Tải bản đầy đủ (.pdf) (28 trang)

Hoạt động tranh tụng tại phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự (tt)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (767.71 KB, 28 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

NGUYỄN THỊ MAI

HOẠT ĐỘNG TRANH TỤNG
TẠI PHIÊN TÒA XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ

Chuyên ngành: Luật Hình sự và tố tụng hình sự
Mã số: 9.38.01.04

TĨM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ LUẬT HỌC
Người hướng dẫn khoa học: 1. PGS.TS. Đỗ Thị Phượng
2. TS. Vũ Gia Lâm

HÀ NỘI, 2021


Cơng trình được hồn thành tại:
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

Phản biện 1:

Phản biện 2:

Phản biện 3:

Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm Luận án cấp Trường họp


tại Trường Đại học Luật Hà Nội vào hồi…giờ….ngày….tháng…năm

Có thể tìm hiểu luận án tại:
1) Thư viện Quốc gia
2) Thư viện Trường Đại học Luật Hà Nội


DANH MỤC CÁC CƠNG TRÌNH KHOA HỌC
CỦA TÁC GIẢ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN ĐÃ ĐƯỢC CÔNG BỐ
1. Nguyễn Thị Mai (2020), “Bản chất hoạt động tranh tụng tại phiên tịa
xét xử sơ thẩm vụ án hình sự và một số yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng tranh
tụng”, Tạp chí Khoa học kiểm sát, (05).
2. Nguyễn Thị Mai (2020), “Một số giải pháp nhằm nâng cao chất
lượng hoạt động tranh tụng tại phiên tịa hình sự sơ thẩm”, Tạp chí Tịa án
nhân dân, (12).
3. Nguyễn Thị Mai (2020), “Một số vấn đề về chủ thể tranh tụng tại
phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự”, Tạp chí Giáo dục và xã hội, số đặc
biệt tháng 5.


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do lựa chọn đề tài
Xét xử là giai đoạn trung tâm của tố tụng hình sự, tất cả các hoạt động tố
tụng trước đó đều nhằm tạo cơ sở cho việc có thể đưa vụ án ra xét xử. Trong
đó, xét xử sơ thẩm vụ án hình sự có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, đây là giai
đoạn Tịa án tiến hành giải quyết, xử lí vụ án lần thứ nhất bằng cách ra bản án
và các quyết định tố tụng cần thiết khác. Hoạt động xét xử là thể hiện tập
trung cao độ nhất của quyền tư pháp trong hệ thống pháp quyền. Thông qua
bản án và các quyết định, Tòa án sẽ định tội danh đối với hành vi phạm tội
của bị cáo, quyết định hình phạt cũng như những vấn đề khác như xử lý vật

chứng, vấn đề bồi thường hoặc trong trường hợp bị cáo khơng có tội thì Tịa
án có thẩm quyền ra bản án tun bị cáo khơng có tội và phải ra quyết định trả
tự do ngay cho bị cáo (mặc dù bản án sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật và
sau đó vẫn có thể bị kháng cáo, kháng nghị). Như vậy chỉ có Tịa án mới có
quyền xét xử, tuyên một người là có tội và quyết định hình phạt đối với họ.
Đến thời điểm hiện tại, tranh tụng khơng cịn là vấn đề mới trong khoa
học luật tố tụng hình sự nhưng lại là vấn đề gây nhiều tranh cãi và còn nhiều
cách hiểu khác nhau. Thực tiễn thi hành Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003
cũng bộc lộ những vướng mắc, bất cập bởi cịn nhiều nội dung chưa được cụ
thể hóa trong Bộ luật dẫn đến thiếu hành lang pháp lý cho nhiều hoạt động tố
tụng. Tòa án là cơ quan duy nhất có thẩm quyền xét xử, ra bản án tuyên một
người là có tội và áp dụng hình phạt đối với người đó. Tuy nhiên, việc tổ chức
phiên tịa theo tinh thần cải cách tư pháp lại chưa thực sự tồn diện, hoạt động
tranh tụng tại phiên tịa cịn mờ nhạt. Thực tế cho thấy, giữa Kiểm sát viên và
người bào chữa gần như khơng có tranh tụng, Hội đồng xét xử dành nhiều
thời gian cho việc xét hỏi bị cáo và các chủ thể tham gia tố tụng khác để tìm
ra sự thật khách quan của vụ án (hay đúng hơn là tìm căn cứ để có thể khẳng
định bị cáo có tội). Hiện có nhiều ý kiến cho rằng Tòa án đang thực hiện thay
chức năng buộc tội của Viện kiểm sát, trong khi Tịa án phải đóng vai trò là
1


trọng tài, phải thật vô tư, khách quan trong quá trình xét xử. Điều này ảnh
hưởng khơng nhỏ đến niềm tin của người dân vào các cơ quan tiến hành tố
tụng và mặc nhiên cho rằng, một người khi bị Tòa án đưa ra xét xử là sẽ
đương nhiên bị kết tội.
Trước đòi hỏi của thực tiễn cũng như yêu cầu của công cuộc cải cách tư
pháp, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 ra đời đã có nhiều sửa đổi, bổ sung
thể hiện sự đổi mới về kĩ thuật lập pháp, tư duy lập pháp cũng như quan điểm
chỉ đạo của Đảng về cơng cuộc đấu tranh phịng chống tội phạm. Một trong

những điểm mới rất đáng ghi nhận của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 đó
là quy định về thủ tục tranh tụng tại phiên tòa mà rõ nét nhất là tại phiên tòa
xét xử sơ thẩm vụ án hình sự. Trước đây, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003
quy định về thủ tục xét hỏi và tranh luận tại phiên tòa, Bộ luật Tố tụng hình
sự năm 2015 đã gộp hai thủ tục này làm một và đổi tên thành thủ tục tranh
tụng tại phiên tòa và bổ sung nhiều quy định nhằm “bảo đảm chất lượng
tranh tụng tại các phiên tòa xét xử, lấy kết quả tranh tụng tại phiên tòa làm
căn cứ quan trọng để phán quyết bản án, coi đây là khâu đột phá để nâng cao
chất lượng hoạt động tư pháp”. Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 về cơ bản
đã tạo cơ sở pháp lý cho các chủ thể thực hiện các hoạt động tranh tụng tại
phiên tịa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự nhưng vẫn còn bộc lộ những điểm bất
hợp lý như: tại phiên tòa, Thẩm phán chủ tọa là người điều khiển tranh tụng
nhưng lại chủ động xét hỏi trước, nhiều trường hợp xét xử vắng mặt người
tham gia tố tụng nhưng chưa có căn cứ cụ thể.
Có thể thấy khoa học luật tố tụng hình sự ngày càng phát triển cả về
chất và lượng trên cơ sở nền tảng là các học thuyết, các quan điểm, ý kiến
đánh giá của các chuyên gia. Đây chính là cơ sở lý luận, là tiền đề cho các
nhà khoa học thực hiện các công trình nghiên cứu của mình. Tuy nhiên,
trước sự vận động và biến đổi không ngừng của thế giới tự nhiên, việc nhận
thức của con người về một vấn đề khoa học nào đó cũng có sự thay đổi nhất
định qua các thời kì. Quan điểm khoa học mới hình thành sau có thể tiến bộ
hơn thậm chí phủ nhận quan điểm xuất hiện ở thời kì trước, địi hỏi con
2


