Tải bản đầy đủ (.docx) (165 trang)

Quan niệm của c mác, ph ăngghen, v i lênin về quyền con người và ý nghĩa đối với việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (634.64 KB, 165 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN THỊ HỒNG HẠNH

QUAN NIỆM CỦA C.MÁC, PH.ĂNGGHEN, V.I.LÊNIN VỀ
QUYỀN CON NGƯỜI VÀ Ý NGHĨA ĐỐI VỚI VIỆT NAM
HIỆN NAY

LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC

HÀ NỘI, 2021


VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN THỊ HỒNG HẠNH

QUAN NIỆM CỦA C.MÁC, PH.ĂNGGHEN, V.I.LÊNIN VỀ
QUYỀN CON NGƯỜI VÀ Ý NGHĨA ĐỐI VỚI VIỆT NAM
HIỆN NAY

Chuyên ngành: Triết học
Mã số: 9 22 90 01

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. CHU VĂN TUẤN


HÀ NỘI, 2021


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận án này là cơng trình nghiên cứu độc lập của riêng tơi
dưới sự hướng dẫn của PGS, TS. Chu Văn Tuấn. Các kết quả nêu ra trong luận án là
hoàn toàn trung thực; các kết luận được đưa ra chưa từng được công bố trong bất kỳ
một cơng trình khoa học nào khác.
Hà Nội, ngày tháng 4 năm 2021
Tác giả

Nguyễn Thị Hồng Hạnh


MỤC LỤC

MỞ ĐẦU...........................................................................................................1
CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU CĨ LIÊN QUAN 6
ĐẾN LUẬN ÁN................................................................................................6
1.1. Tình hình nghiên cứu về điều kiện, tiền đề hình thành quan niệm của C.Mác,
Ph.Ăngghen, V.I.Lênin về quyền con người..................................................... 6
1.2. Tình hình nghiên cứu nội dung quan niệm của C.Mác, Ph.Ăngghen,
V.I.Lênin về quyền con người......................................................................... 10
1.3. Tình hình nghiên cứu về quyền con người và quyền con người ở Việt Nam. 15
1.4. Tình hình nghiên cứu về ý nghĩa, giá trị quan niệm của C.Mác, Ph.Ăngghen,
V.I.Lênin về quyền con người đối với Việt Nam............................................ 24
1.5. Nhận xét chung và những vấn đề luận án cần tiếp tục nghiên cứu..........28

CHƯƠNG 2. CƠ SỞ HÌNH THÀNH VÀ MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ
QUYỀN CON NGƯỜI TRONG QUAN NIỆM CỦA C.MÁC, PH.ĂNGGHEN,

V.I.LÊNIN....................................................................................................... 31
2.1. Cơ sở hình thành quan niệm của C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin về quyền
con người.........................................................................................................32
2.2. Một số vấn đề chung trong quan niệm của C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin về
quyền con người..............................................................................................48
CHƯƠNG 3. NỘI DUNG QUAN NIỆM CỦA C.MÁC, PH.ĂNGGHEN,
V.I.LÊNIN VỀ MỘT SỐ QUYỀN CON NGƯỜI CƠ BẢN..........................65
3.1. Quyền tự do..............................................................................................66
3.2. Quyền bình đẳng...................................................................................... 80
3.3. Quyền của phụ nữ.....................................................................................86
3.4. Quyền của trẻ em......................................................................................92
CHƯƠNG 4. Ý NGHĨA QUAN NIỆM CỦA C.MÁC, PH.ĂNGGHEN,
V.I.LÊNIN VỀ QUYỀN CON NGƯỜI ĐỐI VỚI VIỆT NAM HIỆN NAY. .99
4.1. Ý nghĩa quan niệm của C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin về quyền con người
đối với quá trình nhận thức lý luận và xây dựng chủ trương, đường lối của Đảng;
hồn thiện chính sách, pháp luật của Nhà nước về quyền con người...........100
4.2. Ý nghĩa quan niệm của C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin về quyền con người
đối với việc bảo đảm thực thi quyền con người ở Việt Nam hiện nay..........121
4.3. Ý nghĩa quan niệm của C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin về quyền con người
đối với việc đấu tranh chống lại các quan điểm sai trái về quyền con người ở Việt
Nam............................................................................................................... 133
KẾT LUẬN................................................................................................... 146
DANH MỤC CÁC CƠNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ...............149
LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN.....................................................................149
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO......................................................150


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT TRONG LUẬN ÁN

LHQ


Liên Hợp Quốc

NCS

Nghiên cứu sinh

Nxb

Nhà xuất bản

QCD

Quyền công dân

QCN

Quyền con người


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Quyền con người (QCN) hay còn gọi là nhân quyền là những giá trị thiêng
liêng, cao quý, là kết quả của cuộc đấu tranh đầy máu và nước mắt trong lịch sử
nhân loại, quá trình phát triển QCN phản ánh sự phát triển và tiến bộ của xã hội,
đồng thời QCN là biểu hiện của giá trị nhân văn, nhân đạo sâu sắc. Đảm bảo, bảo vệ
quyền cho người dân luôn là một trong những nhiệm vụ quan trọng mà các quốc gia
tiến hành, nhằm góp phần tạo sự ổn định, phát triển đất nước, đồng thời đây cũng là
tiền đề cho hòa bình và thịnh vượng của tồn nhân loại.
Khi nghiên cứu về QCN, chúng ta không thể bỏ qua những quan niệm, tư tưởng

của C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin, bởi các ông đã nêu ra nhiều tư tưởng sâu sắc, đồng
thời đưa ra luận giải đúng đắn đối với những vấn đề cốt lõi của QCN. Những tư tưởng
của các ông đã được lịch sử chứng minh tính khoa học, tính cách mạng, nhiều tư tưởng
đến ngày nay vẫn còn nguyên giá trị, có tầm ảnh hưởng rộng lớn đến tất cả các nước,
trong đó có Việt Nam. C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin đã nhiều lần đề cập đến việc đấu
tranh cho QCN nói chung, một số quyền cụ thể như quyền tự do, quyền bình đẳng,
quyền của phụ nữ, quyền của trẻ em nói riêng, mang lại quyền cho tất cả mọi người
được xem là một nhiệm vụ hết sức cấp thiết. Trong đó tư tưởng về quyền tự do, quyền
bình đẳng được xem là cơ sở, là tiền đề đầu tiên để con người tồn tại theo đúng nghĩa là
con người và cũng là nền tảng cho những quyền khác được thực thi.
Dưới ánh sáng của các nhà kinh điển Mác-Lênin, ở Việt Nam, việc bảo vệ và thực thi
QCN luôn là một nội dung quan trọng, xuyên suốt trong quá trình lãnh đạo đất nước của Đảng,
Nhà nước. Trong chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước luôn
hướng đến việc bảo đảm và phát huy tối đa các quyền của nhân dân. Trong những năm qua,
những quyền dân sự, chính trị và kinh tế, xã hội, văn hóa được thực hiện một cách hiệu quả đã
góp phần đảm bảo quyền và lợi ích của nhân dân. Bên cạnh những thành tựu đã đạt được, vẫn
còn một số tồn tại cần phải giải quyết. Về mặt lý luận, Đảng ta luôn khẳng định chủ nghĩa
Mác-Lênin là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động, nên việc nghiên cứu, làm rõ nội
dung quan niệm về QCN cũng như sự vận dụng tư tưởng của các nhà

