Tải bản đầy đủ (.pdf) (8 trang)

Thiêng hóa môi trường tự nhiên trong văn hóa tín ngưỡng Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (143.25 KB, 8 trang )

TƠN GIÁO - TÍN NGƯỠNG

THIÊNG HĨA MƠI TRƯỜNG TỰ NHIÊN
TRONG VĂN HĨA TÍN NGƯỠNG VIỆT NAM
TRẦN QUỐC TUẤN

Tóm tắt
Thiêng hóa môi trường tự nhiên đã xuất hiện từ lâu trong văn hóa tín ngưỡng của hầu hết các dân
tộc trên thế giới. Thuyết vạn vật hữu linh của Edward Burnett Tylor đã cho thấy ý nghĩa sâu sắc trong
quan niệm của con người từ thời nguyên thủy về thế giới tự nhiên tồn tại xung quanh họ thông qua
những hoạt động văn hóa tín ngưỡng. Ở Việt Nam, chúng ta cũng bắt gặp hiện tượng thiêng hóa mơi
trường tự nhiên trong văn hóa tín ngưỡng của nhân dân xuất hiện từ xa xưa và khá phổ biến. Xem xét,
nghiên cứu về nó có thể giúp chúng ta thấy được sâu sắc hơn quan niệm về vũ trụ luận phương Đông
trong dịng chảy lịch sử, văn hóa truyền thống Việt Nam.
Từ khóa: Thiêng hóa, mơi trường tự nhiên, văn hóa tín ngưỡng, tự nhiên thần
Abstract
The sacredize of the natural environment has been presented for a long time in the religious culture
of most ethnic groups in the world. The animist theory of Edward Burnett Tylor has shown the profound
meaning in the conception of people since primitive times about the natural world that exists around
them through cultural and religious activities. In Vietnam, we also encounter the phenomenon of
sacredize natural environment in the belief culture of the people, which has appeared since ancient
times and is quite common. Examining and researching on sacredize can help us to understand more
the concept of Eastern cosmology in the flow of Vietnamese history and traditional culture.
Keywords: Sacredize, natural environment, religious culture, natural god

T

riết lý phương Đông truyền thống
dựa trên học thuyết về âm dương,
ngũ hành là sự khái quát về vũ trụ,
về sự tồn tại và phát triển của vạn vật trong tự


nhiên của người Á Đơng, trong đó có Việt Nam,
đã có từ xa xưa. Nguồn gốc của vũ trụ và sự
tồn tại, vận hành, phát triển của vạn vật trong
vũ trụ được người Á Đông biểu hiện bằng mối
quan hệ vận động qua lại giữa 5 yếu tố là Kim
- Mộc - Thủy - Hỏa - Thổ. Trong văn hóa truyền
thống Việt Nam, ảnh hưởng của triết lý âm
dương, ngũ hành được biểu hiện rất rõ trong
Số 30 (Tháng 12 - 2019)

đời sống sinh hoạt, đặc biệt là trong đời sống
văn hóa tín ngưỡng của nhân dân. Hiện tượng
tôn thờ và sùng bái thiên nhiên gắn với triết
lý âm dương, ngũ hành của người Việt xuất
hiện khá phổ biến trong sinh hoạt văn hóa
tín ngưỡng. Các vị thần tự nhiên hiện lên với
những thuộc tính được gắn với quan niệm về
ngũ hành âm dương có thể nói là sự khác biệt
căn bản trong thực hành văn hóa tín ngưỡng
của người Việt với văn hóa tín ngưỡng thờ các
thần tự nhiên của các dân tộc khác thuộc nền
văn hóa phương Tây.

VĂN HĨA
NGHIÊN CỨU

27


VĂN HĨA

NGHIÊN CỨU

1. Thiêng hóa mơi trường tự nhiên trong
văn hóa tín ngưỡng của một số dân tộc trên
thế giới
Trong quan niệm của người Việt và một số
dân tộc khác trên thế giới, mọi sự vật trong tự
nhiên có liên quan đến sự mưu sinh của con
người thì đều có linh hồn tựa như chính con
người. Lý thuyết này đã được nhà nghiên cứu
văn hóa người Anh - Edward Burnett Tylor
(1832 - 1917) phát kiến và gọi theo cách của
các nhà nghiên cứu văn hóa ở Việt Nam hay
trên thế giới hiện nay là thuyết vạn vật hữu
linh (Animalism). Thuyết vạn vật hữu linh cho
thấy ý nghĩa sâu sắc trong quan niệm của con
người từ thời nguyên thủy về giới tự nhiên tồn
tại xung quanh họ. Niềm tin vào sự tồn tại linh
hồn của vạn vật, sự tồn tại của các thần thánh
trong cuộc sống đã thể hiện chặng đường
lịch sử tự nhiên trong q trình tiến hố của
con người. Điều muốn nói ở đây là con người
ngay từ thời xa xưa đã coi các thực thể tự nhiên
xung quanh họ đều là những thực thể “sống”,
bởi đều có linh hồn tồn tại bên trong các thực
thể đó. Một nguồn nước, một ngọn núi, một
cái cây, một viên đá,… trong tự nhiên, theo
quan niệm của người từ xa xưa, đều là những
thực thể “sống” và biết suy nghĩ như con người.
Không những thế, chúng còn có quyền lực siêu