người phải nhận thức được và khơng ngừng tìm tịi nghiên cứu để có thể
kiểm chứng. Tri thức về tố tụng hình sự cũng khơng nằm ngồi quy luật này,
do đó các cơng trình nghiên cứu cần đảm bảo có tính mới. Thực tiễn giải
quyết vụ án hình sự cũng vậy, tương ứng với từng giai đoạn phát triển, từng
thời kì, việc thể chế hóa đường lối, chính sách của Đảng cũng như cơng tác

lập pháp có ảnh hưởng rất lớn đến việc giải quyết vụ án, các tiêu chí đánh
giá hoạt động thực tiễn này cũng có sự thay đổi, số liệu biến đổi qua từng
năm đòi hỏi phải có những đánh giá, tổng hợp kịp thời.
Dưới góc độ nghiên cứu, trong khoa học tố tụng hình sự mặc dù đã có
nhiều cơng trình nghiên cứu về tranh tụng nhưng chưa có cơng trình nào
nghiên cứu một cách chun sâu, tồn diện về hoạt động tranh tụng tại phiên
tịa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự. Mặc dù Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015
đã tạo cơ sở pháp lý cho các chủ thể thực hiện các hoạt động tranh tụng tại
phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, tuy nhiên vấn đề đặt ra là quy định
của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 liệu đã thực sự đầy đủ về hoạt động
tranh tụng, có đủ để bảo đảm cho hoạt động tranh tụng diễn ra trên thực tế và
diễn ra thực sự có hiệu quả hay chưa? Để trả lời câu hỏi này, việc nghiên cứu
về những vấn đề lý luận, quy định của pháp luật, thực tiễn tiến hành hoạt
động tranh tụng để từ đó đề ra các giải pháp nhằm bảo đảm hoạt động tranh
tụng tại phiên tòa là hết sức cần thiết. Do đó, nghiên cứu sinh lựa chọn đề tài
“Hoạt động tranh tụng tại phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự” làm đề tài
nghiên cứu cho luận án của mình với mong muốn làm sáng tỏ những vấn đề
về lý luận và thực tiễn đang đặt ra.
2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu: trên cơ sở nghiên cứu những vấn đề lý luận về hoạt
động tranh tụng tại phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, thực trạng quy
định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam và thực tiễn hoạt động tranh tụng
tại phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự nhằm đưa ra các giải pháp nâng cao
chất lượng hoạt động tranh tụng tại phiên tịa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự.
Nhiệm vụ nghiên cứu: với mục đích nêu trên, luận án sẽ thực hiện những
nhiệm vụ cụ thể sau:
3


- Phân tích, đánh giá tổng quan tình hình nghiên cứu về hoạt động tranh

tụng tại phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự.
- Nghiên cứu những vấn đề lý luận về hoạt động tranh tụng tại phiên tịa
xét xử sơ thẩm vụ án hình sự; làm rõ khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa của hoạt
động tranh tụng tại phiên tịa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự; phân biệt hoạt
động tranh tụng tại phiên tòa xét xử sơ thẩm theo mơ hình tố tụng tranh tụng
và mơ hình tố tụng thẩm vấn; đồng thời làm rõ các điều kiện bảo đảm hoạt
động tranh tụng tại phiên tịa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự.
- Phân tích, đánh giá quy định của pháp luật tố tụng hình sự về hoạt động
tranh tụng tại phiên tịa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự và thực tiễn thi hành,
làm rõ những kết quả đạt được, những hạn chế, bất cập và nguyên nhân của
những hạn chế, bất cập.
- Đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng hoạt động tranh tụng
tại phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự.
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Luận án nghiên cứu những vấn đề lý luận về hoạt
động tranh tụng tại phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, quy định của pháp
luật tố tụng hình sự Việt Nam và thực tiễn thi hành quy định của pháp luật về
hoạt động tranh tụng tại phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự.
Phạm vi nghiên cứu:
- Về lý luận, luận án tập trung làm rõ khái niệm, đặc điểm của hoạt động
tranh tụng tại phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự và ý nghĩa của hoạt động
này; làm rõ yêu cầu đặt ra nhằm nâng cao chất lượng hoạt động tranh tụng tại
phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự. Luận án nghiên cứu hoạt động tranh
tụng tại phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự theo thủ tục tố tụng thơng
thường (khơng bao gồm các thủ tục đặc biệt như thủ tục rút gọn, thủ tục tố
tụng đối với người dưới 18 tuổi, thủ tục truy cứu trách nhiệm hình sự đối với
pháp nhân).
- Về pháp luật, luận án tập trung nghiên cứu quy định của Bộ luật Tố
tụng hình sự năm 2015 về hoạt động tranh tụng tại phiên tòa xét xử sơ thẩm
4



vụ án hình sự; các văn bản pháp luật khác có liên quan, đồng thời có sự so
sánh, đối chiếu với quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 để làm rõ
những điểm mới tiến bộ trong quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự hiện
hành. Luận án cũng nghiên cứu quy định của pháp luật một số quốc gia trên
thế giới về vấn đề này ở mức độ phù hợp với yêu cầu và điều kiện nghiên cứu.
- Về thực tiễn hoạt động tranh tụng tại phiên tịa xét xử sơ thẩm vụ án hình
sự, luận án sẽ đánh giá thông qua việc nghiên cứu các báo cáo, số liệu tổng kết
của Liên đoàn Luật sư Việt Nam, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân
dân tối cao trong thời gian 10 năm từ 2010 - 2019; thông qua các bản án xét xử
sơ thẩm vụ án hình sự và biên bản phiên tịa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự.
4. Cơ sở lý thuyết, câu hỏi nghiên cứu và giả thuyết nghiên cứu
4.1.