1


kinh điển cần tiếp tục được làm sáng tỏ, qua đó khẳng định giá trị và sức sống vững
bền của những tư tưởng đó. Về mặt thực tiễn, việc bảo đảm, thực thi nhân quyền
của nhân dân vẫn có những vi phạm, các thế lực thù địch nước ngoài câu kết với các
phần tử phản động trong nước đưa ra các luận điệu xuyên tạc, phản ánh sai về tình
hình nhân quyền nước ta, nhằm phục vụ cho mưu đồ của chúng. Ở nước ta, các
quyền tự do, quyền bình đẳng được coi là những quyền cơ bản của con người, là
điều kiện, tiền đề để thực thi các quyền khác. Bên cạnh đó, phụ nữ và trẻ em cũng là

những đối tượng yếu thế trong xã hội, dễ bị vi phạm về quyền và cần có sự bảo vệ.
QCN là một phạm trù có tính lịch sử, chịu sự tác động của bối cảnh lịch sử, đồng
thời luôn vận động cùng với sự phát triển của lịch sử. Chính vì vậy, trong bối cảnh hiện
nay, việc đảm bảo QCN cũng cần có những sự điều chỉnh cho phù hợp. Trong bối cảnh
tồn cầu hóa và hội nhập quốc tế sâu sắc như hiện nay, Việt Nam không thể không hội
nhập quốc tế về QCN, chúng ta phải “Việt Nam hóa” các quan điểm, luật pháp quốc tế về
QCN cho phù hợp với điều kiện đất nước nhằm đảm bảo ngày càng tốt hơn quyền và lợi
ích chính đáng của nhân dân, vừa phù hợp với tình hình mới.
Trong bối cảnh mới, trước những yêu cầu của sự phát triển đất nước cũng như yêu
cầu đặt ra từ thực tiễn đảm bảo QCN ở Việt Nam, việc tiếp tục nghiên cứu, làm rõ quan
niệm của C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin về QCN, đặc biệt là quan niệm về một số quyền
cụ thể như quyền tự do, quyền bình đẳng, quyền của phụ nữ, quyền của trẻ em và sự vận
dụng quan niệm đó vào thực tiễn Việt Nam hiện nay là điều cần thiết. Đồng thời, việc kế
thừa, phát triển, vận dụng sáng tạo những quan niệm của C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin về
QCN đã mang lại ý nghĩa to lớn đối với Việt Nam, là cơ sở và định hướng cho việc tiếp tục
hồn thiện chủ trương, đường lối, chính sách cũng như bảo đảm thực thi nhân quyền và
đấu tranh chống lại những luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch về tình hình nhân
quyền ở nước ta hiện nay. Đó là lý do tác giả chọn đề tài “Quan niệm của

C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin về quyền con người và ý nghĩa đối với Việt Nam hiện
nay” làm luận án của mình, với mong muốn góp phần làm sáng tỏ hơn nữa quan niệm
của C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin về một số QCN cơ bản, chỉ ra ý nghĩa của những

2


quan niệm đó đối với việc cơng nhận, bảo đảm thực thi QCN ở nước ta, góp phần
đảm bảo tốt hơn nữa QCN ở Việt Nam hiện nay.
2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
2.1. Mục tiêu

Luận án góp phần làm rõ quan niệm của C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin về
một số QCN cơ bản như quyền tự do, quyền bình đẳng, quyền của phụ nữ và quyền
của trẻ em. Trên cơ sở đó, luận án chỉ ra ý nghĩa của những quan niệm về QCN của
C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin trong q trình cơng nhận, tơn trọng, bảo đảm, bảo
vệ, thực thi nhân quyền ở Việt Nam hiện nay.
2.2. Nhiệm vụ
Thứ nhất, trình bày, phân tích những điều kiện, tiền đề hình thành quan niệm
C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin về QCN.
Thứ hai, nghiên cứu quan niệm của C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin về quyền
tự do, quyền bình đẳng, quyền của phụ nữ, quyền của trẻ em.
Thứ ba, phân tích ý nghĩa quan niệm của C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin về QCN
đối với quá trình nhận thức lý luận và xây dựng chủ trương, đường lối của Đảng, chính
sách pháp luật của Nhà nước về nhân quyền; việc bảo đảm thực thi QCN ở Việt Nam; trong
đấu tranh chống lại luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch ở nước ta hiện nay.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án

3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận án là quan niệm của C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin
về quyền tự do, quyền bình đẳng, quyền của phụ nữ, quyền của trẻ em và ý nghĩa của
những quan niệm đó đối với việc bảo đảm thực thi QCN ở Việt Nam hiện nay.

3.2. Phạm vi nghiên cứu
Do khn khổ có hạn, luận án khơng nghiên cứu tất cả các quan niệm của C.Mác,
Ph.Ăngghen, V.I.Lênin về QCN, mà chỉ tập trung vào một số quan niệm cơ bản nhất, đó là
quyền tự do, quyền bình đẳng, quyền của phụ nữ, quyền của trẻ em. Ý nghĩa của những
quan niệm đó đối với q trình xây dựng chủ trương, đường lối của Đảng, hoàn thiện

3



chính sách, pháp luật, bảo đảm thực thi nhân quyền trong thực tế và đấu tranh chống
những quan điểm sai trái về QCN trong những năm gần đây.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận án
Luận án sử dụng các nguyên tắc, phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật
lịch sử của chủ nghĩa Mác-Lênin, nhất là nguyên lý tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội,
quan điểm về tính độc lập tương đối của ý thức xã hội đối với tồn tại xã hội; cơ sở hạ tầng
quyết định kiến trúc thượng tầng; nguyên tắc khách quan, nguyên tắc lịch sử cụ thể. Trên
cơ sở đó, giúp cho việc nghiên cứu quan niệm của C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin về QCN
một cách khách quan, toàn diện, lịch sử cụ thể, ra đời trên cơ sở những điều kiện, tiền đề
nhất định, đặc biệt là đặt QCN trong sự tác động qua lại giữa xã hội, với nhà nước, với cơ
sở kinh tế. Đồng thời, luận án còn dựa trên các văn kiện, chỉ thị, nghị quyết, chủ trương,
chính sách của Đảng, Nhà nước có liên quan trực tiếp đến vấn đề QCN.

Để thực hiện các nhiệm vụ đề ra, luận án sử dụng các phương pháp cụ thể như
phân tích, tổng hợp, lịch sử và lơgic, hệ thống hóa và khái qt hóa, phương pháp so
sánh, cách tiếp cận đa ngành, liên ngành... để luận giải về các vấn đề có liên quan.
5. Đóng góp mới về khoa học của luận án

Thứ nhất, luận án đã phân tích, chỉ ra những điều kiện về kinh tế, chính trị,
xã hội; về lý luận và phẩm chất cá nhân cho sự hình thành quan niệm về QCN của
C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin. Trong các cơng trình mà NCS tiếp cận được, chưa
có sự phân tích một cách hệ thống về các điều kiện, tiền đề cho sự hình thành quan
niệm QCN của C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin.
Thứ hai, luận án đã phân tích, trình bày và làm rõ quan niệm của C.Mác,
Ph.Ăngghen, V.I.Lênin về QCN, về quyền tự do, quyền bình đẳng, quyền của phụ
nữ, quyền của trẻ em.
Thứ ba, làm rõ những ý nghĩa trong quan niệm của C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin
về QCN đối với quá trình nhận thức lý luận và xây dựng chủ trương, đường lối của Đảng,
hồn thiện chính sách pháp luật của Nhà nước; việc bảo đảm thực thi nhân quyền trong
thực tế và đấu tranh chống lại những quan điểm sai trái, thù địch về QCN ở nước ta.


4


6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án

Thơng qua việc góp phần vào luận giải, làm rõ những nội dung, ý nghĩa quan niệm
của C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin về QCN đối với Việt Nam, luận án không chỉ tiếp tục
bổ sung vào khoảng trống trong nghiên cứu về quan niệm QCN của các nhà kinh điển
mácxit một cách hệ thống, tiếp tục làm rõ ý nghĩa, giá trị hiện thời của quan niệm QCN,
mà còn khẳng định việc phát huy những giá trị trong quan niệm về nhân quyền của C.Mác,
Ph.Ăngghen, V.I.Lênin trong phát triển và bảo đảm QCN ở Việt Nam hiện nay.

