Tiểu Luận
Mơn học:
Kinh Tế Chính Trị Mác-Lênin
Lớp: 2108RLCP1211
Nhóm: 6
Giảng viên:
Võ Tá Tri
Đề tài: “Lý luận về sản xuất hàng hóa của C.Mác và vận dụng vào thực tiễn ở
Việt Nam hiện nay.”
Thành viên nhóm:
STT
1
2
3
4
5
6
7
8
Họ và Tên
Nguyễn Thị Phương Ninh
Vũ Thị Oanh
Nguyễn Minh Phong
Lê Thị Phương
Nguyễn Thị Phương
Ngô Thị Hồng Phượng
Nguyễn Bá Thị Phượng
Lê Đình Qn
Nhóm trưởng: Lê Thị Phương
Email:
Sđt:
0343487423
Mã sinh viên
20D100245
20D100250
20D100320
20D100251
20D100321
20D100252
20D100322
20D100253
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU......................................................................................................1
1. Tính cấp thiết của đề tài...................................................................................1
2. Câu hỏi nghiên cứu của đề tài..........................................................................1
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu....................................................................1
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu....................................................................2
5. Ý nghĩa thực tiễn và khoa học của đề tài nghiên cứu.....................................2
6. Kết cấu của đề tài..............................................................................................2
CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN CỦA C.MÁC VỀ SẢN XUẤT HÀNG HÓA................3
1.1. Sản xuất hàng hóa.............................................................................................3
1.1.1. Khái niệm – điều kiện ra đời........................................................................3
1.1.2. Phân biệt sản xuất hàng hóa và sản xuất tự cung, tự cấp..........................4
1.2. Hàng hóa............................................................................................................5
1.2.1. Khái niệm......................................................................................................5
1.2.2. Thuộc tính của hàng hóa..............................................................................5
1.3. Lượng giá trị......................................................................................................6
1.3.1. Khái niệm......................................................................................................6
1.3.2. Các nhân tốc ảnh hưởng đến lượng giá trị.................................................6
1.4. Tính hai mặt của lao động sản xuất hàng hóa................................................7
CHƯƠNG 2: VẬN DỤNG LÝ LUẬN SẢN XUẤT HÀNG HÓA CỦA C.MÁC
VÀO THỰC TIỄN VIỆT NAM HIỆN NAY..........................................................9
2.1. Sơ lược về lịch sử phát triển nền sản xuất hàng hóa......................................9
2.2. Thực trạng, đặc điểm của sản xuất hàng hóa ở Việt Nam...........................11
2.2.1. Thực trạng của nền sản xuất hàng hóa ở Việt Nam..................................11
2.2.2. Đặc điểm của nền sản xuất hàng hóa ở Việt Nam.....................................13
3. Phương hướng phát triển sản xuất hàng hóa và liên hệ thực tiễn ở Việt Nam.
...................................................................................................................... 15
3.1 Phương hướng phát triển hàng hóa ở Việt Nam...........................................15
3.2 Liên hệ thực tiễn ở Việt Nam..........................................................................16
KẾT LUẬN............................................................................................................23
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO..............................................................24
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong thời kì đầu của xã hội lồi người do sự lạc hậu của lực lực sản xuất nên
sản xuất của xã hội mang tính tự cung, tự cấp khiến nhu cầu của con người bị bó
hẹp trong một phạm vi, giới hạn nhất định. Khi lực lượng sản xuất phát triển và có
nhiều thành tựu mới, con người dần thốt khỏi nền kinh tế tự nhiên và chuyển sang
nền kinh tế hàng hóa. Sản xuất hàng hóa là một bộ phận của kinh tế quốc tế, là tổng
thể các quan hệ kinh tế, khoa học, kĩ thuật, công nghệ được thực hiện dưới nhiều
hình thức, hình thành và phát triển trên cơ sở phát triển của lực lượng sản xuất và
phân cơng lao động quốc tế. Trong q trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước, sản xuất hàng hóa được ví như một mắt xích quan trọng trong guồng máy của
nền kinh tế, đống vai trò quan trọng nhất trong xu thế hội nhập và phát triển hiện
nay, không những góp phần đắc lực vào q trình thúc đẩy tồn bộ nền kinh tế phát
triển mà còn mở rộng quan hệ giao lưu, hợp tác quốc tế cả về các lĩnh vực khác. Sản
xuất hàng hóa là một q trình tạo ra sản phẩm hàng hóa nhằm đáp ứng và làm thỏa
mãn nhu cầu nào đó của con người. Trong thời đại nền kinh tế mở và cạnh tranh
như hiện nay, mỗi quốc gia phải nghiên cứu tìm ra hướng đi đúng đắn cho nền kinh
tế, phù hớp với điều kiện, hoàn cảnh đất nước, phù hợp với khu vực thế giới và thời
đại. Chính vì vậy việc nghiên cứu về điều kiện ra đời, đặc trưng, ưu thế của sản xuất
hàng hóa là vơ cùng quan trọng, từ đó ta có thể liên hệ với nước ta và làm cho q
trình sản xuất hàng hóa của nước ta ngày càng phát triển với chất lượng cao hơn.
Qua đây nhóm 6 muốn nghiên cứu thong qua đề tài: “ Lý luận về sản xuất hàng hóa
của Các Mác và vận dụng vào thực tiễn ở Việt Nam.”
2. Câu hỏi nghiên cứu của đề tài
- Sản xuất hàng hóa, hàng hóa là gì?
- Điều kiện ra đời của sản xuất hàng hóa?
- Sự vận dụng lý luận đó vào việc thực tiễn ở Việt Nam như thế nào?
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
- Mục đích chính của đề tài nghiên cứu này là hiểu rõ về sản xuất hàng hóa,
điều kiện ra đời của sản xuất hàng hóa, tính hai mặt của lao động sản xuất hàng hóa,
1
đặc biệt là sự vận dụng linh hoạt lí luận đó vào thực tiễn ở Việt Nam như thế nào,
đem lại cho nước ta những thành tựụ và hạn chế của nó, từ đó đưa ra những giải
pháp để phát triển hơn nữa nền kinh tế hàng hóa ở nước ta hiện nay.
- Nhiệm vụ nghiên cứu: một là, làm rõ hơn quan điểm của C.Mác về sản xuất
hàng hóa, hàng hóa. Hai là, phân tích q trình vận dụng lí luận đó ở nước ta, chỉ rõ
những thành tựu và hạn chế của q trình đó. Ba là, đưa ra những giải pháp nhằm
khắc phục những hạn chế của quá trình vận dụng lý luận của C.Mác về sản xuất
hàng hóa ở nước ta hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Phân tích nội dung lý luận của C.Mác về sản xuất
hàng hóa và sự vận dụng của nó vào thực tiễn ở nước ta hiện nay.
- Phạm vi nghiên cứu: Việt Nam hiện nay.
5. Ý nghĩa thực tiễn và khoa học của đề tài nghiên cứu
- Ý nghĩa khoa học: Thấy rõ tính khoa học trong quan điểm và cách thức giải
quyết vấn đề về sản xuất hàng hóa của C.Mác, của Việt Nam.
- Ý nghĩa thực tiễn: Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề sản xuất hàng
hóa, đề ra các chính sách, giải pháp hợp lí cho Nhà nước ta hiện nay.
6. Kết cấu của đề tài
Đề tài được thiết kế thành 2 chương:
Chương 1: Lý Luận của C.Mác về sản xuất hàng hóa.
Chương 2: Vận dụng vào thực tiễn ở Việt Nam.
2
CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN CỦA C.MÁC VỀ SẢN XUẤT HÀNG HĨA
1.1. Sản xuất hàng hóa
1.1.1. Khái niệm – điều kiện ra đời
Theo C.Mác, sản xuất hàng hóa là kiểu tổ chức kinh tế mà ở đó, những người
sán xuất ra sản phẩm không nhằm phục vụ mục đĩh phục vụ nhu cầu tiêu dùng của
chính mình mà để trao đổi, mua bán.