Cơ sở lý thuyết của luận án

Cơ sở lý thuyết của luận án là những vấn đề lý luận về quyền tư pháp, lý
luận về chức năng tố tụng, mơ hình tố tụng hình sự, cơ sở lý thuyết trực tiếp là
cơ sở lý luận chung về tranh tụng và hoạt động tranh tụng.
4.2.

Câu hỏi nghiên cứu

Luận án phải trả lời những câu hỏi nghiên cứu sau:
1. Hoạt động tranh tụng tại phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự là gì?
Hoạt động tranh tụng tại phiên tịa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự có những đặc
điểm gì?
2. Hoạt động tranh tụng trong mơ hình tố tụng tranh tụng và mơ hình tố
tụng thẩm vấn khác nhau như thế nào?

3. Hoạt động tranh tụng tại phiên tịa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự có
những ý nghĩa gì?
4. Pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam quy định như thế nào về hoạt
động tranh tụng tại phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự?
5. Yếu tố nào ảnh hưởng đến chất lượng hoạt động tranh tụng tại phiên
tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự? Để nâng cao chất lượng hoạt động tranh
tụng tại phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự cần có những giải pháp nào?
4.3.

Giả thuyết nghiên cứu

5


Từ các câu hỏi nghiên cứu nêu trên, giả thuyết nghiên cứu của luận án
là: Hoạt động tranh tụng tại phiên tịa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự là tổng
hợp hoạt động của các chủ thể buộc tội, gỡ tội, các chủ thể tranh tụng khác và
không thể thiếu vai trò xét xử của Tòa án. Hoạt động tranh tụng trong mơ
hình tố tụng tranh tụng và mơ hình tố tụng thẩm vấn có nhiều điểm khác biệt,
việc bảo đảm hoạt động tranh tụng tại phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
có những ý nghĩa quan trọng đối với việc giải quyết vụ án. Pháp luật tố tụng
hình sự Việt Nam đã có những quy định khá đầy đủ về hoạt động tranh tụng
tại phiên tịa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự nhưng vẫn còn một số bất cập dẫn
đến thực tiễn tranh tụng còn những hạn chế nhất định. Để nâng cao chất lượng
hoạt động tranh tụng tại phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự cần có các
giải pháp nhằm hoàn thiện quy định của pháp luật về tranh tụng, các giải pháp
về nguồn nhân lực cũng như cơ sở vật chất và các giải pháp toàn diện khác.
5. Phương pháp nghiên cứu
Luận án được nghiên cứu dựa trên phương pháp luận của chủ nghĩa Mác
Lênin và sử dụng những phương pháp nghiên cứu đặc thù sau:

- Phương pháp phân tích và tổng hợp lý thuyết, phương pháp phân loại
và hệ thống hóa lý thuyết được sử dụng để nghiên cứu các tài liệu khác nhau
nhằm phân tích, phân loại và sắp xếp, tổng hợp các tài liệu theo nhóm, trên cơ
sở đó tạo ra được hệ thống lý thuyết đầy đủ về vấn đề nghiên cứu.
- Phương pháp lịch sử được sử dụng nhằm tìm ra sơ sở phát sinh, quá
trình thực hiện hoạt động tranh tụng tại phiên tịa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
qua các thời kì lịch sử khác nhau.
- Phương pháp so sánh được sử dụng để đánh giá tổng quan tình hình
nghiên cứu trong nước và ngồi nước, đánh giá quy định của pháp luật tố tụng
hình sự Việt Nam qua các thời kì; phương pháp đối chiếu được sử dụng để
kiểm chứng thực trạng quy định của pháp luật tố tụng hình sự về hoạt động
tranh tụng tại phiên tịa xét xử sơ thẩm với thực tiễn thi hành.

6


- Phương pháp diễn dịch, quy nạp được sử dụng để đưa ra ý kiến nhằm
triển khai vấn đề cũng như tổng kết lại sau khi đã phân tích, làm rõ các nội
dung, nhận định đã trình bày.
- Phương pháp thống kê, khảo sát thực tiễn được sử dụng trong việc
nghiên cứu các báo cáo, số liệu thực tiễn giúp kiểm chứng vấn đề lý luận đã
được nghiên cứu.
6. Ý nghĩa khoa học, ý nghĩa thực tiễn của luận án
- Dưới góc độ lý luận, kết quả nghiên cứu của luận án góp phần bổ sung cơ
sở lý luận về hoạt động tranh tụng tại phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự.
- Dưới góc độ pháp lý, những phân tích, nhận xét, đánh giá của luận án
đối với quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam hiện hành về hoạt
động tranh tụng tại phiên tòa xét xử sơ thẩm là cơ sở để tiếp tục hồn thiện
pháp luật.
- Dưới góc độ thực tiễn, trên cơ sở chỉ ra những ưu điểm, bất cập của

hoạt động tranh tụng tại phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, luận án đề
xuất những giải pháp nhằm giải quyết các vấn đề cịn vướng mắc, góp phần
nâng cao chất lượng hoạt động tranh tụng tại phiên tịa xét xử sơ thẩm vụ án
hình sự.
- Kết quả nghiên cứu của luận án là nguồn tài liệu tham khảo cho hoạt
động giảng dạy, nghiên cứu và xây dựng, áp dụng pháp luật trên thực tế.
7. Kết cấu của Luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
nội dung Luận án gồm có 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về hoạt động tranh tụng tại phiên tòa
xét xử sơ thẩm vụ án hình sự.
Chương 2: Quy định của pháp luật tố tụng hình sự về hoạt động tranh
tụng tại phiên tịa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự và thực tiễn thi hành.
Chương 3: Yêu cầu và giải pháp nâng cao chất lượng hoạt động tranh
tụng tại phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự.
7