Kết quả của luận án góp phần cung cấp cơ sở lý luận và thực tiễn cho Đảng,
Nhà nước tham khảo trong việc nghiên cứu và hoạch định chính sách nhằm bảo vệ
và bảo đảm QCN ở nước ta.
Ngồi ra, luận án có thể làm tài liệu phục vụ công tác nghiên cứu, giảng dạy
và tham khảo cho những người quan tâm đến vấn đề QCN trong chủ nghĩa MácLênin, cũng như việc phát triển và đảm bảo nhân quyền ở Việt Nam hiện nay.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và danh mục các
công trình khoa học đã cơng bố của tác giả có liên quan đến luận án, nội dung của
luận án gồm 4 chương, 14 tiết.

5


CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
CĨ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN
Vấn đề QCN từ lâu đã được các nhà tư tưởng, nhà nghiên cứu trong nước đề cập

đến, nhưng từ khi công cuộc đổi mới được Đảng đề ra (bắt đầu từ Đại hội VI năm
1986) và nhất là từ Đại hội VII của Đảng, trong tổng thể nghiên cứu chiến lược con
người, vấn đề QCN mới bắt đầu được đề cập tới như một đối tượng được quan tâm của
tư duy lý luận. Đã có nhiều cơng trình nghiên cứu cấp Nhà nước, cấp Bộ được triển
khai để tìm hiểu về nội dung này. Đây cũng là đối tượng được nghiên cứu trong các
sách, báo, tạp chí, luận văn, luận án của rất nhiều tác giả. Điều đó chứng tỏ QCN là vấn
đề nhận được sự quan tâm đặc biệt của các cấp, các ngành, các học giả trong nước.

1.1. Tình hình nghiên cứu về điều kiện, tiền đề hình thành quan niệm
của C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin về quyền con người
Cuốn sách “Giới thiệu một số tác phẩm kinh điển của C.Mác - Ph.Ăngghen
(giai đoạn hình thành chủ nghĩa Mác)” của Ngô Thành Dương [17], tác giả đã dành
ra phần đầu để giới thiệu về C.Mác thời trẻ. C.Mác đã chịu ảnh hưởng lớn từ người
cha và các thầy dạy, được chứng kiến bối cảnh xã hội đương thời và cuộc sống lầm
than của nhân dân lao động, với sự thơng minh, tấm lịng nhân ái, C.Mác đã sớm
vạch ra con đường đi cho mình, đó là con đường đấu tranh gian khổ để mang lại
hạnh phúc cho toàn nhân loại. Với sự khái quát về tiểu sử, những chặng đường phát
triển của cuộc đời và sự nghiệp cách mạng, bối cảnh xã hội đương thời, tác giả đã
phân tích sự chuyển biến trong lập trường tư tưởng và trở thành một chiến sĩ cộng
sản của C.Mác. Có thể thấy, để những quan điểm của C.Mác về QCN ra đời là sự
kết hợp của điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan cùng tình bạn cao đẹp, vĩ đại
giữa C.Mác và Ph.Ăngghen. Trong cuốn sách, tác giả chỉ đi tìm hiểu về C.Mác và
một phần nhỏ về Ph.Ăngghen nhưng vẫn có giá trị tham khảo khi nghiên cứu sinh
(NCS) đi tìm hiểu nội dung của chương 2.

6


Cuốn sách “Lịch sử Châu Âu” do Đỗ Đức Thịnh biên soạn là một cơng trình
nghiên cứu cơng phu của tác giả. Châu Âu được hiện lên một cách đầy đủ, rõ nét từ

thời tiền sử đến hiện đại, từ lịch sử hình thành, những cuộc cách mạng xã hội, cách
mạng kinh tế, sự đa dạng và phát triển mạnh mẽ của văn hóa, tư tưởng. Cuốn sách gồm
có ba phần, trong đó nội dung của hai phần đầu có liên quan đến luận án. Phần thứ nhất
là Khái yếu lịch sử châu Âu, với những sự kiện lịch sử chính từ thiên niên kỷ
AI trước Cơng ngun đến thời hiện đại. Đây là bức tranh chung của các nước châu

Âu với sự phát triển của nhà nước, tôn giáo và văn hóa, giúp người đọc hình dung ra
q trình hình thành và phát triển của thực thể châu Âu. Phần thứ hai là Lịch sử các
quốc gia châu Âu, tác giả đã có sự tìm hiểu kỹ lưỡng những sự kiện quan trọng từ
thời Cổ đại cho đến hiện tại của 44 nước ở châu lục này. NCS dành sự quan tâm đến
hai nước là Đức và Nga, với nhiều sự kiện lịch sử, tình hình chính trị, các cuộc
chiến tranh, tình hình kinh tế, văn hóa, xã hội, tôn giáo, đã khái quát nên bức tranh
khá cơ bản về các nước này. Khi tìm hiểu những nội dung này giúp chúng tơi hiểu
hơn về tình hình kinh tế, chính trị, xã hội là một trong những tiền đề cho sự hình
thành quan niệm của C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin về QCN [114].
Năm 2008, Nguyễn Đức Thùy đã hoàn thành xong đề tài cấp Bộ “Những quan
điểm cơ bản của Chủ nghĩa Mác - Lênin về quyền con người và ý nghĩa với Việt Nam
hiện nay” [117]. Trong bản tổng hợp kết quả, nhóm nghiên cứu đã chỉ ra sự xuất hiện
của chủ nghĩa Mác là bước ngoặt cách mạng trong học thuyết về QCN. Để có được
những tư tưởng về nhân quyền, các nhà kinh điển đã trải qua một quá trình lâu dài,
được bắt đầu từ những năm 40 của thế kỷ XIX, tiếp tục được hoàn thiện cho đến những
năm cuối đời của C.Mác, Ph.Ăngghen. Các tác giả đã chỉ ra bối cảnh lịch sử xã hội ở
Châu Âu giai đoạn này, đồng thời phân tích sự biến đổi về lập trường tư tưởng của
C.Mác, Ph.Ăngghen, thông qua những tác phẩm và sự phê phán quan điểm của những
người đi trước. Nhóm nghiên cứu cũng chỉ ra sự kế thừa và phát triển quan niệm về
QCN của V.I.Lênin trong điều kiện chủ nghĩa tư bản đã chuyển sang giai đoạn chủ
nghĩa đế quốc, nhiều quan điểm mới đã được đưa ra. Tuy nội dung nghiên cứu về điều
kiện kinh tế, chính trị, xã hội và những phẩm chất cá nhân của các nhà

7



kinh điển không được nhiều nhưng đây cũng là nguồn tham khảo có giá trị để NCS
định hình được bối cảnh lịch sử cho sự xuất hiện tư tưởng về QCN của C.Mác,
Ph.Ăngghen, V.I.Lênin cũng như quá trình hình thành và phát triển của tư tưởng này.

