mang tính sáng tạo, được đặc quyền khai thác
thương mại đồ vật đó trong thời hạn 10 năm [36, tr. 184].
- Quyền sở hữu trí tuệ là một quan hệ pháp luật đặc biệt vì khách thể của quyền này
khơng phải vật cụ thể mà là sản phẩm của lao động sáng tạo được thể hiện dưới dạng phi
vật chất. Nó chỉ được vật chất hoá khi được mang ra áp dụng vào sản xuất, kinh doanh.
Khách thể của quyền sở hữu trí tuệ được phân thành hai nhóm chính, đó là nhóm vận dụng


trong đời sống tinh thần của con người và làm phong phú hơn nhu cầu tinh thần của con
người và nhóm được áp dụng vào sản xuất, kinh doanh để tạo ra các sản phẩm vật chất
mang tính cơng nghệ.
- Các quyền chiếm hữu, sử dụng và định đoạt trong quyền sở hữu trí tuệ được chia
thành hai nhóm quyền, đó là quyền tài sản và quyền nhân thân. Giữa quyền nhân thân và
quyền tài sản luôn tồn tại mối quan hệ hữu cơ. Quyền này là tiền đề của quyền kia. Quyền
tài sản chỉ có thể xác định cho một chủ thể nhất định dựa trên căn cứ quyền nhân thân có
mối liên hệ trực tiếp với tài sản. Những quyền liên quan đến nhân thân người sáng tạo
không thể tách rời và thuộc về người sáng tạo vĩnh viễn như quyền đứng tên tác giả, quyền
đặt tên tác phẩm; những quyền tài sản có thể chuyển giao cho người khác thông qua các
hợp đồng chuyển giao quyền.
- Quyền sở hữu trí tuệ khơng mang tính tuyệt đối và vô thời hạn như quyền sở hữu
các tài sản hữu hình. Một bài thơ hay, một bức tranh đẹp khơng nên chỉ dành cho một
người hay một nhóm người chiêm ngưỡng mà phải được chia sẻ với xã hội, tức là mang lại
phúc lợi cho tồn bộ xã hội. Vì thế, quyền sở hữu trí tuệ ln ln bị giới hạn bởi lợi ích
cộng đồng. Do đó tác giả, chủ sở hữu một tác phẩm khơng thể có độc quyền chiếm hữu, sử
dụng và định đoạt vô thời hạn đối với tác phẩm. Độc quyền này chỉ được tồn tại trong một
thời hạn nhất định, ví dụ, ở Việt Nam, độc quyền sử dụng một cuốn sách chỉ tồn tại trong
khoảng thời gian là cuộc đời của tác giả và 50 năm sau khi tác giả qua đời. Hoặc như
quyền đối với bằng phát minh sáng chế, bên cạnh giới hạn về thời gian (ví dụ 20 năm ở
Việt Nam) cịn có giới hạn về điều kiện sử dụng (như li- xăng bắt buộc ở Việt Nam trong

trường hợp bảo đảm mục tiêu an ninh, quốc phòng, dân sinh và các lợi ích khác của Nhà
nước và xã hội).
- Cùng với sự phát triển của nền kinh tế và thương mại hiện đại, ngày nay vai trò
của tri thức, của tài sản trí tuệ ngày càng được khẳng định. Giá trị kinh tế và khả năng sinh
lợi của tài sản trí tuệ đã dẫn đến một thực tế ngày càng trở nên hiện hữu. Đó là tài sản trí
tuệ cũng mang tính thương mại và vì vậy, pháp luật phải có cách tiếp cận mới đối với
quyền sở hữu trí tuệ: tính thương mại của quyền sở hữu trí tuệ.
- Quyền sở hữu trí tuệ dễ bị xâm phạm hơn bất kỳ quyền sở hữu tài sản hữu hình
nào. Những sản phẩm sáng tạo của trí tuệ một khi đã được bộc lộ công khai sẽ dễ dàng
được phổ biến và bị khai thác giá trị kinh tế thông qua hệ thống thông tin của một quốc gia,
của một khu vực, của các tổ chức quốc tế. Việc xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ ngày càng


phát triển và đã vượt ra ngoài phạm vi quốc gia, ngồi khả năng kiểm sốt của chủ sở hữu
và quan trọng hơn cả là khó có thể ngăn chặn nếu khơng có những cơ chế bảo hộ hữu hiệu.
Quyền sở hữu trí tuệ được ghi nhận và bảo hộ ở một quốc gia thì khơng có nghĩa là sẽ
được bảo hộ ở các quốc gia khác. Việc xâm phạm có thể diễn ra ngay trước mắt chủ sở hữu
tại quốc gia khác mà không hề bị coi là phạm pháp. Do đó, trong điều kiện tự do hố
thương mại, việc bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ trên quy mô quốc tế thông qua các điều ước
quốc tế là cần thiết.
1.1.2. Bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ
Bảo hộ được hiểu là “che chở, không để bị tổn thất” [46, tr. 49]. Như vậy, bảo hộ
quyền sở hữu trí tuệ sẽ là những hành động mang tính chất che chở quyền sở hữu trí tuệ
nhằm khơng để xảy ra tổn thất về cả tinh thần và vật chất. Bên cạnh thuật ngữ bảo hộ
quyền sở hữu trí tuệ, chúng ta cũng thường gặp cụm từ “bảo vệ quyền sở hữu”. “Bảo vệ” là
“chống lại mọi sự huỷ hoại, xâm phạm để giữ cho được nguyên vẹn” [46, tr. 50]. Như vậy,
về nghĩa, “bảo vệ” cũng tương đương với “bảo hộ” nhưng từ “bảo hộ” thường hay được
hiểu là hoạt động của nhà nước trong khi “bảo vệ” có thể là hoạt động của bất cứ chủ thể
nào. Do đó, hiểu theo nghĩa hẹp thì bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ là “việc nhà nước-thơng
qua hệ thống pháp luật-xác lập quyền của các chủ thể đối với đối tượng sở hữu trí tuệ

tương ứng và bảo vệ quyền đó, chống lại bất kỳ sự vi phạm nào của bên thứ ba” [44, tr.
20]. Hiểu theo nghĩa rộng thì bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ là hoạt động bảo hộ của nhà
nước, của chính chủ sở hữu và của toàn thể xã hội hướng tới việc bảo đảm quyền sở hữu
hợp pháp của chủ sở hữu đối với tài sản trí tuệ của mình [3, tr. 62].
Trong phạm vi Luận án này, khái niệm bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ sẽ được nghiên
cứu theo nghĩa rộng nói trên. Nói cách khác, bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ là hoạt động, theo
đó:
- Nhà nước ban hành các quy phạm pháp luật nhằm xác lập quyền sở hữu của chủ
sở hữu đối với tài sản trí tuệ. Xác lập là ghi nhận và bảo đảm cơ sở pháp lý cho chủ sở hữu
có thể thực hiện được các quyền của mình. Bên cạnh đó, nhà nước cũng quy định các biện
pháp pháp lý để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của chủ sở hữu, của người sử dụng hợp
pháp tài sản trí tuệ theo những cơ chế nhất định. Như vậy, hoạt động bảo hộ quyền sở hữu
trí tuệ của Nhà nước sẽ thể hiện trên hai phương diện. Phương diện thứ nhất là xây dựng
pháp luật nhằm xác lập quyền sở hữu của sở hữu chủ đối với tài sản trí tuệ và phương diện
thứ hai là thực thi pháp luật về bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ.


