Tải bản đầy đủ (.pdf) (81 trang)

Chế độ bảo hiểm thai sản theo pháp luật bảo hiểm xã hội từ thực tiễn thành phố đà nẵng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (820.7 KB, 81 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

TÁN NGỌC LAN

CHẾ ĐỘ BẢO HIỂM THAI SẢN
THEO PHÁP LUẬT BẢO HIỂM XÃ HỘI
TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI, năm 2018


VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

TÁN NGỌC LAN

CHẾ ĐỘ BẢO HIỂM THAI SẢN
THEO PHÁP LUẬT BẢO HIỂM XÃ HỘI
TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

Chuyên ngành: Luật Kinh tế
Mã số: 838.01.07

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:


TS. PHẠM THỊ THÚY NGA

HÀ NỘI, năm 2018


LỜI CẢM ƠN
Luận văn thạc sĩ chuyên ngành luật kinh tế với đề tài “Chế độ bảo hiểm
thai sản theo pháp luật Bảo hiểm xã hội từ thực tiễn Thành phố Đà Nẵng” là
kết quả của quá trình cố gắng không ngừng của bản thân và được sự giúp đỡ,
động viên khích lệ của các thầy, bạn bè đồng nghiệp và người thân. Qua trang
viết này tác giả xin gửi lời cảm ơn tới những người đã giúp đỡ tôi trong thời
gian học tập - nghiên cứu khoa học vừa qua.
Tơi xin tỏ lịng kính trọng và biết ơn sâu sắc đối với cô giáo TS. Phạm
Thị Thúy Nga đã trực tiếp tận tình hướng dẫn cũng như cung cấp tài liệu
thông tin khoa học cần thiết cho luận văn này.
Cuối cùng tôi xin chân thành cảm ơn đồng nghiệp, đơn vị cơng tác đã giúp
đỡ tơi trong q trình học tập và thực hiện Luận văn.


LỜI CAM ĐOAN


Tơi xin cam đoan khóa luận này là cơng trình nghiên cứu của riêng tơi.
Các số liệu và kết quả nghiên cứu trong Luận văn Tôi xin cam đoan đây là
cơng trình nghiên cứu khoa học độc lập của riêng tơi. Các số liệu sử dụng
phân tích trong luận án có nguồn gốc rõ ràng, đã cơng bố theo đúng quy
định. Các kết quả nghiên cứu trong luận án do tơi tự tìm hiểu, phân tích một
cách trung thực, khách quan và phù hợp với thực tiễn của Việt Nam. Các kết
quả này chưa từng được công bố trong bất kỳ nghiên cứu nào khác.
Tôi cũng xin cam đoan rằng mọi sự giúp đỡ cho việc thực hiện Luận

văn này đã được cảm ơn và các thông tin trích dẫn trong khóa luận đã được
chỉ rõ nguồn gốc.

TÁC GIẢ

Tán Ngọc Lan


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ......................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ CHẾ ĐỘ BẢO HIỂM THAI
SẢN THEO PHÁP LUẬT BẢO HIỂM XÃ HỘI......................................... 9
1.1. Khái niệm chế độ bảo hiểm thai sản .......................................................... 9
1.2. Nội dung của chế độ bảo hiểm thai sản ................................................... 11
CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG CHẾ ĐỘ BẢO HIỂM THAI SẢN TẠI
THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG ............................................................................. 25
2.1. Thực trạng quy định chế độ bảo hiểm thai sản ở Việt Nam hiện nay...... 25
2.2. Thực tiễn thực hiện chế độ thai sản tại thành phố Đà Nẵng .................... 37
CHƯƠNG 3. GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CHẾ ĐỘ BẢO HIỂM
THAI SẢN Ở VIỆT NAM HIỆN NAY ....................................................... 59
3.1. Hoàn thiện pháp luật về bảo hiểm thai sản bảo hiểm xã hội ................... 59
3.2. Các giải pháp khác nâng cao hiệu quả thực thi chế độ thai sản ............... 62
KẾT LUẬN .................................................................................................... 68
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

1. CBCCVC: Cán bộ công chức viên chức
2. BHXH: Bảo hiểm xã hội

3. BHYT: Bảo hiểm y tế
4. BHTN: Bảo hiểm thất nghiệp
5. DS-KHHGĐ: Dân số - kế hoạch hóa gia đình
6. ILO: International Labour Organization - Tổ chức lao động quốc tế
7. LĐTBXH: Lao động Thương binh xã hội
8. NLĐ: Người lao động
9. NSDLĐ: Người sử dụng lao động
10.TP: Thành phố
11.UBND: Ủy ban nhân dân


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Phụ nữ là lực lượng lao động đơng đảo, có vị trí, vai trị vơ cùng quan
trọng trong gia đình và xã hội. Hiện nay, lực lượng lao động nữ chiếm một tỷ
lệ khá cao trong tổng số lực lượng lao động tại Việt Nam, chiếm đến 48,1%
trên tổng số lực lượng lao động (theo số liệu thống kê của Tổng cục thống kê
năm 2015). Tất cả các lĩnh vực từ đời sống, kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa,
nghệ thuật… đều có sự tham gia của lực lượng lao động nữ, với tỷ trọng
chiếm khá lớn trong lực lượng lao động. Lao động nữ đóng góp tham gia vào
q trình sản xuất, tạo ra các sản phẩm về vật chất, tinh thần phục vụ cho lợi
ích của xã hội. Vì vậy, lao động nữ có nhu cầu tham gia bảo hiểm xã hội để
được bù đắp phần thu nhập bị mất hoặc bị giảm sút trong các trường hợp họ
bị giảm hoặc mất khả năng lao động như ốm đau, thai sản, tai nạn lao động,
tuổi già hay do sự tác động của kinh tế thị trường.
Chế độ bảo hiểm thai sản có vị trí quan trọng trong hệ thống chính sách
bảo hiễm xã hội, khơng chỉ bởi tính nhân văn, nhân đạo sâu sắc mà cịn góp
phần tái sản xuất sức lao động xã hội. Hằng năm, trợ cấp thai sản đã góp phần
bảo vệ quyền lợi cho hàng trăm ngàn phụ nữ và trẻ em, góp phần đảm bảo an
ninh, trật tự, an toàn xã hội.