Điều kiện ra đời của sản xuất hàng hố
Sản xuất hàng hóa khơng xuất hiện đồng thời với sự xuất hiện của xã hội loài
người. Để nền kinh tế hàng hóa có thể hình thành và phát triển, C.Mác cho rằng cần
hội đủ hai điều kiện:
Điều kiện thứ nhất: Phân công lao động xã hội
Phân công lao động xã hội là sự phân chia lao động trong xã hội thành các
ngành, các lĩnh vực sản xuất khác nhau tạo nên sự chun mơn hóa sản xuất, phân
chia lao động xã hội ra thành các ngành, các lĩnh vực sản xuất khác nhau. Phân
công lao động xã hội là cơ sở, là tiền đề của sản xuất hàng hóa. Phân cơng lao động
xã hội càng phát triển, thì sản xuất và trao đổi hàng hóa càng mở rộng hơn, đa dạng
hơn.
Do sự phân công lao động xã hội nên việc trao đổi sản phẩm trở thành tất
yếu. Khi có phân cơng lao động xã hội, mỗi người chỉ sản xuất một hoặc một vài
thứ sản phẩm nhất định, nhưng nhu cầu của cuộc sống đòi hỏi họ phải có nhiều loại
sản phẩm khác nhau, do đó, họ cần đến sản phẩm của nhau, buộc phải trao đổi với
nhau. Phân cơng lao động xã hội, chun mơn hóa sản xuất đồng thời làm cho năng
suất lao động tăng lên, sản phẩm thặng dư ngày càng nhiều nên càng thúc đẩy sự
trao đổi sản phẩm.
Điều kiện thứ hai: Sự tách biệt về mặt kinh tế của các chủ thể sản xuất
Sự tách biệt về mặt kinh tế giữa các chủ thể sản xuất làm cho giữa những
người sản xuất độc lập với nhau, có sự tách biệt về lợi ích. Trong điều kiện đó,
người này muốn tiêu dùng sản phẩm của người khác phải thông qua trao đổi, mua
bán, tức là phải trao đổi dưới hình thức hàng hóa. C.Mác viết: “chỉ có sản phẩm của
3
những lao động tư nhân độc lập và không phụ thuộc vào nhau mới đối diện với
nhau như những hàng hóa”. Sự tách biệt về mặt kinh tế giữa những người sản xuất
là điều kiện đủ để nền sản xuất hàng hóa ra đời và phát triển.
Trong lịch sử, sự tách biệt về mặt kinh tế giữa các chủ thể sản xuất hiện
khách quan dựa trên sự tách biệt về quyền sở hữu. Xã hội loài người càng phát
triển, sự tách biệt về quyền sở hữu càng sâu sắc, hàng hóa được sản xuất ra càng
phong phú.
Khi cịn sự hiện diện của hai điều kiện trên, con người không thể dùng ý chí
chủ quan mà xóa bỏ nền sản xuất hàng hóa được. Việc cố tình xóa bỏ nền sản xuất
hàng hóa, sẽ làm cho xã hội đi tới chỗ khan hiếm và khủng hoảng. Với ý nghĩa đó,
cần khẳng định, nền sản xuất hàng hóa có ưu thế tích cực vượt trội cới nền sản xuất
tự cung, tự cấp.
1.1.2. Phân biệt sản xuất hàng hóa và sản xuất tự cung, tự cấp
Sản xuất tự cung tự cấp với mục đích sản xuất ra những giá trị sử dụng để thỏa
mãn nhu cầu tiêu dùng của chính người sản xuất, nên không tạo ra động lực thúc
đẩy sản xuất phát triển. Trong sản xuất tự cung tự cấp, quy mơ nhỏ chủ yếu dựa vào
nguồn lực sẵn có của tự nhiên, nhu cầu thấp, trình độ dân trí thấp nên khơng có
cạnh tranh, khơng tạo ra động lực mạnh mẽ phát triển khoa học - công nghệ để phát
triển kinh tế có hiệu quả. Do vậy, sản xuất kém phát triển, mang tính khép kín, sản
phẩm sản xuất ra khơng đủ tiêu dùng vì thế đời sống vật chất và tinh thần của người
lao động thấp, khơng có điều kiện để mở rộng hoạt động giao lưu kinh tế - xã hội
giữa các vùng miền...
Sản xuất hàng hóa là là sản xuất cho người khác, cho xã hội, sản xuất để bn
bán, vì mục tiêu lợi nhuận, do đó nó tạo ra động lực mạnh mẽ thúc đẩy sản xuất
hàng hóa phát triển. Dẫn đến sự cạnh tranh ngày càng gay gắt, buộc mỗi người sản
xuất hàng hóa phải năng động trong sản xuất – kinh doanh, phải thường xun cải
tiến kĩ thuật, hợp lí hóa sản xuất để tăng năng suất lao động, nâng cao chất lượng
sản phẩm, nhằm thu được lợi nhuận ngày càng nhiều. Sản xuất hàng hóa với năng
suất lao động cao, chất lượng hàng hóa tốt, khối lượng hàng hóa ngày càng nhiều,
chủng loại đa dạng và phong phú làm cho thị trường được mở rộng, thỏa mãn nhu
cầu vật chất và tinh thần ngày càng cao của xã hội.
4
5
1.2. Hàng hóa
1.2.1. Khái niệm
Theo quan điểm của C.Mác, hàng hóa là sản phẩm của lao động, có thể thỏa
mãn một nhu cầu nào đó của con người thơng qua trao đổi, mua bán.
Theo cách hiểu này thì sản phẩm của lao động chỉ mang hình thái hàng hóa
khi nhằm đưa ra trao đổi, mua bán trên thị trường. Khi sản phẩm không được đem
ra trao đổi hoặc không nhằm mục đích sản xuất để trao đổi thì khơng được coi là
hàng hóa. Hàng hóa có thể tồn tại ở dạng vật thể hoặc ở dạng phi vật thể.
1.2.2. Thuộc tính của hàng hóa
Mọi thứ hàng hóa đều có hai thuộc tính là giá trị sử dụng và giá trị:
Giá trị sử dụng: là công dụng của sản phẩm, có thể thỏa mãn một nhu cầu
nào đó của con người, đó có thể là nhu cầu vật chấ hay tinh thần, cũng có thế là nhu
cầu cho tiêu dùng cá nhân, có thể là nhu cầu tiêu dùng cho sản xuất. Giá trị sử dụng
do thuộc tính tự nhiên của yếu tố tham gia cấu thành nên hàng hóa đó quy định; sản
xuất càng phát triển, khoa học, tiên tiến, càng giúp cho con người phát hiện ra nhiều
và phong phú các giá trị sử dụng của hàng hóa khác nhau; đáp ứng yêu cầu của
người mua, là người sản xuất phải chú ý tới giá trị hàng hóa của hàng hóa sao cho
đáp ứng nhu cầu khắt khe và tinh tế của người mua.
Giá trị: là lao động của người sản xuất ra hàng hóa kết tinh trong hàng hóa
ấy. Sở dĩ hàng hóa có thể đem ra trao đổi được là vì chúng có một điểm chung, ở
chỗ, chúng đều là kết quả của sự hao phí sức lao động. Tức là hàng hóa có giá trị,
khi là hàng hóa, dù khác nhau về giá trị sử dụng, chúng đều là kết quả của sự hao
phí sức lao động của người sản xuất hàng hóa ấy, nên hàng hóa có giá trị. Lao động
hao phí để sản xuất ra hàng hóa mang tính xã hội, tức hàm ý quan hệ giữa người
bán với người mua, hàm ý trong quan hệ xã hội, C.Mác quan niệm: “Giá trị của
hàng hóa là lao động xã hội vủa người sản xuất đã hao phí đế sản xuất ra hàng hóa
kết tinh trong hàng hóa ấy.”. Giá trị hàng hóa biểu hiện mối quan hệ kinh tế giữa
người sản xuất, trao đổi hàng hóa và là phạm trù có tính lịch sử. Giá trị trao đổi là
hình thức biểu hiện bên ngoài của giá trị, giá trị là nội dung, cơ sở của trao đổi.
