Tải bản đầy đủ (.pdf) (82 trang)

Phát triển kinh tế làng nghề gắn với bảo vệ môi trường trên địa bàn huyện Hoài Đức, thành phố Hà Nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (962.12 KB, 82 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

VƯƠNG THỊ THU

PHÁT TRIỂN KINH TẾ LÀNG NGHỀ GẮN VỚI BẢO
VỆ MƠI TRƯỜNG TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN HỒI ĐỨC,
THÀNH PHỐ HÀ NỘI

Ngành: QUẢN LÝ KINH TẾ
Mã số

: 8340410

LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ KINH TẾ

Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS. Bùi Quang Tuấn

HÀ NỘI, 2018


LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của riêng tôi.Các số liệu, kết
quả nêu trong luận văn là hoàn toàn trung thực.Những kết luận trong luận văn
chưa từng được công bố trong bất kỳ một cơng trình nào khác.
Tác giả luận văn
Vương Thị Thu


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT


Ý NGHĨA

STT

TỪ VIẾT TẮT

1

BOD

Nhu cầu ôxy hóa sinh học

2

COD

Nhu cầu ôxy hóa học

3

CNH

Công nghiệp hóa

4

HĐH

Hiện đại hóa


5

KTXH

Kinh tế xã hội

6

QCCP

Quy chuẩn cho phép

7

UBND

Ủy ban nhân dân

8

CCN

Cụm công nghiệp

9

NXB

Nhà xuất bản



MỤC LỤC
MỞ ĐẦU

1

CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ PHÁT
TRIỂN KINH TẾ LÀNG NGHỀ GẮN VỚI BẢO VỆ MƠI TRƯỜNG

6

1.1.Đặc điểm và vai trị của làng nghề truyền thống trong phát triển kinh tế xã hội 6
1.2. Các yếu tố ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế làng nghề

18

1.3 . Phát triển kinh tế làng nghề gắn với bảo vệ môi trường sinh thái

22

1.4. Kinh nghiệm phát triển kinh tế làng nghề gắn với bảo vệ mơi trường trong và
ngồi nước và bài học rút ra cho huyện Hoài Đức

28

CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN KINH TẾ LÀNG NGHỀ GẮN
VỚI BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG Ở HUYỆN HOÀI ĐỨC, THÀNH PHỐ HÀ NỘI
GIAI ĐOẠN 2011 – 2017

33


2.1. Đặc điểm tự nhiên, kinh tế xã hội ảnh hưởng đến vấn đề phát triển kinh tế gắn
với bảo vệ môi trường tại các làng nghề ở huyện Hoài Đức, thành phố Hà Nội.

33

2.2. Thực trạng phát triển kinh tế, thực trạng môi trường và bảo vệ môi trường ở các
làng nghề trên địa bàn huyện Hoài Đức

41

2.3. Các chính sách liên quan đến vấn đề phát triển kinh tế làng nghề gắn với bảo vệ
môi trường

44

2.4. Đánh giá chung

46

CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN KINH TẾ LÀNG NGHỀ GẮN VỚI
BẢO VỆ MƠI TRƯỜNG TẠI HUYỆN HỒI ĐỨC, THÀNH PHỐ HÀ NỘI
TỪ NAY ĐẾN NĂM 2025

57

3.1. Bối cảnh và phương hướng của huyện Hoài Đức trong phát triển kinh tế làng
nghề gắn với bảo vệ môi trường

57


3.3. Các điều kiện thuận lợi để thực hiện giải pháp phát triển kinh tế làng nghề gắn
với bảo vệ môi trường của huyện Hoài Đức

73

KẾT LUẬN

75

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

77


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Việt Nam đang trong thời kỳ đổi mới theo hướng cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa
và tăng cường mở rộng giao lưu hợp tác quốc tế về mọi mặt của đời sống kinh tế,
chính trị, xã hội. Nền kinh tế đã có nhiều chuyển biến, đạt nhiều kết quả quan trọng.
Tổng sản phẩm quốc nội tăng nhanh, đời sống vật chất và tinh thần của người dân
ngày càng được đảm bảo. Các báo cáo phát triển kinh tế của Việt Nam nói chung và
Hà Nội nói riêng cho thấy GDP đang khơng ngừng tăng trưởng và đặc biệt Hà Nội
đang có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, nhất là giai đoạn từ năm 2010 đến nay.
Hoài Đức là một huyện ngoại thành của thủ đơ Hà Nội với 53 làng nghề trên
tồn địa bàn huyện cũng khơng nằm ngồi sự phát triển chung của Thủ đơ. Hồi
Đức đang đẩy mạnh phát triển các ngành công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và
thương mại, dịch vụ theo hướng bền vững. Cùng với sự phát triển của kinh tế, văn
hóa, xã hội, thu nhập của người dân cũng tăng lên, đời sống vật chất và tinh thần
của người dân được cải thiện đáng kể.

Do quá trình đơ thị hố, cơng nghiệp hố diễn ra nhanh, kinh tế phát triển
mạnh đặc biệt là kinh tế tại các làng nghề trên địa bàn huyện. Tuy nhiên sự phát
triển ấy về cơ bản vẫn mang tính tự phát, nhỏ lẻ, thiết bị thủ công, đơn giản, công
nghệ lạc hậu, mặt bằng sản xuất nhỏ hẹp cộng thêm ý thức người dân ở một số làng
nghề đối với việc bảo vệ môi trường sinh thái và bảo vệ sức khoẻ con người cịn
hạn chế... đã tạo sức ép khơng nhỏ đến chính chất lượng mơi trường sống của làng
nghề và cộng đồng xung quanh.
Có thể thấy rằng, ơ nhiễm mơi trường làng nghề là ngun nhân chính gây ra
các dịch bệnh cho người dân đang lao động và sinh sống tại chính làng nghề. Tỷ lệ
người mắc bệnh tại các làng nghề đang có xu hướng gia tăng trong những năm gần
đây, tập trung vào một số bệnh, như: các bệnh ngồi da, bệnh đường hơ hấp, bệnh
tiêu hóa hay các bệnh về mắt… Ơ nhiễm mơi trường làng nghề còn gây ảnh hưởng
trực tiếp tới các hoạt động phát triển KTXH của chính làng nghề đó, gây ra những
tổn thất kinh tế không nhỏ và dẫn đến những xung đột môi trường trong cộng đồng.

1


Trước tình hình đó, huyện Hồi Đức cần phải có những chủ trương, chính sách
và biện pháp để giải quyết triệt để vấn đề nêu trên, đưa kinh tế làng nghề phát triển
nhanh, bền vững những vẫn đảm bảo được mơi trường sáng, xanh, sạch, đẹp. Chính
vì vậy cần thiết phải có những cơng trình nghiên cứu khoa học, có đủ độ tin cậy làm
cơ sở lý luận và nhận thức cho những giải pháp cụ thể để triển khai thực hiện.
Xuất phát từ lý do đó, vấn đề “Phát triển kinh tế làng nghề gắn với bảo vệ môi
trường trên địa bàn huyện Hoài Đức, thành phố Hà Nội ” được chọn làm đề tài
nghiên cứu của Luận văn này.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Vấn đề phát triển kinh tế gắn với bảo vệ mơi trường nói chung và vấn đề phát
triển kinh tế làng nghề gắn với bảo vệ mơi trường nói riêng khơng phải là vấn đề
mới, tuy nhiên, trong thời gian qua, vì tính chất cấp thiết của nó nên đã có nhiều tác