Cuốn “Góp phần tìm hiểu quyền con người ở Việt Nam” do Hoàng Hùng Hải
nghiên cứu đã có một nội dung nói về phẩm chất cá nhân của C.Mác, Ph.Ăngghen
[36]. Đó là chuyển biến trong tư duy về QCN, đồng thời đây cũng là sự chuyển biến
trong lịch sử đấu tranh của QCN, khi chuyển từ đấu tranh chủ yếu cho cá nhân đến
đấu tranh vì cộng đồng, vì sự phát triển tồn diện của QCN. Tác giả phân tích sự
chuyển biến thơng qua lịch sử đấu tranh của lồi người, từ chỗ khơng có quyền, đến
địi quyền lợi cho mình, quyền lợi cho cộng đồng xã hội, mong cho con người được
phát triển toàn diện, các QCN cũng ngày càng được bổ sung hồn thiện; sự phát
triển của quyền ln ln phải gắn liền với pháp luật, được pháp luật quy định và
bảo vệ. Đây chỉ là sự chuyển biến một phần trong lập trường tư tưởng của C.Mác,
Ph.Ăngghen mà NCS có thể tham khảo trong quá trình tìm hiểu nội dung của
chương 2.
Tác giả Nguyễn Bá Dương trong cuốn “Giá trị lịch sử và ý nghĩa thời đại
của chủ nghĩa Mác” [18], đã trình bày xen kẽ trong các chương những điều kiện
tiền đề cho sự ra đời của chủ nghĩa Mác, tuy khơng có nội dung nào dành riêng bàn
về điều kiện, tiền đề hình thành quan niệm của chủ nghĩa Mác về QCN, nhưng qua
những dữ liệu này, NCS có thể hiểu được bối cảnh lịch sử của các nước Châu Âu,
trong đó có nước Đức, từ cuối thế kỷ XVIII đến cuối thế kỷ XIX, khi mà phương
thức sản xuất tư bản chủ nghĩa đã giữ vị trí thống trị ở một số nước Châu Âu, mâu
thuẫn trong lòng xã hội tư bản đã trở lên sâu sắc. Các tác giả cũng đã nói về sự kế
thừa của các nhà kinh điển mácxit về mặt lý luận của các nghiên cứu trước đó, cùng
những “phẩm chất trí tuệ và nhân cách của bậc thiên tài” [trang 23] đã làm nảy sinh
tư tưởng về QCN. NCS cũng tham khảo được quá trình chuyển biến trong tư tưởng,
nhận thức của C.Mác và Ph.Ăngghen “từ lập trường của chủ nghĩa duy tâm sang

chủ nghĩa duy vật, từ dân chủ cách mạng sang chủ nghĩa cộng sản” [trang 34] qua
quá trình cống hiến, hoạt động và những tác

8


phẩm của C.Mác, Ph.Ăngghen. Với những phân tích cụ thể, những đánh giá sắc sảo,
tư liệu này có giá trị nhất định trong q trình chúng tơi triển khai nội dung của
chương 2 luận án.
Bài nghiên cứu “Tư tưởng nhân quyền trong thời kỳ C.Mác và Ph.Ăngghen
viết “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” ” của Chu Hồng Thanh được đăng trong kỷ
yếu Quan điểm Mác - Lênin về quyền con người, quyền cơng dân [41], tác giả đã
tìm hiểu về tình hình nhân quyền trong thời kỳ C.Mác viết Tuyên ngôn của Đảng
Cộng sản. Ở một mức độ nhất định, tác giả đã đưa ra những nét khái quát về tình
hình kinh tế, chính trị, xã hội ở Châu Âu đầu thế kỷ XIX, đó là sự phát triển của lực
lượng sản xuất, của cơng nghiệp, sự áp bức bóc lột và các phong trào cách mạng nổ
ra, ngọn cờ nhân quyền bị giai cấp tư sản vứt bỏ nhưng những tư tưởng về một xã
hội văn minh, công bằng, con người được tự do, bình đẳng vẫn ln thơi thúc mọi
người. Tác giả cũng đưa ra tư tưởng về chủ nghĩa xã hội không tưởng được nêu
trong bản Tuyên ngơn, chỉ ra một số khuyết điểm, thiếu sót. Tuy nội dung nghiên
cứu không nhiều nhưng tác giả đã khái quát được trong thời kỳ C.Mác và
Ph.Ăngghen viết Tuyên ngôn, tư tưởng về quyền cho con người, đấu tranh chống lại
áp bức bất công đã trở lên phổ biến ở Châu Âu, chúng tơi có thể tham khảo trong
q trình triển khai luận án.
Qua các cơng trình nghiên cứu có thể thấy, các cơng trình đã có những tìm
hiểu về điều kiện, tiền đề làm nảy sinh học thuyết của chủ nghĩa Mác-Lênin, đó là
những tiền đề về kinh tế, chính trị, xã hội, phẩm chất cá nhân của các nhà kinh điển.
Tuy nhiên, NCS chưa tìm thấy những cơng trình trình bày một cách trực tiếp về các
điều kiện, tiền đề cho sự ra đời của tư tưởng về QCN của C.Mác, Ph.Ăngghen,
V.I.Lênin. Nhưng qua những nguồn tài liệu có được, NCS có thể hiểu được bối cảnh

xã hội bấy giờ cùng những phẩm chất và tài năng thiên tài đã góp phần hình thành
nên tư tưởng về bảo vệ quyền và lợi ích cho nhân dân lao động trên khắp thế giới.
Khi viết chương 2 của luận án, từ những tư liệu hiện có, chúng tơi sẽ phân tích để
gắn với sự ra đời của tư tưởng nhân quyền của các nhà kinh điển mácxit.

9


1.2. Tình hình nghiên cứu nội dung quan niệm của C.Mác, Ph.Ăngghen,
V.I.Lênin về quyền con người
Năm 1997, Trung tâm nghiên cứu QCN đã bước đầu triển khai nghiên cứu về
QCN. Đề tài tiềm lực “Quan điểm Mác-Lênin về quyền con người, quyền cơng dân”
(tháng 4.1998), do Hồng Văn Hảo làm chủ nhiệm [41]. Đây là cơng trình nghiên cứu
cơng phu của các tác giả, đề cập đến nhiều khía cạnh khác nhau của QCN, QCD. Ngay
tại trang 4, tác giả Hoàng Văn Hảo khẳng định C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin đã “đề
cập đến những nội dung cơ bản nhất của QCN, QCD; giải quyết hàng loạt vấn đề về
QCN theo quan điểm khoa học và cách mạng”. Nhiều bài viết trong đề tài có giá trị
tham khảo trong q trình NCS làm luận án, có thể kể đến như:
1. Bài nghiên cứu “Tư tưởng của C.Mác - Ph.Ăngghen về quyền con người”

của Hồng Văn Nghĩa. Tác giả đã phân tích nhiều khía cạnh trong tư tưởng về QCN
của các nhà kinh điển. QCN trước hết là một phạm trù lịch sử, là sự thống nhất giữa
“quyền tự nhiên” và “quyền xã hội”, QCN vừa mang tính giai cấp, vừa mang tính nhân
loại, mang tính phổ biến lại mang tính đặc thù, để mang lại QCN thực sự cho con người
thì phải giải phóng cả về mặt chính trị và kinh tế, xóa bỏ chế độ tư hữu tư nhân về tư
liệu sản xuất bằng con đường đấu tranh cách mạng… Đây là những vấn đề mang tính lý
luận nhằm cung cấp cho người đọc những hiểu biết cơ bản, chung nhất về QCN. Tác
giả cũng đã bàn về quyền của hai đối tượng cụ thể là phụ nữ và trẻ em. Đây là những
người dễ bị tổn thương, chịu nhiều bất bình đẳng trong xã hội và hay bị
vi phạm về QCN. Để đảm bảo quyền cho họ, cần thiết phải xóa bỏ hoàn toàn chế độ


tư hữu, xây dựng một chế độ xã hội mới để hiện thực hóa các QCN.
2. Tác giả Đỗ Thị Hồng Thơm với bài viết “Quyền tự do tín ngưỡng, tơn giáo

trong tư tưởng của Mác - Ăngghen”. Bằng cách đặt ra những câu hỏi và trả lời cho
những câu hỏi ấy, nội dung cơ bản liên quan đến quyền tự do tín ngưỡng, tơn giáo đã
được tác giả trình bày. Từ nguồn gốc, bản chất, định nghĩa tôn giáo đến mối quan hệ
giữa tôn giáo với Nhà nước, vai trị của quyền tự do tín ngưỡng, tơn giáo trong đời sống
chính trị xã hội, tác giả đi đến khẳng định “quyền tự do tín ngưỡng, tơn giáo là một
trong những quyền chính đáng của con người cần được tôn trọng và bảo đảm” (trang
200). Tác giả cũng đã phân tích và chỉ ra rằng những quyền chính đáng ấy của