6
1.3. Lượng giá trị
1.3.1. Khái niệm
Để đo lường lượng giá trị của một hàng hóa nhất định, sử dụng đơn vị thời
gian hao phí lao động để sản xuất ra hàng hóa đó, đó là thời gian lao động xã hội
cần thiết. Thời gian lao động xã hội cần thiết là thời gian đòi hỏi để sản xuất ra một
giá trị sử dụng nào đó trong những điều kiện bình thường của xã hội với trình độ
thành thạo trung bình, cường độ lao động trung bình.
Vậy, lượng giá trị của một đơn vị hàng hóa là lượng thời gian hao phí lao
động xã hội cần thiết để sản xuất ra đơn vị hàng hóa đó.
Người sản xuất thường phải tích cực đổi mới, sáng tạo nhằm giảm thời gian
hao phí lao động các biệt tại đơn vị sản phẩm của mình xuống mức thấp hơn mức
hao phí trung bình cần thiết. Xét về mặt cấu thành, lượng giá trị của một đơn vị
hàng háo được sản xuất ra bao hàm: phí lao động quá khứ (vật tư, nguyên liệu dùng
đã tiêu dùng để sản xuất ra hàng hóa đó) + hao phí lao động mới kết tinh thêm.
1.3.2. Các nhân tốc ảnh hưởng đến lượng giá trị
Những nhân tố nào ảnh hưởng tới lượng thời gian hao phí xã hội cần thiết để
sản xuất ra một đơn vị hàng hóa sẽ ảnh hưởng tới lượng giá trị của hàng hóa, C.Mác
cho rẳng có những nhân tố sau đây:
Năng suất lao động
Năng suất lao động là năng lực sản xuất của người lao động, được tính bằng số
lượng sản phẩm sản xuất ra trong một đơn vị thời gian, hay số lượng thời gian hao
phí để sản xuất ra một đơn vị sản phẩm. Khi năng suất lao động tăng, sẽ làm giảm
lượng thời gian hao phí lao động cần thiết trong một đơn vị hàng hóa, lượng giá trị
trong một đơn vị hàng hóa sẽ giảm. Năng suất lao động có mối quan hệ tỷ lệ nghịch
với lượng giá trị trong một đơn vị hàng hóa. Vì vậy, trong thực hàng sản xuất, kinh
doanh cần phải chú ý, để giảm hao phí lao động cá biệt cần phải thực hiện các biện
pháp để góp phần tăng năng suất lao động. Các nhân tố tác động đến năng suất lao
động: trình độ của người lao động, trình độ tiên tiến và mức trang bị kĩ thuật, khoa
học công nghệ trong quá trình sản xuất, trình độ quản lý, cường độ lao động và các
yếu tố tự nhiên.
7
Tính chất phức tạp hay giản đơn của lao động
Khi xét với một hoạt động lao động cụ thể, nó có thể là lao động có tính chất
giản đơn, cũng có thể là lao động có tính chất phức tạp. Cho dù là giản đơn hay
phức tạp thì lao động đó đều là sự thống nhất của tính hai mặt, mặt cụ thể và trừu
tượng. Lao động giản đơn là lao động khơng địi hỏi có q tình đào tạo một cách
hệ thống, chuyên sâu về chuyên môn, kỹ năng, nghiệp vụ cũng có thể thao tác được.
Lao động phức tạp là những hoạt động alo động yêu cầu phải trải qua một quá trình
đào tạo về kỹ năng, nghiệp vụ theo yêu cầu của những nghề nghiệp chuyên mơn
nhất định. Với tính chất khác nhau, nên trong cùng một đơn vị thời gian, một lao
động phức tạp sẽ tạo ra được nhiều lượng giá trị hơn so với lao động giản đơn. Đây
là cơ sở lý luận quan trọng để người lao động tính tốn, xác định mức thù lao phù
hợp với tính chất của hoạt động lao động trong quá trình tham gia vào các hoạt động
kinh tế xã hội.
1.4. Tính hai mặt của lao động sản xuất hàng hóa
Nghiên cứu về mối quan hệ giữa hai thuộc tính của hàng hóa với lao động sản
xuất hàng hóa, C.Mác phát hiện rằng, sở dĩ hàng hóa có hai thuộc tính là do lao
động của người sản xuất hàng có có tính hai mặt, đó là mặt cụ thể và mặt trừu
tượng của lao động.
Lao động cụ thể là lao động có ích dưới một hình thức cụ thể của những
nghề nghiệp chuyên môn nhất định. Mỗi lao động cụ thể có mục đích lao động
riêng, đối tượng lao động riêng, công cụ lao động riêng, phương pháp lao động
riêng và kết quả riêng. Lao động cụ thể tạo ra giá trị sử dụng của hàng hóa, các loại
lao động cụ thể khác nhau về chất nên tạo ra những sản phẩm cũng khác nhau về
chất và mỗi sản phẩm có một giá trị sử dụng riêng. Phân cơng lao động xã hội càng
phát triển thì xã hội càng nhiều ngành nghề khác nhau, do đó có nhiều giá trị sử
dụng khác nhau. Khoa học kỹ thuật, phân cơng lao động càng phát triền thì các hình
thức lao động có thể càng phong phú, đa dạng.
Lao động trừu tượng là lao động xã hội của người sản xuất hàng hóa khơng
kể đến hình thức cụ thể của nó; đó là sự hao phí sức lao động nói chung của người
sản xuất hàng hóa về cơ bắp, thần kinh, trí óc. Lao động trừu tượng là lao động
đồng chất của người sản xuất hàng hóa, tạo ra giá trị của hàng hóa. Vì vậy, giá trị
8
của hàng hóa là lao động trừu tượng của người sản xuất kết tinh trong hàng hóa.
Lao động trừu tượng là cơ sở để so sánh, trao đổi các giá trị sử dụng khác nhau.
C.Mác ngồi việc đã giải thích được một cách khao học vững chắc vì sao hàng
hóa có hai thuộc tính, cịn chỉ ra được quan hệ chặt chẽ giữa người sản xuất và
người tiêu dùng hàng hóa. Lao động cụ thể phản ánh tính chất tư nhân của lao đọng
sản xuất hàng hóa bởi việc sản xuất cái gì, ở đâu, bao nhiêu, bằng cơng cụ nào, ... là
việc riêng của mỗi chủ thể sản xuất. Ngược lại, lao động trừu tượng phản ánh tính
chất xã hội của lao động sản xuất hàng hóa, bởi lao động của mỗi người là một bộ
phận của lao động xã hội, nằm trong hệ thống phân công lao động xã hội. Nên,
người sản xuất phải đặt lao động của mình trong sự liên hệ với lao động của xã hội.
Do đó, lợi ích của người sản xuất thống nhất với lợi ích của người tiêu dùng. Mâu
thuẫn giữ lao động cụ thể và lao động trừu tượng xuất hiện khi sản phẩm do những
người sản xuất hàng hóa tạo ra không phù hợp với nhu cầu xã hội hoặc khi mức tiêu
hao lao động cá biệt cao hơn mức tiêu hao mà xã hội có thể chấp nhận được. Khi
đó, sẽ có một số hàng hóa khơng bán được hoặc bán thấp hơn mức hao phí lao động
bỏ ra, khơng đủ bù đắp chi phí, có nghĩa là một số lao động cá biệt không được xã
hội thừa nhận.
9
CHƯƠNG 2: VẬN DỤNG LÝ LUẬN SẢN XUẤT HÀNG HÓA CỦA C.MÁC
VÀO THỰC TIỄN VIỆT NAM HIỆN NAY
2.1. Sơ lược về lịch sử phát triển nền sản xuất hàng hóa
Sản xuất hàng hóa ra đời từ sản xuất tự cung tự cấp tự túc và thay thế nó trong
q trình lịch sử lâu dài.
Ở các xã hội trước chủ nghĩa tư bản, sản xuất hàng hóa là sản xuất đơn giản
chỉ giữ vai trị phụ thuộc. Tuy nhiên chính sản xuất hàng hóa giản đơn đã tạo ra khả
năng phát triển lực lượng sản xuất thiết lập các mối quan hệ kinh tế giữa các đơn vị
kinh tế trước đó vốn tách biệt nhau.