giả, nhiều đề tài, nhiều cơng trình khoa học nghiên cứu đề vấn đề này với mức độ,
phạm vi khác nhau.
Trần Minh Yến (2004) có cơng trình “Làng nghề truyền thống trong quá trình
CNH, HĐH”. Nghiên cứu này đề cập đến một số lý luận cơ bản của Làng nghề
Truyền thống, Tác giả tập trung phân tích thực trạng cũng như xu hướng vận động
của Làng nghề truyền thống ở nông thôn nước ta, trên cơ sở đó đề xuất quan điểm,
giải pháp phát triển làng nghề truyền thống ở nông thôn nhằm đẩy mạnh quá trình
CNH, HĐH đất nước.
Đặng Thị Kim Chi (2005) và các cộng sự thực hiện đề tài KC 08-09 đã đưa ra
các số liệu về báo động ô nhiễm làng nghề trong cả nước. Các nhà khoa học đã
nhận định: Đề tài này đã mở ra hướng nghiên cứu mới về mơi trường ở Việt Nam.
Đó là nghiên cứu, cải thiện môi trường tại các CCN vừa và nhỏ nằm trong vùng
nông thôn với đặc điểm riêng về truyền thống văn hóa, xã hội tồn tại ở quy mô làng,
xã gắn với sản xuất nông nghiệp và hệ tư tưởng của người nông dân. Đây sẽ là cơ
sở cho việc nghiên cứu, ứng dụng các giải pháp bảo vệ môi trường cho những cơ sở
sản xuất vừa và nhỏ, phù hợp với đặc điểm và điều kiện xã hội của Việt Nam.
Báo cáo khoa học “Phát triển kinh tế làng nghề gắn với bảo vệ môi trường;
trường hợp huyện Gia Bình- Bắc Ninh” đã đánh giá tổng quát về thực trạng ô nhiễm

2


môi trường tại các làng nghề trên địa bàn huyện Gia Bình- Bắc Ninh từ đó đề ra giải
pháp khắc phục tình trạng ơ nhiễm mơi trường để phát triển làng nghề bền vững.
Trong số các đề tài liên quan, nội dung chủ yếu đề cập tới vấn đề tăng trưởng
và phát triển kinh tế nói chung gắn với bảo vệ mơi trường trên phạm vi cả nước,
chưa có đề tài nào bàn sâu về vấn đề làm thế nào để giải quyết vấn đề phát triển
kinh tế làng nghề gắn với bảo vệ môi trường tại các làng nghề ở huyện Hồi Đức,
thành phố Hà Nội. Do đó trên cơ sở kế thừa những kết quả nghiên cứu của các cơng
trình khoa học đã cơng bố, tác giả đi sâu tìm hiểu về vấn đề phát triển kinh tế làng

nghề gắn với bảo vệ mơi trường ở huyện Hồi Đức, thành phố Hà Nội trong giai
đoạn hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục tiêu nghiên cứu
Mục tiêu tổng quát:
Mục tiêu của đề tài là đánh giá thực trạng phát triển kinh tế làng nghề gắn với
bảo vệ mơi trường trên địa bàn huyện Hồi Đức, từ đó đề xuất các giải pháp thúc
đẩy phát triển kinh tế làng nghề gắn với bảo vệ môi trường ở huyện Hoài Đức,
thành phố Hà Nội từ nay đến năm 2025.
Mục tiêu cụ thể:
 Hệ thống hố lý luận và tìm hiểu kinh nghiệm thực tiễn về vấn đề phát triển
kinh tế gắn với bảo vệ môi trường tại các làng nghề.
 Phân tích, đánh giá thực trạng phát triển kinh tế làng nghề gắn với bảo vệ
môi trường tại các làng nghề, chỉ ra những kết quả đạt được, các hạn chế và nguyên
nhân của các hạn chế này.


Đề xuất quan điểm và một số giải pháp chủ yếu phát triển kinh tế làng

nghề gắn với bảo vệ môi trường tại các làng nghề huyện Hoài Đức, thành phố Hà
Nội từ nay đến năm 2025.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu:Đối tượng nghiên cứu là vấn đề phát triển kinh tế làng
nghề gắn với bảo vệ môi trường.
Phạm vi nghiên cứu
3


- Về không gian: Nghiên cứu trên địa bàn huyện Hoài Đức, thành phố Hà Nội.
- Về thời gian: Nghiên cứu tình hình phát triển kinh tế làng nghề gắn với bảo

vệ môi trường từ năm 2010 cho đến nay.
-Về nội dung: Luận văn tập trung nghiên cứu phát triển kinh tế theo một số
nội dung chủ yếu có liên quan đến môi trường và bảo vệ môi trường ở các làng
nghề huyện Hoài Đức.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Phương pháp luận
Luận văn áp dụng phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử
của chủ nghĩa Mác – Lê Nin;
Phương pháp thu thập thông tin
Sử dụng liệu thứ cấp: Dựa trên những nguồn số liệu có sẵn để phục vụ cho
việc nghiên cứu đề tài, tác giả lấy số liệu từ các nguồn sau:
Thu thập số liệu thứ cấp từ các cổng thông tin điện tử của huyện Hồi Đức,
phịng Tài ngun - Mơi trường huyện Hoài Đức và các báo cáo của Bộ ngành, cơ
quan, ban ngành liên quan.
Phương pháp phân tích xử lý số liệu
 Phân tích thống kê
Luận văn sử dụng phương pháp phân tích thống kê để từ đó có thể xem xét tình
hình phát triển kinh tế tại các làng nghề, sự phát triển làng nghề gắn với bảo vệ mơi
trường.
 Phân tích so sánh
Luận văn sử dụng phương pháp phân tích so sánh để so sánh tình hình phát triển
kinh tế làng nghề gắn với bảo vệ môi trường giữa các địa phương trong và ngồi
nước.
 Phân tích tổng hợp
Luận văn sử dụng phương pháp phân tích tổng hợp để rút ra các bài học thực tiễn
từ đó đưa ra giải pháp, chính sách hiệu quả.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Luận văn có một số ý nghĩa như sau:
4



- Hệ thống hóa lý luận về phát triển kinh tế làng nghề gắn với bảo vệ mơi
trường huyện Hồi Đức.
- Mô tả được thực trạng và đề xuất các giải pháp trong việc phát triển làng
nghề gắn với bảo vệ mơi trường huyện Hồi Đức.
- Kết quả nghiên cứu của Luận văn góp phần cho việc hoạch định chủ trương,
chính sách phát triển kinh tế gắn với vấn đề bảo vệ mơi trường tại các làng nghề,
góp phần nâng cao hiệu quả phát triển kinh tế xã hội trên địa bàn huyện Hoài Đức.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 3 chương, cụ thể như sau:
- Chương 1: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về phát triển kinh tế làng
nghề gắn với bảo vệ môi trường.
- Chương 2: Thực trạng vấn đề phát triển kinh tế làng nghề gắn với bảo vệ
mơi trường ở huyện Hồi Đức, thành phố Hà Nội giai đoạn 2010 - 2018.
- Chương 3: Giải pháp phát triển kinh tế gắn với bảo vệ mơi trường tại các
làng nghề huyện Hồi Đức, thành phố Hà Nội, từ nay đến năm 2025.

5


CHƯƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ
LÀNG NGHỀ GẮN VỚI BẢO VỆ MƠI TRƯỜNG
1.1. Đặc điểm và vai trị của làng nghề truyền thống trong phát triển kinh tế xã hội
1.1.1. Một số khái niệm
1.1.1.1. Khái niệm “làng nghề” và các khái niệm liên quan
Có nhiều khái niệm về “làng”, tuy nhiên nói chung “làng” hay “ngơi làng” là
một khu định cư của một cộng đồng người, nó lớn hơn xóm, ấp nhưng nhỏ hơn một
thị trấn, với dân số khác nhau, có thể có từ một vài trăm đến một vài ngàn người.