- Chủ sở hữu, trên cơ sở các quy phạm pháp luật về bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ do
Nhà nước ban hành, thực hiện các thủ tục cần thiết để xác lập quyền sở hữu đối với tài sản
trí tuệ của mình. Ngồi ra, khi các quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm phạm, chủ sở hữu
phải có biện pháp tự bảo vệ và yêu cầu pháp luật bảo vệ.
- Quyền sở hữu trí tuệ chỉ có thể được bảo hộ một cách hữu hiệu khi có sự tham gia
bảo hộ của cả cộng đồng xã hội. Cộng đồng xã hội bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ thể hiện
qua sự tơn trọng quyền sở hữu trí tuệ của chủ sở hữu và tích cực tuân thủ pháp luật về bảo
hộ quyền sở hữu trí tuệ. Tiêu chí để đo lường cụ thể về hoạt động bảo hộ quyền sở hữu trí
tuệ của cộng đồng xã hội là tỷ lệ vi phạm quyền sở hữu trí tuệ. Tỷ lệ này càng thấp thì hoạt
động bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ của cộng đồng xã hội càng hiệu quả.
Như vậy, bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ là tất cả những biện pháp được áp dụng nhằm
bảo đảm cho các chủ sở hữu của tài sản trí tuệ- những người sáng tạo ra tài sản trí tuệ- có
thể khai thác lợi ích thiết thực từ những tài sản do họ sáng tạo ra. Nếu phân tích từ góc độ

dân sự, bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ là xác lập, củng cố và bảo vệ quyền sở hữu (gồm quyền
chiếm hữu, quyền sử dụng và quyền định đoạt) của các chủ sở hữu đối với tài sản trí tuệ.
Xác lập quyền sở hữu trí tuệ là xác nhận về mặt pháp lý rằng một người sáng tác, một nhà
viết kịch, một nhà sáng chế... là chủ sở hữu của sáng tác, của kịch bản đó. Khi là chủ sở
hữu của những tài sản này, họ có quyền thủ đắc, có quyền sử dụng, có quyền bán, tặng,
cho...
Nếu phân tích từ góc độ kinh tế và cụ thể hơn là từ góc độ thương mại, bảo hộ
quyền sở hữu trí tuệ là tất cả các biện pháp được áp dụng nhằm đảm bảo cho các chủ sở
hữu của các tài sản trí tuệ có thể khai thác giá trị kinh tế, khai thác lợi ích thương mại, hay
nói cách khác là khai thác khả năng sinh lợi từ các sản phẩm trí tuệ do chính họ sáng tạo ra
nhằm một mặt được hưởng lợi ích từ các tài sản đó, mặt khác bù đắp và tái tạo sức lao
động mà họ đã bỏ ra như thời gian, trí lực, sức khoẻ...
1.1.3. Các đối tượng được bảo hộ của quyền sở hữu trí tuệ
1.1.3.1. Quyền tác giả và các quyền có liên quan
Quyền tác giả (tiếng Anh là copyright), còn được gọi là bản quyền được đề cập lần
đầu tiên trên thế giới vào năm 1481 tại Milan qua sự kiện Công tước xứ Milan cấp độc
quyền in một sản phẩm cho một nhà in của Milan. Ngay sau đó, những bảo hộ tương tự
cũng được cấp cho các nhà in ở Đức, Pháp, Ý, và Tây Ban Nha [72, tr. 475].


Quyền tác giả được pháp luật của nhiều nước trên thế giới thừa nhận nhưng mức độ
thừa nhận ở những phạm vi rộng hẹp khác nhau. Phần lớn các nước chọn mơ hình pháp
luật bảo hộ quyền tác giả theo những tiêu chuẩn tối thiểu được quy định trong công ước
Berne về bảo hộ các tác phẩm văn học và nghệ thuật (sau đây gọi là Cơng ước Berne).
Theo đó, pháp luật bảo hộ quyền tác giả không bảo hộ các ý tưởng mà chỉ bảo hộ cách thể
hiện các ý tưởng đó. Về bản chất, ý tưởng là suy nghĩ thuộc về nội tâm của tác giả, còn
cách thức, thủ pháp thể hiện là hình thức của một ý tưởng, là cái vỏ của khái niệm [45, tr.
42]. Những ý tưởng phải được thể hiện dưới một hình thức khách quan (như một tác phẩm
văn học, một bức tranh) mới là đối tượng được pháp luật thừa nhận và bảo hộ.
Quyền tác giả là quyền của tổ chức, cá nhân đối với tác phẩm do mình sáng tạo ra