Trong hệ thống các chế độ BHXH, chế độ bảo hiểm thai sản ngoài ý
nghĩa đảm bảo thu nhập cho người phụ nữ còn có ý nghĩa xã hội và tính nhân
văn rất lớn, đóng góp để tái sản xuất dân số và duy trì nịi giống. Với việc
tham gia BHXH, đặc biệt là chế độ thai sản đảm bảo được thu nhập và ổn
định cuộc sống đối với lao động nữ khi họ mang thai, sinh đẻ hay nuôi con
trong một thời gian ngắn. Nó có một vị trí quan trọng đối với lao động nữ,
nhằm động viên, khuyến khích và hỗ trợ người mẹ khi họ mang thai, sinh sẻ

1


và nuôi con sơ sinh. Cùng với các chế độ bảo hiểm khác, chế độ bảo hiểm thai
sản ở nước ta đã được quy định cụ thể trong các văn bản pháp luật lao động từ
khi giành đước chính quyền cho đên nay. Đã qua nhiều lần sửa đổi, bổ sung
nên chính sách bảo hiểm thai sản ngày càng đầy đủ, hoàn thiện và phù hợp
hơn với thực tế đời sống, đáp ứng được mục tiêu về bảo vệ sức khỏe cho lao
động nữ khi mang thai, sinh con và ni con nhỏ.
Tuy nhiên vẫn cịn khá nhiều quy định bất cập, cần phải tiếp tục nghiên
cứu, sửa đổi, bổ sung cho phù hợp, thực tiễn ở Việt Nam nói chung và thành
phố Đà Nẵng nói riêng, dưới sự tác động của nền kinh tế thị trường, trong một
số vấn đề, đối với lao động nữ chưa được đảm bảo thực hiện một cách đầy đủ.
Vì sự ưu việt của chế độ bảo hiểm thai sản có tầm quan trọng đặc biệt
đối với lao động nữ nói chung tạo điều kiện để lao động nữ thực hiện tốt chức
năng làm mẹ vừa tạo điều kiện để lao động nữ thực hiện tốt công tác xã hội
nên việc nghiên cứu đề tài “Chế độ bảo hiểm thai sản theo pháp luật Bảo
hiểm xã hội từ thực tiễn Thành phố Đà Nẵng” là rất cần thiết.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong q trình nghiên cứu tác giả có tham khảo một số cơng trình
nghiên cứu khoa học của người đi trước, như:
Lê Thị Quế (năm 2003), đề tài khoa học về “Thực trạng và giải pháp

hồn thiện chính sách, chế độ thai sản ở Việt Nam”, Bảo hiểm xã hội Việt
Nam, Hà Nội. Đi sâu vào nghiên cứu thực trạng về chính sách, chế độ, quy
định thủ tục và quy trình giải quyết chế độ thai sản từ năm 1995 đến năm
2003. Đánh giá những mặt đạt được và hạn chế về chính sách, chế độ và ciệc
tổ chức quản lý thực hiện chế độ thai sản ở Việt Nam. Đề xuất một số giải
pháp nhằm hồn thiện chính sách, chế độ thai sản cho phù hợp với điều kiện
kinh tế - xã hội hiện nay của Việt Nam.

2


Trần Thuý Lâm (năm 2004), “Bảo hiểm xã hội đối với lao động nữ Thực trạng pháp luật và phương hướng hoàn hiện”, Số Đặc san phụ nữ 3, tr.
50 - 54. Bài viết đề cập những quy định của pháp luật về bảo hiểm xã hội đối
với lao động nữ: chế độ trợ cấp thai sản, chế độ nghỉ chăm sóc con ốm, chế độ
hưu trí. Về cơ bản quyền lợi của lao động nữ trong lĩnh vực BHXH đã được
sự quan tâm ưu đãi của Nhà nước, tuy nhiên, vẫn tồn tại một số điểm còn bất
cấp của pháp luật trong từng chế độ được tác giả chỉ ra và phân tích, cần được
nghiên cứu và hồn thiện nhằm hơn nữa quyền ợi của lao động nữ.
Đỗ Thị Dung (năm 2006), Trường Đại học Luật Hà Nội bài viết về
“Chế độ Bảo hiểm thai sản và hướng hoàn thiện nhằm đảm bảo quyền lợi của
lao động nữ”, Tạp chí Luật học số 3, tr. 80 - 87. Bài viết phân tích, đánh giá
cụ thể các quy định hiện hành của chế độ bảo hiểm thai sản bao gồm: điều
kiện hưởng, thời gian hưởng và mức hưởng bảo hiểm thai sản, tác giả đưa ra
một số kiến nghị góp phần hoàn thiện Dự thảo Luật bảo hiểm xã hội theo
hướng đảm bảo tốt hơn quyền lợi của lao động nữ, tạo điều kiện cho lao động
nữ phát huy có hiệu quả tài năng, trí tuệ góp phần đắc lực vào công cuộc xây
dụng, phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Đặng Thị Thơm (năm 2007), “Chế độ bảo hiểm thai sản ở Việt Nam”,
Luận văn Thạc sĩ Luật Kinh tế, Đại học Quốc gia Hà Nội. Làm sáng tỏ các
quy định và hệ thống chế độ Bảo hiểm thai sản ở Việt Nam về phương diện

pháp lý và thực tiễn thực hiện, đề xuất các giải pháp góp phần hồn thiện
pháp luật về bảo hiểm thai sản và chất lượng thực hiện pháp luật bảo hiểm
thai sản.
Nguyễn Thị Lan Hương (năm 2012), “Pháp luật về bảo hiểm xã hội
đối với lao động nữ ở Việt Nam hiện nay”, Luận văn Thạc sĩ Luật Kinh tế,
Đại học Quốc gia Hà Nội. Đề tài nghiên cứu cả hai phương diện lý luận và
thực tiễn của pháp luật Việt Nam về bảo hiểm xã hội đối với lao động nữ. Đề