Những ngôi làng thường nằm ở nông thôn, song cũng có những có ngơi làng
thành thị.Làng thường là một điểm tụ cư cố định, với những ngôi nhà cố định, tuy
nhiên cũng có những ngơi làng xuất hiện tạm thời rồi nhanh chóng tan rã. Từ thời
xa xưa, trong tổ chức làng xã, những người nơng dân có mối quan hệ đồn kết gắn
bó với nhau. Trong q trình phát triển, một nhóm người nơng dân tách rời khỏi
nghề nông và chuyển sang những nghề mà xã hội ngày nay gọi đó là ngành tiểu thủ
cơng nghiệp.
“Nghề” xuất hiện trong đời sống xã hội nhằm thỏa mãn nhu cầu làm ăn, sinh
sống của con người. “Nghề" là một lĩnh vực hoạt động mà trong đó, nhờ được đào
tạo, con người có tri thức, những kỹ năng để làm ra các loại sản phẩm về vật chất
hay tinh thần nào đó nhằm đáp ứng nhu cầu của bản thân và xã hội. “Nghề” còn
được định nghĩa trong Từ điển Tiếng Việt là công việc chuyên làm theo sự phân
công của xã hội, ví dụ như: nghề đan lát, nghề may, nghề đan nón,...
Văn hóa tổ chức làng, xã có những ảnh hưởng nhất định đối với các tổ chức
sản xuất tiểu thủ cơng nghiệp. Những nhóm người sản xuất cùng một loại hàng hóa
(các dụng cụ sản xuất nơng nghiệp, đồ gỗ gia dụng, giấy, chiếu, đồ sứ gia dụng,...)
có xu hướng tập trung, tạo thành những phường hội như phường gốm, phường dệt,
phường đúc đồng,... Đây là cơ sở cho sự phát triển các làng nghề ở phía Bắc Việt
Nam.

6


Như vậy, “làng nghề” có thể hiểu theo nhiều cách khác nhau, xin được trích
dẫn 2 nhận định của giáo sư Trần Quốc Vượng và tác giả Bùi Văn Vượng về khái
niệm trên:
Theo giáo sư Trần Quốc Vượng thì “Làng nghề là một làng tuy vẫn còn
trồng trọt theo lối tiểu nơng và chăn ni nhưng cũng có một số nghề phụ khác như
đan lát, gốm sứ, làm tương... song đã nổi trội một nghề cổ truyền, tinh xảo với một
tầng lớp thợ thủ công chuyên nghiệp hay bán chuyên nghiệp, có phường (cơ cấu tổ

chức), có ơng trùm, ơng cả... cùng một số thợ và phó nhỏ, đã chuyên tâm, có quy
trình cơng nghệ nhất định “sinh ư nghệ, tử nghệ”, “nhất nghệ tinh, nhất thân vinh”,
sống chủ yếu được bằng nghề đó và sản xuất ra những mặt hàng thủ cơng, những
mặt hàng này đã có tính mỹ nghệ, đã trở thành sản phẩm hàng và có quan hệ tiếp thị
với một thị trường là vùng rộng xung quanh và với thị trường đô thị và tiến tới mở
rộng ra cả nước rồi có thể xuất khẩu ra cả nước ngoài”(kỷ yếu hội thảo quốc tế “bảo
tồn và phát triển làng nghề truyền thống việt nam” tháng 8/1996. trang 38-39)
Theo tác giả Bùi Văn Vượng thì “Làng nghề là làng cổ truyền làm nghề thủ
công. Ở đấy không nhất thiết tất cả dân làng đều sản xuất hàng thủ công. Người thợ
thủ công nhiều trường hợp cũng đồng thời là người làm nghề nông nhưng yêu cầu
chuyên môn hóa cao đã tạo những người thợ chuyên sản xuất hàng nghề truyền
thống ngay tại quê mình...” – Làng nghề thủ công truyền thống Việt Nam (2002).
Vậy khái niệm làng nghề có thể bao gồm những nội dung sau: “Làng nghề là
một thiết chế KTXH ở nông thôn được cấu thành bởi hai yếu tố làng và nghề, tồn tại
trong một khơng gian địa lý nhất định, trong đó bao gồm nhiều hộ gia đình sinh sống
bằng nghề thủ cơng là chính, giữa họ có mối liên kết về kinh tế, xã hội và văn hóa”.
Q trình phát triển của làng nghề là q trình phát triển tiểu thủ cơng nghiệp
ở nơng thơn. Lúc đầu sự phát triển đó từ một vài gia đình, rồi đến cả họ và sau đó
lan ra cả làng. Trải qua một thời gian dài của lịch sử, lúc thịnh lúc suy, có những
nghề bị mai một hoặc mất hẳn, có những nghề mới ra đời. trong đó có những nghề
đạt tới trình độ cơng nghệ tinh xảo với những kỹ thuật điêu luyện và phân công lao
động khá cao.

7


Theo thời gian, nhiều nghề phụ ban đầu đã thể hiện vai trị to lớn của nó,
mang lại lợi ích thiết thân cho cư dân. Như việc làm ra các đồ dùng bằng mây, tre, ...
phục vụ sinh hoạt hay đồ sắt, đồ đồng phục vụ sản xuất. Nghề phụ từ chỗ chỉ phục
vụ nhu cầu riêng đã trở thành hàng hóa để trao đổi, đã mang lại lợi ích kinh tế to lớn

cho người dân vốn trước đây chỉ trơng chờ vào các vụ lúa. Và cũng chính nhờ
những lợi ích khác nhau do các nghề thủ cơng đem lại mà trong mỗi làng bắt đầu có
sự phân hóa. Nghề đem lại lợi ích nhiều thì phát triển mạnh dần, ngược lại những
nghề mà hiệu quả thấp hay không phù hợp với làng thì dần dần bị mai một. Từ đó
bắt đầu hình thành nên những làng nghề chun sâu vào một nghề duy nhất nào đó,
như làng gốm, làng làm chiếu, làng làm lụa, làng làm đồ đồng...
Hiện nay, nước ta có có hơn 2.000 làng nghề thủ công và làng nghề truyền thống
với rất nhiều nghề khác nhau đang hoạt động. Do sự đa dạng về chủng loại mặt
hàng được sản xuất ra, nên ở nước ta có nhiều loại làng nghề. Dưới đây là một số
tiêu thức dùng để phân loại làng nghề đã có ở Việt Nam.
Thứ nhất, căn cứ vào theo thời gian làm nghề, người ta chia thành làng mới
làm nghề (là những làng mới làm nghề tiểu thủ cơng trong vịng 20-30 năm trở đây)
và là làng nghề lâu đời hay làng nghề truyền thống.
Thứ hai, căn cứ vào tính chất cũ mới của nghề, người ta chia thành làng làm
nghề mới (là làng những nghề mới xuất hiện trong thời gian gần đây theo yêu cầu
của xã hội đòi hỏi hay theo kỹ thuật tạo thành như nghề tái chế phế liệu: tái chế chì,
tái chế nhựa...) và làng làm nghề truyền thống (là loại làng làm nghề truyền thống
hay rất gần với nghề truyền thống).
Thứ ba, căn cứ vào số lượng nghề của làng, người ta chia ra làng 1 nghề (cả
làng chỉ làm một nghề thủ công) và làng nhiều nghề (là làng ngồi nghề nơng ra cịn
làm từ 2 nghề thủ công trở lên hay là loại làng có thêm vừa nghề thủ cơng, vừa nghề
bn).
Thứ tư, vào mặt hàng sản xuất, có thể chia thành làng nghề chế biến lương
thực, thực phẩm; làng nghề sản xuất các mặt hàng thủ công mỹ nghệ; làng nghề làm
đồ gốm sứ; làng nghề làm nghề kim khí; làng nghề sản xuất các mặt hàng tiêu dùng
thông thường; làng nghề sản xuất vật liệu xây dựng.