hoặc sở hữu. Quyền này phát sinh kể từ khi tác phẩm được sáng tạo mà không cần phải
đăng ký bảo hộ. Việc đăng ký bảo hộ chỉ giúp chủ sở hữu dễ dàng chứng minh quyền sở
hữu của mình.
Một tác phẩm phải thoả mãn những điều kiện cần thiết để hưởng chế độ bảo hộ
quyền tác giả. Một là tác phẩm phải được thể hiện dưới một hình thức vật chất nhất định.
Hai là tác phẩm đó phải là sáng tạo mới. Tính mới liên quan đến cách thể hiện của suy
nghĩ. Việc thể hiện không nhất thiết phải mới nhưng nhất thiết không phải là sự sao chép.
Các quốc gia khác nhau sẽ địi hỏi mức độ của tính mới khác nhau. Australia và Anh quy
định tính mới ở mức độ thấp, theo đó, ngay cả danh mục các con số in sẵn dành cho trò
chơi “Bingo” hay danh mục liệt kê tên và vị trí các con ngựa đua cũng được bảo hộ như tác
phẩm [79, tr. 603-604]. Với những quốc gia này, một tác phẩm có nội dung khơng có chất
lượng, khơng có giá trị thực tiễn và thẩm mỹ nhưng nếu nó được tác giả sáng tạo ra một
cách độc lập, không sao chép đã thoả mãn u cầu về tính mới. Trong khi đó, Hoa Kỳ lại
địi hỏi tính mới ở mức độ cao hơn, thể hiện ở sự nỗ lực sáng tạo của tác giả, theo đó thì
người liệt kê các số điện thoại trong quyển niêm giám điện thoại dù có “ý đồ sáng tạo”
cũng khơng thể được coi là có quyền tác giả đối với quyển niêm giám điện thoại đó [45,
tr.47]. Đức thậm chí cịn địi hỏi cao hơn, đó là tính mới phải bảo đảm “một sáng tạo trí tuệ
mang dấu ấn cá nhân”.
Quyền tác giả bao gồm quyền tài sản và quyền nhân thân. Ý tưởng của tác giả được
tốt ra từ tác phẩm, siêu hình, khơng thể chiếm hữu, nắm bắt và xác định ở dạng vật chất.
Vì vậy, như đã trình bày ở trên, những quyền này thuộc về tác giả của tác phẩm ở bất kỳ
hình thức vật chất nào, như tác phẩm văn học, nghệ thuật, âm nhạc hay hội hoạ; tác phẩm


âm thanh; phim, chương trình phát thanh và TV; và (ở một số nước như Việt Nam,
Australia, Anh, Hoa Kỳ) là các chương trình phần mềm máy tính. Chủ sở hữu quyền tác
giả không thể ngăn người khác sử dụng ý tưởng hay kiến thức trong tác phẩm của mình;
chủ sở hữu quyền chỉ có thể hạn chế việc sử dụng chính tác phẩm.
Quyền tài sản là quyền của tác giả được nhà nước thừa nhận trong việc khai thác
tác phẩm để thu được lợi ích kinh tế. Thường có hai cách để thu lợi ích kinh tế từ tác phẩm.

Một là qua các kênh trung gian (tức là tác phẩm được in và phân phối qua các cửa hàng
sách, cửa hàng bán đĩa nhạc, v.v.) và hai là qua kênh giải trí (tức là tác phẩm được trình
chiếu ở nhà hát, buổi hồ nhạc, phịng triển lãm tranh, v.v.). Nội dung này được ghi nhận ở
Điều 15 Luật Bản Quyền của Đức năm 1965 (sửa đổi ngày 8 tháng 5 năm 1998), Điều 2,
Đạo luật Bản quyền của Anh năm 1988, Điều L122, Luật Bản quyền của Pháp năm 2006,
Điều 106 Đạo luật Bản quyền của Hoa Kỳ năm 2007, Điều 12 Luật Bản quyền của Liên
bang Thuỵ Sỹ (sửa đổi ngày 7 tháng 12 năm 1922).
Quyền cá nhân của tác giả đối với tác phẩm của mình gọi là quyền nhân thân.
Những quyền này độc lập với quyền tài sản của tác giả, hầu hết các quốc gia đều bảo hộ
quyền nhân thân, ngay cả khi tác giả đã chuyển giao quyền tài sản. Pháp luật các nước đều
thừa nhận quyền nhân thân gồm quyền chống thay đổi, bóp méo hay cắt xén tác phẩm,
quyền được thừa nhận là tác giả và quyền kiểm sốt cơng chúng tiếp cận tác phẩm. Những
quyền này được quy định trong pháp luật bản quyền của Đức và Pháp từ đầu thế kỷ 20 và
vào năm 1928 Công ước Berne về bảo hộ các tác phẩm văn học và nghệ thuật (sau đây gọi
là Công ước Berne) được sửa đổi nhằm thừa nhận 3 quyền này. Đức và Pháp lần lượt cho
thêm quyền nhân thân thứ 4 tại Điều L121-4 Luật Bản quyền của Pháp năm 2006 và Điều
12 khoản 2 Luật Bản Quyền của Đức năm 1965- quyền sửa chữa hoặc rút lại tác phẩm
nhưng quyền này không được thừa nhận rộng rãi trên thế giới như 3 quyền trên.
Bên cạnh quyền tác giả cịn có các quyền liên quan, hay còn gọi là các quyền kề
cận (Related rights/neiboring rights). Các tác phẩm trí tuệ được sáng tạo để được phổ biến
tới công chúng càng rộng càng tốt. Công việc này không thể do bản thân tác giả đảm
đương mà sẽ do những người trung gian có năng lực chuyên nghiệp thực hiện.Ví dụ một
vở kịch cần được trình diễn trên sân khấu, một bài hát do một nhạc sỹ sáng tác phải được
các nghệ sỹ trình diễn, được nhân bản dưới hình thức bản ghi âm hoặc truyền đi bằng các
phương tiện truyền thanh. Những người trung gian này sẽ khốc cho tác phẩm những hình
thức trình bày thích hợp để tiếp cận tới đông đảo quần chúng. Họ là các nghệ sỹ biểu diễn,


là các nhà sản xuất chương trình và các tổ chức phát sóng. Họ có những quyền nhân thân
và quyền tài sản nhằm chống lại việc sử dụng bất hợp pháp đối với những đóng góp của họ