Quan hệ sản xuất hàng hóa phát triển nhanh chóng ở thời kỳ chế độ phong
kiến tan rã và góp phần thúc đẩy q trình đó diễn ra mạnh mẽ hơn.
Hình thức điển hình nhất, cao nhất, phổ biến nhất của sản xuất hàng hóa là sản
xuất hàng hóa TBCN. Dưới CNTB quan hệ hàng hóa thâm nhập vào mọi lĩnh vực,
mọi chức năng của nền sản xuất xã hội, hàng hóa trở thành tế bào của nền sản xuất
xã hội. Nó mang đặc điểm: Dựa trên sự tách rời tư liệu sản xuất với sức lao động
trên cơ sở bóc lột lao động làm thuê dưới hình thức chiếm đoạt giá trị thặng dư.
Sản xuất hàng hóa tiếp tục tồn tại và phát triển dưới CNXH. Đặc điểm của sản
xuất hàng hóa XHCN là nó khơng dựa trên cơ sở chế độ người bóc lột người và nó
nhằm mục đích thỏa mãn nhu cầu vật chất, tinh thần của mọi thành viên xã hội trên
cơ sở sản xuất kinh doanh.
Tính ưu việt của sản xuất hàng hóa:
Sản xuất hàng hóa tiếp tục tồn tại và phát triển ở nhiều xã hội là sản phẩm của
lịch sử phát triển xã hội lồi người. Bởi vậy nó có nhiều ưu thế, và là một phương
thức hoạt động kinh tế tiến bộ hơn hẳn so với sản xuất tự cung tự cấp:
Nó làm thúc đẩy sự phát triển của lực lượng sản xuất, nâng cao năng suất lao
động xã hội. Nó thúc đẩy q trình xã hội hóa sản xuất nhanh chóng làm cho sự
phân cơng chun mơn hóa sản xuất ngày càng sâu sắc, hợp tác hóa chặt chẽ hình
thành các mối liên hệ kinh tế và sự phụ thuộc lẫn nhau của những người sản xuất
hình thành thị trường trong nước và thế giới.
10
Nó thúc đẩy nhanh q trình tích tụ và tập trung sản xuất, đó là cơ sở để thúc
đẩy quá trình dân chủ hóa, bình đẳng và tiến bộ xã hội.
Do sản xuất hàng hóa dựa trên sự phân cơng lao động xã hội, chun mơn hóa
sản xuất nên nó khai thác được những lợi thế tự nhiên, xã hội, kỹ thuật của từng
người, từng cơ sở cũng như từng vùng từng địa phương. Đồng thời, sản xuất hàng
hóa cũng tác động trở lại làm cho phân công lao động xã hội, chun mơn hóa sản
xuất ngày càng tăng, mối quan hệ giữa các ngành, các vùng, ngày càng trở nên mở
rộng, sâu sắc. Từ đó, làm cho năng suất lao động tăng lên nhanh chóng, nhu cầu của
xã hội được đáp ứng đầy đủ hơn.
Trong nền sản xuất hàng hóa, quy mơ sản xuất khơng cịn bị giới hạn bởi
nguồn lực và nhu cầu của mỗi các nhân, gia đình, mỗi cơ sở, mỗi vùng mà nó được
mở rộng, dựa trên cơ sở nhu cầu và nguồn lực xã hội. Từ đó, tạo điều kiện cho việc
ứng dụng những thành tựu KH-KT vào sản xuất, thúc đẩy sản xuất phát triển,
chuyển từ sản xuất nhỏ sang sản xuất lớn.
Trong nền sản xuất hàng hóa, để tồn tại và sản xuất có lãi, người sản xuất phải
ln ln năng động, cải tiến kĩ thuật, hợp lý hóa sản xuất, nâng cao năng suất lao
động, giảm chi phí sản xuất, đáp ứng nhu cầu và thị hiếu của người tiêu dùng. Nhờ
đó, lực lượng sản xuất ngày càng phát triển, năng suất lao động tăng, hiệu quả kinh
tế ngày càng cao.
Sự phát triển sản xuất, mở rộng và giao lưu kinh tế giữa các cá nhân, các vùng,
các nước… không chỉ làm cho đời sống vật chất mà cả đời sống văn hóa, tinh thần
cũng được nâng cao hơn, phong phú và đa dạng hơn.
Nền sản xuất hàng hóa ở nước ta thời gian qua là một nền sản xuất vận hành
theo cơ chế thị trường có sự điều chỉnh của Chính phủ theo hướng XHCN. Đứng
trước vận hội mới của đất nước, nền sản xuất hàng hóa ở nước ta có những thuận lợi
nhất định và khó khăn khơng nhỏ:
Về thuận lợi: là một nền kinh tế đang đi lên với tốc độ phát triển cao, tạo ra
được niềm tin với các nhà đầu tư và bạn bè quốc tế. Việt Nam có giá nhân cơng rẻ,
trình độ dân trí khá cao, thị trường lớn với dân số đông, một đất nước ổn định về
chính trị và một quyết tâm đổi mới mạnh mẽ của chính phủ, về tài nguyên, về vị trí
địa lý…
11
Về khó khăn: phải khẳng định là nền kinh tế đất nước ta phải đối mặt với rất
nhiều khó khăn và thách thức lớn. Đi lên từ một nền nông nghiệp nhỏ lạc hậu, nền
kinh tế ta có đặc thù là sản xuất nhỏ lẻ mang nặng tính tự cung tự cấp, sức cạnh
tranh yếu. Trình độ cơng nghệ sản xuất, quản lý, cơ sở hạ tầng còn nhiều yếu kém,
chất lượng lao động chưa được đào tạo chưa đáp ứng được nhu cầu ngày một khắt
khe của nền kinh tế, người dân nước ta chưa có được cách nghĩ năng động, chính
sách đủ được cải thiện cịn nhiều bất cập…Bên cạnh đó, các nền kinh tế khác và đặc
biệt là Trung Quốc, khu vực Đông Nam Á đã và đang lên mạnh mẽ và cạnh tranh
gay gắt với Việt Nam…
Do mục đích của sản xuất hàng hóa khơng phải để thỏa mãn nhu cầu của bản
thân người sản xuất như trong kinh tế tự nhiên mà để thỏa mãn nhu cầu của người
khác, của thị trường. Sự tăng không hạn chế nhu cầu của thị trường là một động lực
mạnh mẽ thúc đẩy sản xuất phát triển.
Cạnh tranh ngày càng gay gắt, buộc mỗi người sản xuất hàng hóa phải năng
động trong sản xuất-kinh doanh, phải thường xuyên cải tiến kỹ thuật, hợp lý hóa sản
xuất để tăng năng suất lao động, nâng cao chất lượng sản phẩm, nhằm tiêu thụ được
hàng hóa và thu được lợi nhuân ngày càng nhiều hơn. Cạnh tranh đã thúc đẩy lực
lượng sản xuất phát triển mạnh mẽ.
Sự phát triển của sản xuất xã hội với tính chất mở của các quan hệ hàng hóa
tiền tệ làm cho giao lưu kinh tế, văn hóa giữa các địa phương trong nước và quốc tế
ngày càng phát triển. Từ đó tạo điều kiện ngày càng nâng cao đời sống vật chất và
văn hóa của nhân dân.
2.2. Thực trạng, đặc điểm của sản xuất hàng hóa ở Việt Nam
2.2.1. Thực trạng của nền sản xuất hàng hóa ở Việt Nam
Trong giai đoạn quá độ lên CNXH, ở nước ta những điều kiện chung của sản
xuất hàng hóa vẫn cịn bởi vậy nền sản xuất hàng hóa tồn tại là một tất yếu khách
quan.
Phân công lao động xã hội với tư cách là cơ sở của trao đổi chẳng những
không mất đi, trái lại ngày một phát triển cả về chiều rộng lẫn chiều sâu, sự chuyên
môn hóa và hợp tác hóa lao động đã vượt khỏi biên giới quốc gia và ngày càng
mang tính quốc tế.