8



Thứ năm, căn cứ vào trình độ kĩ thuật, có các làng nghề kĩ thuật giản đơn,
làng nghề có kĩ thuật phức tạp.
Làng nghề truyền thống
Quan niệm thứ nhất: Làng nghề truyền thống là một cộng đồng dân cư cư
trú trong một phậm vi địa bàn tại các vùng nông thôn tách rời khỏi sản xuất nông
nghiệp, cùng làm một hoặc nhiều nghề thủ công truyền thống lâu đời, để sản xuất ra
một hoặc nhiều loại sản phẩm bán ra thị trường để thu lợi.
Quan niệm thứ hai: Làng nghề truyền thống là những làng nghề thủ cơng có
truyền thống lâu năm, thường là qua nhiều thế hệ.
Các quan niệm trên mới thể hiện được yếu tố truyền thống lâu đời nhưng
chưa đề cập tới các làng nghề mới nhưng tuân thủ các yếu tố truyền thống của vùng
hay khu vực.
Từ đó, có thể rút ra quan niệm như sau: Làng nghề truyền thống là những
làng nghề đã tồn tại và phát triển lâu đời trong lịch sử, trong đó có một hoặc nhiều
nghề thủ cơng truyền thống được gìn giữ từ đời này qua đời khác, được bảo tồn và
phát triền. Là nơi quy tụ nhiều nghệ nhân và đội ngũ thợ lành nghề, có sản xuất tập
trung, quy trình cơng nghệ nhất định, chủ yếu dựa trên sự khéo léo của người thợ.
Sản phẩm làm ra tinh xảo, có tính mỹ thuật nổi trội, chứa đựng các yếu tố vật chất
và yếu tố tinh thần, trở thành hàng hóa có giá trị đặc thù trên thị trường.
1.1.1.2. Mơi trường sinh thái và vấn đề phát triển kinh tế gắn với bảo vệ môi
trường sinh thái
Môi trường sinh thái là một mạng lưới chỉnh thể có mối liên quan chặt chẽ
với nhau giữa đất, nước, khơng khí và các cơ thể sống trong phạm vi toàn cầu.
Sự rối loạn bất ổn định ở một khâu nào đó trong hệ thống sẽ gây ra hậu quả
nghiêm trọng. Con người và xã hội xuất thân từ tự nhiên, là một bộ phận của thiên
nhiên. Thơng qua q trình lao động, con người khai thác bảo vệ bồi đắp cho thiên
nhiên. Cũng qua q trình đó con người xã hội dần dần có sự đối lập với tự nhiên.
Mơi trường đối với hoạt động sống của con người có các chức năng cơ bản:
môi trường tạo không gian sống cho con người; môi trường là nơi cung cấp nguồn
tài nguyên cần thiết cho sự sống và hoạt động sản xuất của con người; môi trường là


9


nơi chứa đựng, hấp thụ và trung hoà các chất thải do con người tạo ra trong cuộc
sống và hoạt động sản xuất, xã hội , qua đó đánh giá được chất lượng đạt được của
môi trường.
Hoạt động bảo vệ mơi trường là hoạt động giữ gìn, phịng ngừa, hạn chế các
tác động xấu đến mơi trường; ứng phó sự cố mơi trường; khắc phục ơ nhiễm, suy
thối, cải thiện, phục hồi môi trường; khai thác, sử dụng hợp lý tài nguyên thiên
nhiên nhằm giữ môi trường trong lành (Khoản 3 điều 3, chương I, Luật Bảo vệ môi
trường năm 2014).
Như vậy, theo quy định trên, bảo vệ môi trường khơng chỉ nhằm tới việc bảo
đảm u cầu về hố, lý, sinh, mà còn đảm bảo một giá trị nhân văn trong đời sống
KTXH và một nguồn sống lâu dài đối với con người trong môi trường sống cho
phép. Bảo vệ và quản lý môi trường hướng tới các mục đích như: khuyến khích sử
dụng các vật liệu thích hợp khơng ơ nhiễm, suy thối mơi trường; triển khai các q
trình sản xuất và tiêu dùng ít thải độc hại ra mơi trường, đảm bảo an tồn đối với
mơi trường; xây dựng các kế hoạch về bảo vệ môi trường; đưa ra các biện pháp
ngăn chặn và khắc phục hậu quả do ô nhiễm môi trường gây ra.
Bảo vệ và quản lý môi trường phải bảo đảm các yêu cầu cơ bản sau: sự
nghiệp bảo vệ và quản lý môi trường phải được triển khai đồng bộ trên toàn quốc
đến từng địa phương và xuống từng cơ sở; cần có sự hợp tác quốc tế để giúp đỡ và
khuyến khích, phối hợp trong hoạt động bảo vệ và quản lý môi trường; tăng cường
trách nhiệm pháp lý cho các hoạt động bảo vệ và quản lý môi trường trên cơ sở các
luật và các văn bản dưới luật được ban hành đồng bộ và thực hiện có hiệu quả; xây
dựng hệ thống mạng lưới thông tin, cơ sở dữ liệu quốc gia về hoạt động môi trường.
Sau nhiều năm thực hiện chính sách đổi mới của Đảng và Nhà nước, nền
kinh tế của nước ta đang phát triển một cách mạnh mẽ. Từ một nước nông nghiệp
lạc hậu chúng ta đang dần chuyển mình trở thành một nước cơng nghiệp, đời sống

nhân dân ngày một nâng cao. Song mặt trái của sự phát triển kinh tế đó là làm ơ
nhiễm môi trường bởi các chất thải công nghiệp, nhà ở, ý thức người dân,... do vậy
vấn đề phát triển kinh tế và bảo vệ môi trường sinh thái là một đề tài được nhiều

10


nhà khoa học nghiên cứu và đối với nước ta nó trở thành một vấn đề nghiêm trọng
cần giải quyết hợp lý.
1.1.2. Đặc điểm của làng nghề truyền thống
Mỗi nghề có những đặc trưng riêng và do đó mỗi làng nghề cũng có những
đặc trưng của riêng nó. Tuy nhiên các làng nghề truyền thống đều có các đặc trưng
chung như sau:
Quy mơ sản xuất nhỏ (hộ gia đình, thơn, xóm)
Các làng nghề thường có mật độ dân cư đơng đúc, vì vậy thiếu mặt bằng sản
xuất, các xưởng sản xuất thường xen kẽ với khu dân cư. Theo lẽ thường, các làng
nghề càng phát triển mạnh thì càng thu hút nhiều lao động. Trước hết là lao động tại
chỗ, con em các gia đình khơng phải ly hương tìm đường kiếm sống, thứ đến là làng
nghề phát triển mạnh sẽ thu hút thêm lao động ở các vùng lân cận, làm cho mật độ
dân cư của làng nghề đã lớn lại càng lớn hơn, trình độ quản lý yếu kém, thiết bị
chắp vá lạc hậu, hoạt động thủ công là chủ yếu.
Gắn liền với làng quê và sản xuất nông nghiệp
Nghề thủ công truyền thống, bắt đầu từ nông nghiệp, gắn liền với lao động ở
nông thôn, nhằm phục vụ cho người dân theo hướng tự cung tự cấp, phục vụ cho
nông nghiệp. Nơi đây cũng là nơi cung cấp nguyên liệu, nguồn nhân lực, nguồn vốn
chủ yếu và cũng là thị trường tiêu thụ.
Lao động tại các làng nghề chủ yếu là làm nông, địa điểm sản xuất là tại gia
đình họ. Họ tự quản lí, phân cơng lao động, thời gian cho phù hợp giữa việc sản
xuất nông nghiệp lúc mùa vụ với nghề thủ công lúc nơng nhàn. Vì thế, ngồi nhu
cầu tạo việc làm để có thêm thu nhập lúc nơng nhàn là vấn đề cấp thiết, tính chất