trong việc truyền tải tác phẩm tới công chúng.
Với sự phát triển nhanh chóng của cơng nghệ, buổi biểu diễn của các nghệ sỹ sẽ
không chấm dứt cùng với vở diễn mà sẽ lưu truyền với đĩa hát, radio, phim ảnh, v.v. Công
nghệ giúp cho khả năng tái hiện buổi biểu diễn được dễ dàng, lặp đi lặp lại với số lần
không hạn chế và cho một số lượng khán giả không hạn chế, vượt ra ngồi biên giới quốc
gia và khơng nhất thiết phải thoả thuận với người biểu diễn. Do đó, vấn đề bảo hộ các
quyền liên quan ngày càng trở nên cấp thiết cùng với sự ra đời và phát triển các ngành
công nghiệp sao chép.
Pháp luật các nước khác nhau có các quy định khác nhau về nội dung của các
quyền liên quan. Tuy nhiên, điểm chung mà pháp luật các nước thường gặp nhau là: quyền
của người biểu diễn đối với việc thu, ghi, định hình, phát sóng trực tiếp hay truyền tới công
chúng buổi biểu diễn của họ, quyền của các nhà sản xuất chương trình ghi âm đối với việc
sử dụng các chương trình của họ và nhập khẩu, phân phối các phiên bản chương trình,
quyền của các tổ chức phát thanh truyền hình đối với việc phát lại, định hình và làm bản
sao chương trình phát thanh truyền hình của họ.
Quyền tác giả và các quyền liên quan cũng mang đặc điểm chung của quyền sở hữu
trí tuệ về tính tương đối. Chủ sở hữu quyền tác giả khơng có quyền tuyệt đối đối với tác
phẩm của mình. Họ chỉ có quyền trong một khoảng thời gian nhất định, kéo dài từ lúc tác
phẩm được sáng tạo ra cho đến một giai đoạn sau khi tác giả qua đời. Ngồi ra, họ cũng chỉ
có quyền sở hữu tại quốc gia bảo hộ mà thôi trừ phi quốc gia này là thành viên của những
điều ước quốc tế về quyền tác giả. Trong một số trường hợp, xã hội có thể sử dụng tác
phẩm mà khơng cần xin phép chủ sở hữu. Ví dụ việc sử dụng tác phẩm khơng nhằm mục
đích thương mại mà nhằm mục đích chính đáng như nghiên cứu, học tập, giáo dục, hoặc
chỉ nhằm mục đích sử dụng cá nhân.
1.1.3.2. Quyền sở hữu cơng nghiệp
- Nhãn hiệu hàng hố
Một nhãn hiệu hàng hố là bất kỳ dấu hiệu nào có khả năng phân biệt hàng hoá của
doanh nghiệp này với hàng hoá của các đối thủ cạnh tranh. Những dấu hiệu này có thể là từ
ngữ, tên riêng, các chữ cái, chữ số, các yếu tố hình hoạ và tổ hợp các màu sắc, v...v. Danh



sách các dấu hiệu có thể được dùng làm nhãn hiệu hàng hố khơng có giới hạn. Thậm chí,
mùi vị cũng có thể là một nhãn hiệu được bảo hộ. Hoa Kỳ là nước đầu tiên công nhận việc
đăng ký nhãn hiệu mùi vị-mùi thơm tươi mát của hoa Plumeria dùng cho chỉ may và thêu
ren năm 1990. Năm 1999, Phịng giải quyết khiếu nại của cơ quan Hài hố hoá thị trường
nội địa của EU đã cho phép đăng ký nhãn hiệu mùi “mùi cỏ tươi mới cắt” cho bóng tennis
[47, tr. 69].
Các dấu hiệu trên thường phải thoả mãn hai điều kiện khác nhau để trở thành nhãn
hiệu hàng hố, đó là có chức năng phân biệt và không gây hiểu lầm hoặc vi phạm trật tự
công cộng hay đạo đức xã hội. Để có chức năng phân biệt thì các dấu hiệu phải thể hiện
tính độc đáo hoặc có khả năng phân biệt các sản phẩm khác nhau. Ví dụ, từ “táo” hoặc
hình một quả táo khơng thể dùng làm nhãn hiệu cho mặt hàng táo nhưng có thể dùng làm
nhãn hiệu cho máy tính và nhãn hiệu này mang tính độc đáo. Đó chính là trường hợp n hãn
hiệu “Apple” với hình trái táo bị gặm một miếng là nhãn hiệu máy tính nổi tiếng của tập
đồn cơng nghệ máy tính của Mỹ Apple Inc. Nhãn hiệu có tính phân biệt khi giúp người
tiêu dùng phân biệt được sản phẩm bán dưới nhãn hiệu đó với những hàng hoá của doanh
nghiệp khác bán trên thị trường.
Trong lĩnh vực nhãn hiệu hàng hố cịn có nhãn hiệu tập thể, nhãn hiệu chứng nhận,
nhãn hiệu liên kết. Nhãn hiệu tập thể được hiểu là nhãn hiệu dùng để phân biệt hàng hoá,
dịch vụ của các thành viên của tổ chức là chủ sở hữu nhãn hiệu đó với hàng hố, dịch vụ
của tổ chức, cá nhân khơng phải là thành viên của tổ chức đó.
Nhãn hiệu chứng nhận là nhãn hiệu mà chủ sở hữu nhãn hiệu cho phép tổ chức, cá
nhân khác sử dụng trên hàng hóa, dịch vụ của tổ chức, cá nhân đó để chứng nhận các đặc
tính về xuất xứ, nguyên liệu, vật liệu, cách thức sản xuất hàng hoá, cách thức cung cấp
dịch vụ, chất lượng, độ chính xác, độ an tồn hoặc các đặc tính khác của hàng hố, dịch vụ
mang nhãn hiệu.
Nhãn hiệu liên kết là các nhãn hiệu do cùng một chủ thể đăng ký, trùng hoặc tương
tự nhau dùng cho sản phẩm, dịch vụ cùng loại hoặc tương tự nhau hoặc có liên quan với
nhau.
Nhãn hiệu hàng hố được bảo hộ trên cơ sở việc sử dụng hoặc đăng ký. Việc sử

dụng giữ vai trò quan trọng trước hết tại các nước mà việc bảo hộ nhãn hiệu hàng hố có
truyền thống căn cứ vào việc sử dụng như Anh, Australia, còn việc đăng ký nhãn hiệu chỉ
nhằm khẳng định quyền đối với nhãn hiệu hàng hố đã có được thơng qua sử dụng. Do đó,