nhiên khiến con người phải kính nể, sợ hãi, và
như vậy, họ phải thờ phụng chúng.
Ngay từ thời cổ đại, trong tôn giáo của
người Ai Cập, việc sùng bái tự nhiên được biểu
hiện mợt cách rõ nét và chiếm mợt vị trí quan
trọng trong hệ thống tín ngưỡng về thần linh
của họ. Theo quan niệm của họ, các vị thần tự
nhiên này có thể can thiệp và có ảnh hưởng to
lớn đến sinh mệnh của con người. Vì vậy, mỗi
mô đất, ngọn núi, dòng sông,… trong tâm
trí họ đều biến thành những thần thánh linh
thiêng như: Thiên thần Nut được hiện ra dưới
hình dạng là một người đàn bà hay một con
bò cái; địa thần Geb được hiện ra dưới hình
28

Số 30 (Tháng 12 - 2019)

dạng là một người đàn ông; thủy thần Ơdirit
chính là thần sơng Nin mang nước tưới tiêu
cho đồng ruộng tốt tươi. Trong tự nhiên, mặt
trời có thể coi là quan trọng nhất bởi nó là yếu
tố quyết định, khởi nguồn cho sự sống trên trái
đất, vì vậy đối với người Ai Cập cổ đại, thần mặt
trời Amon-Ra là vị thần tối cao, chúa tể của các
thần linh và tượng trưng cho quyền lực vô biên
của các vị vua ở Ai Cập (Pharaon).
Với người Hy Lạp cổ đại, vị thần tối cao
là vị thần mặt trời Helios. Vào năm 304 trước
Công nguyên, nhân dân đảo Rhodes1 đã giành

chiến thắng trong cuộc chiến tranh với người
Maxedonia, và họ tin rằng thần mặt trời Helios
đã phù hộ cho họ, vì vậy họ đã đúc tượng thần
mặt trời bằng đồng cao 36m - bức tượng cao
nhất thời bấy giờ để thờ phụng. Ngoài thần
mặt trời, người Hy Lạp cổ đại còn thờ thần mặt
trăng (Artemit) - vị thần của thiên nhiên hoang
dã và săn bắn.
Với người Lưỡng Hà cổ đại, thần mặt trời
(Samat) là vị thần bảo trợ pháp luật và tòa án;
thần địa ngục Nêgan là vị thần được hiện thân
trong hình hài một sinh vật kỳ dị, có sức mạnh
siêu nhiên; thần biển ngoài chức năng là vị
thần chúa tể của biển khơi còn là thần dạy cho
nhân dân biết nghề thủ công, nghệ thuật và
khoa học…
Ở Australia, người dân bản địa thường tin
rằng trong lòng các núi lửa có những thần
linh (được họ gọi là Ingna) ngự trị, và những
vị thần này đã nhóm lửa từ dưới lòng đất, rồi
ném lên những hòn đá nung đỏ (nham thạch).
Trong thực tế, các ngọn núi lửa hoạt động đã
để lại những hậu quả và tác hại to lớn đến cuộc
sống mưu sinh của con người, chính vì vậy đã
diễn ra các nghi thức cúng tế để cầu xin thần
linh, thậm chí tục hiến sinh người và đợng vật
cho thần núi lửa cũng thấy xuất hiện ở các tộc
người khác nhau trên thế giới. Tylor đã dẫn
chứng về tục hiến sinh người cho thần Masaya
của người Nicaragua, khi lửa ở miệng các ngọn



TƠN GIÁO - TÍN NGƯỠNG

núi bớc lên thì họ ném những thân thể người
được hiến tế vào miệng núi để cầu xin thần lửa
phù hộ không tiếp tục làm hại dân làng nữa
[1, tr.785].
Đối với nhiều dân tộc trên thế giới, các
dòng sông, suối, ao hồ cũng có những vị thần
linh ngự trị. Ở Australia, người dân bản địa cho
rằng những ma nước sống đầy các hồ và sông
suối. Có thể nói, không một loại thần thánh
nào lại đóng một vai trò quan trọng như ma
nước, nó trừng phạt tất cả những ai tắm ở các
nơi cấm, hay vào những giờ cấm và làm cho
phụ nữ phải bị hành hạ khắc nghiệt và bị chết.
Ở Mỹ, người da đỏ thường có tập tục hiến sinh
một con vật sống cho ma nước ở các sông, hồ
để cầu xin sự bình an, khỏi bệnh tật. Ở Đông
Phi, bộ lạc Wanika coi mỗi mạch nước đều có
những vị thần ngự trị và nhiệm vụ của họ là
phải mang lễ vật đến cúng tế mỗi khi thấy cần
thiết. Còn ở Bắc Âu, hầu hết các làng ở Estonia
đều có những thần suối của riêng mình để
cúng tế, thậm chí theo họ miêu tả lại thì họ còn
có thể nhìn thấy những con ma nước mang
bít tất xanh và vàng đi ra từ con suối thiêng
Wohhanda, và chắc chắn đó là những con ma
suối mà ngày xưa họ thường mang thú vật và