3


tài phân tích rõ các chế độ bảo hiểm xã hội Việt Nam đối với lao động nữ: chế
độ chăm sóc con ốm, chế độ thai sản và chế độ hưu trí, thực trạng pháp luật
về bảo hiểm xã hội đối với lao động nữ. Qua đó, đưa ra những phương hướng,
giải pháp hoàn thiện pháp luật về bảo hiểm xã hội đối với lao động nữ và các
mặt công tác khác như tuyên truyền nhằm nâng cao ý thức pháp luật về chế
độ bảo hiểm xã hội đối với lao động nữ, tăng cường công tác thanh tra, kiểm
tra, xử phạt vi phạm... để nâng cao hiệu quả của chế độ bảo hiểm xã hội đối
với lao động nữ cũng như vấn đề bảo vệ lao động nữ trong xã hội.
Nguyễn Hiền Phương (năm 2014), Bảo vệ quyền làm mẹ trong pháp
luật lao động và bảo hiểm xã hội, Tạp chí Luật học (số 06), tr. 48 - 59. Phân
tích, đánh giá thực trạng việc bảo vệ quyền làm mẹ của lao động nữ Việt Nam
theo quy định trong Bộ Luật Lao động và Luật Bảo hiểm xã hội: phân tích và
làm rõ các quy định đảm bảo điều kiện, môi trường làm việc cho lao động nữ
gắn với quyền làm mẹ thơng qua việc xác định chính sách của Nhà nước,
trách nhiệm, nghĩa vụ của người sử dụng lao động và các quyền của lao động
nữ khi mang thai, sinh con. Về chế độ bảo hiểm thai sản, phân tích cụ thể các
quy định về đối tượng và điều kiện hưởng, thời gian nghỉ hưởng chế độ bảo
hiểm thai sản, mức bảo hiểm thai sản theo Luật BHXH, đồng thời chỉ ra một
số hạn chế như việc chi trả mức trợ cấp không đúng với ý nghĩa của Luật hay

nợ lương của NSDLĐ đang rất phổ biến. Từ đó, đề xuất một số kiến nghị
nhằm hồn thiện Bộ Luật lao động và hoàn thiện pháp luật bảo hiểm xã hội
nhằm bảo vệ quyền làm mẹ: thứ nhất, hoàn thiện quy định pháp luật về
BHXH ốm đau và thai sản; thứ hai, nâng cao một số biện pháp nhằm thực thi
hiệu quả quy định pháp luật nhằm bảo đảm quyền làm mẹ của lao động nữ:
tuyên truyền chính sách, pháp luật về BHXH, tăng cường công tác thanh tra,
kiểm tra, xử phạt trong việc thực hiện pháp luật về BHXH, xử lí nghiêm khắc
đối với các doanh nghiệp nợ đọng BHXH.

4


Nguyễn Trung Hiếu (năm 2016), “Pháp luật lao động và bảo hiểm xã
hội dưới góc độ bảo vệ quyền làm mẹ của lao động nữ”, Luận văn Thạc sĩ
Luật Kinh tế, Đại học Luật - Đại học Huế. Luận văn đã làm rõ thực trạng quy
định pháp luật về bảo vệ quyền làm mẹ của lao động nữ các khía cạnh như
bảo vệ quyền làm mẹ của lao động nữ trong pháp luật lao động bao gồm các
vấn đề như thái độ đối xử của người sử dụng lao động với lao động nữ, tuyển
dụng, học nghề, thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi, an toàn lao động, vệ
sinh lao động, bảo hiệm xã hội… Về bảo vệ quyền làm mẹ trong pháp luật
bảo hiểm xã hội, luận văn đã làm rõ các vấn đề về bảo vệ quyền làm mẹ của
lao động nữ bằng quy định về chế độ nghỉ để chăm sóc con ốm; bảo vệ quyền
làm mẹ của lao động nữ bằng quy định về chế độ bảo hiểm thai sản. Về thực
trạng chỉ ra được những thành công mà pháp luật về bảo vệ quyền làm mẹ của
lao động nữ đạt được như Pháp luật lao động và BHXH ngày càng được hoàn
thiện đã tạo cơ sở pháp lý cần thiết để đảm bảo tốt lợi ích của người lao động
nói chung và lao động nữ nói riêng. Đồng thời, cũng chỉ ra một số vi phạm
gây ảnh hưởng đến quyền làm mẹ của lao động nữ.
Một số bài viết như: “Bàn về định hướng cải cách BHXH ở nước ta
trong giai đoạn tới”, “Nâng cao vai trị của cơng đồn với lao động nữ”, Tạp

chí Bảo hiểm xã hội (năm 2018), “Những điểm mới về chế độ bảo hiểm theo
Luật bảo hiểm xã hội năm 2014”, Tạp chí Luật học (số 10). Cũng như tìm
hiểu về các Chế độ bảo hiểm xã hội thai sản ở Việt Nam năm 2017 mới nhất
hiện nay, chế độ trợ cấp thai sản và các trường hợp hưởng chế độ thai sản
mới.
Từ nhiều cách tiếp cận khác nhau, các tác giả đã đi sâu tập trung về các
điều kiện hưởng chế độ thai sản, thời gian và mức hưởng chế độ thai sản, trên
cơ sở đó đưa ra kiến nghị hoàn thiện, nghiên cứu chi tiết pháp luật cũng như
thực trạng pháp luật về bảo hiểm thai sản ở Việt Nam. Tuy nhiên trên thực tế

5


việc thực hiện chế độ bảo hiểm thai sản cho NLĐ vẫn cịn nhiều vướng mắc.
Đặc biệt chưa có nghiên cứu nào được thực hiện trên địa bàn thành phố Đà
Nẵng, do đó, việc tiếp tục nghiên cứu một cách có hệ thống về vấn đề này có
ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc. Đặc biệt những giải pháp của đề tài hy
vọng sẽ đem lại những kết quả thiết thực cho việc hoàn thiện các quy định
pháp luật về bảo hiểm xã hội đối với lao động nữ ở Việt Nam nói chung và
Thành phố Đà Nẵng nói riêng.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu làm rõ một số vấn đề lý luận về chế độ bảo hiểm thai sản,
đánh giá thực trạng chế độ bảo hiểm thai sản từ thực tiễn tại Đà Nẵng, từ đó
đề ra những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực thi.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Chỉ ra và làm rõ một số vấn đề mang tính lý luận cơ bản như: chế độ
thai sản; tìm hiểu quan niệm của quốc tế về vấn đề thai sản và chế độ thai sản,
từ đó chỉ ra những bài học kinh nghiệm cho Việt Nam.
Dựa trên các đặc điểm cụ thể của Đà Nẵng và các quy định hiện hành

của chế độ thai sản, Luận văn luận giải cho những thành công và hạn chế của
việc thực hiện chế độ thai sản ở Đà Nẵng trong thời gian qua.
Trên cơ sở những kết quả nghiên cứu lý luận và thực tiễn, Luận văn chỉ
ra những định hướng, giải pháp hoàn thiệ chế độ bảo hiểm thai sản nâng cao
hiệu quả thực thi chế độ thai sản.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu quy phạm bảo hiểm thai sản theo pháp luật bảo
hiểm xã hội của Việt Nam hiện nay.