mùa vụ cũng tạo ra sự dư thừa lao động trong một thời gian nhất định, trong khi đó
tại địa phương có nhu cầu sản xuất các sản phẩm tiểu thủ công nghiệp để phục vụ
tiêu dùng, sinh hoạt, sản xuất nơng nghiệp,… Do đó đã thúc đầy các hoạt động sản
xuất phát triển, lúc đầu chỉ phục vụ nhu cầu của gia đình, sau phát triển có quy mơ,
nhiều gia đình cùng tham gia khiến làng nghề hình thành và phát triển.
Có truyền thống lâu đời

11


Các làng nghề truyển thống Việt Nam còn tồn tại đến ngày nay hầu hết là
những nghề lâu đời, có từ một vài trăm năm đến hàng nghìn năm.
Sự hình thành cùa làng nghề thường gắn với việc các thợ thủ công tập hợp
nhau lại theo các yếu tố kinh tế, như các vùng tập trung đơng dân có nhu cầu về
hàng thủ công hoặc để phục vụ cho một đối tượng nhất định như vua quan chốn
kinh kỳ.
Làng nghề hình thành ở những nơi thuận tiện về giao thơng đường bộ, đường
thủy và gần nguồn nhiên liệu. Làng nghề phát triển cũng do công lao của các vị tổ
nghề đã chủ động dạy nghề cho dân địa phương và những vùng xung quanh. Trải
qua nhiều năm thăng trầm, các ngành nghề thủ cơng mỹ nghệ có lúc thịnh, lúc suy.
Thời bao cấp, thủ công nghiệp được liệt vào “nghề phụ nông dân”, các cơ sở tư
nhân sản xuất, kinh doanh hàng thủ công mỹ nghệ được cải tạo, từ đó mai một dần.
Phải đến những năm đổi mới, các ngành nghề thủ công mỹ nghệ mới được khôi
phục, làng nghề cũng được hồi sinh.
Có bản sắc riêng của Việt Nam
Làng nghề truyền thống là một bộ phận của nền văn hóa phi vật thể, có vai
trị quan trọng, thể hiện sự sáng tạo của hoạt động văn hóa Việt Nam. Giá trị văn
hóa thể hiện rõ nét nhất trong các sản phẩm của làng nghề, qua bàn tay khéo léo và
nghệ thuật tinh xảo của các nghệ nhân được lưu truyền hàng trăm năm nay. Mỗi sản
phẩm của làng nghề khơng chỉ là một sản phẩm hàng hóa thơng thường, mà còn là

nơi gửi gắm tâm hồn, tài năng, thể hiện khướu thẩm mỹ, thông minh và sáng tạo,
tinh thần lao động của nghệ nhân, những người lưu giữ những tinh hoa văn hóa dân
tộc trong các sản phẩm làng nghề, đồng thời không ngừng sáng tạo để làng nghề có
thêm nhiều sản phẩm mới vừa phát huy truyền thống văn hóa dân tộc vừa thể hiện
sức sáng tạo của nghệ nhân trong điều kiện mới. Làng nghề là cả một mơi trường
văn hóa, kinh tế xã hội và cơng nghệ truyền thống lâu đời. Nó bảo lưu những tinh
hoa nghệ thuật và kỹ thuật truyền từ đời này sang đời khác, của các thế hệ tài năng,
với những sản phẩm có bản sắc riêng của mình nhưng lại tiêu biểu và độc đáo của
cả dân tộc Việt Nam. Mơi trường văn hóa làng nghề là khung cảnh làng quê, với
cây đa, bến nước, sân đình,… các hoạt động lễ hội dân gian, phong tục tập quán,

12


nếp sống đậm nét dân gian và chứa đựng tính nhân văn sâu sắc. Làng nghề truyền
thống đã làm phong phú thêm truyền thống văn hóa Việt Nam.
Lao động chủ yếu bằng thủ công
Trước đây, phương thức sản xuất sản phẩm trong các làng nghề, đặc biệt là
các làng nghề truyền thống thường rất thô sơ, lạc hậu, sử dụng kỹ thuật thủ công là
chủ yếu. Công cụ lao động trong các làng nghề đa số là công cụ thủ cơng, mang tính
đơn chiếc, nhiều loại sản phẩm hồn tồn phải dựa vào bàn tay khéo léo của người
thợ, mặc dù hiện tay đã có sự cơ khí hóa và điện khí hóa từng bước trong sản xuất,
song cũng chỉ có một số nghề có khả năng cơ giới hóa được một số công đoạn trong
sản xuất các sản phẩm. Phần đông lao động trong các làng nghề là lao động thủ
công, nhờ vào kỹ thuật khéo léo, tinh xảo của đơi bàn tay, vào đầu óc thẩm mỹ và
sáng tạo của người thợ, nghệ nhân.
Trước đây, do trình độ khoa học và cơng nghệ chưa phát triển thì hầu hết các
cơng đoạn trong quy trình sản xuất đều là thủ công, giản đơn. Ngày nay, cùng với
sự phát triển của khoa học công nghệ, việc ứng dụng khoa học công nghệ mới vào
nhiều công đoạn trong sản xuất của làng nghề đã giảm bớt được lượng lao động thủ

công, giản đơn cũng như chi phí, thời gian và sức lao động. Tuy nhiên vẫn có những
cơng đoạn trong q trình sản xuất yêu cầu trình độ cao, độ tinh xảo nhiều địi hỏi
lao động thủ cơng thực hiện.
Việc dạy nghề trước đây chủ yếu theo phương thức truyền nghề (cha truyền con
nối) trong các gia đình, từ đời này sang đời khác và hầu hết chỉ trong khuôn khổ của
từng làng. Sau này, có nhiều hợp tác xã làm nghề thủ công ra đời, phương thức truyền
nghề và dạy nghề đã có nhiều thay đổi, mang tính đa dạng và phong phú hơn.
Nguyên vật liệu
Đa số nguyên vật liệu của các làng nghề thường là nguyên vật liệu sẵn có,
nguồn cung ứng tại chỗ hoặc được nhập từ các vùng lân cận tuy nhiên hầu hết vẫn
là sử dụng nguồn nguyên liệu có sẵn và dồi dào tại địa phương.
Lực lượng lao động
Lực lượng lao động không phân biệt tuổi tác, giới tính, phần lớn có quan hệ
gia đình dòng họ, được đào tạo theo kiểu kinh nghiệm “xcha truyền con nối”. Do đó