12
Phân công lao động xã hội đã phá vỡ các mối quan hệ truyền thống của nền
kinh tế tự nhiên khép kín, tạo cơ sở thống nhất phụ thuộc lẫn nhau giữa những
người sản xuất và hệ thống hợp tác lao động. Sự phân công lao động của ta đã ngày
càng chi tiết đến từng ngành, từng cơ sở và ở phạm vi rộng hơn nữa là toàn bộ nền
kinh tế quốc dân. Hiện nay ta đã có hàng loạt thị trường được hình thành từ sự phân
cơng lao động đó là: Thị trường cơng nghệ, thị trường các yếu tố sản xuất,… Tạo đà
cho nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần phát triển giúp ta nhanh chóng hịa nhập
được với kinh tế trong khu vực và trên thế giới.
Trong nền kinh tế đã và đang tồn tại nhiều hình thức sở hữu khác nhau về tư
liệu sản xuất và sản phẩm lao động. Sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể của những
người sản xuất hàng hóa nhỏ, sở hữu tư nhân TBCN, sở hữu hỗn hợp, đồng sở
hữu… Chế độ xã hội hóa sản xuất giữa các ngành, các xí nghiệp trong cùng một
hình thức sở hữu vẫn chưa đều nhau. Sở dĩ như vậy là do cơ cấu kinh tế của ta giờ
là cơ cấu kinh tế nhiều thành phần, sự tồn tại của các thành phần kinh tế là một tất
yếu khách quan.
Sản xuất hàng hóa là để trao đổi đáp ứng nhu cầu của xã hội nên người sản
xuất có điều kiện để chuyên mơn hóa cao. Trình độ tay nghề được nâng lên do tích
lũy kinh nghiệm, tiếp tục được tri thức mới. Công cụ chuyên dùng được cải tiến, kỹ
thuật mới được áp dụng do đó cạnh tranh ngày càng gay gắt khiến cho năng suất lao
động được nâng lên, chất lượng sản phẩm ngày càng được cải thiện và tốt hơn. Hiệu
quả kinh tế được chú trọng làm mục tiêu đánh giá sự hoạt động của các thành phần
kinh tế. Việc trao đổi hàng hóa dựa trên nguyên tắc ngang giá khiến cho người sản
xuất ln tìm cách tiết kiệm giảm đến mức tối đa những chi phí cá biệt, giảm giá
hàng hóa cá biệt để có lợi nhuận khi trao đổi. Trên cở sở phân công lao động, sản
xuất hàng hóa phát triển. Khi sản xuất hàng hóa phát triển sẽ làm phân công lao
động ngày càng cao hơn, sâu hơn. Quan hệ hàng hóa, tiền tệ, quan hệ thị trường
ngày càng được chủ thể sản xuất hàng hóa vận dụng có hiệu quả cao hơn và từ đó
ngồi các quan hệ kinh tế phát triển mà các quan hệ pháp lý xã hội, tập quán, tác
phong cũng thay đổi.
Chính từ tính ưu việt rất riêng, rất có lợi (tuy bên cạnh đó vẫn cịn những hạn
chế) của nền sản xuất hàng hóa mà tại đại hội VII Đảng ta đã xác định phương
13
hướng: Phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng XHCN vận
động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước.
2.2.2. Đặc điểm của nền sản xuất hàng hóa ở Việt Nam
Nước ta tiến lên CNXH từ một nền kinh tế tiểu nông lạc hậu, lực lượng sản
xuất chưa phát triển, lại bỏ qua giai đoạn TBCN nên nền sản xuất hàng hóa của ta
khơng giống với nền sản xuất hàng hóa của các nước khác trên thế giới với những
đặc trưng tiêu biểu:
Thứ nhất: Nền kinh tế nước ta đang trong quá trình chuyển biến từ một nền
kinh tế hàng hóa kém phát triển mang nặng tính tự cấp tự túc sang một nền kinh tế
hàng hóa phát triển từ thấp đến cao.
Xuất phát từ thực trạng có thể nói là rất tiêu biểu của nền kinh tế nước ta: Kết
cấu hạ tầng vật chất và xã hội kém, trình độ cơ sở vật chất và công nghệ trong các
doanh nghiệp lạc hậu, khả năng cạnh tranh gần như khơng có, đội ngũ nhà doanh
nghiệp tầm cỡ thiếu trầm trọng, bên cạnh đó thì thu nhập của người làm cơng ăn
lương cũng như của nơng dân thấp kém khiến dung lượng hàng hóa trên thị trường
có sự thay đổi rất chậm chạp, khả năng cạnh tranh của hàng hóa trên thị trường
thấp. Từ sự thật không mấy sáng sủa này, buộc ta phải có chiến lược phát triển để
vượt qua thực trạng của nền kinh tế, đa dạng nền kinh tế hàng hóa phát triển cả về
số lượng lẫn chất lượng và nâng cao khả năng cạnh tranh của nền kinh tế hàng hóa
ở nước ta.
Thứ hai: Nền kinh tế hàng hóa dựa trên cơ sở nền kinh tế tồn tại nhiều thành
phần. Từ thực trạng nền kinh tế hàng hóa kém phát triển do nhiều nhân tố song nhân
tố gây hậu quả nặng nề nhất là sự nhận thức không đúng đắn dẫn đến nơn nóng xóa
bỏ nhanh các nền kinh tế, thực chất là xóa bỏ điều kiện tồn tại và phát triển kinh tế
hàng hóa, làm mất khả năng cạnh tranh và tác dụng tích cực của nền kinh tế hàng
hóa. Nền kinh tế nhiều thành phần là nguồn lực tổng hợp to lớn về nhiều mặt có khả
năng đa dạng nền kinh tế vượt khỏi thực trạng thấp kém. Cơ cấu ngành theo hướng
phát triển kinh tế dịch vụ đang dần chiếm ưu thế cao trong nền kinh tế hàng hóa thu
hút một số lượng lớn lao động. Từ đó cơ cấu cơng – nơng nghiệp và dịch vụ sớm
hình thành theo định hướng chuyển dịch kinh tế mà Đại hội Đảng VIII đã đề ra. Nó
bảo đảm cho mọi người, mọi doanh nghiệp ở mọi thành phần kinh tế đều được tự do
14
kinh doanh theo pháp luật và được pháp luật bảo hộ quyền sở hữu và quyền thu
nhập hợp pháp. Nó còn làm cho các chủ thể kinh tế được hoạt động theo cơ chế tự
chủ, hợp tác cạnh tranh và bình đẳng trước pháp luật.
Thứ ba: Nền kinh tế hàng hóa theo cơ cấu kinh tế “mở” giữa nước ta với các
nước trên thế giới.
Trước kia với cơ cấu kinh tế “ khép kín” , với tình trạng “ bế quan tỏa cảng” ,
luẩn quẩn sau lũy tre làng nên kinh tế nước ta lâm vào bế tắc, kém phát triển, có thể
nói là lạc hậu nhất định nhất thế giới. Vì vậy sự ra đời của nền kinh tế hàng hóa
TBCN đã làm cho thị trường dân tộc hoạt động trong sự gắn bó với thị trường thế
giới. Do sự phân bố phát triển không đồng đều về tài nguyên thiên nhiên, sức lao
động và thế mạnh giữa các nước từ quy luật phân công và hợp tác lao động quốc tế,
đời sống mang tính quốc tế hóa… dẫn đến nhu cầu khách quan là mở cửa nền kinh
tế hàng hóa để đạt được hiệu quả cao và phát triển với tốc độ nhanh nền kinh tế.
Thứ tư: Phát triển kinh tế hàng hóa theo hướng XHCN với vai trò chủ đạo của
nền kinh tế Nhà nước và sự quản lý kinh tế vĩ mô của nhà nước.