6


4.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu thực tiễn thực hiện chế độ bảo hiểm thai sản trên
địa bàn thành phố Đà Nẵng trong khoảng thời gian từ năm 2014 đến nay. Do
hạn chế về thời gian nghiên cứu, luận văn chưa đề cập đến vấn đề giải quyết
tranh chấp liên quan đến chế độ bảo hiểm thai sản và xử lý vi phạm.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Luận văn sử dụng phương pháp luận của Chủ nghĩa Mác Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh và chủ trương đường lối, chính sách, pháp luật của Đảng
và Nhà nước làm kim chỉ nam cho quá trình nghiên cứu.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình thực hiện đề tài, tác giả sử dụng các phương pháp
nghiên cứu sau:
- Phương pháp phân tích và tổng hợp lý thuyết: nghiên cứu các tài liệu,
lý luận khác nhau về bảo hiểm thai sản bằng cách phân tích chúng thành từng
bộ phận để tìm hiểu sâu sắc về đối tượng, sau đó liên kết từng mặt, từng bộ
phận thơng tin đã được phân tích tạo ra một hệ thơng lý thuyết mới đầy đủ và

sâu sắc về chế độ bảo hiểm thai sản.
- Phương pháp thu thập thông tin: dựa trên nguồn thông tin sơ cấp và
thứ cấp thu thập được từ những tài liệu nghiên cứu trước đây về chế độ bảo
hiểm thai sản để xây dựng cơ sở luận cứ để chứng minh giả thuyết.
- Phương pháp hệ thống hóa lý thuyết: sắp xếp những thơng tin đa dạng
thu thập được từ các nguồn, các tài liệu khác nhau về chế độ bảo hiểm thai
sản thành một hệ thống với một kết cấu chặt chẽ để từ đó mà xây dựng một lý
thuyết hoàn chỉnh.
Đồng thời kế thừa có chọn lọc kết quả nghiên cứu của một số cơng
trình khoa học đã được cơng bố.

7


6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Luận văn làm rõ hơn một số vấn đề lý luận cơ bản về chế độ bảo hiểm
thai sản cho lao động nữ như: khái niệm chế độ bảo hiểm thai sản; nội dung
pháp luật của chế độ bảo hiểm thai sản; nghiên cứu và khảo kinh nghiệm một
số nước và pháp luật quốc tế về chế độ thai sản.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Luận văn cung cấp các luận cứ khoa học cho việc nghiên cứu, xây dựng
và hoàn thiện chế độ bảo hiểm thai sản ở Việt Nam hiện nay.
Luận văn cũng là tài liệu tham khảo cho các hoạt động nghiên cứu,
giảng dạy đại học và sau đại học về chế độ thai sản.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục,
luận văn được cơ cấu thành ba chương chính sau:
Chương 1: Khái quát chung về chế độ bảo hiểm thai sản theo pháp luật
bảo hiểm xã hội

Chương 2: Thực trạng áp dụng chế độ thai sản đối với lao động nữ tại
thành phố Đà Nẵng
Chương 3: Giải pháp hoàn thiện các quy định về chế độ bảo hiểm thai
sản ở Việt Nam hiện nay

8


CHƯƠNG 1
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ CHẾ ĐỘ BẢO HIỂM THAI SẢN THEO
PHÁP LUẬT BẢO HIỂM XÃ HỘI
1.1. Khái niệm chế độ bảo hiểm thai sản
Dưới góc độ pháp lý, chế độ bảo hiểm thai sản là một trong các chế độ
BHXH, bao gồm các quy định của Nhà nước nhằm đảm bảo thu nhập và đảm
bảo sức khoẻ cho lao động nữ nói riêng khi mang thai, sinh con và cho người
lao động nói chung khi nhận ni con ni sơ sinh, thực hiện các biện pháp
tránh thai.
Tình trạng thai sản bao gồm: mang thai, sinh con, nhận nuôi con nuôi
sơ sinh, sẩy thai, nạo, hút thai, thai chết lưu, thực hiện các biện pháp tránh
thai. Chế độ thai sản được cấu thành bởi các nội dung: điều kiện hưởng chế
độ thai sản, nguyên tắc của chế độ bảo hiểm thai sản, thời gian nghỉ hưởng
chế độ thai sản, mức hưởng chế độ thai sản và chế độ nghỉ dưỡng sức, phục
hồi sức khỏe sau sinh. Chế độ thai sản do quỹ bảo hiểm ốm đau và thai sản
chi trả.
So với các chế độ khác, đối tượng của chế độ bảo hiểm thai sản chủ yếu
là lao động nữ trong độ tuổi sinh đẻ khi khám thai, bị sẩy thai, nạo hút thai
hoặc thai chết lưu, sinh con, nuôi con sơ sinh hoặc thực hiện các biện pháp
tránh thai. Thông qua việc bù đắp một phần chi phí tăng lên, mục đích trợ
giúp, giữ cân bằng về thu nhập, góp phần tạo sự bình ổn về mặt vật chất, bảo
vệ sức khoẻ cho lao động nữ và người lao động. Hiện nay, chế độ thai sản

được quy định trong pháp luật của hầu hết các nước trên thế giới nhưng tuỳ
vào đặc điểm kinh tế, chính trị, xã hội của mỗi nước mà chế độ này quy định
khác nhau về thời gian nghỉ, mức trợ cấp, điều kiện hưởng,…