13


bên cạnh một số ít nghệ nhân và những người thợ có tay nghề cao, thì có đến 55%
lao động tại các làng nghề chưa qua đào tạo, khoảng 36% khơng có chun mơn kỹ
thuật. Đối với các hộ kiêm (vừa sản xuất nơng nghiệp vừa làm nghề), có tới 79%
lao động khơng có chun mơn kỹ thuật.
Phát triển khơng theo quy hoạch, khơng ổn định, có tính thời vụ, thăng trầm
phụ thuộc vào nhu cầu thị trường trong và ngoài nước và đặc điểm sản xuất.
Làng nghề từ Bắc đến Nam có nhiều tính chất tương đồng về nghề, về sản phẩm,
tính văn hố nghệ thuật do hiện tượng di dân, di nghề và sự bành trướng tự nhiên
của hiện tượng kinh tế – xã hội làng nghề.
Trình độ công nghệ và các phương tiện sản xuất tại các làng nghề ở nơng thơn
cịn lạc hậu, hạ tầng kỹ thuật rất thấp, chỉ khoảng 20% các cơ sở có nhà xưởng kiên
cố, 86% có sử dụng điện, 37% cơng việc được cơ khí hố cịn lại tới trên 60% làm

bằng tay. Hầu hết các hộ, cơ sở ngành nghề nơng thơn cịn sử dụng các loại cơng cụ
thủ cơng truyền thống hoặc có cải tiến một phần. Trừ một số cơ sở mới xây dựng có
cơng nghệ tiên tiến, đa số còn lại nhất là ở khu vực hộ gia đình, trình độ cơng nghệ
lạc hậu, trình độ cơ khí cịn rất thấp, thiết bị phần lớn là đơn giản khơng đảm bảo u
cầu kỹ thuật, an tồn và do đó, nảy sinh nhiều vấn đề về vệ sinh mơi trường.
Đã hình thành những làng nghề có tên tuổi, tồn tại lâu dài.
Làng nghề nước ta phản ánh cuộc dống của cư dân nông nghiệp lúa nước gắn
liền với cơ chế sản xuất mùa vụ, trong đó bao gồm cả yếu tố dịng họ. Truyền thống
đó gắn liền với tên của mỗi làng nghề, phố nghề và được thể hiện bằng những sản
phẩm thủ công truyền thống với những nét độc đáo, tinh xảo. Tên của sản phẩm
luôn kèm theo tên làng làm ra nó, sản phẩm nổi tiếng cũng làm cho làng nghề tạo ra
các sản phẩm đó nổi tiếng. Những sản phẩm không chỉ là những vật phẩm sinh hoạt
bình thường hàng ngày, mà một số cịn là các tác phẩm nghệ thuật, biểu trưng của
nền văn hóa xã hội, mức độ phát triển kinh tế, trình độ dân trí, đặc điểm nhân văn
của dân tộc. Mặt khác, từ sản phẩm, chúng ta cũng nhận thấy gốc tích nơng nghiệp
như ngun vật liệu, cơng cụ chế tác, giá trị sử dụng và đặc biệt là nó phản ánh
được tính chuyên dụng cũng như sinh hoạt cộng đồng của cứ dân nơng nghiệp trên
các sản phẩm đó.

14


Nhìn vào những nghề thủ cơng nổi tiếng của nước ta như nghề gốm, nghề
đan lát, dệt vải,… thì mỗi làng gắn liền với một cộng đồng dân cư cư trú ổn định
trong một quy mô làng, xã. Nét đặc trưng này không chỉ phản ánh sự phong phú đa
dạng của làng nghề trong hệ thống cấu trúc của làng xã Việt Nam mà cịn cung cấp
thêm thơng tin về địa lí, nhân văn, lễ hội truyền thống cũng như lịch sử đầy ấn
tượng của mỗi làng nghề.
Tóm lại, các đặc điểm này cho chúng ta nhận dạng được những làng nghề
truyền thống hay sâu xa hơn là những giá trị văn hóa đặc biệt là văn hóa phi vật thể

từ nguồn gốc và đặc trưng xã hội nông nghiệp sản xuấ mùa vụ, cơ cấu quy mô
thông qua chế độ làng xã Việt Nam.
1.1.3. Vai trò của làng nghề trong nền kinh tế, xã hội
Thứ nhất, tận dụng nhân lực, tăng thu nhập, gia tăng giá trị sản xuất. Việc
làm là vấn đề cấp thiết hiện nay. Làng nghề phát triển đóng vai trị quan trọng thu
hút việc làm, tận dụng lao động tránh tình trạng phát triển chợ lao động tự phát lúc
trái vụ, di dân tự do.
Thứ hai, gia tăng giá trị hàng xuất khẩu. Đối với thị trường thế giới thì sản
phẩm của thủ cơng truyền thống được xếp vào nhóm hàng có khả năng cạnh tranh
cao. Bởi vì: Tính độc đáo, mang đậm bản sắc dân tộc, là sự kết hợp hoàn mỹ giữa
kỹ thuật và thẩm mỹ, không thể sản xuất hàng loạt bằng máy móc được.
Thứ ba, phát triển làng nghề góp phần thúc đẩy q trình cơng nghiệp hóa,
hiện đại hóa.
+ Mối quan hệ làng nghề và q trình CNH, HĐH nơng nghiệp nông thôn.
Do sự phát triển của lực lượng sản xuất đã dẫn tới sự phân công lao động lần thứ hai,
nghề thủ công tách ra khỏi nông nghiệp. Nghề thủ công phát triển dẫn tới sự xuất
hiện công trường thủ cơng. Như vậy, làng nghề truyền thống chính là khởi đầu công
nghiệp nông thôn, là một bộ phận của ngành cơng nghiệp và là một đối tượng của
q trình CNH, HĐH nói chung và CNH, HĐH nơng nghiệp nơng thơn nói riêng.
+ Góp phần hình thành cơ cấu kinh tế hợp lý, phân công lao động theo hướng
CNH, HĐH. Sự phục hồi phát triển làng nghề truyền thống và xuất hiện làng nghề

15


mới sẽ chi phối các bộ phận khác trong nền kinh tế quốc dân. Đầu tiên là trong
ngành nông nghiệp, tiếp theo phát triển các dịch vụ.
Thứ tư, phát triển làng nghề truyền thống là phát huy lợi thế so sánh. Nghị
quyết Đại hội Đảng IX đã đặt ra vấn đề phát huy nội lực đất nước trong quá trình
xây dựng đất nước. Làng nghề truyền thống chính là nguồn lực cịn bỏ ngỏ trong

nước. Do có tính độc đáo, nên sản phẩm của nghề thủ công được xếp vào nhóm
hàng có năng lực cạnh tranh, là lợi thế của một nước nơng nghiệp. Có giá trị thực
thu lớn vì nguồn nguyên liệu nhập khẩu dưới 10%; trong khi đó, các mặt hàng điện
tử, dệt may, giày da nguyên liệu nhập khẩu trên 80% nên giá trị thực thu thấp. Như
vậy, phát triển làng nghề chính là phát huy lợi thế so sánh, nội lực đất nước trong
quá trình CNH, HĐH.
Thứ năm, làng nghề góp phần giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc. Đường nét
trên sản phẩm thủ cơng thể hiện các hoa văn tinh xảo sống động. Là những tác
phẩm nghệ thuật kết hợp văn hóa dân gian với phong cách hiện đại. Phản ánh cuộc
sống hàng ngày, thể hiện cảnh quan các cơng trình kiến trúc có giá trị nghệ thuật
cao như Chùa Một cột, các lễ hội đặc sắc của văn hoá dân gian... in đậm dấu ấn của
nơi sản xuất ra nó. Các họa tiết hoa văn sen, cúc, Lã vọng câu cá, hiền nhân cưỡi
ngựa qua cầu, mười hai con giáp... đó là những hình ảnh thấm đẫm tinh thần văn
hóa dân tộc một cách cụ thể nhất. Vì vậy sản phẩm thủ cơng chính là sự phản ánh
văn hố vùng, văn hố dân tộc.
Ở một số làng nghề ngày hội làng chính là ngày giỗ tổ nghề, trong đó lịng
tơn kính nghề nghiệp đã trở thành sinh hoạt văn hố cộng đồng. Ngồi ra có nhiều
nghi lễ, phong tục xuất hiện từ văn hóa nghề mà ra. Cùng với những thiết chế nghi
lễ đó thì các quần thể cơng trình kiến trúc để suy tôn, tưởng niệm các vị tổ nghề đã
ra đời như đình, chùa, miếu, đền. Nếu làng nghề đó phát triển, kinh tế tăng trưởng
thì diện mạo của các cơng trình trên càng được tu bổ giữ gìn.
Như vậy có thể nói làng nghề và nghề thủ cơng truyền thống là một bộ phận
quan trọng trong kho tàng văn hoá dân tộc, là nơi lưu giữ truyền thống một cách cụ
thể bền vững nhất. Bản sắc dân tộc được thể hiện qua các sản phẩm thủ cơng, nó thể
hiện giá trị thẩm mỹ trước, sau đó mới đến giá trị kinh tế, kỹ thuật.