10


con người trong chế độ tư bản chủ nghĩa “thực chất là để phục vụ cho lợi ích của
giai cấp thống trị mà thơi” (trang 201).
Tóm lại, tập kỷ yếu “Quan điểm Mác-Lênin về quyền con người, quyền công
dân” với những bài nghiên cứu sâu sắc, đề cập đến nhiều bình diện khác nhau của
QCN, QCD. Tập kỷ yếu đã bước đầu cung cấp cho độc giả một cách nhìn khái quát
những vấn đề cơ bản về QCN, QCD trong tư tưởng của C.Mác, Ph.Ăngghen,
V.I.Lênin. Đây là nguồn tài liệu rất có giá trị cho những ai quan tâm đến vấn đề này.
Tuy nhiên, đây mới là những bài nghiên cứu nhỏ lẻ của từng tác giả, chưa phải là
công trình mang tính hệ thống, khái qt và tổng hợp lý luận.
Năm 1998, Trung tâm Nghiên cứu QCN đã xuất bản cuốn “Về quyền con
người” của C.Mác - Ph.Ăngghen [121]. Đây là cơng trình nghiên cứu cơng phu của
các tác giả, bao gồm những đoạn trích dẫn trong các tác phẩm của C.Mác và
Ph.Ăngghen, theo từng chủ đề và theo thời gian. Các tác giả đã tìm hiểu về một số
chủ đề quyền con người trong các lĩnh vực của đời sống xã hội như lịch sử khái
niệm QCN; bản chất QCN; các quyền dân sự và chính trị; quyền kinh tế, xã hội và

văn hóa; mối quan hệ giữa nhà nước, pháp luật, chế độ xã hội và QCN… Đây là
một tập tư liệu quý giúp người đọc có một sự định hướng trong nghiên cứu về nhân
quyền và vận dụng vào tình hình thực tế của nước ta hiện nay. Tuy nhiên, cuốn sách
này chưa đề cập đến các tác phẩm quan trọng sau này của chủ nghĩa Mác có liên
quan trực tiếp đến các vấn đề nhà nước pháp luật và nhân quyền như “Phê phán
Cương lĩnh Gơta”, “Chống Đuy-rinh”, “Lut vích Phoiơ-bắc và sự cáo chung của
triết học cổ điển Đức”, “Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư hữu và Nhà
nước”… Chính vì vậy, đây chưa phải là tập trích dẫn hồn chỉnh, đầy đủ.
Tập bài giảng “Lý luận về quyền con người” (năm 1998) của Trung tâm
nghiên cứu QCN, NCS quan tâm đến nội dung của bài 3 “Quan điểm Mác-Lênin và
tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền con người, quyền cơng dân” của Hồng Văn Hảo
[120]. Tư tưởng vì con người và giải phóng con người là tư tưởng cốt lõi, xuyên suốt

trong học thuyết Mác-Lênin. Các tác gia kinh điển Mác-Lênin đã đề cập đến những nội
dung cơ bản nhất của QCN. QCN có những tính chất như tính giai cấp, tính nhân

11


loại, tính phổ biến, tính đặc thù và được xem xét trong các quan hệ giữa cá nhân cộng đồng - nhà nước. Tư tưởng của C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin về QCN được
tập trung trong hai nhóm: nhóm quyền dân sự, chính trị và nhóm quyền kinh tế, xã
hội, văn hóa; với hàng loạt vấn đề về QCN theo quan điểm khoa học và cách mạng,
đã tạo ra một nấc thang mới trong nhận thức và hiện thực hóa QCN. Trong bài giảng
này, tác giả đã phân tích những quan điểm cơ bản của Chủ nghĩa Mác về QCN. Tuy
nhiên, tác giả mới chỉ đề cập đến một số vấn đề và một số quyền (quyền tự do cá
nhân, quyền tham gia quản lý nhà nước, quyền sở hữu đối với tư liệu sản xuất) được
phân tích, cịn những quyền khác chỉ được đề cập đến. Trong luận án, NCS sẽ kế
thừa những kết quả nghiên cứu này và phân tích, làm rõ nội dung những quyền khác
trong tư tưởng của C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin.
Đề tài cấp Bộ: “Những quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin về

quyền con người và ý nghĩa với Việt Nam hiện nay”, đã được Viện Nghiên cứu
QCN triển khai năm 2007, do Nguyễn Đức Thùy làm chủ nhiệm [117]. Đề tài đã
nêu ra được sự phát triển của tư tưởng QCN trước chủ nghĩa Mác, phân tích những
quan điểm cơ bản của các nhà triết học, đưa ra những nhận xét, những điểm tiến bộ,
hạn chế của các quan niệm. NCS quan tâm đến nội dung quan điểm cơ bản của chủ
nghĩa Mác - Lênin về nhân quyền. Những nhà nghiên cứu đã tìm hiểu về quyền tự
do và bình đẳng, tự do báo chí, tự do tư tưởng, tự do tơn giáo, tín ngưỡng, dân chủ,
sở hữu, lao động, quyền phụ nữ, quyền trẻ em; với mỗi quyền đều có những câu
trích dẫn của các nhà kinh điển và phân tích, nhận xét. Trong luận án, chúng tơi
cũng đi tìm hiểu về một số quyền của C.Mác, Ph.Ănghen, V.I.Lênin nhưng có
những điểm khác so với kết quả nghiên cứu này. Thứ nhất, trong quan niệm về tự
do, bình đẳng, tự do báo chí, quyền trẻ em, các tác giả chủ yếu nghiên cứu về quan
điểm của C.Mác và Ph.Ăngghen, quan điểm của V.I.Lênin thì ít được đề cập đến.
Trong luận án, NCS sẽ đi tìm hiểu quan điểm của ba nhà kinh điển về những nội
dung này. Thứ hai, trong mỗi quyền được phân tích sẽ có sự so sánh, đối chiếu với
một số công ước quốc tế về QCN. Tuy nhiên, NCS cũng đã kế thừa nhiều nội dung
của đề tài, có giá trị tham khảo trong q trình chúng tơi triển khai luận án.

12


Báo cáo tổng hợp kết quả nghiên cứu Đề tài khoa học cấp cơ sở năm 2008
“Quan điểm của Chủ nghĩa Mác-Lênin về vấn đề quyền con người - từ lý luận đến
thực tiễn ở Việt Nam hiện nay” của Viện kinh điển Mác-Lênin, do Lê Thị Thanh Hà
làm chủ nhiệm [33]. Trong nội dung của chương 1, các tác giả đã phân tích những
quan điểm của Chủ nghĩa Mác-Lênin về QCN. Đi tìm hiểu quan điểm của C.Mác và
Ph.Ăngghen, các tác giả đã đề cập qua đến khái niệm QCN, phân tích và đặt con
người trong mối quan hệ với tự nhiên và xã hội, việc giải phóng con người để con
người có được quyền thực sự phụ thuộc vào những cơ sở: chế độ sở hữu và sự vận
động của phương thức sản xuất xã hội, phải xóa bỏ chế độ áp bức bóc lột xây dựng