9


Chế độ bảo hiểm thai sản cũng như các chính sách xã hội đối với lao
động nữ nói chung, vừa tạo điều kiện để lao động nữ thực hiện tốt chức năng
làm mẹ, vừa tạo điều kiện để lao động nữ thực hiện tốt công tác xã hội. Trong
các quy định riêng về bảo hiểm xã hội đối với lao động nữ, bảo hiểm thai sản
được coi là chế độ bảo hiểm đặc thù, nó tạo điều kiện để người lao động chủ
yếu là lao động nữ thực hiện tốt chức năng làm mẹ, nhưng quan trọng hơn là
tạo điều kiện cho lao động nữ thực hiện tốt công tác xã hội.
- Đối với người lao động:
Chế độ thai sản có vai trị bù đắp một phần thiếu hụt về thu nhập của
người lao động. Trong thời kỳ thai sản, người lao động phải nghỉ việc, khơng
có lương, vì thế thu nhập sẽ bị giảm. Chế độ thai sản trợ cấp cho người lao
động một mặt bù đắp được thu nhập bị giảm, mặt khác hỗ trợ được các khoản
chi phí tăng thêm như: mua sắm dụng cụ, tã lót, sữa,…cho em bé, tăng cường
dinh dưỡng cho mẹ. Đồng thời, giúp thực hiện tốt chức năng và bảo vệ quyền
làm mẹ, làm vợ của người phụ nữ. Bên cạnh đó, giúp cho tâm lý của người
lao động ổn định, đặc biệt là người lao động khi họ có nhu cầu có con, xin
con ni, giúp họ có thời gian chăm sóc con cái, bảo vệ sức khoẻ của cả mẹ
và con, khơng lo lắng về chi phí sinh con khi không tham gia lao động. Đặc
biệt trong thời kỳ thai sản, người lao động bị giảm thu nhập do không có thời
gian tập trung nhiều cho cơng việc mà phải dành thời gian trong thời kỳ khám
thai, chăm sóc con sơ sinh… nên nhờ có chế độ thai sản đã hỗ trợ một phần
lớn chi phí của lao động trong thời kỳ thai sản.
- Đối với người sử dụng lao động:

Thực hiện tốt chế độ thai sản sẽ góp phần thu hút lao động nữ vào các
doanh nghiệp, mà hiện nay lực lượng nữ tham gia lao động ngày càng lớn, có
tay nghề và trình độ ngày càng cao trong các lĩnh vực hoạt động sản xuất
hàng hoá và dịch vụ. Thơng qua chính sách này người sử dụng lao động thể

10


hiện trách nhiệm và nghĩa vụ của mình đối với người lao động và đối với toàn
xã hội, nếu thực hiện tốt chính sách này sẽ thu hút được một lực lượng lớn lao
động, đặc biệt là lao động nữ đã và đang ngày càng tham gia vào tất cả các
hoạt động của đời sống kinh tế xã hội.
- Đối với nền kinh tế - xã hội:
Thực hiện tốt chế độ thai sản góp phần ổn định cuộc sống cho xã hội,
đảm bảo thực hiện chính sách xã hội của mỗi quốc gia. Chế độ thai sản còn
mang ý nghĩa góp phần tái tạo lực lượng lao động lớn cho nền kinh tế trong
tương lai, góp phần dung hồ mối quan hệ người sử dụng lao động và người
lao động giúp cho việc sản xuất diễn ra liên tục giúp tăng trưởng kinh tế.
1.2. Nội dung của chế độ bảo hiểm thai sản
1.2.1. Nguyên tắc của chế độ bảo hiểm thai sản
- Bảo hiểm xã hội là sự bảo đảm về mặt xã hội
Để người lao động có thể duy trì và ổn định cuộc sống khi bị mất sức
lao động tạm thời (ốm đau, thai sản, tai nạn lao động v.v... ). Đây là nguyên
tắc đảm bảo ý nghĩa và tính chất của bảo hiểm. Nó vừa mang giá trị vật chất,
vừa mang tính xã hội. Điểm này được thể hiện trước hết là sự bảo đảm bằng
vật chất (qua các chế độ BHXH). Mức bảo đảm về vật chất cũng là yếu tố
quan trọng ảnh hưởng tới yếu tố tham gia vào BHXH và vì vậy ảnh hưởng
đến sự phát triển của sự nghiệp này. Về mặt xã hội, theo nguyên tắc này,
BHXH lấy số đông bù số ít, lấy quãng đời lao động thực tế có thu nhập là cơ
số để bảo đảm cho quãng đời không tham gia vào lao động (mất sức lao động

hay cao tuổi).
- Bảo hiểm xã hội vừa mang tính bắt buộc, vừa mang tính tự nguyện
Tính bắt buộc thể hiện ở nghĩa vụ tham gia tối thiểu (thời gian mức
đóng bảo hiểm v.v...). Như vậy, Nhà nước đóng vai trị tổ chức, định hướng
để người lao động và người sử dụng lao động hiểu được nghĩa vụ và trách

11


nhiệm hợp lý tham gia vào các quan hệ về BHXH. Điều này được thể chế hoá
trong Bộ luật Lao động và các văn bản pháp quy khác về BHXH. Tính tự
nguyện có ý nghĩa khuyến khích mức tham gia, các loạI hình và chế độ bảo
hiểm, mà người lao động có thể tham gia trên cơ sở sự phát triển của hệ thống
BHXH của một số nước trong từng giai đoạn nhất định. Nguyên tắc này cho
phép BHXH có điều kiện để phát triển và mở rộng hơn.
- Xác định đúng đắn mức tối thiểu của các chế độ Bảo hiểm xã hội
Vấn đề này có quan hệ trực tiếp đến các khía cạnh có liên quan đến
việc thiết kế các chính sách và nội dung cụ thể của từng chế độ BHXH. Mức
tối thiểu của các chế độ BHXH là mức đóng định kỳ (hàng tháng), mức thời
gian tối thiểu để tham gia và được hưởng các chế độ BHXH cụ thể. Các mức
tối thiểu này, khi thiết kế thường dựa vào tiền lương tối thiểu, tiền lương bình
quân, quảng đời lao động v.v... Mặt khác, mức tối thiểu cịn phải tính đến giá
trị của các chế độ BHXH mà người tham gia được hưởng. Nguyên tắc này
liên quan trức tiếp đến việc tạo nguồn, xây dựng quỹ BHXH, và khuyến khích
người lao động và các tầng lớp xã hội tham gia.
- Bảo hiểm xã hội phải đảm bảo sự thống nhất và liên tục cả về mức
tham gia và thời gian thức hiện, đảm bảo quyền lợi của người lao động
Nguyên tắc này đảm bảo sự thích hợp của BHXH trong cơ chế thị
trường, trong đó sự di chuyển và biến động lao động có thể xảy ra, thậm trí
mang tính thường xuyên. Sự thay đổi nơi làm việc và thay đổi hợp đồng lao