Trong các thành phần kinh tế thì kinh tế nhà nước giữ vai trị chủ đạo do bản
chất vốn có và lại nắm dữ các ngành, lĩnh vực thên chốt và trọng yếu, nên đảm bảo
cho các thành phần kinh tế khác phát triển theo định hướng XHCN. Tuy nhiên vai
trò của nó chỉ được khẳng định khi nó phát huy được sức mạnh tổng hợp của các
thành phần kinh tế khác, nó sớm chuyển đổi cơ chế quản lý theo hướng năng suất,
chất lượng và hiệu quả để đứng vững và chiến thắng trong môi trường hợp tác và
cạnh tranh giữa các thành phần kinh tế.
Nền kinh tế hàng hóa bên cạnh mặt tích cực là làm thay đổi bộ mặt của đất
nước khơng tránh khỏi những khó khăn nhất định về mặt xã hội như: phá sản,
khủng hoảng, áp bức bất cơng, tàn phá mơi trường, phân hóa giàu nghèo… chính vì
vậy cần phải có sự quản lý vĩ mơ của Nhà nước.
Nước ta do chịu ảnh hưởng lâu dài của cơ chế kế hoạch hóa tập trung quan
liêu, bao cấp trên những công cụ để Nhà nước điều hành vĩ mơ nền kinh tế hàng hóa
như: hệ thống ngân hàng, tín dụng… cịn thấp kém. Nước ta đang xây dựng pháp
luật về kinh tế nhưng lại chưa đồng bộ, xã hội chưa quen với việc chấp hành pháp
luật trong kinh doanh. Trình độ hiểu biết của nhà nước về cơ chế thị trường còn
15
nhiều hạn chế, thiếu tính khoa học, thực tế cịn đang lúng túng trong quản lý kinh tế
vĩ mô. Trong điều kiện đó xu hướng vận động khách quan của nước ta trước mắt và
lâu dài là phấn đấu nâng cao năng lực và tăng cường các công cụ và do đó nâng cao
trình độ quản lý vĩ mơ của nhà nước. Từ định hướng đảng đã kiên định chiến lược
phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường có
sự quản lý của nhà nước theo định gướng XHCN. Mà nhà nước là của dân, do dân
và vì dân dưới sự lãnh đạo của đảng là nhân tố quyết định nhất đảm bảo tính định
hướng XHCN.
Sau hơn mười năm đổi mới ta đã đạt được một số thành tựu đáng kể làm vai
trò của quản lý nhà nước được tăng cường, Bằng các công cụ rất riêng: pháp luật kế
hoạch, thiết kế về tài chính, tiền tệ và những phương tiện vật chất khác. Nhà nước
tạo điều kiện khuyến khích, phát huy những mặt tích cực của kinh tế hàng hóa, ngăn
ngừa, hạn chế tính tự phát và các khó khăn của cơ chế thị trường.
Nhận xét:
Các đặc điểm của nền sản xuất hàng hóa ở trên có quan hệ mật thiết với nhau
phản ánh kết quả của sự phân tích thực trạng và xu hướng, vận động nội tại của quá
trình hình thành và phát triển nền sản xuất hàng hóa ở nước ta hiện nay và tương lai.
Các đặc điểm này bắt nguồn từ sự chi phối của các quy luật kinh tế nền kinh tế
hàng hóa (quy luật giá trị, quy luật cung cầu, quy luật cạnh tranh và quy luật lưu
thơng tiền tệ) bắt nguồn từ vai trị định hướng của nền kinh tế nhà nước và vai trò
quản lý của nhà nước ở nước ta. Nhà nước là của dân và vì dân quyết định.
3. Phương hướng phát triển sản xuất hàng hóa và liên hệ thực tiễn ở Việt
Nam
3.1 Phương hướng phát triển hàng hóa ở Việt Nam
Trong giai đoạn hiện nay khi mà chiến lược ổn định về kinh tế, chính trị, xã
hội đã được xác định rõ, kết cấu hạ tầng vật chất và hạ tầng xã hội được xây dựng
ngày càng đáp ứng tốt nhu cầu sản xuất và tiêu dùng, hệ thống pháp luật và bộ máy
nhà nước được củng cố và trong sạch hóa, số lượng các nhà quản lý, nhà kinh doanh
giỏi thích nghi với cơ chế thi trường ngày càng đông đảo, tay nghề khá cao. Đảng
đã xác định hướng đi của nền kinh tế cho phù hợp với các điều kiện tiền đề hiện có:
16
Thứ nhất: phải thực hiện nhất quán và lâu dài chính sách kinh tế nhiều thành
phần theo định hướng XHCN với các hình thức sở hữu đa dạng: sở hữu nhà nước,
sở hữu tập thể, sở hữu hỗn hợp…
Hai là: cần sắp xếp lại khu vực kinh tế mà nhà nước theo hướng nắm khâu
mặt hàng trọng yếu chuyển dần sang hoạch toán kinh doanh, tự chủ về mọi mặt đủ
sức đứng vững và giành thắng lợi trong cạnh tranh.
Ba là: sử dụng rộng rãi các hình thức kinh tế của kinh tế tư bản nhà nước để
phát huy sức mạnh hỗn hợp của tư bản trong và ngoài nước với nhà nước về các
mặt vốn, công nghệ và tài năng quản lý.
Bốn là: đẩy mạnh phân công lao động và hợp tác lao động theo hướng chun
mơn hóa kết hợp đa dạng hóa sản xuất kinh doanh, tăng cường và phát triển ngành
sản xuất phi vật chất, coi trọng lao động trí tuệ.
Năm là: đẩy mạnh sự cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa coi trọng việc ứng dụng
các thành tựu khoa học và cơng nghệ của lồi người. Dẫn đến đẩy mạnh kinh tế
hàng hóa phát triển cả về chiều rộng lẫn chiều sâu và làm tăng khả năng cạnh tranh
hàng hóa của nước ta trên thị trường khu vực và quốc tế.
Sáu là: xây dựng và phát triển thị trường hướng ngoại nhưng phải lấy thị
trường trong nước làm cơ sở thế mạnh và lợi thế so sánh. Bởi vì người ta chỉ nhập
khẩu những gì là thế yếu của mình và là thế mạnh của người khác tức là bán hay
xuất cái mà thị trường cần chứ khơng phải cái mà mình có.
Bảy là: thực hiện chính sách đối ngoại có lợi cho sự phát triển của kinh tế
hàng hóa. Mở rộng quan hệ theo hướng đa dạng hóa về hình thức, đa phong cách về
nguồn và hai bên cùng có lợi, khơng can thiệp vào cơng việc nội bộ của nhau và
không phân biệt chế độ chính trị.
3.2 Liên hệ thực tiễn ở Việt Nam
Kinh tế hàng hóa thúc đẩy quan hệ hợp tác, liên kết và cạnh tranh giữa các đơn
vị kinh tế trong khuôn khổ pháp luật buộc người sản xuất phải tuân theo sự lựa chọn
của người tiêu dùng thay cho sự điều chỉnh bằng mệnh lệnh hành chính.
Muốn phá vỡ tính chất tự cấp, tự túc của nền kinh tế, tất yếu phải phát triển
sản xuất hàng hóa để phát huy những ưu thế của nền kinh tế.
17
Các điều kiện chung cho sự tồn tại và phát triển của nền kinh tế hàng hóa đã
tác động mạnh mẽ đến nền kinh tế nước ta đó là phân công lao động xã hội ngày
càng phát triển, mở rộng trong nền kinh tế.
Phát triển kinh tế hàng hóa là con đường dân chủ đời sống kinh tế, phải giải
phóng tiềm năng phát triển sản xuất, nâng cao hiệu quả kinh tế.
Trong suốt quá trình đổi mới đất nước, Đảng ta luôn xác định phải tập trung
ưu tiên phát triển nông nghiệp, nông thôn. Để nông nghiệp phát triển tồn diện,
nâng cao đời sống người nơng dân thì nơng nghiệp phải phát triển theo hướng sản
xuất hàng hóa. Sản xuất nơng nghiệp hàng hóa sẽ là nền tảng vững chắc tạo nên sự
thay đổi toàn diện đời sống kinh tế xã hội ở khu vực nơng thơn, góp phần thúc đẩy
kinh tế - xã hội của đất nước. Việc hình thành các vùng nơng nghiệp hàng hóa lớn
phù hợp với nhu cầu của thị trường, điều kiện sinh thái của từng vùng luôn được đặt
ra.