PHẦN TỔNG QUAN VỀ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1. Tình hình nghiên cứu trong nước
Nhiều cơng trình trong nước đã nghiên cứu về những vấn đề lý luận,
pháp luật cũng như thực tiễn tranh tụng trong tố tụng hình sự. Có thể nói đến
những cơng trình nghiên cứu điển hình như: “Về nguyên tắc tranh tụng trong
tố tụng hình sự” của tác giả Nguyễn Văn Hiển, nhà xuất bản Chính trị quốc
gia năm 2011. Đây là cuốn sách có nội dung tương đối đầy đủ về nguyên tắc
tranh tụng trong tố tụng hình sự. Tác giả đã đưa ra khái niệm, phân tích nội
dung, ý nghĩa, điều kiện đảm bảo thực hiện, nghiên cứu quy định của pháp
luật hiện hành cũng như thực tiễn áp dụng nguyên tắc tranh tụng trong tố tụng
hình sự. Gần đây nhất có thể kể đến cuốn “Những nội dung mới trong Bộ luật
Tố tụng hình sự năm 2015” của tác giả Nguyễn Hịa Bình (chủ biên), nhà xuất

bản Chính trị quốc gia năm 2016. Hai chuyên đề “Hệ thống những nguyên tắc
cơ bản của tố tụng hình sự Việt Nam theo Bộ luật Tố tụn hình sự năm 2015”
của tác giả Đào Trí Úc và chuyên đề “Nguyên tắc tranh tụng trong xét xử và
việc cụ thể hóa trong Bộ luật Tố tụn hình sự năm 2015” của tác giả Trần
Công Phàn trong cuốn sách đề cập trực tiếp đến nguyên tắc tranh tụng trong
xét xử được bảo đảm quy định tại Điều 26 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.
2. Tình hình nghiên cứu ở nước ngồi
Về tình hình nghiên cứu ở nước ngồi có thể kể đến một số ấn phẩm
nghiên cứu về tố tụng hình sự theo pháp luật của một số quốc gia trên thế giới
như: Cuốn“Outline of the U.S.Legal system” (Khái quát hệ thống pháp luật
Hoa Kì), Congressionnal Quarterly, Inc, năm 2001, nội dung cuốn sách đề cập
đến những vấn đề chính trong hệ thống pháp luật Hoa Kì như vai trò, chức
năng của các cơ quan được giao nhiệm vụ bảo vệ pháp luật, việc bố trí và tổ
chức Tòa án tại các bang và Tòa án liên bang, cơ chế xử lý tội phạm cũng như
các hành vi vi phạm khác; cuốn “Two models of the criminal process” (Hai
mơ hình tố tụng hình sự), H.L.Packer, 1964 nghiên cứu về hai mơ hình tố tụng
8


hình sự điển hình trên thế giới, đó là tố tụng tranh tụng và tố tụng thẩm vấn
(xét hỏi) trong đó nhấn mạnh về tiến trình lịch sử và đặc điểm của từng mơ
hình tố tụng; cuốn“The introduction of jury trials anh adversarial elements
into the former soviet union and other inquisitorial countries” (Giới thiệu về
bồi thẩm đoàn và các bên đối trọng tại Liên bang Xô viết cũ và một số nước
áp dụng), J.W.Diehm, 2001, cuốn sách tập trung nghiên cứu các quy định
trong pháp luật của Liên bang Xô Viết cũ về chế định bồi thẩm đoàn, quyền
của các bên đối trọng khi tham gia phiên tòa xét xử.
Các cơng trình nghiên cứu ở nước ngồi tập trung nghiên cứu những nội
dung trong pháp luật tố tụng hình sự nói chung và tranh tụng trong tố tụng
hình sự một số nước nói riêng. Do đó, tác giả sử dụng các tài liệu này với mục

đích tham khảo, so sánh, đối chiếu với các quy định trong pháp luật Việt Nam
về hoạt động tranh tụng tại phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự.
3. Đánh giá kết quả nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án
Nhìn chung, các cơng trình nghiên cứu trước đó đã tạo được một hệ
thống cơ sở lý luận về các vấn đề như: tranh tụng là gì, tranh tụng được hiểu
dưới những góc độ nào. Các nhà khoa học cũng đưa ra những quan điểm khác
nhau về tranh tụng tại phiên tòa xét xử sơ thẩm, những vấn đề được nghiên
cứu nhiều nhất là chủ thể thực hiện tranh tụng và phạm vi tranh tụng. Đồng
thời cũng có nhiều cơng trình nghiên cứu về quy định của pháp luật, thực
trạng hoạt động tranh tụng và đưa ra các giải pháp hoàn thiện pháp luật về
tranh tụng.
Tuy nhiên, chưa có cơng trình khoa học nào nghiên cứu một cách chun
sâu, tồn diện, có hệ thống về hoạt động tranh tụng tại phiên tòa xét xử sơ
thẩm vụ án hình sự. Đây cũng là nhiệm vụ mà nghiên cứu sinh đặt ra trong
quá trình thực hiện luận án của mình.
4. Những vấn đề luận án cần tiếp tục nghiên cứu
Trên cơ sở phân tích thực trạng tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
luận án, có thể xác định những vấn đề luận án cần tiếp tục nghiên cứu gồm:

9


Thứ nhất, nghiên cứu xây dựng khái niệm, làm rõ hơn nữa đặc điểm hoạt
động tranh tụng tại phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự.
Thứ hai, nghiên cứu hoạt động cụ thể của từng chủ thể tiến hành tranh tụng
và chủ thể điều khiển tranh tụng tại phiên tịa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự.
Thứ ba, nghiên cứu tổng thể quy định của pháp luật và thực tiễn thi hành
để làm rõ thực trạng quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về hoạt
động tranh tụng tại phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, có so sánh, đối
chiếu với pháp luật một số quốc gia khác trên thế giới trong điều kiện nghiên

cứu cho phép; làm rõ những ưu điểm, hạn chế và nguyên nhân của những hạn
chế khi tranh tụng tại phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự.
Thứ tư, nghiên cứu các điều kiện bảo đảm tranh tụng và đề xuất các giải
pháp, kiến nghị nhằm nâng cao chất lượng hoạt động tranh tụng tại phiên tịa
xét xử sơ thẩm vụ án hình sự. Các giải pháp, kiến nghị đưa ra phải đảm bảo
tính thống nhất, bảo vệ quyền con người và đáp ứng yêu cầu đặt ra của chiến
lược cải cách tư pháp ở nước ta.

10


PHẦN KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HOẠT ĐỘNG TRANH TỤNG
TẠI PHIÊN TÒA XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ

1.1.