động cả vể nội dung đối tác v.v… tạo ra những giai đoạn có thể về thời gian
và khơng gian của q trình làm việc. Điều này có thể xảy ra trong cả các
quan hệ về BHXH. Việc đảm bảo cho người tham gia BHXH có thể duy trì
quan hệ một cách liên tục theo thời gian có tham gia và thống nhất về các chế
độ sẽ tạo ra sự linh hoạt cần thiết và thuận tiên cho người lao động tham gia
vào các quan hệ BHXH tốt hơn, đầy đủ và tích cực hơn. Do vậy, mức tham

12


gia và thời gian thực tế tham gia là căn cứ chủ yếu nhất đẻ duy trì quan hệ
BHXH đối với người lao động.
- Công bằng trong Bảo hiểm xã hội:
Đây là nguyên tắc rất quan trọng song cũng rất phức tạp trong chính
sách BHXH. Quan hệ BHXH được thực hiên trong một thời gian dài, cả trong
và ngoài quá trình lao động. Trong q trình đó có thể có sự thay đổi diễn ra.
Mức và thời gian tham gia của từng người và mức hưởng lương của họ cũng
có thể không giống nhau. Việc theo dõi và ghi nhận các vấn đề này không đơn
giản nhất là trong điều kiện một hệ thống BHXH đang cịn có những khác biệt
về đối tượng thành phần và khu vực tham gia ở nước ta hiện nay. Do vậy đảm
bảo công bằng trong BHXH là rất cần thiết nhưng rất khó đảm bảo tính tuyệt
đối.
Sự cơng bằng, trước hết là phải đặt trong trong quan hệ giữa đóng góp
và được hưởng. Điều này được thể hiên trong nội dung và điều kiên tham gia
trong từng chế độ về BHXH. Xét trên góc độ khác, cơng bằng cịn đặt trong
các quan hệ xã hội giữa những người tham gia BHXH trong từng khu vực hay
giữa các vùng, địa bàn, ngành nghề khác nhau v.v… dựa trên nguyên tắc tính
xã hội của bảo hiểm.
1.2.2. Điều kiện hưởng chế độ bảo hiểm thai sản
- Về đối tượng hưởng chế độ bảo hiểm thai sản:

Đối tượng của chế độ bảo hiểm thai sản chủ yếu là lao động nữ trong
độ tuổi sinh đẻ khi khám thai, bị sẩy thai, nạo hút thai hoặc thai chết lưu, sinh
con, nuôi con sơ sinh hoặc thực hiện các biện pháp tránh thai.
Công ước số 102 - Công ước về quy phạm tối thiểu về an toàn xã hội,
năm 1952 chỉ rõ: “Trường hợp bảo vệ bao gồm thai nghén, sinh đẻ và những
hậu quả tiếp theo, và sự gián đoạn thu nhập nảy sinh như pháp luật của quốc
gia quy định” [53]. Đồng thời Công ước cũng quy đinh những người được

13


hưởng chế độ thai sản phải bao gồm: “Mọi phụ nữ thuộc làm công ăn lương
được quy định, tổng số ít nhất chiếm 50% tồn bộ người làm cơng ăn lương,
hoặc mọi phụ nữ được quy định trong dân số hoạt động kinh tế, và tổng số ít
nhất chiếm 20 % toàn bộ người thường trú; hoặc bao gồm mọi phụ nữ thuộc
những loại làm công ăn lương được quy định, và tổng số ít nhất chiếm 50%
tồn bộ người làm công ăn lương làm việc trong các doanh nghiệp công
nghiệp đang sử dụng 20 người trở lên; trong trường hợp trợ cấp y tế về thai
sản thì bao gồm cả vợ của những người thuộc các loại này. [5354]
Theo Công ước số 103 - Công ước về bảo vệ thai sản, xét lại năm 1952
quy định thì chế độ thai sản “áp dụng cho những phụ nữ làm việc trong các cơ
sở công nghiệp và trong các công việc phi công nghiệp và nông nghiệp, kể cả
những phụ nữ làm công ăn lương, làm việc tại nhà” [54]. Và từ “phụ nữ” ở
đây là chỉ nữ giới, ở bất kỳ độ tuổi, quốc tịch, chủng tộc, hoặc tín ngưỡng tơn
giáo nào, có kết hơn hay khơng, và từ “con” là chỉ mọi đứa con sinh ra trong
hoặc ngoài giá thú [54]. Với mục đích của Cơng ước là nhằm đảm bảo cho
mọi lao động nữ, trẻ sơ sinh đều được chăm sóc cần thiết và được bảo vệ mức
sống đủ cho mẹ con trong thời kỳ người mẹ sinh con phải nghỉ việc mà khơng
hề có sự phân biệt đối xử nào về tôn giáo, chủng tộc, nghề nghiệp, độ tuổi...
Và trong Công ước số 156 - Công ước về bình đẳng cơ may và đối xử

với lao động nam và lao động nữ: những người có trách nhiệm gia đình, năm
1981 thì đối tượng được bảo vệ khơng chỉ là lao động nữ mà cả lao động nam
và nữ, những người có trách nhiệm trong gia đình, đây được xem là điểm tiến
bộ nhất của Công ước này, nhằm nâng cao nhận thức về bình đẳng giới. [55]
- Về điều kiện hưởng chế độ bảo hiểm thai sản:
Điều kiện hưởng chế độ thai sản yêu cầu hai điều kiện cơ bản đó là:
những người đang mang thai hoạc sinh đẻ có tham gia BHXH và phải có thời
gian đóng góp tối thiểu trước khi sinh. Thời gian này được quy định theo điều