16


Chính vì thế các du khách nước ngồi đã chọn tour du lịch làng nghề trong

hành trình tìm hiểu văn hóa Việt Nam. Trong q trình hội nhập hiện nay, người ta
coi sản phẩm của làng nghề truyền thống là di sản văn hóa vật thể của các dân tộc
trên thế giới. Vì vậy phát triển làng nghề truyền thống chính là giữ gìn văn hóa vật
thể ngược lại giữ gìn bảo vệ văn hóa vật thể (Nghề thủ cơng truyền thống) là cơ sở
để làng nghề được phát triển. Đây chính là hai mặt của vấn đề giữ gìn bản sắc văn
hóa dân tộc trong những định hướng xây dựng Chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Các sản phẩm của các làng nghề hiện nay không chỉ đáp ứng nhu cầu tiêu thụ
trong nước, mà còn được xuất khẩu, như hàng thủ cơng mỹ nghệ, đồ gỗ gia
dụng…đã có mặt ở hơn 100 quốc gia trên thế giới. Kim ngạch xuất khẩu các mặt
hàng này năm 1999 đạt khoảng 250 triệu USD; năm 2000 ước đạt khoảng 300 triệu
USD và 10 tháng đầu năm 2005 đã đạt 459 triệu USD (theo số liệu của Bộ Thương
mại, 2005).
Theo kết quả thống kê, tại các vùng nông thôn đồng bằng, hiện có khoảng 10
triệu lao động hoạt động ngành nghề phi nông nghiệp, chiếm 29,45% lực lượng lao
động nông thôn. Các hộ, cơ sở ngành nghề nơng thơn có quy mơ lao động nhỏ. Ở
các hộ bình qn có 3 – 4 lao động thường xuyên và 2 – 5 lao động thời vụ; ở các
cơ sở bình qn có 27 lao động thường xuyên và 8 – 10 lao động thời vụ. Nhiều
làng nghề đã thu hút trên 60% số lao động vào các hoạt động ngành nghề như làng
nghề gốm sứ Bát Tràng, làng nghề gỗ mỹ nghệ Đồng Kỵ, dệt Thuỵ Phương…. Các
ngành nghề nông thôn phát triển đã kéo theo nhiều hoạt động dịch vụ liên quan, tạo
thêm việc làm mới, thu hút thêm lao động. Do đó ngành nghề nơng thơn được coi là
động lực trực tiếp giải quyết việc làm cho lao động ở nông thơn.
Thu nhập bình qn của một lao động ở cơ sở ngành nghề nông thôn bằng 2 – 4 lần
so với thu nhập bình qn của lao động nơng nghiệp thuần. Ở các làng nghề khơng
cịn hộ đói, hộ nghèo chiếm tỷ lệ nhỏ và hộ giàu ngày càng tăng. Trên cơ sở tạo ra
việc làm, tăng thêm thu nhập, ngành nghề nông thôn được coi là động lực để
chuyển dịch cơ cấu xã hội nông thôn theo hướng tăng hộ giàu, giảm hộ nghèo, nâng
cao phúc lợi cho người dân.

17



Các tỉnh có nhiều làng nghề như: Hà Tây(cũ), Bắc Ninh, Thái Bình, Nam
Định, Thanh Hố, Bình Định, Khánh Hồ, Bến Tre, An Giang, Bình Dương. Có
những xã điển hình như xã La Phù, Hoài Đức, Hà Tây(cũ), toàn xã có 1.800 hộ thì
hầu hết đều làm nghề (dệt len, sản xuất bánh kẹo và dịch vụ). Doanh số mỗi năm
đạt 200 tỷ đồng, trong đó gần 150 tỷ đồng do xuất khẩu, nộp ngân sách Nhà nước
1,5 tỷ đồng và đóng góp vào ngân sách xã 1,3 tỷ đồng mỗi năm. Tạo sự chuyển dịch
cơ cấu theo hướng công nghiệp hố (trong đó nơng nghiệp 25%, tiểu thủ cơng
nghiệp – dịch vụ 75%).
1.2. Các yếu tố ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế làng nghề
1.2.1. Chính sách, chủ trương của nhà nước
Chính sách của Nhà nước rất quan trọng đối với sự phát triển của các lĩnh vực
kinh tế nói chung và làng nghề nói riêng. Sự thay đổi của chính sách có thể làm mất
đi làng nghề hoặc có khả năng khơi phục hoặc tạo ra những làng nghề mới. Chẳng
hạn như nghề làm gạch ở Cẩm Hà- Hội An, vì sự ảnh hưởng của nó đến mơi trường
và chủ trương phát triển làng nghề văn hố du lịch nên nghề đó đã khơng tồn tại.
Bộ luật về Bảo vệ môi trường số 55/2014/QH13 do Quốc Hội khóa 13 ban
hành ngày 23 tháng 6 năm 2014 đã đưa ra các quy định về hoạt động bảo vệ mơi
trường; chính sách, biện pháp và nguồn lực để bảo vệ môi trường; quyền, nghĩa vụ và
trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, hộ gia đình và cá nhân trong bảo vệ môi trường áp
dụng cho với cơ quan, tổ chức, hộ gia đình và cá nhân trên lãnh thổ nước Cộng hòa
xã hội chủ nghĩa Việt Nam, bao gồm đất liền, hải đảo, vùng biển và vùng trời.
Bên cạnh đó, Bộ tài ngun mơi trường cịn ban hành Thơng tư số
31/2016/TT-BTNMT về bảo vệ môi trường cụm công nghiệp, khu kinh doanh, dịch
vụ tập trung, làng nghề và cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ.
1.2.2 .Kết cấu cơ sở hạ tầng ở nông thôn
Một trong những nguyên nhân làm quy mô sản xuất của các làng nghề chậm
lại chính là cơ sở hạ tầng ở nơng thơn.
Từ xưa, các làng nghề truyền thống thường được hình thành ở những vùng

có giao thơng thuận lợi. Ngày nay, khi giao lưu kinh tế càng được phát triển, thị
trường tiêu thụ sản phẩm của làng nghề khơng cịn bó hẹp tại địa phương mà đã