xã hội mới dân chủ thực sự, QCN là của từng cá nhân con người. Kế thừa quan
điểm của C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin, phát triển sáng tạo những luận điểm về
quyền bình đẳng và tự do của con người, bên cạnh phải có pháp luật thì cũng cần
những điều kiện thực tế và thuận lợi để các quyền đó được thực thi. Khi bàn về nội
dung cụ thể của QCN, các tác giả đi tìm hiểu về quyền dân sự, chính trị và quyền
kinh tế, xã hội, văn hóa; nhưng sự phân tích còn chung chung, chưa làm rõ những
luận điểm cụ thể về vấn đề này.
Hai tác giả Hoàng Mai Hương và Nguyễn Hồng Hải đã nghiên cứu quan điểm
của V.I.Lênin về vấn đề QCN và trình bày trong cuốn sách “Tư tưởng của V.I.Lênin
về quyền con người và giá trị thực tiễn ở Việt Nam” [51]. Tiếp thu tư tưởng của
C.Mác - Ph.Ăngghen về QCN, V.I.Lênin đã phát triển sáng tạo những tư tưởng đó
phù hợp với bối cảnh lịch sử mới. Các tác giả tập trung làm rõ quan điểm của
V.I.Lênin về một số QCN nổi bật, có ảnh hưởng nhiều nhất đến luật quốc tế hiện đại
về QCN là quyền dân chủ, quyền dân tộc tự quyết, quyền chính trị và quyền tham
gia. Tuy nhiên cuốn sách này chỉ đi phân tích và sự vận dụng của Việt Nam về một
số quyền cơ bản, còn nhiều quyền khác chưa được đề cập đến. Trong luận án, NCS
sẽ làm sáng tỏ một số quyền khác trong quan điểm của V.I.Lênin.
Cuốn sách “Chủ nghĩa xã hội và quyền con người” của hai tác giả Đặng Dũng
Chí và Hồng Văn Nghĩa [11]. Qua sự phân tích của các tác giả đã cho thấy những luận
giải sâu sắc của C.Mác và Ph.Ăngghen về nguồn gốc, bản chất và nội dung của

13


QCN. Theo các ông, thuật ngữ QCN ra đời gắn liền với sự ra đời của giai cấp tư
sản, được quy định và bảo vệ bằng pháp luật. QCN mang tính giai cấp, tính nhân
loại, tính phổ biến và đặc thù. C.Mác và Ph.Ăngghen đã bàn về các quyền tự do,
dân chủ; quyền tự do báo chí, tự do ngơn luận; tự do chính trị, giải phóng chính trị
và QCN. Không chỉ là những biểu hiện cụ thể của các quyền ấy trong đời sống,
C.Mác, Ph.Ăngghen còn vạch ra con đường hiện thực để đạt tới các quyền đó. Kế

thừa quan điểm của C.Mác và Ph.Ăngghen, V.I.Lênin đã phát triển và làm phong
phú lý luận mácxít về QCN trong điều kiện lịch sử mới. Một trong những đóng góp
là tư tưởng về dân chủ và quyền dân tộc tự quyết. NCS có thể kế thừa những kết quả
nghiên cứu này và phân tích làm rõ thêm những tư tưởng khác của Chủ nghĩa MácLênin về QCN trong luận án của mình.
Tác giả Lê Văn Kiện với bài viết “Một số quan điểm cơ bản của Chủ nghĩa
Mác-Lênin về tôn giáo”, đăng trên tạp chí Giáo dục lý luận số 248 - tháng 7.2016
[63]. Trên cơ sở tìm hiểu quan điểm của Chủ nghĩa Mác-Lênin về tôn giáo, tác giả
đã phân tích về nguồn gốc, bản chất và phương pháp giải quyết vấn đề tơn giáo. Tơn
giáo có nguồn gốc từ hiện thực cuộc sống của con người, từ nguồn gốc kinh tế - xã
hội, nhận thức và tâm lý. Ba nguồn gốc đó thống nhất với nhau, trong đó sâu xa
nhất, cơ bản nhất là nguồn gốc kinh tế - xã hội, khi nguồn gốc này khơng cịn thì tơn
giáo cũng sẽ tự tiêu vong. Để giải quyết vấn đề tôn giáo, cần phải tiến hành cách
mạng cải biến xã hội, xóa bỏ áp bức, bất cơng, xây dựng chế độ xã hội mới tự do,
bình đẳng. Đồng thời, phải tơn trọng quyền tự do tín ngưỡng tơn giáo của nhân dân,
chống âm mưu lợi dụng tôn giáo vào những mục đích khác. Có thể nói, chỉ khi đến
Chủ nghĩa Mác-Lênin thì tơn giáo mới được nhìn nhận một cách khoa học và tồn
diện. Tác giả đã phân tích những nét rất cơ bản trong quan điểm của Mác-Lênin về
tôn giáo, giúp người đọc có cái nhìn tổng quan và sâu sắc về vấn đề.
Qua những tài liệu trên có thể thấy quan niệm của Chủ nghĩa Mác-Lênin về
QCN đã được phân tích dưới những bình diện khác nhau. Trên cơ sở kế thừa những
quan điểm khoa học của các nhà tư tưởng đi trước, C.Mác - Ph.Ăngghen đã đưa ra
những quan điểm về QCN và sau này được V.I.Lênin kế thừa phát triển trong điều

14


kiện hoàn cảnh mới. Những nội dung thường được đề cập đến là khái niệm, đặc
điểm, tính chất, con đường để đạt được QCN, nội dung QCN về dân sự, chính trị và
kinh tế, xã hội, văn hóa. Tuy nhiên ở mỗi cơng trình nghiên cứu chỉ đề cập đến một
vài nội dung trong quan niệm của Chủ nghĩa Mác-Lênin về QCN, có những nội

dung được phân tích kỹ lưỡng, có nội dung chỉ được giới thiệu qua. Trong luận án,
NCS sẽ tham khảo những kết quả nghiên cứu trong các cơng trình này, đồng thời
phân tích và làm rõ một số nội dung khác trong quan niệm về QCN của Chủ nghĩa
Mác-Lênin như quyền tự do, quyền bình đẳng, quyền của phụ nữ, quyền của trẻ em.
1.3. Tình hình nghiên cứu về quyền con người và quyền con người
ở Việt Nam
Năm 1998, Hoàng Văn Hảo và Chu Hồng Thanh xuất bản cuốn sách “Các
văn kiện quốc tế về quyền con người” [42]. Đây là một tập trích dẫn tương đối đầy
đủ về các tuyên ngôn, tuyên bố quan trọng về nhân quyền và 8 công ước quốc tế về
nhân quyền mà nước ta đã ký kết, phê chuẩn. Có những văn kiện quan trọng được
đề cập đến như Hiến chương Liên hợp quốc (LHQ, năm 1945); Tuyên ngôn thế giới
về nhân quyền (năm 1948); Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị (năm
1966); Cơng ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa (năm 1966)... cùng
với các tun ngơn, tun bố, công ước khác. Với việc tham gia các văn kiện này,
một mặt khẳng định Đảng, Nhà nước Việt Nam thừa nhận và bảo đảm những quyền,
lợi ích chính đáng cho nhân dân; mặt khác thể hiện trách nhiệm, góp tiếng nói
chung cùng với cộng đồng quốc tế trong việc bảo vệ, thúc đẩy thực thi nhân quyền
trên phạm vi thế giới. Dựa trên những tuyên ngôn, tuyên bố này, Đảng, nhà nước ta
đã từng bước hoàn thiện hệ thống văn bản pháp luật, đưa ra chủ trương, chính sách
vừa đáp ứng nhu cầu thực tiễn cuộc sống, vừa phù hợp với thông lệ quốc tế nhằm
bảo đảm, bảo vệ ngày càng tốt hơn quyền và tự do cơ bản cho nhân dân.
Tập bài giảng “Lý luận về quyền con người” (năm 1998) của Trung tâm nghiên
cứu QCN [120]. Trên cơ sở phân tích QCN trong tiến trình lịch sử nhân loại với những
tư tưởng và quan niệm khác nhau, trong đó có quan niệm của Chủ nghĩa Mác-Lênin,
các tác giả đã chỉ ra nguồn gốc, nội dung, bản chất của QCN, quyền cơng dân (QCD);
tìm ra tính quy luật hình thành và phát triển của QCN trong lịch sử nhân loại.