ở những nước này, người sử dụng đầu tiên sẽ được ưu tiên trong các vụ tranh chấp về nhãn
hiệu hàng hố chứ khơng phải là người đầu tiên đăng ký nhãn hiệu hàng hoá. Vụ tranh
chấp giữa nguyên đơn là công ty Targetts Pty Ltd và bị đơn là công ty Target Australia Pty
Ltd vào năm 1993 là một ví dụ điển hình. Cơng ty Targetts Pty Ltd sử dụng nhãn hiệu
hàng hoá được đăng ký là từ “Target” và hình một cái mỏ neo. Cơng ty Target Australia Pty
Ltd cũng sử dụng nhãn hiệu tương tự nhiều năm trước khi công ty Targetts Pty Ltd đăng ký
nhãn hiệu trên. Tuy nhiên, nhãn hiệu của Target Australia Pty Ltd chưa được đăng ký. Toà
án liên bang (Federal Court) của Australia đã quyết định quyền ưu tiên sử dụng sẽ thuộc về
công ty Target Australia Pty Ltd và công ty Targetts Pty Ltd chỉ được sử dụng nhãn hiệu
này ở khu vực địa lý cách trụ sở của công ty Target Australia Pty Ltd 30 km [79, tr. 622].
- Chỉ dẫn địa lý
“Champagne”, “Chianti”, “Tequila” là những địa danh nổi tiếng ở Pháp, Ý và
Mehico. Nhưng khi nhắc đến chúng, người ta lại liên tưởng ngay “Champagne” với rượu
vang nổ, “Chianti” với rượu vang đỏ và “Tequila” với loại rượu mạnh. Đây chỉ là một số ít
các ví dụ về những địa danh nổi tiếng làm người ta nghĩ ngay đến những sản phẩm tự
nhiên và có chất lượng cao trên thế giới. Điều đó có nghĩa là chúng có thể là tài sản thương
mại có giá trị. Chúng được gọi là chỉ dẫn địa lý.
Điều 22 khoản 1 Hiệp định về các khía cạnh của quyền sở hữu trí tuệ liên quan đến
thương mại (sau đây gọi là Hiệp định TRIPS) quy định chỉ dẫn địa lý là những chỉ dẫn về
hàng hoá bắt nguồn từ lãnh thổ của một nước hoặc từ khu vực hay địa phương thuộc lãnh
thổ đó, có chất lượng, uy tín hoặc đặc tính nhất định chủ yếu do xuất xứ địa lý quyết định.
Cách hiểu này của Hiệp định TRIPS được thừa nhận ở 152 nước thành viên (tính đến hết
tháng 7 năm 2008). Thuật ngữ “chỉ dẫn địa lý” không nhất thiết phải là địa danh mà có thể
là biểu tượng gián tiếp chỉ ra xuất xứ của hàng hố. Ví dụ Tháp Eiffel là biểu tượng của
Paris, Tượng Nữ thần Tự do của nước Mỹ, v.v.

Thuật ngữ “chỉ dẫn địa lý” được hiểu với nghĩa rộng nhất, bao gồm những tên gọi
và biểu tượng chỉ ra rằng chất lượng của một sản phẩm nào đó có được là nhờ nguồn gốc
địa lý của nó hoặc chỉ đơn thuần là xác định nơi xuất xứ của một sản phẩm. Vì vậy, một
người hoặc một doanh nghiệp đã sử dụng một chỉ dẫn địa lý thì khơng có nghĩa là những
doanh nghiệp cịn lại tại khu vực địa lý đó khơng có quyền sử dụng. Việc sử dụng tuỳ
thuộc vào các yêu cầu do cơ quan nhà nước đặt ra. Theo đó, việc bảo hộ chỉ dẫn địa lý là


ngăn cấm những chủ thể khơng có thẩm quyền sử dụng chỉ dẫn địa lý hoặc ngăn cấm các
sản phẩm khơng có nguồn gốc từ khu vực địa lý đã nêu.
- Kiểu dáng công nghiệp
Kiểu dáng công nghiệp được hiểu là hình dáng bên ngồi của sản phẩm được thể
hiện bằng hình khối, đường nét, màu sắc hoặc sự kết hợp những yếu tố này. Kiểu dáng
công nghiệp sẽ giúp việc tiêu thụ sản phẩm tốt hơn thông qua việc hấp dẫn người tiêu dùng
về thị giác. Ví dụ, khi tính năng của các loại sản phẩm do các nhà sản xuất khác nhau là
tương đương nhau thì sự hấp dẫn về mặt thẩm mỹ và giá cả sẽ quyết định sự lựa chọn của
người tiêu dùng. Do đó, kiểu dáng công nghiệp thông qua hệ thống đăng ký sẽ được bảo hộ
và giúp các nhà sản xuất gặt hái thành công trên thương trường.
Nhu cầu bảo hộ kiểu dáng cơng nghiệp có liên quan mật thiết đến q trình cơng
nghiệp hố và sự ra đời của phương thức sản xuất hàng loạt. Tại Anh, lần đầu tiên kiểu
dáng in vải bông, vải lanh, vải in hoa và vải muslin được bảo hộ với danh nghĩa kiểu dáng
công nghiệp vào năm 1787. Ở Pháp, bảo hộ kiểu dáng công nghiệp ra đời nhờ sự phát triển
của ngành công nghiệp dệt [471, tr. 111-112].
Muốn được đăng ký bảo hộ, một kiểu dáng phải nhìn thấy được. Kiểu dáng cơng
nghiệp chỉ đề cập đến hình dáng bên ngồi của sản phẩm mà khơng đề cập đến chức năng
của nó, hình dáng bên ngồi chỉ có thể lơi cuốn người mua sản phẩm và thúc đẩy nhu cầu
mua nếu nó được nhìn thấy thực sự. Do đó, yêu cầu về thị giác là một trong những điều
kiện bảo hộ. Ví dụ, kiểu dáng của pít- tơng sẽ khơng được bảo hộ với danh nghĩa kiểu dáng
cơng nghiệp vì trong suốt q trình sử dụng, chúng ta khơng thể nhìn thấy kiểu dáng của
nó vì nó nằm trong xi lanh và xi lanh nằm trong ổ máy.

Một yêu cầu quan trọng để được bảo hộ là kiểu dáng phải thoả mãn tính mới, tức là
kiểu dáng đó phải khác biệt so với những kiểu dáng đã được sản xuất trước đó. Các nước
khác nhau quy định khơng giống nhau về tính mới. Phần lớn các quốc gia như Hoa Kỳ,
Anh, Nhật Bản, Đức đều yêu cầu tính mới mang tính chất tuyệt đối tức là mới đối với bất
kỳ nơi nào trên thế giới vào bất kỳ thời điểm nào trước đó. Tuy nhiên, Malaysia chỉ quy
định về tính mới trong phạm vi lãnh thổ quốc gia [45, tr. 26]. Cũng do yêu cầu tính mới mà
các quốc gia đều khơng bảo hộ những kiểu dáng là hình dáng được biết đến một cách rộng
rãi như hình dáng của các hình hình học thơng thường như hình trịn, hình vng, hình chữ
nhật hoặc như hình dáng các sản phẩm cơng trình đã nổi tiếng ở quốc gia hoặc trên thế giới
như tháp Rùa, tượng ông Phúc-Lộc-Thọ, v.v.