Khái niệm, đặc điểm hoạt động tranh tụng tại phiên tòa xét xử

sơ thẩm vụ án hình sự
1.1.1. Khái niệm hoạt động tranh tụng trong tố tụng hình sự
Hoạt động tranh tụng trong tố tụng hình sự là tổng hợp các hành vi của
bên buộc tội, bên gỡ tội và một số chủ thể tham gia tố tụng khác đưa ra các
chứng cứ, tài liệu, yêu cầu nhằm bảo vệ quan điểm của mình và bác bỏ quan
điểm của phía bên kia dưới sự điều khiển của Tòa án.
1.1.2. Khái niệm phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
Phiên tịa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự là hình thức hoạt động xét xử của
Tòa án dưới sự điều khiển của Thẩm phán chủ tọa phiên tịa với sự góp mặt của
những người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng khác để giải quyết vụ án.

1.1.3. Đặc điểm của hoạt động tranh tụng tại phiên tòa xét xử sơ thẩm
vụ án hình sự
*Về phạm vi của hoạt động tranh tụng
Hoạt động tranh tụng tại phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự bắt đầu từ
khi Kiểm sát viên công bố cáo trạng và kết thúc trước khi Hội đồng xét xử vào
phòng nghị án bởi đây là thời gian diễn ra hoạt động của tất cả các chủ thể thực
hiện chức năng của tố tụng, bao gồm cả chủ thể buộc tội, chủ thể gỡ tội và Tòa
án để thực hiện quyền tài phán.
*Về nội dung của hoạt động tranh tụng
Nội dung tranh tụng bao gồm các tình tiết thể hiện bản chất vụ án và căn
cứ để chứng minh, bao gồm: có hành vi phạm tội xảy ra hay khơng, thời gian,
địa điểm và những tình tiết khác của hành vi phạm tội; ai là người thực hiện
hành vi phạm tội; có lỗi hay khơng có lỗi, do cố ý hay vơ ý; có năng lực trách
nhiệm hình sự hay khơng; mục đích, động cơ phạm tội; những tình tiết giảm
11


nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo và đặc điểm về nhân
thân của bị can, bị cáo; tính chất và mức độ thiệt hại do hành vi phạm tội gây
ra; nguyên nhân và điều kiện phạm tội; những tình tiết khác liên quan đến việc
loại trừ trách nhiệm hình sự, miễn trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt
*Về chủ thể thực hiện hoạt động tranh tụng
- Chủ thể thực hiện chức năng buộc tội
- Chủ thể thực hiện chức năng gỡ tội
- Chủ thể tranh tụng khác
- Chủ thể điều khiển tranh tụng
Từ những cơ sở lý luận trên, có thể rút ra khái niệm về hoạt động tranh
tụng tại phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự như sau:
Hoạt động tranh tụng tại phiên tịa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự là tổng
hợp hành vi của các chủ thể buộc tội, gỡ tội và các chủ thể tranh tụng khác

thực hiện hành vi tố tụng nhằm thu thập, kiểm tra, đánh giá chứng cứ, trình
bày ý kiến để bảo vệ quan điểm của mình, bác bỏ quan điểm của bên đối lập
dưới sự điều khiển của Thẩm phán chủ tọa phiên tịa nhằm đạt mục đích phù
hợp với chức năng tố tụng của mình.
1.2.

Hoạt động tranh tụng tại phiên tịa xét xử sơ thẩm theo mơ

hình tố tụng tranh tụng và mơ hình tố tụng thẩm vấn
Tiêu chí

Mơ hình tố tụng hình sự

Mơ hình tố tụng hình sự

thẩm vấn

tranh tụng

Chủ
thể Hội đồng xét xử (bao gồm Thẩm Tòa án (bao gồm Thẩm
chính có liên phán, Hội thẩm);
phán và/hoặc đồn bồi
quan
hoạt Kiểm sát viên;
thẩm);
động tranh
Cơ quan công tố;
Người
bào

chữa;
tụng
Luật sư
Bị hại, đương sự
Có thể có Cơ quan điều tra
với tư cách nhân chứng
Chuẩn
bị Hội đồng xét xử đã nghiên cứu rất Đoàn bồi thẩm không
cho
phiên kĩ hồ sơ vụ án
nghiên cứu hồ sơ vụ án từ
12


tòa xét xử sơ
thẩm
Thủ tục bắt
đầu
phiên
tòa (chuẩn bị
cho
hoạt
động tranh
tụng)

trước

Thẩm phán chủ tọa phiên tịa
kiểm tra sự có mặt của những
người tham gia tố tụng được triệu

tập; kiểm tra lý lịch, phổ biến cho
họ quyền, nghĩa vụ; giải quyết
việc đề nghị thay đổi một số chủ
thể tại phiên tòa

Giới thiệu thành phần
tham gia phiên tịa; Thẩm
phán và bồi thẩm đồn
tun thệ; phổ biến quyền,
nghĩa vụ cho bị cáo

Cách thức Kiểm sát viên công bố cáo trạng; Công tố viên, Luật sư có ý
tranh tụng
Tiến hành xét hỏi để thu thập, kiến về vụ việc;
kiểm tra chứng cứ;
Hai bên lần lượt gọi từng
Kiểm sát viên, người bào chữa và nhân chứng, tiến hành xét
các chủ thể khác tiến hành tranh hỏi, xét hỏi chéo nhân
chứng;
tụng;
Hội đồng xét xử ra bản án, quyết
định để giải quyết các vẫn đề liên
quan đến tội danh, quyết định hình
phạt, bồi thường thiệt hại và xử lý
vật chứng

Các bên tranh luận;
Đồn bồi thẩm quyết định
bị cáo có tội hay khơng có
tội


1.3. Ý nghĩa của hoạt động tranh tụng tại phiên tịa xét xử sơ thẩm
vụ án hình sự
*Ý nghĩa chính trị - xã hội
*Ý nghĩa pháp lý
1.4. Điều kiện bảo đảm hoạt động tranh tụng tại phiên tịa xét xử sơ
thẩm vụ án hình sự
* Thứ nhất, bảo đảm sự có mặt, vai trị, năng lực của chủ thể tranh tụng
Chủ thể tranh tụng gồm chủ thể buộc tội, chủ thể gỡ tội và một số chủ thể
khác. Theo pháp luật tố tụng hình sự hiện hành, chủ thể buộc tội là Kiểm sát
viên, chủ thể gỡ tội là bị cáo, người bào chữa và không thể thiếu Thẩm phán,
Hội thẩm với vai trò trọng tài để đưa ra phán quyết, bảo đảm sự bình đẳng,
cơng bằng trong tranh tụng cũng như xét xử. Để có hoạt động tranh tụng tại
13