14


kiện của mỗi quốc gia trong từng thời kỳ, thông thường các nước yêu cầu thời
gian đóng góp tối thiểu trong khoảng từ 6 tháng đến 12 tháng.
Cụ thể, ở Argentina, điều kiện về thời gian đóng góp tối thiểu trước khi
sinh là 10 tháng liên tục trước khi nghỉ thai sản hoặc đã có 6 tháng trước khi
sinh trong đó có 1 tháng làm việc ngay trước khi sinh. Hay ở Đức, thời gian
này là 12 tuần tham gia bảo hiểm hoặc có thời gian làm việc liên tục 4 đến 10
tháng trước khi sinh. Tại Pháp là 200 giờ làm việc trong 3 tháng cuối cùng
tước khi sinh. Với mục đích là tránh việc người chủ sử dụng lao động chấm
dứt HĐLĐ khi người lao động sinh con và tránh thâm hụt quỹ tài chính
BHXH.
Sở dĩ, cần quy định cụ thể về điều kiện hưởng chế độ thai sản là NLĐ
tham gia BHXH và có thời gian đóng góp tối thiểu trước sinh nhằm đảm bảo
về mặt tài chính cho quỹ BHXH khi chi trả các chế độ bảo hiểm thai sản và
mặt khác, nhằm ngăn chặn những tình trạng lạm dụng, trục lợi quỹ bảo hiểm
xã hội.
- Về thủ tục hồ sơ hưởng bảo hiểm thai sản:
Phụ nữ thuộc đối tượng được nghỉ thai sản, phải xuất trình một giấy
chứng nhận y tế dự tính thời điểm sinh đẻ của mình. Khi lập giấy chứng nhận

y tế hoặc các xác nhận thích hợp khác, theo quy định của luật pháp và thực
tiễn, phải nêu rõ ngày sinh dự kiến.
Điều 3, Công ước số 103 - Công ước về bảo vệ thai sản, xét lại năm
1952 quy đinh: “Phụ nữ thuộc đối tượng được áp dụng Công ước này đều có
quyền được nghỉ thai sản, khi xuất trình một giấy chứng nhận y tế dự tính thời
điểm sinh đẻ của mình” [54]. Tại Điều 4, Cơng ước số 183 - Công ước Công
ước về sửa đổi Công ước Bảo vệ thai sản (đã sửa đổi) quy định “Khi lập giấy
chứng nhận y tế hoặc các xác nhận thích hợp khác, theo quy định của luật
pháp và thực tiễn, nêu rõ ngày sinh dự kiến, người phụ nữ thuộc phạm quy áp

15


dụng của Công ước này sẽ được hưởng một thời gian nghỉ thai sản không
dưới 14 tuần”. [56]
1.2.3. Chế độ và quyền lợi
1.2.3.1. Thời gian hưởng chế độ bảo hiểm thai sản
Thời gian nghỉ hưởng chế độ thai sản bao gồm thời gian khi thai nghén,
sinh đẻ và những hậu quả tiếp theo sau sinh.
“Độ dài thời gian nghỉ thai sản ít nhất là 12 tuần, trong đó một phần
thời gian bắt buộc phải nghỉ sau khi sinh đẻ” theo Khoản 2 Điều 3, Công ước
số 103 - Công ước về bảo vệ thai sản, xét lại năm 1952 quy định.
“Độ dài thời gian bắt buộc phải nghỉ sau sinh đẻ sẽ do pháp luật hoặc
pháp quy quốc gia quy định, nhưng bất kỳ trường hợp nào cũng không được
dưới 6 tuần; phần còn lại, tùy theo pháp luật hoặc pháp quy quốc gia quy
định, nhưng có thể nghỉ vào trước thời điểm dự tính sinh đẻ, hoặc sau thời
điểm đã hết thời gian nghỉ bắt buộc, hoặc là chia ra một phần nghỉ trước thời
điểm thứ nhất và một phần nghỉ sau thời điểm thứ hai nói trên”, Khoản 3,
Điều 3 Công ước 103 về bảo vệ thai sản năm 1952 quy định. Thông thường,
các nước sẽ quy định cả thời gian nghỉ cả trước khi sinh và sau khi sinh để

đảm bảo sức khỏe cho cả mẹ và trẻ sơ sinh được ổn định.
Hay theo Công ước số 183 - Công ước Công ước về sửa đổi Công ước
Bảo vệ thai sản (đã sửa đổi) quy định “Để bảo vệ sức khỏe bà mẹ và trẻ sơ
sinh, thời gian nghỉ thai sản bao gồm 6 tuần nghỉ bắt buộc sau sinh” và “Thời
gian nghỉ mang thai được nới rộng bằng thời gian giữa ngày sinh dự kiến và
ngày sinh thức tế mà không bị giảm thời gian nghỉ bắt buộc sau sinh”. [56]
Và theo Khuyến nghị 191 - Khuyến nghị về Sửa đổi Khuyến nghị Bảo
vệ thai sản năm 1952 “Các Nước thành viên cần cố gắng tăng thời gian nghỉ
thai sản theo Điều 3 của Công ước 103 lên ít nhất là 18 tuần. Cần có quy định
kéo dài thời gian nghỉ thai sản trong trường hợp đa sinh. Cần có các biện pháp

16


đảm bảo rằng người phụ nữ có quyền tự do chọn lựa thời gian nghỉ thai sản
trước hoặc sau khi sinh nở”. [57]
Cụ thể, mỗi quốc gia quy định về thời gian hưởng chế độ bảo hiểm thai
sản khác nhau phụ thuộc vào điều kiện kinh tế - xã hội, đặc điểm lao động…
Pháp luật Đức quy định thời gian nghỉ thai sản tổng cộng 14 tuần bắt đầu
trước khi sinh con sinh 6 tuần và kết thúc sau khi sinh 8 tuần, nếu đa thai thời
gian nghỉ có thể kéo dài 12 tuần; trong khoảng thời gian này sản phụ bắt buộc
phải nghỉ ở nhà, thời gian nghỉ dài nhất có thể khi con đủ 3 tuổi, trong đó có
một năm là nghỉ phép có lương.
Theo quy định pháp luật hiện hành của Anh sản phụ có thể nghỉ 26 tuần
(làm việc toàn thời gian hoặc bán thời gian), sản phụ có thể nghỉ trước ngày
dự sinh 11 tuần. Nếu người mẹ không nghỉ hết thời gian thai sản đã đi làm lại
thì người cha có thể tiếp tục nghỉ. Người cha có thể nghỉ phép 2 tuần: hưởng
lương cơ bản trong tuần đầu và nhận trợ cấp chính phủ trong tuần thứ hai.
Tuy nhiên, người cha bắt buộc phải nghỉ phép trong thời gian từ khi đứa trẻ
sinh đến 56 ngày, q hạn sẽ khơng cịn hiệu lực.