trẻ nhỏ để hiến tế [1, tr.786-787].
2. Thiêng hóa mơi trường tự nhiên trong
văn hóa tín ngưỡng Việt Nam
Cũng như một số dân tộc trên thế giới, trong
lịch sử văn hóa Việt Nam, không khó tìm thấy
những dấu ấn về hiện tượng thiêng hóa môi
trường tự nhiên trong kho tàng văn hóa của
54 dân tộc. Tuy nhiên, tục thờ các vị thần tự
nhiên trong văn hóa tín ngưỡng của người Việt
thường theo chiều hướng được phân loại theo
triết lý âm dương ngũ hành, thể hiện rõ quan
niệm về vũ trụ luận của người phương Đơng.
Việc thiêng hóa mơi trường tự nhiên đầu
tiên mà ta có thể nói tới trong hệ thống tín
ngưỡng thờ thần của người Việt đó là sự xuất
hiện của các vị thần núi. Chúng ta có thể bắt
Số 30 (Tháng 12 - 2019)

gặp hiện tượng ở nhiều địa phương có địa
hình địa lý gắn liền với các dãy núi, ngọn núi,
nhân dân ở đó thường có những sinh hoạt văn
hóa mang tính tín ngưỡng thờ cúng sơn thần.
Trong số tất cả các vị thần núi trong hệ thống
tín ngưỡng dân gian của người Việt, Tản Viên
Sơn Thánh là một vị sơn thần xuất hiện khá
sớm và là một trong “Tứ bất tử” trong hệ thống
tín ngưỡng dân gian Việt Nam. Trong tâm thức
dân gian, Tản Viên Sơn Thánh là vị linh thần
biểu tượng cho tinh thần và sức mạnh to lớn
của nhân dân trong công cuộc lao động, làm

ăn và chiến đấu chống thiên tai (lũ lụt) để bảo
vệ cuộc sống. Trong Việt điện u linh của Lý Tế
Xuyên thời nhà Trần, thần núi Tản Viên đã hiện
lên với huyền thoại chiến thắng Thủy Tinh và
lấy được Mỵ Nương con vua Hùng. Đời vua
Trần Nhân Tông niên hiệu Trùng Hưng năm
thứ nhất, ông được sắc phong là Hựu Thánh
Khuông quốc Hiển ứng vương. Cịn theo Lĩnh
Nam chích qi của Vũ Quỳnh thời Hậu Lê thì
thần núi Tản Viên xuất hiện vào thời vua Hùng
thứ mười tám với tên gọi Sơn Tinh, đã được
làm rể khi lấy Mỵ Nương, cùng với vua Hùng
chiến đấu anh dũng ngoan cường và chiến
thắng vẻ vang trong công cuộc chống lại Thủy
Tinh. Hơn nữa, theo truyện thì Sơn Tinh cịn
được cho là một trong năm mươi người con
trai theo cha xuống biển trong truyền thuyết
lịch sử Lạc Long Quân và Âu Cơ, rồi từ biển mà
ngược lên vùng núi mà làm vua nước Việt.
Cũng trong Việt điện u linh, một vị sơn thần
khá tiêu biểu nữa xuất hiện, đó là thần Đồng
Cổ với vai trị giúp các đấng quân vương, mà
cụ thể ở đây là vua Lý Thái Tông trong công
cuộc kiến tạo quốc gia của mình. Truyện Tản
Viên Hựu Thánh Khuông quốc Hiển ứng vương
trong Việt điện u linh kể rằng: Lý Thái Tông
đương khi còn là Thái tử, năm 1020 mang
quân đi đánh Chiêm Thành đã nằm mơ thấy
một dị nhân thân cao tám thước, mày râu cứng
nhọn, mặc chiến bào, tay cầm binh khí đến


VĂN HÓA
NGHIÊN CỨU

29


VĂN HĨA
NGHIÊN CỨU

trước mặt tâu rằng: “Tơi là thần núi Đồng Cổ,
nghe tin Thái tử sang đánh phương Nam, tôi
xin theo giúp để phá giặc lập chút công nhỏ”,
trận ấy quả nhiên đại thắng. Sau này khi Lý
Thái Tổ mất, các em của vua có âm mưu phản
trắc muốn giành ngôi báu, một lần nữa thần
Đồng Cổ lại giúp Lý Thái Tông phòng ngừa họa
hạn, vì vậy thần được Lý Thái Tông phong là
Thiên hạ minh chủ gia, tước Đại vương. Sách
Đại Việt sử ký toàn thư chép rằng, một ngày
trước khi các em vua (các vương) định làm
phản, vua chiêm bao thấy một người tự xưng
là thần núi Đồng Cở nói với mình về việc ba
vương Vũ Đức, Đơng Chinh, Dực Thánh làm
loạn, bảo vua phải diệt trừ ngay đi. Sau khi tỉnh
giấc, vua sai phòng bị như lời thần dặn thì quả
nhiên ứng nghiệm. Sau khi dẹp yên được các
bè đảng làm phản, Lý Thái Tông đã cho dựng
miếu ở bên hữu thành Đại La, phía sau chùa
Thánh Thọ2 để hàng năm cúng tế và coi thần