15



Với sự phân tích khái quát nhưng khá đầy đủ, tập bài giảng đã cho người đọc một
cái nhìn cơ bản về những tư tưởng QCN trong thời kỳ cổ đại, cận đại. Đến chủ
nghĩa tư bản, QCN đã có sự phát triển vượt bậc so với thời kỳ trước trong việc địi
quyền tự do, bình đẳng, phát triển cho con người nhưng nó cũng chứa đựng những
mâu thuẫn khơng thể giải quyết. Kể từ sau chiến tranh thế giới thứ hai (năm 1945),
vấn đề QCN đã trở thành mối quan tâm sâu sắc của cộng đồng quốc tế, với những
tuyên ngôn, công ước, nghị định thư về nhân quyền được thơng qua và sự cụ thể
hóa trong Hiến pháp của nhiều nước, nội dung QCN ngày càng được bổ sung, hoàn
chỉnh nhằm bảo đảm những quyền cơ bản cho con người, đồng thời thúc đẩy sự tiến
bộ xã hội và phát triển bền vững.
Cuốn “Quyền con người ở Trung Quốc và Việt Nam: truyền thống - lý luận và
thực tiễn” (2003) [123] và cuốn “Quyền con người - lý luận và thực tiễn ở Việt Nam và
Ô - xtrây - lia” (2004) [124], đây là hai cơng trình hợp tác nghiên cứu giữa Viện
Nghiên cứu QCN với nước ngoài. Hai cơng trình này tập hợp nhiều bài viết của các tác
giả trong và ngoài nước, đề cập đến quá trình phát triển của nhân quyền từ góc độ triết
học, chính trị và pháp luật, quan niệm của chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh về QCN; thực trạng bảo đảm QCN và đề xuất các giải pháp nhằm đảm bảo, bảo
vệ và phát triển QCN ở Việt Nam cũng như Trung Quốc và Ô - xtrây - lia. Trong đó có
những bài viết có liên quan trực tiếp đến đề tài luận án như “Phê phán những quan
điểm sai trái trên lĩnh vực quyền con người” của Hoàng Văn Hảo; “Một số vấn đề về
quyền con người trong kinh điển Mácxít” của Ngơ Đình Xây, “Quan điểm và chính
sách cơ bản của Đảng, Nhà nước Việt Nam về quyền con người” của Hoàng Văn
Hảo… Hai cuốn sách giúp người đọc hiểu rõ hơn về vấn đề lý luận cũng như thực tế
của tình hình nhân quyền hiện nay, ở trong nước cũng như ở nước ngoài.
Bài nghiên cứu “Sự hoàn thiện và phát triển quyền con người và pháp quyền
công dân qua các bản Hiến pháp của Việt Nam” của Trần Ngọc Đường, được viết
trong cuốn “Một số bài viết về quyền con người của các tác giả Việt Nam” (tháng 6 2000) [122] của Trung tâm nghiên cứu QCN. Ở phần đầu, tác giả đã nghiên cứu về
quan niệm QCN trong thời đại ngày nay. Những tư tưởng về quyền của con người đã

16



có từ thời cổ đại, để bênh vực, địi những quyền cơ bản cho con người. Phải đến thế
kỷ XVII, XVIII, các nhà tư tưởng mới bàn đến QCN như một học thuyết với các
trường phái pháp luật tự nhiên, và quan niệm xem con người cũng như QCN trong
tổng hòa các mối quan hệ xã hội. Học thuyết Mác-Lênin ra đời, đã kế thừa một cách
biện chứng những giá trị tinh hoa của nhân loại về con người và QCN. QCN là sự
thống nhất giữa quyền tự nhiên và quyền xã hội, mang tính lịch sử, tính giai cấp,
tính nhân loại sâu sắc. Quan điểm biện chứng của các nhà kinh điển Mác-Lênin đã
khắc phục được tính phiến diện và cực đoan về QCN. Ngày nay, QCN luôn nhận
được sự quan tâm của mỗi quốc gia, dân tộc và cũng là vấn đề chung của nhân loại.
Đã có nhiều văn bản pháp lý quốc tế ghi nhận về nội dung này, làm cho các QCN có
căn cứ để được tôn trọng và bảo vệ. Hệ thống văn kiện pháp lý quốc tế làm cho các
QCN trở thành chuẩn chung trong việc bảo đảm QCN, để các quốc gia đối chứng
trong việc ghi nhận và bảo vệ QCN ở nước mình.
“Giáo trình lý luận và pháp luật về quyền con người” [16] do Nguyễn Đăng
Dung - Vũ Công Giao - Lã Khánh Tùng (đồng chủ biên) (năm 2009). Các tác giả đã
khẳng định QCN là sự kết tinh những giá trị cao đẹp nhất trong nền văn hóa của nhân
loại, có sự đóng góp của tất cả các quốc gia, dân tộc. Đảng, Nhà nước ta trong mọi
đường lối, chính sách đều quan tâm và thúc đẩy các QCN cho mọi người dân. Các tác
giả đã tìm hiểu về khái niệm QCN, nguồn gốc, tính chất, đặc điểm, phân loại, lịch sử
phát triển của tư tưởng về QCN, một số phạm trù có liên quan, một số khía cạnh mới
của QCN, thực tế và triển vọng của QCN. Với phần nghiên cứu này đã cung cấp cho
người đọc cái nhìn tổng quan, mang tính khái quát về QCN, từ lịch sử, hiện tại đến
tương lai của QCN và có giá trị tham khảo trong quá trình NCS làm luận án.
Võ Khánh Vinh chủ biên cuốn sách “Quyền con người, tiếp cận đa ngành và
liên ngành khoa học xã hội” (2009) [138], có thể nói đây là cơng trình đầu tiên ở nước
ta bàn về QCN theo hướng tiếp cận đa ngành và liên ngành khoa học xã hội, bao gồm
tri thức luật học, tri thức của các ngành khoa học xã hội (nghĩa hẹp) và tri thức của các
ngành khoa học nhân văn về QCN. Dưới mỗi hướng tiếp cận khác nhau, QCN được

nhìn nhận, phân tích lại khác nhau, nhưng tựu chung lại, các tác giả đều

17


khẳng định: Nghiên cứu QCN là vấn đề vừa mang tính cấp bách vừa nhạy cảm, mang
ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc. Trong đó có những bài nghiên cứu có liên quan

đến luận án như: “Quyền con người trong thời kỳ đổi mới - mấy vấn đề về nhận
thức lý luận và thực tiễn” của Cao Đức Thái, “Một số quan điểm của Đảng Cộng
sản Việt Nam về quyền con người” của Nguyễn Xuân Dũng, “Nhận thức chung về
con người và quyền con người từ phương diện triết học” của Chu Văn Tuấn… Đây
là cuốn tài liệu tham khảo có giá trị, giúp NCS có cái nhìn tổng quan và các cách
tiếp cận về QCN. Theo đó, QCN cần được đặt trong các mối quan hệ khác nhau, với
cách tiếp cận đa ngành, liên ngành khoa học xã hội.
Cuốn sách “Quyền con người trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế ở Việt Nam hiện nay” (2014) do Nguyễn
Thanh Tuấn chủ biên [127]. Đây là cơng trình nghiên cứu công phu của tập thể tác
giả. Cuốn sách đã bàn đến nhiều khía cạnh có liên quan đến QCN, với cách tiếp cận
đa chiều, có sự so sánh, phân tích dưới nhiều góc độ, các vấn đề đã được làm sáng
tỏ như khái niệm QCN, QCN trong mối quan hệ với QCD. Khi khái quát tư tưởng
nhân loại về QCN, các tác giả đã tìm hiểu tư tưởng phương Tây và phương Đông, từ
truyền thống đến xu hướng biến đổi hiện đại. Đây là cách nhìn khá tồn diện, cơ bản
đưa ra bức tranh QCN trên thế giới từ truyền thống đến hiện đại và đưa ra “xu
hướng vận động chủ yếu trong quan niệm về nhân quyền trên thế giới hiện nay là:
không dừng ở những vấn đề lý luận chung, mà tập trung vào những vấn đề cụ thể và
thực tế trong việc tôn trọng, bảo vệ và thúc đẩy QCN” [trang 53]. Các tác giả cho
rằng, Việt Nam cũng là nước sớm có những tư tưởng về QCN, được thể hiện trong
văn học, nghệ thuật, trong phong tục, tập quán và tập trung ở pháp luật, sau này
được Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam kế thừa và tiếp tục phát triển.