18


vươn ra các khu vực lân cận, thậm chí cịn xuất khẩu ra nước ngồi. Bên cạnh đó
nguồn ngun liệu tại chỗ đáp ứng cho nhu cầu của làng nghề ngày càng cạn kiệt,
bắt buộc phải vận chuyển từ những nơi khác về, chính vì vậy hệ thống giao thơng
càng thuận lợi thì làng nghề càng phát triển.
Trong cơng cuộc cơng nghiệp hố, hiện đại hố, sự phát triển của các làng
nghề chịu ảnh hưởng rất lớn bởi hệ thống cung cấp điện nước, xử lý nước thải, giảm
thiểu ô nhiễm mơi trường.
Ngồi ra, sự hoạt động của các làng nghề trong nền kinh tế thị trường chịu
tác động mạnh mẽ bởi hệ thống thơng tin nói chung. Sự phát triển của hệ thống
thông tin liên lạc, nhất là internet giúp cho các doanh nghiệp, các hộ sản xuất nắm
bắt kịp thời, nhanh chóng, chính xác những thơng tin về nhu cầu, thị hiếu, giá cả,
mẫu mã...
1.2.3. Sự biến động của nhu cầu thị trường
Trong nền kinh tế thị trường, nhà sản xuất phải bán cái thị trường cần chứ
không bán cái mình có. Do đó, nhu cầu về sản phẩm và khả năng thích ứng của làng
nghề cho phù hợp với những yêu cầu của thị trường quyết định sự tồn tại và phát
triển của làng nghề.
Những làng nghề có khả năng thích ứng nhanh với sự thay đổi của nhu cầu
thường có sự phát triển nhanh chóng. Chẳng hạn như làng nghề sản xuất đồ gỗ gia
đình, sản xuất vật liệu xây dựng, sản xuất đồ gốm sứ mỹ nghệ
1.2.4. Các yếu tố đầu vào
Nguồn nguyên liệu
Trước đây các làng nghề thường hình thành ở những nơi gần nguồn nguyên
liệu, nhưng qua quá trình khai thác, nguồn nguyên liệu đã cạn kiệt dần, chẳng hạn

như đá, đất sét thì khơng thể tái tạo được, do đó phải lấy nguyên liệu từ các địa
phương khác. Nguyên liệu là một yếu tố đầu vào hết sức quan trọng ảnh hưởng đến
thu nhập, chất lượng sản phẩm.
Sản phẩm của làng nghề mang tính chất đặc thù, phải lấy nguyên liệu tự
nhiên chính vì vậy mà nguồn ngun liệu hết sức quan trọng đối với sự phát triển
của làng nghề.

19


Công nghệ
Công nghệ là nhân tố quan trọng chi phối các hoạt động sản xuất. Trong các
làng nghề truyền thống bao giờ cũng có thợ cả, nghệ nhân có trình độ tay nghề cao,
có kinh nghiệm sản xuất, tâm huyết với nghề, là những hạt nhân để duy trì những
nét độc đáo của làng nghề, đó là sự khác biệt của các sản phẩm làng nghề.
Tuy nhiên, trong nền kinh tế thị trường, chỉ có kinh nghiệm cổ truyền thơi
chưa đủ mà phải có khoa học cơng nghệ hiện đại, đó là mặt tiêu cực của yếu tố
truyền thống. Đồng thời những qui định khắt khe, hạn chế trong luật nghề, lệ làng
đã làm cản trở không nhỏ đến việc mở rộng sản xuất- kinh doanh của làng nghề.
1.2.5. Lao động
Lao động trong các làng nghề chủ yếu là lao động sáng tạo. Các sản phẩm
của làng nghề là nơi gửi gắm tâm hồn, sự sáng tạo của nghệ nhân. Các sản phẩm thủ
cơng vừa phải đảm bảo có giá trị sử dụng nhưng cũng phải có tính nghệ thuật cao,
chứa đựng phong cách riêng. Thực tế để tạo ra được những sản phẩm tinh xảo thì
ngồi năng khiếu bẩm sinh, người lao động cần trải qua một thời gian đào tạo lâu
dài mà nhiều khi họ không đủ kiên nhẫn để theo đuổi đến cùng. Bên cạnh đó, với
phương thức đào tạo theo kiểu nghề truyền thống như hiện nay, những kỹ năng bí
quyết nghề nghiệp nhiều khi chỉ truyền lại cho gia đình. Chính điều này đã làm cho
số lượng thợ cả, nghệ nhân mới ngày càng hạn chế trong khi đó những nghệ nhân
cũ ngày càng mất đi, như vậy những tinh hoa của làng nghề ngày càng bị mai một.

Ngày nay, khi làng nghề tồn tại trong nền kinh tế thị trường thì ngồi kỹ
năng, bí quyết riêng của người thợ, sự phát triển của làng nghề đòi hỏi người sản
xuất, nhất là các chủ hộ phải có những kiến thức về kinh doanh như quản lý sản
xuất, tổ chức tiêu thụ sản phẩm.. Tuy nhiên, theo kết quả điều tra năm 1997 của bộ
NN-PTNT thì trình độ học vấn và năng lực quản lý của các chủ cơ sở nhìn chung
cịn rất hạn chế.
1.2.6. Vốn cho phát triển sản xuất kinh doanh
Vốn là yếu tố đầu vào quan trọng của q trình sản xuất, nó ảnh hưởng trực
tiếp đến khả năng mở rộng quy mô sản xuất của doanh nghiệp, sự phát triển của
làng nghề cũng không là hiện tượng ngoại lệ.

20


Trong điều kiện ngày nay, nhất là khi nền kinh tế thị trường phát triển, nhu
cầu về vốn để mở rộng sản xuất ngày càng gia tăng.
Trước đây, qui mô vốn của các hộ sản xuất kinh doanh trong các làng nghề
rất nhỏ bé, thường là vốn tự có của gia đình nên khả năng mở rộng qui mơ sản xuất
cũng bị hạn chế. Hầu hết các hộ sản xuất đều có qui mơ vừa và nhỏ và lại thuộc
thành phần kinh tế dân doanh cho nên khả năng tiếp cận các nguồn vốn vay là rất
khó. Đây chính là một trở ngại lớn cho sự phát triển của làng nghề.
1.2.7. Tiêu chí đánh giá phát triển kinh tế làng nghề gắn với bảo vệ môi trường
- Tăng trưởng kinh tế: Các chỉ tiêu như tổng doanh thu, tổng giá trị gia tăng,
thu nhập bình quân đầu người,…thể hiện được hoạt động của làng nghề có hiệu quả
và phát triển hay khơng
-Vấn đề việc làm: giải quyết được tình trạng thất nghiệp, tạo công ăn việc
làm cho đội ngũ lao động.
-Tăng trưởng xuất khẩu: không chỉ đáp ứng nhu cầu trong nước, các làng
nghề phát triển mạnh khi tăng trưởng xuất khẩu, mở rộng kinh doanh ra thị trường
quốc tế.

- Mức độ ô nhiễm môi trường:
Tương tự như nhiều nước trên thế giới, hệ thống QCVN về môi trường bao
gồm: Chất lượng môi trường; chất thải; độ ồn. QCVN về chất lượng môi trường và
QCVN về độ ồn được xây dựng dựa trên giá trị giới hạn tối đa cho phép của các
thông số đảm bảo không ảnh hưởng đến sức khỏe của con người và hệ sinh thái, do
đó có thể dựa trên kinh nghiệm của các tiêu chuẩn quốc tế, tiêu chuẩn khu vực, tiêu
chuẩn nước ngoài. Trong khi đó, QCVN về chất thải được xây dựng nhằm đảm bảo
các chất thải khi thải ra môi trường không làm thay đổi chất lượng môi trường đến
mức vượt quá quy định trong các QCVN về chất lượng môi trường tương ứng, phải
dựa trên các kết quả nghiên cứu, đánh giá hiện trạng (dự báo tương lai) về chất
lượng môi trường tiếp nhận, chính xác hơn là hiện trạng và tương lai của sức chịu
tải của môi trường ở từng khu vực xả thải.

21


×