như một vị minh thần có sức mạnh siêu nhiên,
có thể ra những hình phạt, trừng trị những
người “làm con bất hiếu, làm tôi bất trung” [3,
tr.277-279].
Trong tâm trí của người Việt, ở những ngọn
núi cũng có các đấng thần linh ngự trị. Các vị
sơn thần hầu hết xuất hiện ở các địa phương
có địa hình nhiều núi, đời, hoặc có địa hình
bằng phẳng xen kẽ đồi núi cao như Hà Tây, Sơn
Tây (nay thuộc Hà Nội), Thanh Hóa, Nghệ An...
Hệ thống sơn thần của người Việt khá phong
phú, tiêu biểu như thần núi Mẫu Sơn (Lạng
Sơn), thần núi Tam Đảo (Vĩnh Phúc), thần núi
Chè (Bắc Ninh), thần núi Sam, thần núi Cấm
(An Giang)…
Trên núi có các sơn thần, dưới nước thì có
các thủy thần. Vị thần đầu tiên xuất hiện trong
hệ thống tín ngưỡng Thành hoàng ở Việt Nam
là một thủy thần, đó là thần sông Tô Lịch. Ở
vị thần này toát lên những giá trị tinh thần,
tinh hoa cốt cách của văn hóa truyền thống
dân tộc. Trong Việt Điện u linh có miêu tả: Đời
30

Số 30 (Tháng 12 - 2019)

Đường Mục Tông, niên hiệu Trường Khánh
năm thứ 3 (823), Lý Nguyên Gia là quan đô
hộ của nhà Đường ở nước ta, khi đi xem thế
đất thành Long Biên xưa đã cho dựng đền thờ

thần Tô Lịch làm Thành hoàng của vùng đất
này. Khi dựng xong đền, Lý Nguyên Gia được
Thần báo mộng khuyên bảo cách trị dân và
trách nhiệm của người làm quan, Lý Nguyên
Gia cảm phục và xin được nghe theo. Các đời
sau, vua quan đều tôn thần làm Thành hoàng
linh thiêng của vùng. Khi Cao Biền làm Tĩnh Hải
quân tiết độ sứ ở nước ta (866 - 875), cho xây
thành Đại La, nghe được tiếng thần rất là linh
thiêng, mới cho sắm lễ vật để cúng tế và tôn
thần là Đô phủ Thành hoàng Thần quân. Đến
thời vua Lý Thái Tổ, khi cho thiên đô về thường
nằm mơ thấy một vị thần đi qua trước cung
vua vái lạy và hô “vạn tuế”. Vua bèn hỏi rõ ngọn
ngành xuất thân của thần và khi tỉnh giấc, vua
sai các quan trong triều đến đền để tế lễ và
phong thần làm “Quốc đô Thăng Long Thành
hoàng Đại vương” [6, tr.69-71].
Cũng có nội dung tương tự về thần sông
Tô Lịch nhưng trong sách Lĩnh Nam chích quái
của Vũ Quỳnh, thần sông Tô Lịch lại hiện lên
với vẻ đầy khí phách hồn thiêng sông núi Việt
thông qua sự đối đáp rất đỗi hùng hồn với
Cao Biền. Sách miêu tả: Cao Biền khi đến nước
ta đã cho trấn yểm sông Tô Lịch nhưng đã bị
thần cảnh cáo thông qua việc báo mộng rằng:
“Đêm qua, vì ngài quá kiêu ngạo, nên ta đùa
một chút thôi. Nay nghe ngài dự tính yểm ta.
Ta đây chính là tinh hoa của Long Đỗ, hào kiệt
của đất thiêng, vốn vâng mệnh Trời đến trấn

ngự nơi đây, cho đến nay đã lâu đời. Ngài nên
biết tự xét mình, để khỏi hối về sau”. Sau đó
Cao Biền đã lấy hàng vạn cân vàng bạc, sắt,
đồng lập đàn, làm bùa, làm phép để trấn yểm
nhưng ngay đêm ấy mưa to, gió lớn và sấm
sét ầm ầm đánh vào những nơi yểm trấn của
Biền, làm chúng tan thành mây khói, trôi bạt
hết cả ra sông và lấp bằng thế đất lại như cũ.