Bên cạnh tính mới, kiểu dáng muốn được bảo hộ cịn phải được ứng dụng trong
cơng nghiệp hoặc những sản phẩm được sản xuất hàng loạt. Theo đó, kiểu dáng cơng
nghiệp phải có khả năng dùng làm mẫu để sản xuất ra sản phẩm bằng phương pháp công
nghiệp hay thủ cơng nghiệp và sản phẩm đó phải có khả năng tái tạo bằng các phương tiện
cơng nghiệp. Vì vậy, kiểu dáng của cơng trình xây dựng dân dụng khơng được coi là kiểu
dáng cơng nghiệp vì khơng thể tạo ra hàng loạt cơng trình xây dựng dân dụng giống nhau
hồn tồn từ hình dáng cho đến những gì thuộc về bên trong của nó như trang thiết bị,
nguyên vật liệu, v.v. Các kiểu dáng chỉ có giá trị thẩm mỹ thuần tuý cũng không thoả mãn
được yêu cầu ứng dụng trong cơng nghiệp. Ví dụ như một bức tượng có thể được đúc
khuôn và nhân bản bằng phương pháp công nghiệp nhưng bức tượng đó khơng được thừa
nhận là kiểu dáng cơng nghiệp vì sản phẩm là bức tượng chỉ có giá trị về mặt thẩm mỹ, và
có thể được bảo hộ bởi pháp luật về quyền tác giả đối với tác phẩm tạo hình. Sự nhân bản
bức tượng chỉ đơn thuần là sự sao chép tác phẩm. Tuy nhiên, nếu bức tượng này lại là kiểu
dáng của chiếc đồng hồ thì lại thoả mãn tiêu chí ứng dụng trong cơng nghiệp.
- Bằng độc quyền sáng chế (cịn gọi là Patent)
Bằng độc quyền sáng chế là một văn bằng do cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp
khi có một đơn u cầu bảo hộ trong đó mơ tả một sáng chế và thiết lập một điều kiện pháp
lý mà theo đó, sáng chế chỉ có thể được khai thác với sự cho phép của chủ sở hữu bằng độc

quyền sáng chế [47, tr.17]. Pháp luật nhiều nước hiểu về sáng chế khá giống nhau, theo đó
sáng chế là giải pháp kỹ thuật dưới dạng sản phẩm hoặc quy trình nhằm giải quyết một vấn
đề xác định bằng việc ứng dụng các quy luật tự nhiên. Có thể tìm thấy quy định này tại
Mục 35, chương 10, điều 101 Bộ Luật Hoa Kỳ, điều 27 khoản 1 Hiệp định TRIPS, điều 4
khoản 12 Luật sở hữu trí tuệ Việt Nam năm 2005.
Sáng chế muốn được bảo hộ độc quyền thì phải thoả mãn tính mới, phải có tính
sáng tạo và có khả năng áp dụng cơng nghiệp (hữu ích). Một sáng chế được coi là mới nếu
chưa bị bộc lộ cơng khai ở bất kỳ hình thức nào trên thế giới trước ngày nộp đơn đăng ký
bảo hộ. Nó sẽ có trình độ sáng tạo nếu nó khơng thể được tạo ra một cách dễ dàng đối với
người có hiểu biết trung bình về lĩnh vực kỹ thuật tương ứng và nó là một bước tiến sáng
tạo so với các giải pháp kỹ thuật được bộc lộ công khai trước đó. Cuối cùng, một sáng chế
có khả năng áp dụng cơng nghiệp khi nó có thể áp dụng cho một mục đích thực tế chứ
khơng chỉ thuần t là lý thuyết. Ví dụ, nếu sáng chế là một sản phẩm thì sản phẩm đó phải


có khả năng được sản xuất; nếu sáng chế là một quy trình thì quy trình đó phải có thể thực
hiện hay sử dụng trong thực tiễn.
Nhà nước cấp bằng độc quyền sáng chế cho tác giả nhằm ngăn chặn người khác
khai thác thương mại sáng chế trong một thời hạn để đổi lại việc bộc lộ sáng chế và như
vậy người khác, xã hội có thể hưởng lợi từ sáng chế đó. Vì vậy, bộc lộ sáng chế là yếu tố
quan trọng được xem xét trong bất kỳ quá trình cấp bằng độc quyền sáng chế nào. Như
vậy, chủ sở hữu bằng độc quyền sáng chế phải đưa sáng chế của mình vào sản xuất. Có hai
phương pháp cho chủ sở hữu lựa chọn là cấp phép cho một chủ thể khác đưa sáng chế vào
sản xuất (gọi là li-xăng) hoặc tự mình đưa sáng chế vào sản xuất. Trong một số trường hợp
chủ sở hữu sẽ bị buộc phải cấp phép cho chủ thể khác sử dụng sáng chế (gọi là li-xăng bắt
buộc hoặc không tự nguyện) theo yêu cầu của cơ quan nhà nước khi có hiện tượng lạm
dụng bằng độc quyền sáng chế (ví dụ như không thực hiện sáng chế) và khi cần phục vụ
lợi ích cơng cộng (như vì lý do sức khoẻ cộng đồng, bảo vệ quốc phòng hay phát triển kinh
tế).
- Thiết kế bố trí mạch tích hợp

“Mạch tích hợp” là một sản phẩm, dưới dạng thành phẩm hoặc bán thành phẩm,
trong đó có các phần tử- với ít nhất một phần tử tích cực và một số hoặc tất cả các mối liên
kết được gắn liền bên trong hoặc bên trên tấm vật liệu bán dẫn và nhằm thực hiện chức
năng điện tử. Điều 2 Hiệp ước về sở hữu trí tuệ liên quan tới mạch tích hợp năm 1989 (sau
đây gọi là Hiệp ước IPIC) quy định: Thiết kế bố trí là cấu trúc khơng gian ba chiều của các
phần tử- với ít nhất một phần tử tích cực và một số hoặc tất cả các mối liên kết được gắn
liền bên trong của một mạch tích hợp, hay là một cấu trúc khơng gian ba chiều của một
mạch tích hợp dùng cho sản xuất.
Thiết kế bố trí mạch tích hợp là những sáng tạo của trí óc con người. Chúng thường
là kết quả của một sự đầu tư lớn, cả về mặt thời gian nghiên cứu và tài chính. Yêu cầu về
sáng tạo những thiết kế bố trí mới để giảm kích thước của những mạch hiện hành và đồng
thời nâng cao chức năng của chúng vẫn rất cần thiết. Chúng được sử dụng trong rất nhiều
sản phẩm phục vụ đời sống hàng ngày như đồng hồ, ti vi, máy giặt, cũng như các thiết bị
xử lý dữ liệu tinh vi khác. Trong khi đó, việc sao chép những thiết kế này lại vô cùng đơn
giản và dễ thực hiện. Đó là lý do vì sao người ta cần bảo hộ chúng. Thiết kế bố trí mạch
tích hợp được bảo hộ thông qua việc đăng ký của chủ sở hữu.
- Chống cạnh tranh không lành mạnh