phiên tịa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự địi hỏi các chủ thể này phải có mặt tại
phiên tòa.
* Thứ hai, bảo đảm sự độc lập của Tòa án
Sự độc lập của Tòa án thể hiện ở việc độc lập cả về cơ chế xã hội, chính
trị, tư tưởng. Khi tiến hành xét xử vụ án, Thẩm phán, Hội thẩm là những
người trực tiếp tiến hành xét xử tại phiên tòa, ra bản án, quyết định để giải
quyết các vấn đề có liên quan đến vụ án nên địi hỏi họ phải thực sự vơ tư,
khách quan trong khi làm nhiệm vụ. Thẩm phán, Hội thẩm cần có tư tưởng,
định hướng rõ ràng khi tiến hành giải quyết vụ án để bảo đảm quan điểm của
mình khơng bị chi phối, tác động bởi bất kì cơ quan, tổ chức, cá nhân nào.
* Thứ ba, bảo đảm các tiền đề cho hoạt động tranh tụng
Quá trình giải quyết vụ án hình sự bao gồm nhiều giai đoạn khác nhau,
giai đoạn trước là tiền đề để thực hiện giai đoạn sau, giai đoạn sau kế thừa và
kiểm chứng lại tính đúng đắn của giai đoạn trước. Muốn tiến hành xét xử sơ

thẩm vụ án hình sự thì phải trải qua các giai đoạn khởi tố, điều tra, truy tố.
Nếu các giai đoạn này được thực hiện một cách chính xác theo quy định của
pháp luật tố tụng hình sự sẽ là cơ sở quan trọng cho hoạt động tranh tụng tại
phiên tịa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự.
* Thứ tư, bảo đảm sự phù hợp về pháp luật
Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 là văn bản pháp luật điều chỉnh trực
tiếp hoạt động tranh tụng tại phiên tịa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, ngồi ra
cịn phải kể đến các văn bản khác như Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm
2014, Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014, Luật Luật sư năm
2006 (sửa đổi, bổ sung năm 2012)… Cùng một hoạt động nhưng lại chịu sự
điều chỉnh, chi phối của rất nhiều văn bản pháp luật khác nhau, do đó đòi hỏi
nội dung của các văn bản này phải chi tiết, cụ thể, phù hợp nhưng không được
mâu thuẫn, chồng chéo.

14


*Thứ năm, bảo đảm về cơ sở vật chất và chế độ đãi ngộ
Một số yếu tố khác cũng ít nhiều tác động đến chất lượng hoạt động tranh
tụng có thể kể đến như điều kiện làm việc, cơ sở vật chất, trang thiết bị máy
móc và các chế độ đãi ngộ. Để Kiểm sát viên, Thẩm phán, Hội thẩm có thể
thực hiện tốt cơng việc, trụ sở Viện kiểm sát, Tòa án phải được trang bị đầy
đủ các thiết bị phục vụ cho việc cập nhật, lưu trữ hồ sơ, các phương tiện ghi
âm, ghi hình và các thiết bị hỗ trợ khác.

15


Chương 2
QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VỀ HOẠT ĐỘNG

TRANH TỤNG TẠI PHIÊN TÒA XÉT XỬ SƠ THẨM
VỤ ÁN HÌNH SỰ VÀ THỰC TIỄN THI HÀNH

2.1.

Khái quát lịch sử pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về hoạt

động tranh tụng tại phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
2.1.1. Quy định về hoạt động tranh tụng tại phiên tòa xét xử sơ thẩm
vụ án hình sự trước khi có Bộ luật Tố tụng hình sự năm 1988
Qua việc nghiên cứu khái quát quy định của pháp luật tố tụng hình sự
Việt Nam thời kì này về hoạt động tranh tụng tại phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ
án hình sự có thể rút ra một số nhận xét như sau:
- Thứ nhất, trong giai đoạn trước khi có Bộ luật Tố tụng hình sự năm
1988, các quy định về quyền, nghĩa vụ của thể tranh tụng, cách thức thực hiện
tranh tụng nằm tản mát trong nhiều văn bản pháp luật khác nhau.
- Thứ hai, Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 1960 và Luật Tổ
chức Tòa án nhân dân năm 1960 ra đời là dấu mốc quan trọng thể hiện sự
phân định các chức năng trong tố tụng hình sự. Lúc này chức năng truy tố
chính thức thuộc về Viện kiểm sát mà không phải Cơ quan điều tra. Trên cơ
sở cáo trạng đã có, tại phiên tịa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, Kiểm sát viên
cơng bố cáo trạng, tiến hành luận tội. Thực chất, Kiểm sát viên đã trở thành
chủ thể thực hiện tranh tụng nhưng tại thời điểm đó, kĩ thuật lập pháp và tư
duy lập pháp còn nhiều hạn chế, tư tưởng về tranh tụng chưa được luật hóa.
- Thứ ba, Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 1981, Luật Tổ chức Tòa
án nhân dân năm 1981 và Pháp lệnh tổ chức luật sư năm 1987 ra đời đã phân định
tương đối rõ ràng các chức năng cơ bản của tố tụng hình sự là chức năng buộc tội,
chức năng gỡ tội và chức năng xét xử. Đây là tiền đề quan trọng để cho ra đời Bộ
luật Tố tụng hình sự đầu tiên năm 1988.