Thành phố Lạng Sơn, với vị trí là trung tâm kinh tế xã hội của tỉnh, song sản
xuất nơng nghiệp vẫn giữ vai trị quan trọng đối với thành phố Lạng Sơn do đất
nông nghiệp chiếm trên 70% diện tích. Hiện nay tỷ lệ lao động làm nơng nghiệp
cịn chiếm khoảng 20% dân số của Thành phố, sinh sống chủ yếu ở khu vực các xã,
với nghề chính là sản xuất nơng nghiệp. Với vị thế và các tiềm năng sẵn có, thành
phố Lạng Sơn khơng chỉ có điều kiện phát triển mạnh trong lĩnh vực thương mại du
lịch, mà cịn có điều kiện thuận lợi trong phát triển nông nghiệp.
Hiện nay, thành phố Lạng Sơn là một trong những địa phương sản xuất rau với
khối lượng sản phẩm lớn của tỉnh, là sản phẩm chủ lực trong sản xuất nông nghiệp,
đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của người dân địa phương và người dân các vùng
lân cận. Từ nhiều năm nay, Thành phố đã quan tâm đẩy mạnh ứng dụng và chuyển
giao các tiến bộ kỹ thuật trong sản xuất rau, và hướng sản xuất rau theo hướng an
toàn. Việc đưa nhanh các giống mới có năng suất cao, chất lượng tốt vào sản xuất
diện rộng, chuyển dịch một bước từ sản xuất số lượng sang chú trọng chất lượng,
gắn với thị trường tiêu thụ, góp phần tăng năng suất, sản lượng và tăng giá trị thu
nhập trên đơn vị diện tích canh tác. Nhờ đó, năng suất và chất lượng rau ngày càng
được nâng cao. Có thể nói, rau là cây trồng có hiệu quả kinh tế, phù hợp với điều
kiện đất đai, thổ nhưỡng của Thành phố. Tỷ suất giá trị sản phẩm hàng hóa những
18
năm qua dao động khoảng trên 80%. Diện tích, năng suất và sản lượng các loại rau
qua các năm được duy trì ổn định và phát triển. Những năm gần đây, Thành
phố Lạng Sơn đang tập trung đầu tư vào sản xuất rau an toàn theo tiêu chuẩn
VietGap. Triển khai gieo trồng rau các loại khu vực xung quanh nhà lưới và triển
khai xây dựng nhãn hiệu rau VietGAP, từng bước đáp ứng nhu cầu rau an toàn của
người tiêu dùng trong và ngồi tỉnh. Hiện có trên 10 mơ hình, dự án hỗ trợ sản xuất
rau an tồn, giúp hình thành các mơ hình tổ chức sản xuất hợp tác xã, tổ hợp tác sản
xuất rau phát triển theo hướng VietGAP, nông dân đang dần chuyển sang sản xuất
hàng hóa. Thành phố đã xây dựng vùng sản xuất rau an toàn theo hướng VietGAP
tại các xã: Mai Pha, Quảng Lạc, Hồng Đồng và phường Đơng Kinh diện tích trên
100 ha với trên 200 hộ sản xuất, kinh doanh tham gia.
Trong chăn ni, số lượng gia súc tính đến hết năm 2019 đạt 1434 con; số
lượng gia cầm trên địa bàn thành phố tăng nhanh, đên nay đạt 126552 con. Nhiều
tiến bộ kỹ thuật mới về giống, thức ăn, thú y và các phương thức chăn ni mới có
năng suất, chất lượng cao được đưa vào chăn nuôi trên địa bàn. Chất lượng đàn gia
súc, gia cầm được nâng lên. Một số mơ hình chăn ni tập trung theo hướng sản
xuất hàng hóa tiếp tục được hình thành và phát triển. Đã hình thành các mơ hình, cơ
sở, trang trại chăn nuôi lợn thịt hướng nạc, gia cầm… với quy mơ khá lớn. Điển
hình như: HTX An Hồng, xã Quảng Lạc, bên cạnh đầu tư hệ thống khử khuẩn, để
nâng cao hiệu quả cơng tác phịng, chống dịch bệnh cho đàn lợn, HTX còn quan
tâm khâu chọn giống, thức ăn chăn nuôi, nguồn nước, vệ sinh chuồng trại, đào tạo
nguồn nhân lực để đáp ứng nhu cầu công việc. Việc ứng dụng các tiến bộ khoa học
kỹ thuật, đưa giống mới có năng suất, chất lượng cao vào sản xuất được đẩy mạnh,
cơng tác phịng chống dịch bệnh được quan tâm. Phương thức nuôi công nghiệp và
bán công nghiệp đang được mở rộng, vừa giải quyết việc làm cho lao động nông
nghiệp, vừa đem lại hiệu quả cao cho người chăn nuôi.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được trên, sản xuất nông nghiệp trên
địa bàn thành phố vẫn cịn tồn tại một số hạn chế như:
Sản xuất nơng nghiệp hàng hóa đã có chuyển biến nhưng vẫn cịn manh mún,
nhỏ lẻ, phân tán, chủ yếu theo hình thức hộ gia đình, số mơ hình trang trại sản xuất
hàng hóa lớn cịn ít, nên số lượng nơng sản hàng hóa chưa nhiều, sản phẩm chưa đa
19
dạng; Chất lượng một số nơng sản hàng hóa chưa cao, sức cạnh tranh của sản
phẩm nông nghiệp thấp; Quy mơ thị trường hàng hóa nơng sản cịn nhỏ hẹp, phần
lớn nông sản được tiêu thụ trên thị trường trong thành phố. Sự kết nối nơi sản xuất
với các trung tâm thương mại, siêu thị, cửa hàng, các đô thị, thành phố lớn chưa
nhiều. Hệ thống thông tin ứng dụng vào sản xuất kinh doanh nơng nghiệp cịn mức
độ, nhất là trong phát triển thương mại điện tử. Công nghiệp chế biến, hoạt động
dịch vụ cho sản xuất, chế biến và tiêu thụ nông sản phát triển chậm...
Tỉnh Lạng Sơn là một trong số những tỉnh thực hiện nghiêm chỉnh chính sách
của Đảng và Nhà nước, tuy nhiên thì tỉnh cũng gặp một số hạn chế như đã đề cập
bên trên. Những khó khăn đó hầu hết xuất hiện ở các vùng nông thôn muốn phát
triển, nâng cao đời sống nhân dân. Để khắc phục những tồn đọng đó, Đảng và Nhà
nước ta đã đề ra một số giải pháp như sau:
Thứ nhất, Đẩy mạnh ứng dụng khoa học và công nghệ tiên tiến vào sản xuất.
Đây là giải pháp cơ bản quan trọng, tạo nền tảng vật chất để đi nhanh vào hiện đại
hóa nền nơng nghiệp, nâng cao năng suất, chất lượng, sức cạnh tranh của nông sản
hàng hóa.
Trong trồng trọt: đẩy mạnh việc lai tạo giống mới, mở rộng các cơng nghệ, mơ
hình sản xuất đưa nhanh tiến bộ về giống mới cho năng suất cao, chất lượng tốt vào
sản xuất trên diện rộng, nhất là các loại giống mới với công thức luân canh phù hợp
với đặc điểm sinh thái, và phát triển sản xuất hàng hóa hiện đại. Tập trung vào các
giống lúa, ngơ, đậu lạc, rau các loại, cây ăn quả,… cho năng suất, chất lượng cao.