TƠN GIÁO - TÍN NGƯỠNG

Biền bèn than rằng: “Khí vượng Viêm Bang như
vậy, ta không thể ở lâu được, có thể nguy, bèn
dâng biểu xin được thay thế. Khi hắn về đi trấn
ngự ở Thục Xuyên, thì bị thủ hạ hắn giết…” [4,
tr.171-179].
Các vị thủy thần hầu hết xuất hiện ở các địa
phương có nhiều ao, hồ, sông, suối và những
nơi tiếp giáp gần với biển như Hải Phòng, Thái
Bình, Nam Định, Thanh Hóa, Nghệ An…
Diện mạo các thủy thần trong hệ thống tín
ngưỡng dân gian Việt Nam cũng khá đa dạng
và phong phú. Lúc đầu các vị thủy thần xuất
hiện dưới dạng là các thần sông, thần suối,
thần biển, thần ao, hồ,… sau đó hệ thống
này ngày càng được phát triển mở rộng theo
đà nhân hóa và trở thành các vị thần có tên
tuổi, gốc tích rõ ràng như: Đông Hải Đại vương
Đoàn Thượng, Bát Hải Đại vương, Thánh Tam

Giang Trương Hống - Trương Hát, Nam Hải Đại
Vương Phạm Tử Nghi, Tứ vị Thánh nương…
Ngoài sơn thần, thủy thần, trong hệ thống
các thần tự nhiên của người Việt còn có cả mợt
hệ thớng thổ thần (thần đất/thần thở địa). Một
trong những thần thổ địa trong hệ thống tín
ngưỡng dân gian người Việt xuất hiện khá
sớm đó là thần Thổ Lệnh ở xứ Giao Châu thế
kỷ VII. Thời Vĩnh Huy (650 - 655) nhà Đường, có
nhân vật Lý Thường Minh được cử làm đô đốc
Phong Châu, đến vùng đất này thấy thế đất
đẹp, mạch dồn ở chỗ ngã ba sông Bạch Đằng
và sông Bạch Hạc, mới cho dựng một quán
Thông Thánh ở Bạch Hạc, sau đó ông đã cho
người đắp một tượng thần Hộ quán. Tượng
đắp xong, Lý Thường Minh đốt hương khấn
rằng: “Ở đây vị thần nào thiêng, xin báo mộng
cho biết, được như hình trạng pho tượng đã tô,
mới thỏa lòng kẻ ngu này”. Đêm hôm ấy, ông
nằm mộng thấy hai dị nhân hiện lên, một xưng
là Thổ Lệnh (thần đất) và một xưng là Thạch
Khanh (thần đá) đến tiếp kiến. Sau đó là một
cuộc thi tài giữa thần đất và thần đá để giành
quyền được vào ở ngôi đền phía trước quán,
Số 30 (Tháng 12 - 2019)

cuối cùng phần thắng đã thuộc về thần Thổ
Lệnh với tài nghệ pháp thuật cao hơn. Nhân
dân trong vùng về sau thường đến đền cầu
khấn và đều được linh ứng. Thần Thổ Lệnh đã

được nhân dân địa phương tôn là phúc thần,
quanh năm thờ phụng, nhang khói [6, tr.112113].
Thời Khai Nguyên (713 - 739) nhà Đường,
khi ấy nước ta vẫn bị đô hộ bởi thế lực phương
Bắc. Thứ sử Quảng Châu là Lư Ngư giữ trọng
trách cai quản xứ Giao Châu, với ý đồ đồng
hóa người Việt bản địa, khi đến đây đã chọn
chỗ đất có phong cảnh đẹp, địa hình thuận
lợi là thôn An Viễn3 nằm giữa hai huyện Long
Đỗ và Từ Liêm, cho xây dựng đền thờ sống
vua Đường Huyền Tông với niên hiệu Khai
Nguyên, đồng thời cũng cho dựng tượng thần
thổ địa để phối thờ. Việc làm của Lư Ngư được
hiểu là sự truyền bá tư tưởng thần phục người
Việt đối với người phương Bắc bằng việc lồng
ghép thờ vua của họ với một vị thần thổ địa
của người Việt. Lư Ngư đã chọn vị thổ thần
chứ không phải là một vị thần nào khác để thờ
cùng với vua Khai Nguyên nhà Đường, điều
đó đã chứng tỏ tín ngưỡng thờ thổ thần của
người dân bản địa rất sâu sắc thời kỳ này [6,
tr.101-102].
Cũng thời nhà Đường, đời vua Đường Ý
Tông (860 - 873), Cao Biền được vua Đường
giao giữ chức Tiết độ sứ, sang Giao Châu thay
thế Trương Điệp đánh quân Nam Chiếu xâm
lược. Vốn là người thích đạo thuật, trấn yểm,
khi tiến đánh quân Nam Chiếu, Cao Biền đã cho
dựng đền tế lễ thần thổ địa ở đây để cầu mong
thần giúp đánh thắng giặc nhanh chóng. Sách

Việt điện u linh có ghi rằng: “Biền vốn thích đạo
thuật, dựng chấn xong liền dựng đàn tế lễ cầu
thần giúp. Canh ba đêm ấy, nghe trên không
có tiếng thần nói:
Nhược yếu thành quan sự,
Tu sách đạo đức nhân.
Năng phủ giai phục chính,
Nghịch đẳng tất lai tân.