16


2.1.2. Quy định thể hiện hoạt động tranh tụng tại phiên tịa xét xử sơ
thẩm vụ án hình sự trong Bộ luật Tố tụng hình sự năm 1988 và Bộ luật Tố
tụng hình sự năm 2003
Trên cơ sở nghiên cứu các quy định trong Bộ luật Tố tụng hình sự năm
1988 và Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 thể hiện hoạt động tranh tụng tại
phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự có thể đưa ra một số nhận xét sau:
Thứ nhất, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 1988 tuy là Bộ luật đầu tiên của
nước ta nhưng đã tạo cơ sở pháp lý cho hoạt động tranh tụng tại phiên tòa diễn
ra với sự có mặt của các chủ thể theo diễn biến, trình tự hợp lý. Bộ luật Tố
tụng hình sự năm 2003 đã sửa đổi, bổ sung nhiều nội dung còn hạn chế, bất
cập của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 1988 nhằm bảo đảm quyền bình đẳng
của các bên tranh tụng như quy định cụ thể, rõ ràng hơn quyền của bị cáo,
người bào chữa, thủ tục phiên tòa cũng được quy định chặt chẽ, minh bạch,
nâng cao vị thế các bên trong tố tụng.
Thứ hai, tuy đã đạt được nhiều kết quả đáng ghi nhận, Bộ luật Tố tụng
hình sự năm 1988 và Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 đều chưa quy định
tranh tụng là một nguyên tắc cơ bản của tố tụng hình sự nên trong các điều
luật cụ thể không thể hiện được hết các nội dung của tranh tụng.
2.2. Quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam hiện hành về
hoạt động tranh tụng tại phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
2.2.1. Một số nguyên tắc của tố tụng hình sự bảo đảm hoạt động tranh
tụng tại phiên tịa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
*Nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo đảm (Điều 26 Bộ luật Tố
tụng hình sự năm 2015)
*Ngun tắc suy đốn vơ tội (Điều 13 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015)
*Nguyên tắc xác định sự thật của vụ án (Điều 15 Bộ luật Tố tụng hình sự
năm 2015)

*Nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội, bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự (Điều 16 Bộ luật Tố tụng hình
sự năm 2015)
17


*Nguyên tắc trách nhiệm thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo
pháp luật trong tố tụng hình sự (Điều 20 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015)
*Nguyên tắc Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp
luật (Điều 23 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015)
2.2.2. Quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 về hoạt động
tranh tụng tại phiên tịa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
*Chuẩn bị cho hoạt động tranh tụng bằng thủ tục bắt đầu phiên tòa
Thẩm phán chủ tọa (Hội đồng xét xử) thực hiện các hoạt động trong thủ tục
bắt đầu phiên tịa với mục đích kiểm tra sự có mặt của các bên tranh tụng và tạo
ra những điều kiện cần thiết cho các bên tiến hành tranh tụng ở các thủ tục xét
hỏi và tranh luận tiếp theo được thuận lợi, đúng pháp luật, đạt hiệu quả.
*Hoạt động tranh tụng trong thủ tục xét hỏi, tranh luận tại phiên tịa
Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 đã bổ sung nguyên tắc tranh tụng
trong xét xử và quy định thủ tục tranh tụng tại phiên tòa xét xử. Thủ tục phiên
tòa sơ thẩm gồm ba bước: thủ tục bắt đầu phiên tòa, thủ tục tranh tụng, nghị
án và tuyên án. Thủ tục tranh tụng chính là sự kết hợp của thủ tục xét hỏi,
tranh luận trước đây và bổ sung thêm một số nội dung nhằm thể hiện tư tưởng
tranh tụng trong tố tụng hình sự. Thủ tục tranh tụng tại phiên tịa được tiến
hành thơng qua hoạt động của các chủ thể thuộc hai bên buộc tội - gỡ tội với
sự có mặt của Hội đồng xét xử thực hiện chức năng trọng tài.
Hoạt động tranh tụng giữa chủ thể buộc tội và chủ thể gỡ tội là trọng tâm
và được thể hiện bằng việc:
Về phía Kiểm sát viên (bên buộc tội)
- Kiểm sát viên công bố bản cáo trạng, quyết định truy tố thể hiện quan

điểm truy tố của Viện kiểm sát, Kiểm sát viên có thể trình bày ý kiến bổ sung
nhằm làm rõ thêm bản cáo trạng đã được giao cho bị cáo trước đó.
- Kiểm sát viên tiến hành xét hỏi. Kiểm sát viên hỏi bị cáo về những chứng
cứ, tài liệu, đồ vật liên quan đến việc buộc tội, gỡ tội và những tình tiết khác của
vụ án. Kiểm sát viên cũng có thể hỏi những người tham gia tố tụng khác như bị
hại, đương sự hoặc người đại diện của họ, người làm chứng, người giám định,
người định giá tài sản về những tình tiết có liên quan đến vụ án.
18


- Kiểm sát viên có thể xem xét vật chứng; nghe, xem nội dung được ghi
âm, ghi hình có âm thanh; được đến xem xét tại nơi đã xảy ra tội phạm hoặc
địa điểm khác có liên quan đến vụ án; được nghe trình bày, cơng bố báo cáo,
tài liệu của cơ quan, tổ chức tại phiên tòa.
- Kiểm sát viên tiến hành luận tội đối với bị cáo, tranh luận, đối đáp tất cả các
ý kiến phản bác từ phía bị cáo, người bào chữa, bị hại, đương sự và người đại diện
của họ. Kiểm sát viên cũng có thể kết luận về tội nhẹ hơn, rút một phần hoặc tồn
bộ quyết định truy tố và đề nghị Tịa án tun bố bị cáo khơng có tội.
Về phía bị cáo, người bào chữa (bên gỡ tội)
- Bị cáo được nghe Kiểm sát viên công bố bản cáo trạng, được trình bày
ý kiến về việc bản cáo trạng tại phiên tịa có giống như bản cáo trạng bị cáo đã
được nhận hay khơng, nếu có những nội dung khơng giống hoặc có những nội
dung Kiểm sát viên bổ sung gây bất lợi cho bị cáo thì bị cáo trình bày để Hội
đồng xét xử xem xét.
- Bị cáo trả lời các câu hỏi của chủ tọa phiên tòa, Thẩm phán, Hội thẩm,
Kiểm sát viên, người bào chữa, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
đương sự. Bị cáo trả lời câu hỏi cũng chính là bị cáo đang thể hiện nhận thức,
quan điểm về hành vi mà mình đã thực hiện. Việc bị cáo trả lời trung thực,
đúng đắn và chi tiết về hành vi cũng có thể được coi là tình tiết giảm nhẹ trách
nhiệm hình sự. Bên cạnh đó, bị cáo cũng có quyền khơng trả lời các câu hỏi

(quyền im lặng), nếu được chủ tọa phiên tịa đồng ý, bị cáo có thể hỏi bị cáo
khác, hỏi bị hại, đương sự hoặc người đại diện của họ, hỏi người làm chứng
về các vấn đề có liên quan đến bị cáo.
- Bị cáo, người bào chữa có quyền trình bày, nêu ý kiến về các hoạt động
mà Hội đồng xét xử thực hiện tại phiên tòa; người bào chữa có quyền tiến
hành xét hỏi.
- Bị cáo, người bào chữa trình bày lời bào chữa, có quyền trình bày ý
kiến, đưa ra chứng cứ, tài liệu và lập luận để đối đáp với quan điểm buộc tội
của Kiểm sát viên.
19