Cuốn “Chủ nghĩa xã hội và quyền con người” (2014) của Đặng Dũng Chí và
Hồng Văn Nghĩa [11]. Trong phần 1, các tác giả đã tìm hiểu về lịch sử hình thành và
phát triển QCN, với một số khái niệm về QCN, QCD, các quyền dân sự, chính trị, các
quyền kinh tế, xã hội, văn hóa… dựa trên cách hiểu của cộng đồng quốc tế hiện nay,
được sử dụng rộng rãi trong các điều ước quốc tế về QCN của Liên Hợp Quốc. Ngay

18


từ rất sớm, những tư tưởng về nhân đạo, QCN đã xuất hiện ở cả phương Đông và
phương Tây. Sau đó được tiếp tục định hình và phát triển trong thời kỳ cổ đại, trung
đại, cận đại. Trước C.Mác, các nhà tư tưởng đã có đóng góp to lớn vào việc thực
hiện QCN, “thể hiện khát vọng cháy bỏng của con người về sự tự do, sự giải phóng
chính mình khỏi sự nơ dịch, sự tha hóa đang ngày càng cột chặt họ” [trang 41]. Khi
Tuyên ngôn thế giới về QCN (năm 1948) được thông qua, các giá trị con người, các
quyền và tự do cơ bản của con người đã được tôn trọng. Các giá trị và các quyền cơ
bản của con người được bảo đảm là điều kiện tiên quyết cho sự tồn tại và phát triển
của xã hội loài người.
Năm 2015, Võ Khánh Vinh chủ biên cuốn sách “Quyền con người” [143].
Sách đã cung cấp cho người đọc một cái nhìn tổng quan về QCN, từ việc thực thi
QCN trong lịch sử đến hiện đại; mối quan hệ giữa QCN với các lĩnh vực, các tổ
chức; các cơ chế pháp lý quốc gia và quốc tế để bảo vệ QCN; và việc bảo vệ QCN ở
Việt Nam. Các tác giả đã khẳng định: “Các tư tưởng chân chính về QCN đều dựa
trên cơ sở của các nguyên tắc: dân chủ, tự do, cơng bằng, bình đẳng, thừa nhận giá
trị con người” [trang 31], “QCN vừa là thành quả của các cuộc đấu tranh giải phóng
mọi áp bức bóc lột, là giá trị chung của nhân loại vừa là mục tiêu, động lực của cách
mạng và tiến bộ xã hội” [trang 34]. Tuy cuốn sách đề cập đến rất nhiều các nội dung
nhưng chủ yếu được nhìn nhận dưới góc độ của các quy định pháp luật ở Việt Nam
và quốc tế. Tuy rằng cuốn sách không đề cập đến các quan điểm của C.Mác,
Ph.Ăngghen, V.I.Lênin về QCN cũng như giá trị và ý nghĩa lịch sử đối với việc đảm

bảo, thực thi nhân quyền ở nước ta; nhưng chúng tơi vẫn tìm thấy giá trị tham khảo
trong quá trình triển khai luận án.
Cuốn sách “Bảo vệ và thúc đẩy quyền con người ở Việt Nam” (hay còn gọi là
Sách trắng về QCN) năm 2018 của Bộ Ngoại giao [7], là một bức tranh đầy đủ, cập
nhật, toàn diện trên lĩnh vực nhân quyền ở Việt Nam về đường lối, chính sách, pháp
luật của Nhà nước về QCN, đồng thời cũng chỉ ra những thành tựu và thách thức mà
chúng ta cần vượt qua để bảo đảm ngày càng tốt hơn quyền lợi chính đáng của nhân
dân. Chương I, cuốn sách trình bày về quan điểm, chính sách và luật pháp của Nhà

19


nước Việt Nam về QCN. Từ những quan điểm cụ thể, toàn diện là sự định hướng rõ
ràng cho hoạt động trong thực tế của Nhà nước và các tổ chức để thực thi nhân
quyền. Nội dung của chương II đã chỉ ra những thành tựu của Việt Nam trong việc
bảo đảm các quyền dân sự, chính trị; các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa cũng như
quyền của các nhóm xã hội dễ bị tổn thương. Những thành tựu hết sức nổi bật và
đầy đủ đã chứng minh cho quyền của người dân ngày càng được đảm bảo và thực
thi. Chương III đã tìm hiểu việc hợp tác quốc tế của nước ta với các nhà nước và tổ
chức trong việc bảo đảm và thúc đẩy QCN. Với việc tham gia hầu hết các Công ước
quốc tế cơ bản về QCN, hợp tác với các cơ chế của LHQ, hợp tác khu vực, hợp tác
song phương, hợp tác với tổ chức phi chính phủ nước ngồi đã thể hiện rõ thiện chí
của nước ta khơng chỉ bảo đảm nhân quyền ở trong nước mà cịn góp phần bảo vệ
và thúc đẩy nhân quyền trên phạm vi thế giới. Bên cạnh những thuận lợi và thành
tựu chúng ta đã đạt được thì cịn nhiều khó khăn, thách thức cần vượt qua nhằm
thúc đẩy hơn nữa việc bảo đảm quyền cho nhân dân.
Trong“Báo cáo quốc gia về bảo vệ và thúc đẩy quyền con người ở Việt
Nam theo cơ chế rà soát định kỳ phổ quát (UPR) chu kỳ III”, năm 2018, với sự thực
hiện của Nhóm cơng tác liên ngành do Bộ Ngoại giao làm cơ quan đầu mối [8], đã
rà sốt tình hình thực hiện các QCN trên lãnh thổ Việt Nam. Đây là một báo cáo rất

toàn diện, phản ánh trung thực, kịp thời tình hình nhân quyền ở nước ta. Báo cáo đã
rà soát việc thúc đẩy và bảo vệ nhân quyền cho nhân dân theo các khuyến nghị UPR
mà Việt Nam đã chấp thuận tại chu kỳ II với nhiều bước phát triển mới trên các mặt:
cải cách hệ thống pháp luật trên tinh thần Hiến pháp 2013; thực hiện chính sách mới
liên quan đến bảo đảm QCN; nhiều khuyến nghị UPR chu kỳ II (năm 2014) đã được
triển khai và có kết quả; cơng tác giáo dục, nâng cao nhận thức về QCN được tăng
cường; thực hiện các cam kết quốc tế và hợp tác quốc tế về QCN, phù hợp với tình
hình thực tế đất nước và thông lệ quốc tế.
Báo cáo đã đưa ra một bức tranh toàn diện và đầy đủ về tình hình thực hiện
nhân quyền ở Việt Nam, với số liệu thực tế chứng minh trên tất cả các mặt: Nhóm
quyền dân sự, chính trị (quyền bình đẳng; quyền sống, được tôn trọng về nhân phẩm

20


×