VĂN HÓA
NGHIÊN CỨU

31


VĂN HĨA
NGHIÊN CỨU

Dịch là:
Ḿn làm nên việc cơng,
Phải tìm ng̀n đạo đức.
Nếu khiến đều trở lại chính đạo,
Bọn nghịch tặc sẽ phục theo hết.
Biền mừng lắm, liền dựng Đạo cung, đặt
làm cung đô hộ, lại làm đền ở bên tả cung
ấy thờ thần thổ địa. Về sau dân thờ làm phúc
thần” [6, tr.114-115].
Hẳn Cao Biền thời đó cũng đã áp dụng
phương cách của các nhà cầm quân thời xưa,
thường hay mượn chuyện quỷ thần để làm

quân, dân tin tưởng nhằm thống nhất ý chí
trước khi ra trận - một điều tối quan trọng
quyết định sự thắng bại trong các trận đánh.
Nhưng điều đáng nói ở đây là Cao Biền một
lần nữa chọn một vị thổ thần để làm lá bùa hợ
mệnh cho mình, qua đó cho thấy các vị nhiên
thần nói chung và thở thần nói riêng có vai trị
rất quan trọng trong văn hóa tín ngưỡng của
con người thời đó.
Đến thời tiền Lê, nổi lên hình ảnh một vị thổ
thần có vai trò rất to lớn trong việc bình thiên
hạ của các bậc đế vương, đó là thần thổ địa
ở Đằng Châu (Hưng Yên ngày nay). Thần thổ
địa Đằng Châu đã chinh phục được cả những
bậc đế vương bằng cách hóa phép làm mưa,
làm tạnh khi Lê Ngọa Triều (khi còn là Thái tử)
đi thuyền dạo chơi thực ấp ở nơi đây. Sau đó,
vị thổ thần này còn đưa ra lời khuyên cho Lê
Ngọa Triều giành ngôi vua từ tay người anh
ruột của mình là Lê Trung Tông. Khi lên làm
vua, Lê Ngọa Triều đã phong cho thần là Khai
Thiên Thành hoàng Đại vương [6, tr.109-111].
Tín ngưỡng thờ thổ thần còn ghi đậm trong
nhân gian cho tới ngày nay. Hình ảnh ông thần
thổ địa - thần tài ở các gia đình, đặc biệt ở
những nhà làm ăn buôn bán, đã quá rõ ràng.
Chúng ta có thể bắt gặp hiện tượng thờ thần
thổ địa - thần tài ở hầu hết các gia đình làm ăn
buôn bán với chiếc bàn thờ được đặt ở dưới
32


Số 30 (Tháng 12 - 2019)

đất, ngay trước cửa đi vào. Tín ngưỡng thờ thần
tài bắt nguồn từ tín ngưỡng phồn thực trong
xã hội nông nghiệp xưa. Theo quan niệm của
dân gian, đất được gọi là Mẹ Đất, có khả năng
sinh nở cho con người nhiều hoa trái, thóc lúa,
hoa màu. Khi Nho giáo thịnh hành trong xã hội
phong kiến, với tư tưởng trọng nam, khinh nữ
thì Mẹ Đất - thở thần được chủn thành Ơng
Địa. Với sự phát triển của xã hội ngày càng đi
lên, không chỉ đơn thuần có nghề nông mà
bên cạnh đó đã xuất hiện những nghề có liên
quan đến làm ăn trao đổi, buôn bán trong xã
hội. Lúc này, hình ảnh một ông thần mang
lại nhiều tài phước và giữ tiền trong mỗi gia
đình là sự thể hiện ước nguyện của họ về một
cuộc sống giàu sang, an nhàn và may mắn.
Một lần nữa, thần thổ địa - vốn là thần bảo trợ
mùa màng của cư dân nông nghiệp xưa kia,
lại được những người dân buôn bán, đặc biệt
các cư dân thành thị có điều kiện tiếp xúc với
thương nghiệp tôn thờ thành người bảo trợ
con đường làm ăn của họ, để trở thành ông
thần giữ tiền trong mỗi gia đình - Thần Tài.
Léopold Michel Cadière4 - một linh mục
người Pháp và là nhà nghiên cứu khá sâu sắc
về văn hóa Việt Nam, đặc biệt là tín ngưỡng
của người Việt vào cuối thế kỷ XIX và đầu thế

kỷ XX, đã có những miêu tả khá chi tiết về tục
thờ các nhiên thần. Trong nghiên cứu về tín
ngưỡng và thực hành tôn giáo của người Việt
vùng phụ cận Huế, ông đã khảo sát rất chi tiết
về các hiện tượng thờ cây, thờ đá…
Khi nghiên cứu về tín ngưỡng thờ cây, L.
Cadière đã có những tư liệu rất tỉ mỉ, liệt kê
thành từng nhóm như:
- Nhóm những cây đơn thuần có sức mạnh
siêu nhiên như cây lịn ở Liêm Công Đông (Hiền
Lương, Vĩnh Linh, Quảng Trị). Cây lịn có ảnh
hưởng rất lớn đới với vận mệnh người dân
trong làng. Nếu đốn cây hay để cây chết thì
dân làng sẽ gặp phải tai ương, dịch bệnh hoặc
mất mùa…