Ngồi ra, những chủ thể tranh tụng khác đều có quyền trình bày ý kiến,
tranh luận để bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của mình, Thẩm phán chủ
tọa phiên tòa điều khiển hoạt động tranh tụng tại phiên tịa xét xử sơ thẩm vụ
án hình sự theo đúng trình tự, thủ tục mà pháp luật quy định.
2.3. Thực tiễn thi hành quy định pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam
về hoạt động tranh tụng tại phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
Trên cơ sở các báo cáo cơng tác của ngành kiểm sát, Tịa án, báo cáo của
Liên đoàn Luật sư Việt Nam trong những năm qua cho thấy hoạt động tranh
tụng tại phiên tịa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự ngày càng được thực hiện một
cách chất lượng, có hiệu quả, đặc biệt là từ khi Bộ luật Tố tụng hình sự năm
2015 chính thức có hiệu lực thi hành với những quy định mới về thủ tục tranh
tụng tại phiên tòa.
2.3.1. Thực trạng hoạt động tranh tụng của chủ thể buộc tội
2.3.2. Thực trạng hoạt động tranh tụng của chủ thể gỡ tội
2.3.3. Thực trạng tranh tụng của một số chủ thể khác
2.3.4. Thực trạng điều khiển hoạt động tranh tụng
2.3.5. Nguyên nhân của những hạn chế, vướng mắc
Bên cạnh những kết quả đã đạt được, quy định của pháp luật tố tụng hình

sự hiện hành về hoạt động tranh tụng tại phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình
sự và thực tiễn thi hành vẫn cịn bộc lộ một số điểm tồn tại, hạn chế, về cơ bản
xuất phát từ hai nguyên nhân chính sau đây:
Thứ nhất, nguyên nhân về pháp luật
Một số quy định của pháp luật tố tụng hình sự hiện hành chưa thực sự tạo
điều kiện cho hoạt động tranh tụng tại phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
diễn ra một cách có chất lượng.
Thứ hai, một số nguyên nhân khác: về nguồn nhân lực, về cơ sở vật chất,
chế độ đãi ngộ…

20


Chương 3
YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG HOẠT ĐỘNG
TRANH TỤNG TẠI PHIÊN TÒA XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ
3.1. Yêu cầu đối với việc nâng cao chất lượng hoạt động tranh tụng
tại phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
Thứ nhất, nâng cao chất lượng hoạt động tranh tụng tại phiên tòa xét xử
sơ thẩm vụ án hình sự gắn liền với việc bảo vệ, bảo đảm quyền con người,
quyền công dân.
Thứ hai, nâng cao chất lượng hoạt động tranh tụng tại phiên tịa xét xử sơ
thẩm vụ án hình sự đáp ứng yêu cầu đặt ra trong công cuộc cải cách tư pháp
hiện nay.
Thứ ba, nâng cao chất lượng hoạt động tranh tụng tại phiên tịa xét xử sơ
thẩm vụ án hình sự phải bảo đảm tuân thủ Hiến pháp.
Thứ tư, nâng cao chất lượng hoạt động tranh tụng tại phiên tòa xét xử sơ
thẩm vụ án hình sự phải bảo đảm tuân thủ các nguyên tắc của tố tụng hình sự.
Thứ năm, nâng cao chất lượng hoạt động tranh tụng tại phiên tịa xét xử
sơ thẩm vụ án hình sự phải đáp ứng yêu cầu của thực tiễn đấu tranh phòng

chống tội phạm.
3.2. Giải pháp nâng cao chất lượng hoạt động tranh tụng tại phiên
tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
3.2.1. Giải pháp hồn thiện pháp luật
Hoạt động tranh tụng tại phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự trong
thực tế cịn bộc lộ nhiều bất cập, một phần nguyên nhân là do những quy định
của pháp luật vẫn còn hạn chế, nhiều nội dung chưa thực sự phù hợp với thực
tế khách quan cũng như yêu cầu đặt ra đối với hoạt động tranh tụng. Do đó,
muốn nâng cao chất lượng hoạt động tranh tụng tại phiên tịa xét xử sơ thẩm
vụ án hình sự phải tiến hành sửa đổi, bổ sung quy định của pháp luật tố tụng
hình sự về vấn đề này. Tác giả luận án xin đưa ra những kiến nghị về hoàn
thiện quy định của pháp luật như sau:

21


*Hồn thiện quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 về một số
nguyên tắc cơ bản của tố tụng hình sự
Thứ nhất, hồn thiện Điều 15 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy định
về nguyên tắc xác định sự thật của vụ án
Thứ hai, hoàn thiện Điều 18 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy định
về nguyên tắc trách nhiệm khởi tố và xử lý vụ án hình sự
Thứ ba, hồn thiện Điều 20 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy định
về chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật
trong tố tụng hình sự
* Hồn thiện quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 nhằm bảo
đảm hoạt động tranh tụng của chủ thể buộc tội
Thứ nhất, xác định rõ chức năng, nhiệm vụ của Viện kiểm sát trong tố
tụng hình sự
Thứ hai, sửa đổi, bổ sung quy định về việc luận tội của Kiểm sát viên

Thứ ba, sửa đổi, bổ sung Điều 326 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 về
thủ tục nghị án
* Hoàn thiện quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 nhằm bảo
đảm hoạt động tranh tụng của chủ thể gỡ tội
Thứ nhất, sửa đổi, bổ sung quy định của pháp luật nhằm đảm bảo sự có
mặt của người bào chữa tại phiên tịa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
Thứ hai, cần bổ sung quy định nhằm bảo đảm việc thu thập chứng cứ của
người bào chữa
Thứ ba, sửa đổi, bổ sung Điều 72 Bộ luật Tố tụng hình sự về diện người
có thể tham gia tố tụng với tư cách là người bào chữa
Thứ tư, sửa đổi, bổ sung quy định về quyền của người bào chữa
* Hoàn thiện quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 nhằm bảo
đảm hoạt động của chủ thể điều khiển tranh tụng
Thứ nhất, sửa đổi, bổ sung quy định về trình tự xét hỏi tại phiên tịa sơ thẩm
Thứ hai, hồn thiện quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 về
việc Tòa án trả hồ sơ để điều tra bổ sung
* Hoàn thiện một số quy định khác nhằm bảo đảm tranh tụng
22


×