Công ước Paris về bảo hộ sở hữu công nghiệp (sau đây gọi là Công ước Paris) được
sửa đổi năm 1900, ghi nhận bảo hộ chống cạnh tranh không lành mạnh là một bộ phận cấu
thành của bảo hộ sở hữu công nghiệp bằng việc bổ sung điều 10bis vào Công ước. Hành vi
cạnh tranh không lành mạnh được hiểu tại điều 10bis khoản 2 của Công ước là “bất kỳ
hành động cạnh tranh nào trái với thông lệ trung thực trong lĩnh vực công nghiệp hay
thương mại”. Khác với các quyền sở hữu công nghiệp khác như nhãn hiệu hàng hố, kiểu
dáng cơng nghiệp, v.v. được bảo hộ dựa trên đơn yêu cầu và thông qua việc trao quyền cho
chủ sở hữu thì việc bảo hộ chống cạnh tranh không lành mạnh lại dựa trên các quy định
của pháp luật cạnh tranh hoặc việc xem xét của các cơ quan có thẩm quyền về các hành
động trái với thực tiễn kinh doanh trung thực. Thế nào là “thông lệ trung thực” thì Cơng
ước Paris khơng quy định và phần việc này thuộc về pháp luật quốc gia. Tuy nhiên, Công

ước ghi nhận tối thiểu ba hành vi sau tại điều 10 bis khoản 3: hành vi gây nhầm lẫn, hành
vi gây mất uy tín và lừa dối.
Khả năng cạnh tranh thường dựa trên kỹ thuật sáng tạo cùng với các bí quyết sản
xuất trong lĩnh vực cơng nghiệp và/hoặc thương mại. Nhiều bí quyết khơng thể được bảo
hộ bằng hình thức bằng độc quyền sáng chế vì những bằng này chỉ được cấp cho các sáng
chế trong lĩnh vực công nghiệp, chứ không cấp cho các lĩnh vực khác như quản lý, kinh
doanh, thương mại, v.v. Ngoài ra, một số bí quyết khơng hội tụ đủ các tiêu chuẩn để được
bảo hộ dưới hình thức bằng độc quyền sáng chế (ví dụ như khơng đủ mới hay khơng đủ
tính sáng tạo) nhưng vẫn mang lại cho người chủ sở hữu hoặc đối thủ cạnh tranh một lợi
thế thương mại/một giá trị thương mại nhất định. Do đó, việc vi phạm bí mật thương mại
được xem như một hành vi cạnh tranh khơng lành mạnh.
Bí mật thương mại được hiểu là thông tin thu được từ hoạt động đầu tư tài chính, trí
tuệ chưa được bộc lộ và có khả năng sử dụng trong kinh doanh. Cách hiểu này được ghi
nhận trong pháp luật sở hữu trí tuệ của nhiều quốc gia, ví dụ trong Luật Chống cạnh tranh
khơng lành mạnh của Nhật Bản năm 2005, Điều 39 Luật Bí mật thương mại thống nhất của
Hoa Kỳ sửa đổi gần đây nhất năm 2001, Luật Sở hữu trí tuệ của Pháp năm 2003, Luật Sở
hữu trí tuệ của Việt Nam năm 2005. Bí mật thương mại được bảo hộ chống lại việc sử
dụng và công bố trái phép dưới nhiều hình thức pháp lý khác nhau. Một số nước (như Nhật
Bản) quy định việc bảo hộ bí mật thương mại theo Luật Cạnh tranh không lành mạnh hoặc
theo một phần của luật khác. Có nước (như Hoa Kỳ, Australia) lại coi bí mật thương mại là
một khía cạnh của pháp luật bồi thường thiệt hại.


- Quyền đối với giống cây trồng
Việc sẵn có các giống cây được cải tiến và giống cây mới cho người trồng cây là
cực kỳ quan trọng đối với ngành công nghiệp nông nghiệp và công nghiệp làm vườn của
tất cả các nước. Khả năng kháng bệnh của cây cối, sản lượng cao hơn và các cải tiến trong
rất nhiều đặc trưng khác của cây trồng có thể tác động mạnh đến tính kinh tế của sản xuất
mùa vụ và khả năng chấp nhận của nó đối với những người tiêu dùng cuối cùng. Tốc độ
phát triển của những sự kiện trong nông nghiệp và làm vườn quốc tế ngày nay đã đến mức

các giống cây được cải tiến phải sẵn có cho người trồng cây vào thời điểm sớm nhất có thể
để đảm bảo tính cạnh tranh. Nhiều giống cây được phát triển sau nhiều năm lao động kiên
trì và đầu tư tốn kém. Do đó, việc cấp cho những nhà tạo giống cây trồng một độc quyền
khai thác các giống cây của họ sẽ đem đến một sự khích lệ đối với việc đầu tư cá nhân tạo
ra nhiều loại giống cây trồng mới.
Vào đầu những năm 1930, Hoa Kỳ đã đưa ra một hình thức độc quyền đặc biệt
được gọi là bằng sáng chế về thực vật, tuy nhiên hình thức này chỉ áp dụng đối với các
giống cây sinh sản vơ tính [47, tr. 330]. Sau này một nhóm các quốc gia châu Âu đã nhóm
họp cùng nhau vào năm 1961 để xây dựng Công ước Quốc tế về Bảo hộ giống cây trồng
mới. Lần sửa đổi cuối cùng là bản năm 1978, được gọi là “Văn kiện 1978”, bảo hộ một
cách tiềm năng tất cả các giống cây bất kể phương thức sinh sản của các giống đó hoặc
cơng nghệ được sử dụng để phát triển chúng.
Để được bảo hộ, người tạo giống phải nộp đơn và giống cây phải có tính thống
nhất, ổn định về cơ sở kỹ thuật cho việc bảo hộ, phải mới mang tính thương mại (tức là
chưa được chào bán hoặc đưa ra thị trường trong lãnh thổ của quốc gia nơi đơn đã được
nộp) và phải có tên gọi theo quy định tại điều 6(1) (b) của Văn kiện 1978.
1.2. Hệ thống bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ
1.2.1. Khái niệm về hệ thống bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ
Để hiểu được khái niệm về hệ thống bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ, trước tiên cần tìm
hiểu khái niệm về hệ thống.
Hệ thống được hiểu là “tập hợp nhiều yếu tố, đơn vị cùng loại hoặc cùng chức
năng, có quan hệ hoặc liên hệ với nhau chặt chẽ, làm thành một thể thống nhất” hoặc là
“tập hợp những tư tưởng, nguyên tắc, quy tắc liên kết với nhau một cách logic, làm thành
một thể thống nhất” hoặc là “phương pháp, cách thức phân loại và sắp xếp sao cho có trật