Đẩy mạnh cơ giới hóa ở các khâu làm đất, trồng, chăm sóc, thu hoạch, sơ chế. Tăng
cường sử dụng các công nghệ mới trong sản xuất như; nhà màng, nhà lưới, công
nghệ thu hoạch, bảo quản, công nghệ làm sạch,…
Trong chăn nuôi: Chăn nuôi gia súc, gia cầm theo phương thức công nghiệp,
bán công nghiệp, tiêu chuẩn chất lượng, an toan. Sử dụng công nghệ tự động hóa
trong q trình chăn ni. Sử dụng cơng nghệ giết mổ, chế biến, bảo quản thịt gia
súc, gia cầm hiện đại làm gia tăng giá trị, nâng cao chất lương sản phẩm đáp ứng
nhu cầu thị trường, nâng cao hiệu quả chăn nuôi. Cần cần phổ biến tới các hộ nơng
dân về kỹ thuật chăm sóc, phịng trừ dịch bệnh…
20
Khuyến khích, hỗ trợ phát triển ngày càng nhiều các chuỗi giá trị nơng sản
trên cơ sở đa dạng hóa các hình thức liên kết, hợp tác giữa kinh tế hộ với doanh
nghiệp, kinh tế hộ được tổ chức trong hợp tác xã nông nghiệp, tổ hợp tác với doanh
nghiệp nông nghiệp... để tiếp nhận các công nghệ mới, đồng bộ ở các khâu, quy
trình của chuỗi, gắn kết chặt chẽ giữa sản xuất với chế biến và tiêu thụ sản phẩm.
Thứ hai, Phát triển thị trường tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp.
Đây là biện pháp cơ bản quan trọng nhằm khắc phục điểm nghẽn về thị trường
hàng hóa và dịch vụ cho sản xuất; khơi thông và mở rộng đầu ra cho hàng hóa nơng
sản, tạo động lực mạnh mẽ để thúc đẩy sản xuất nơng sản hàng hóa ở thành phố
phát triển.
Tạo thuận lợi cho các tổ chức, cá nhân tự do buôn bán theo quy định của pháp
luật. Khuyến khích doanh nghiệp liên kết với nơng dân, hợp tác xã nông nghiệp để
cung ứng các loại vật tư, phân bón, thuốc trừ sâu, thức ăn chăn ni,…giảm bớt các
khâu trung gian, hạ giá thành sản phẩm.
Khuyến khích các chủ thể sản xuất mở rộng quy mô sản xuất, tăng cường cơ
giới hóa, chuyển giao và ứng dụng thành tựu khoa học và công nghệ vào sản xuất
kinh doanh nơng sản hàng hóa. Hỗ trợ kinh tế hộ, hợp tác xã nông nghiệp sử dụng
các loại giống mới có chất lượng cao, mua máy móc, trang thiết bị kỹ thuật hiện đại
phục vụ sản xuất nông nghiệp. Đẩy mạnh cải cách hành chính, đơn giản hóa các thủ
tục đăng ký sản xuất kinh doanh, hỗ trợ vay vốn, chứng nhận,….
Tăng cường công tác quản lý, kiểm tra, giám sát của các cơ quan chức năng ở
địa phương đối với các cơ sở sản xuất kinh doanh; quản lý giá cả, chất lượng các
loại hàng hóa, dịch vụ đầu vào cho sản xuất nơng nghiệp. Tích cực, chủ động đấu
tranh chống đầu cơ nâng giá; hàng giả, hàng kém chất lượng, đặc biệt là đối với mặt
hàng phân bón, thuốc bảo vệ thực vật, thức ăn chăn nuôi, các loại giống cây trồng,
giống vật nuôi tác động xấu đến q trình sản xuất nơng sản hàng hóa.
Phải đẩy mạnh các hoạt động xúc tiến thương mại, mở rộng thị trường tiêu thụ
nơng sản hàng hóa. Tăng cường các hoạt động quảng cáo, tiếp thị trên các phương
tiện đại chúng, nhất là trên mạng internet. Phát triển hệ thống đại lý, cửa hàng giới
thiệu sản phẩm, bán buôn, bán lẻ; trưng bày, giới thiệu tại các hội chợ triển lãm trên
địa bàn. Khuyến khích các đơn vị kinh tế, các xã, thôn xây dựng các trang điện tử
21
thương mại cá nhân; đồng thời, tham gia vào hệ thống thương mại nông sản điện tử
chung của cả nước, tham gia vào các sự kiện này nhằm quảng bá, giới thiệu và bán
sản phẩm.
Thứ ba, Tăng cường công tác thông tin, tuyên truyền tới mọi người dân nhằm
nâng cao nhận thức, thay đổi dần tư duy tiểu nông, chuyển sang phương thức sản
xuất nơng nghiệp hàng hóa quy mơ lớn, hiện đại, bền vững.
Phát huy vai trò các cơ sở giáo dục, đào tạo, các cơ sở dạy nghề trên địa bàn
tham gia đào tạo, bồi dưỡng lao động nông nghiệp. Nâng cao năng lực và hoạt động
của đội ngũ cán bộ chuyên môn, cán bộ khoa học, hệ thống khuyến nông, khuyến
lâm, thú y, bảo vệ thực vật, các dịch vụ các phục vụ sản xuất nông nghiệp ở địa
phương trong bồi dưỡng, chuyển giao khoa học và công nghệ cho nông dân.
Tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ, năng lực cho đội
ngũ cán bộ hợp tác xã, chú trọng vào kỹ năng xây dựng phương án sản xuất hiệu
quả, nghiệp vụ tổ chức, quản lý, kế hoạch, tài chính, phương pháp tiếp cận thị
trường, tổ chức liên kết sản xuất, tiêu thụ nơng sản. Phát huy tính năng động, sáng
tạo của đội ngũ cán bộ quản lý hợp tác xã nông nghiệp. Mở rộng hoạt động sản xuất
kinh doanh của hợp tác xã nông nghiệp thông qua liên kết, hợp tác với các thành
phần kinh tế khác, ứng dụng khoa học và công nghệ vào các hoạt động, nâng cao
hiệu quả sản xuất kinh doanh và vị thế của hợp tác xã nông nghiệp.
Thứ tư, Đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng phục vụ sản xuất nơng nghiệp.
Việc nâng cấp hồn chỉnh cơ sở hạ tầng không những giúp cho nông dân phát
triển sản xuất hàng hố mà cịn làm thay đổi bộ mặt đơ thị, nơng thơn, góp phần
trực tiếp nâng cao đời sống của người dân.
Để xây dựng kết cấu hạ tầng phục vụ sản xuất nông nghiệp cần từng bước
hồn chỉnh đường giao thơng ở các xã, nhất là giao thông liên thôn, đường ra vườn,
ruộng, đường lên rừng để đảm bảo cho sản xuất và lưu thông hàng hố nơng sản
được thuận lợi, chắc chắn sẽ kích thích hộ nơng dân sản xuất hàng hố. Nhà nước
cần đầu tư một phần, nơng dân sẽ góp cơng lao động trên tinh thần "Nhà nước và
nhân dân cùng làm". Đây là lĩnh vực đầu tư rất tốn kém, phải xây dựng trong nhiều
năm liên tục.
22
Hồn chỉnh hệ thống thuỷ lợi, khắc phục tình trạng kênh mương xuống cấp…
nhằm đảm bảo tưới tiêu chủ động và ổn định sản xuất nông nghiệp. Phát triển mạnh
mạng lưới internet, cáp truyền hình, đồng thời, hỗ trợ và khuyến khích hộ sản xuất,
hợp tác xã và doanh nghiệp xây dựng các trang thông tin điện tử, tham gia vào các
sàn giao dịch thương mại nông sản điện tử. Nâng cao chất lượng hoạt động thông
tin của cơ quan nhà nước các cấp; khuyến khích các Hội, ngành, phối hợp cung cấp
thơng tin bổ ích về kinh tế, văn hóa xã hội; đặc biệt là các thơng tin phục vụ cho sản
xuất, tiêu thụ nông sản để người sản xuất điều chỉnh sản xuất theo yêu cầu thị
trường.
Với một số giải pháp trên đây, nếu thực hiện đồng bộ và tính tốn cụ thể sẽ đạt
được hiệu quả cao trong việc khai thác có hiệu quả tiềm năng, phát triển nơng
nghiệp theo hướng sản xuất hàng hố của thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn.
23