TƠN GIÁO - TÍN NGƯỠNG

- Nhóm những cây được cho là có liên
quan đến rắn, đến thần như cây bồ đề ở An
Cựu (Hương Thủy, Thừa Thiên - Huế) hoặc cây
sanh ở Liêm Công Đông (Hiền Lương, Vĩnh
Linh, Quảng Trị). Những cây này thường là nơi
ẩn náu của các thần, thường xuất hiện qua hình
dạng con rắn - một loài vật linh thiêng trong tín
ngưỡng dân gian Việt Nam, thường được người
dân tôn thờ như những vị thần, đặc biệt là gắn
với hình dáng các vị thủy thần miền sông nước.
Ngoài ra còn có rất nhiều cây được cho là

có liên quan đến nữ thần như cây sanh tại Cổ
Vưu (An Thới, Hải Lăng, Quảng Trị); hay có các
con tinh trú ngụ như cây mộc ở Hà Mi (Bích
La, Triệu Phong, Quảng Trị), cây bàng ở Vĩnh
Tu (làng Lịnh Thủy, Khuông Phò, Quảng Điền,
Thừa Thiên)… Đây thường là những cây lâu
năm, rậm rạp, um tùm.
Thờ đá cũng là một hiện tượng khá phổ
biến trong tín ngưỡng vật linh ở người Việt.
Thường thì những phiến đá có thần trú ngụ
(thần đá - thạch thần) xuất hiện ở những nơi
có địa hình hiểm hóc, hay gây tai họa cho dân
trong di chuyển đi lại; những tảng đá ngầm ở
cửa sông gây nguy hiểm cho thuyền bè qua lại
như hòn đá mang tên Hòn Hiền hay Ơng Hiền
ở Đờng Hới, tỉnh Quảng Bình, hay Hòn Mệ ở
thượng nguồn sông Quảng Trị. Các ngư phủ
khi đi ngang qua đây bằng thuyền bè đều phải
dâng cúng cho các thạch thần lễ vật như: đốt
hương cắm vào thuyền, hoặc ném xuống nước
những đồng tiền giấy để cầu được bình an.
Cũng theo nghiên cứu của L. Cadière, Thừa
Thiên - Huế là địa phương có nhiều nơi thờ đá
nhất. Hầu như làng nào cũng thờ những tảng
đá hay hòn đá, kể cả dưới nước lẫn trên cạn.
Thạch thần cũng có khi được gắn với thủy
thần (như các hòn đá hay tảng đá ở dưới các
con suối, dòng sông), có khi lại được gắn với
thổ thần (như những phiến đá được thờ ở vệ
đường hay chỗ người ít qua lại), hoặc thậm chí

Số 30 (Tháng 12 - 2019)

gắn với nhân thần là các danh nhân (như hai
bức tượng bằng đá Lê Văn Duyệt và Nguyễn
Văn Thành). Hai đại thần này đã từng giúp
vua Gia Long lập nghiệp lớn, nhưng đã không
ủng hộ Minh Mạng là người kế vị khi vua Gia
Long qua đời, vì vậy khi Minh Mạng lên ngôi
đã không cho đặt hai pho tượng này ở những
nơi đáng lẽ chúng được đặt như bái đình lăng
tẩm canh gác cõi âm cho các Hoàng đế bên
kia thế giới, mà ra lệnh chuyển xếp ở vị trí cửa
kho xưởng đá. Sự “thất sủng” này được chấm
dứt khi vua Tự Đức, một hôm đi ngang qua
đấy, nghe thấy tiếng thở dài của hai vị đại
thần đã từng phục dịch tiên đế bày tỏ nỗi đau
khổ của họ, bèn ra lệnh cho dựng một cái am
để thờ hai bức tượng đá đó, ngày sau trở nên
rất linh thiêng.
Về thờ các vị thần có liên quan đến hành
hỏa trong quan niệm vũ trụ luận của người
Việt, ngay trong Việt điện u linh cũng có đề
cập tới một thần Hỏa long tinh quân được thờ
cúng. Sách ghi chép: Hai anh em họ Đặng tên
là Quyết Minh và Thiện Sạ làm nghề đánh cá
trên biển, vớt được vật thiêng như hình khúc
gỗ trơi trên mặt nước. Đêm đó họ được báo
mộng rằng thần là kết quả của việc “đi lại” vụng
trộm giữa vương phi của Nam Hải Long vương
và thần Hỏa Long, vì vậy sau đó hai người đã

thuê thợ đem khúc gỗ tạc tượng để thờ cúng
rất linh thiêng. Thông qua truyện này, chúng
ta có thể thấy được tín ngưỡng thờ thần lửa
thơng qua việc thờ tự thần Hỏa long tinh quân
như đã đề cập, là kết quả của sự giao hịa giữa
tín ngưỡng thờ thần lửa (hỏa thần) với thần
nước (thủy thần) trong văn hóa tín ngưỡng
của cư dân nơng nghiệp mà Việt Nam là một
đại diện tiêu biểu5.
Ngồi ra, thơng qua khảo cứu của L.
Cadiere, chúng ta thấy được tín ngưỡng thờ
thần lửa xuất hiện khá phổ biến ở các tỉnh
Trung Bộ, đặc biệt là tỉnh Quảng Trị, như hiện