Các bà mẹ ở Pháp có lẽ là những người được hưởng chế độ thai sản ưu
đãi nhất nhì thế giới. Khi sinh nở, phụ nữ Pháp được hưởng 16 tuần nghỉ thai
sản hưởng nguyên lương cho hai con đầu và lên đến 26 tuần cho con thứ ba
trở đi. Thêm vào đó, người mẹ cịn được nghỉ phép và bảo lưu việc làm cùng
thu nhập đến 3 năm để ở nhà chăm sóc con, được nhận trợ cấp chăm sóc trẻ
và các trợ cấp khác khá hào phóng. Tất cả những chính sách tuyệt vời này
nhằm thúc đẩy tỷ lệ sinh của Pháp – vốn đang trên đà xuống dốc chung của
các nước Châu Âu.
Ngoài ra, nếu sinh đẻ sau thời điểm đã dự tính, thì trong mọi trường
hợp, thời gian đã nghỉ trước đó sẽ được kéo dài cho tới thời điểm sinh đẻ thực
tế và độ dài thời gian bắt buộc phải nghỉ sau khi sinh đẻ sẽ khơng được vì thế

17


mà giảm bớt, đảm bảo đủ thời gian đủ thời gian nghỉ sau sinh bắt buộc ít nhất
là 6 tuần. Sở dĩ, các Công ước đều quy định thời gian nghỉ bắt buộc sau sinh ít
nhất là 6 tuần, vì đây là thời gian tối thiểu đảm bảo khả năng phục hồi sức
khỏe cho mẹ và cả trẻ sơ sinh.
Ngoài ra Khuyến nghị 191 - Khuyến nghị về Sửa đổi Khuyến nghị Bảo
vệ thai sản năm 1952 cũng quy định thêm về trường hợp hưởng chế độ của
người cha như sau: “Trong trường hợp người mẹ tử vong trước khi hết thời
gian nghỉ sau sinh thì người cha đang làm việc phải được quyền nghỉ với thời
gian tương đương với thời gian mà người mẹ chưa nghỉ hết; trong trường hợp
người mẹ ốm đau hoặc nằm viện sau khi sinh và trước khi hết thời gian nghỉ
sau khi sinh mà người mẹ khơng thể chăm sóc được trẻ thì người cha phải
được quyền nghỉ một thời gian tương đương với thời gian nghỉ sau sinh mà
người mẹ chưa nghỉ hết để chăm sóc trẻ theo luật định và thơng lệ ở nước đó;
người mẹ hay người cha của trẻ phải có quyền nghỉ chăm sóc con sau khi hết
thời gian nghỉ thai sản”. [57]

Thực tế, các quốc gia trên thế giới đã có những quy định khác nhau và
linh hoạt về thời gian nghỉ hưởng chế độ thai sản của người cha. Cụ thể,
Iceland - một trong những quốc gia có chế độ ưu đãi tuyệt vời nhất dành cho
các bà mẹ. Chế độ nghỉ thai sản đã có ở quốc gia này đã có từ những năm
1970, và năm 2012 một chính sách mới mang tên 5-2-5 đã được ra đời. Chính
sách này cho phép các bà mẹ và ông bố mỗi người được nghỉ 5 tháng khi có
con. Thêm 2 tháng nghỉ nữa hai người có thể tự thỏa thuận phân chia với
nhau. Ngoài ra, các vị phụ huynh cũng có đến 2 năm để sử dụng thời gian
nghỉ này và được hưởng 80% thu nhập trong thời gian đó. Hay ở Đan Mạch,
mỗi cặp vợ chồng ở đây khi sinh con sẽ được nghỉ tổng cộng 1 năm, trong đó,
thời gian nghỉ của các bà mẹ là 18 tuần, các ông bố là 2 tuần, và 32 tuần còn
lại sẽ được chia cho cả bố và mẹ. Ở Singapore, từ năm 2013 người chồng có

18


thể nghỉ một tuần có lương để giúp đỡ người vợ mới sinh. Trường hợp người
vợ sẵn sàng chia sẻ một tuần trong 4 tháng nghỉ thai sản của mình cho chồng
thì người chồng có thể hưởng thêm một tuần nghỉ nữa. Lương trong 2 tuần
nghỉ phép này của người chồng sẽ do Chính phủ chi trả. Số tiền cao nhất mỗi
tuần là khoảng 38 triệu VND.
Ngoài ra trong thời gian ni con nhỏ, phụ nữ có quyền nghỉ một hoặc
một số lần hay giảm thời gian làm việc để cho con bú. Thời gian nghỉ, số lần
nghỉ hoặc giảm giờ làm việc được quy định cụ thể tùy theo mỗi quốc gia.
Nhưng thời gian này tính vào thời gian làm việc và do đó, người lao động nữ
vẫn được tính lương đầy đủ. Khuyến nghị số 191 cịn quy định các hình thức
nghỉ liên quan như sau: trường hợp người mẹ tử vong trước khi hết thời gian
nghỉ sau khi sinh thì người cha đang làm việc phải được qyền nghỉ một thời
gian tương đương với thời gian nghỉ sau sinh mà người mẹ chưa nghỉ hết để
chăm sóc trẻ sau khi sinh của quy luật hiện hành.

1.2.3.2. Mức hưởng chế độ bảo hiểm thai sản
Trợ cấp chế độ thai sản có hai phương thức thực hiện là trợ cấp bằng
tiền và chăm sóc y tế:
- Đối với chăm sóc y tế:
Đối với trường hợp thai nghén, sinh đẻ và các hậu quả của sự kiện này
(nếu có), người lao động nữ sẽ được hưởng trợ cấp y tế về thai sản, trợ giúp
về y tế bao gồm sự chăm sóc trước khi đẻ, trong khi đẻ và sau khi đẻ, do một
người đỡ đẻ có bằng cấp hoặc một thầy thuốc phụ trách và cả việc nằm viện
nếu cần thiết, các dịch vụ hỗ tợ y, dược, khám thử, chăm sóc răng, kể cả giải
phẫu và nằm viện khi cần thiết.
Công ước số 102 - Công ước về quy phạm tối thiểu về an toàn xã hội
đã quy định rõ “Chăm sóc y tế phải nhằm bảo tồn, phục hồi hoặc cải thiện
sức khỏe của người phụ nữ được bảo vệ, và cả khả năng làm việc, khả năng

19


×