tự logic” [46, tr. 440]. Một cách ngắn gọn, hệ thống là tập hợp các yếu tố, tư tưởng, nguyên
tắc, phương pháp có liên hệ chặt chẽ với nhau một cách logic thành một thể thống nhất.
Như vậy, hệ thống là một tập hợp các bộ phận có mối quan hệ chặt chẽ, bổ trợ cho nhau tạo
nên một thể thống nhất vừa có điểm riêng và điểm chung. Với cách hiểu về hệ thống như

trên, có thể khẳng định rằng hệ thống bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ cũng là một tập hợp các
bộ phận với những chức năng khác nhau nhưng đều có chung một mục đích là nhằm bảo
hộ quyền sở hữu trí tuệ cho các chủ sở hữu đối với tài sản trí tuệ của họ.
Hiểu theo nghĩa hẹp thì hệ thống bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ là tập hợp các chính
sách, pháp luật về bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ, cơ sở hạ tầng cũng như nguồn nhân lực
phục vụ cho việc thực thi chính sách pháp luật đó. Xét theo nghĩa rộng, hệ thống bảo hộ
quyền sở hữu trí tuệ là một thể thống nhất gồm tập hợp các bộ phận trong đó có hoạt động
của nhà nước, của chủ sở hữu và của các chủ thể khác trong xã hội nhằm bảo đảm thực
hiện tốt các quy định về bảo hộ quyền sở hữu hợp pháp của chủ sở hữu đối với tài sản trí
tuệ. Trong thể thống nhất này, tập hợp các hoạt động của nhà nước là bộ phận bao gồm các
hoạt động liên quan đến ban hành chính sách, pháp luật về bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ và
xây dựng cơ chế thực thi các chính sách, pháp luật đó. Tập hợp các hoạt động của chủ sở
hữu là việc các chủ sở hữu thực hiện việc xác lập quyền sở hữu trí tuệ, thực thi quyền sở
hữu trí tuệ đối với tài sản trí tuệ của mình và các hoạt động tự bảo vệ khi quyền sở hữu trí
tuệ đã được xác lập bị xâm phạm trong đó có các hoạt động ngăn ngừa sự xâm phạm
quyền sở hữu trí tuệ. Tập hợp các hoạt động của các chủ thể khác trong xã hội của cộng
đồng xã hội là những hoạt động tự giác tơn trọng quyền sở hữu trí tuệ của chủ sở hữu, là
nhận thức của cả xã hội, của cả cộng đồng về sự tự giác tôn trọng các quyền sở hữu trí tuệ
của chủ sở hữu.
Bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ tốt sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển các tài
sản trí tuệ, từ đó thúc đẩy các hoạt động nghiên cứu khoa học, sáng tạo và các hoạt động
chuyển giao cơng nghệ. Vì vậy, việc bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ địi hỏi sự vận hành hữu
hiệu của tất cả các bộ phận nằm trong hệ thống nói trên. Vì vậy, trong phạm vi Luận án
này, hệ thống bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ sẽ được tiếp cận theo nghĩa rộng nói trên. Nói
cách khác, hệ thống bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ được cấu thành bởi ba bộ phận. Bộ phận
thứ nhất là tập hợp các hoạt động bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ của nhà nước. Bộ phận thứ
hai là tập hợp các hoạt động bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ của bản thân chủ sở hữu. Bộ phận
thứ ba là tập hợp các hoạt động tạo thành hệ thống bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ của cộng



đồng xã hội. Luận án cho rằng quyền sở hữu trí tuệ muốn được bảo hộ một cách triệt để thì
việc bảo hộ phải được thực hiện khơng chỉ từ phía nhà nước, từ phía chủ sở hữu mà cịn
phải từ phía tồn thể cộng đồng xã hội. Ba bộ phận bao gồm tập hợp các hoạt động bảo hộ
quyền sở hữu trí tuệ nói trên có mối quan hệ chặt chẽ với nhau và tạo thành hệ thống bảo
hộ quyền sở hữu trí tuệ của một quốc gia. Thiếu bất cứ bộ phận nào thì hệ thống bảo hộ
quyền sở hữu trí tuệ sẽ trở thành khơng đầy đủ và khơng hiệu quả. Để bảo hộ quyền sở
hữu trí tuệ, nhà nước phải ban hành hệ thống pháp luật xác lập quyền sở hữu trí tuệ cho các
chủ sở hữu đối với tài sản trí tuệ. Nhà nước ban hành pháp luật nhưng bản thân các chủ sở
hữu không quan tâm, không tự giác xúc tiến các thủ tục cần thiết thì các quy định của pháp
luật về xác lập quyền sở hữu trí tuệ chỉ là hình thức. Tương tự như vậy, nếu nhà nước chỉ
ban hành pháp luật xáclập quyền sở hữu trí tuệ mà khơng có cơ chế xử lý vi phạm thì các
quy định của pháp luật sẽ khơng có giá trị thực tiễn. Cơ chế xử lý vi phạm sẽ rất khó hoạt
động hiệu quả nếu cả cộng đồng xã hội không phối hợp cùng nhà nước và chủ sở hữu trong
việc thực thi các quy định của pháp luật về bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ. Nhà nước và chủ
sở hữu dù nỗ lực tối đa trong các hoạt động bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ thì cũng khơng thể
xử lý hết các trường hợp xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ nếu thiếu sự hợp tác chặt chẽ, tự
giác từ phía cộng đồng xã hội. Rõ ràng ba bộ phận này là khơng thể tách rời mà ngược lại,
chúng có mối quan hệ hữu cơ và đều hướng về một mục tiêu là xác lập, củng cố và bảo vệ
quyền sở hữu của chủ sở hữu đối với tài sản trí tuệ.
Như vậy, hệ thống bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ là một tập hợp gồm ba bộ phận có
mối quan hệ chặt chẽ, có sự tác động hữu cơ với nhau. Chúng được xây dựng nhằm bảo hộ
hữu hiệu quyền sở hữu trí tuệ của các chủ sở hữu. Xã hội càng phát triển, vai trò của các tài
sản trí tuệ càng được đề cao thì hệ thống bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ cũng phải được quan
tâm xây dựng ngày càng hoàn thiện.
1.2.2. Các bộ phận cấu thành hệ thống bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ
Sẽ khó hình dung hệ thống bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ nếu khơng tiếp tục phân tích
các bộ phận cấu thành của hệ thống.



×