VĂN HÓA
NGHIÊN CỨU

33


VĂN HÓA
NGHIÊN CỨU

tượng thờ Bà Hỏa ở làng Tân Trà (huyện Hải
Lăng, Quảng Trị). Vị thần này xuất hiện dưới
dạng một tia chớp, như một đốm đuốc rực
lửa bay đến đậu trên cây hoặc ở gốc cây, chốc
lát sau là biến mất. Dân làng xi ngược dịng
sơng đều cúng tế ở nơi này, lễ vật gồm hương
đèn, giấy vàng bạc, gà,... cùng lời khấn nguyện

buôn lời bán đắt, không bị sốt rét rừng hành
hạ… Ngoài làng Tân Trà, Bà Hỏa cịn được thờ
ở một số nơi khác như: làng Bích Khê (Bích La,
huyện Triệu Phong, Quảng Trị), làng Phước Thị
(An Xá, huyện Do Linh, Quảng Trị); chợ An Cựu
(làng An Cựu, huyện Hương Thủy, Thừa Thiên Huế) [2, tr.26-27].
Kết luận
Tín ngưỡng thờ nhiên thần xuất hiện rất
sớm ở hầu hết các dân tộc trên thế giới, trong
đó có Việt Nam. Ở Việt Nam, tín ngưỡng thờ
nhiên thần được gắn liền với triết lý về âm
dương ngũ hành của người phương Đông
với Kim - Mộc - Thủy - Hỏa - Thổ. Với năm yếu
tố của tự nhiên hình thành nên vũ trụ, hình
thành nên thế giới này, theo quan niệm dân
gian, đại diện cho chúng đều có các thần linh
ngự trị và các vị thần này có ảnh hưởng rất to
lớn đối với đời sống mưu sinh của nhân dân.
Thần Đồng Cổ biểu hiện cho hành Kim; các
thần cây biểu hiện cho hành Mộc; các thần
sông, thần biển biểu hiện cho hành Thủy; các
vị thần như Bà Hỏa biểu hiện cho hành Hỏa;
các thần thổ địa, thần tài biểu hiện cho hành
Thở. Việc thờ tự các vị nhiên thần trong văn
hóa tín ngưỡng dân gian Việt Nam là minh
chứng sớng đợng cho cách cảm, cách nghĩ
truyền thống trong văn hóa tâm linh của
người Việt từ xa xưa đến nay về môi trường
tự nhiên gắn với một lịch sử phát triển lâu đời
của nền văn hiến Việt Nam.


Chú thích
Mợt hòn đảo nằm trên biển Êgiê tḥc vùng
Tiểu Á.
1

Theo chú thích trong Đại Việt sử ký tồn thư,
miếu này được dựng tại thơn Đông, làng Yên
Thái, huyện Vĩnh Thuận (nay là làng Bưởi ở Hà
Nội) [3, tr.278].
2

Nay là làng Phú Gia, phường Phú Thượng,
quận Tây Hồ, Hà Nội.
3

Léopold Michel Cadière (1869 - 1955) là một
linh mục thuộc Hội Thừa sai Paris (MEP), Pháp. Tuy
nhiên, ông được biết nhiều hơn với tư cách một
nhà sử học, ngơn ngữ học, văn hóa học, nhân loại
học và dân tộc học. Ơng đã có 250 cơng trình
nghiên cứu quan trọng về văn hóa, tín ngưỡng
và dân tộc học, ngơn ngữ, lịch sử, tơn giáo Việt
Nam. Ơng qua đời tại Huế ngày 6 tháng 7 năm
1955 và được an táng tại nghĩa trang Phú Xuân,
nay nằm trong khuôn viên Đại Chủng viện Huế.
4

Xem thêm truyện “Lợi tế linh thơng Huệ tín
vương” trong sách Việt điện u linh [6, tr.116-117].

5

Tài liệu tham khảo
1. Edward Burnett Tylor (2001), Văn hóa
nguyên thủy, Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật, Hà Nội.
2. Leopold Cadiere (2010), Văn hóa, Tín
ngưỡng và Thực hành tôn giáo người Việt, tập II,
Đỗ Trinh Huệ dịch, Nxb. Thuận Hóa, Huế.
3. Ngô Sĩ Liên (2004), Đại Việt sử ký toàn thư,
Nxb. Văn hóa - Thơng tin, Hà Nợi.
4. Vũ Quỳnh (1993), Tân đính Lĩnh Nam chích
quái, Bùi Văn Nguyên dịch, chú thích và dẫn
nhập, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội.
5. Tạ Chí Đại Trường (2006), Thần, người và đất
Việt, Nxb. Văn hóa - Thơng tin, Hà Nợi.
6. Lý Tế Xuyên (2001), Việt điện u linh, Đinh Gia
Khánh, Trịnh Đình Rư dịch và chú thích, Nxb. Văn
học, Hà Nội.
Ngày nhận bài: 24 - 9 - 2019
Ngày phản biện, đánh giá: 20 - 10 - 2019

T.Q.T
(TS., Trường Đại học Hải Phòng)
34

Số 30 (Tháng 12 - 2019)

Ngày chấp nhận đăng: 27 - 12 - 2019




×