Tải bản đầy đủ (.doc) (3 trang)

Các vấn đề cơ bản của Triết học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (47 KB, 3 trang )

CÁC VẤN ĐỀ CƠ BẢN CỦA TRIẾT HỌC
Triết học xuất hiện từ khi con người có sự phân cơng lao động. Khi đó các ngành
khoa học cịn nằm trong triết học gọi là triết học tự nhiên. Sau nhiều thế kỷ chúng mới
phát triển thành các ngành khoa học độc lập với triết học.
Theo quan điểm Mác xít, triết học là một trong những hình thái ý thức xã hội, là
học thuyết về những nguyên tắc chung nhất của tồn tại và nhận thức, của thái độ con
người đối với thế giới; là quy luật của những quy luật chung nhất của tự nhiên, xã hội
và tư duy.
Trong sự phát triển của mình. Triết học dần dần hình thành các trường phái khác
nhau cùng giải quyết một vấn đề về mối quan hệ giữa vật chất và ý thức, giữa tồn tại và
tư duy, giữa tự nhiên và tinh thần, cái nào có trước, cái nào có sau. Đó chính là vấn đề
cơ bản của triết học, là điểm xuất phát của mọi tư tưởng, mọi quan điểm của mọi hệ
thống triết học trong lịch sử.
Vấn đề cơ bản của triết học: Gồm hai mặt là bản thể luận và nhận thức luận và
mỗi mặt trả lời cho một câu hỏi lớn.
1. Bản thể luận : Trả lời câu hỏi giữa vật chất và ý thức cái nào có trước, cái nào có
sau, cái nào quyết định cái nào.
Giải quyết mặt thứ nhất trong vấn đề cơ bản của triết học gắn liên với việc phân
định các trường phát triết học. Có 3 cách giải quyết:
- Một là, vật chất có trước, ý thức có sau, vật chất quyết định ý thức.
- Hai là, ý thức có trước, vật chất có sau, ý thức quyết định vật chất.
- Ba là, vật chất và ý thức tồn tại độc lập, chúng khơng có quan hệ sản sinh nhau,
cũng khơng có quan hệ quyết định nhau.
--> Cách giải quyết thứ nhất và thứ hai tuy có đối lập nhau về nội dung, nhưng
giống nhau ở chỗ, chúng đều thừa nhận một nguyên thể (hoặc là vật chất, hoặc là ý
thức) là nguồn gốc của thế giới. Hai cách giải quyết này thuộc về triết học nhất nguyên.
Trong triết học nhất nguyên, những người khẳng định tính nguồn gốc của vật chất
thuộc trường phát triết học nhất nguyên duy vật, còn gọi là chủ nghĩa duy vật. Ngược


lại, những người khẳng định tính nguồn gốc của ý thức thuộc trường phái triết học nhất


nguyên duy tâm, còn gọi là chủ nghĩa duy tâm.
Cách giải thứ ba, thuộc về triết học nhị nguyên. Thừa nhận vật chất và ý thức tồn
tại hoàn toàn độc lập với nhau, và thừa nhận cả hai nguyên thể là nguồn gốc của thế
giới. Triết học nhị ngun có khuynh hướng điều hịa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa
duy tâm. Họ muốn dung hoà hai trường phái trên để cùng tồn tại và dẫn đến một trường
phái duy nhất.
2. Nhận thức luận: "Con người có khả năng nhận thức được thế giới hay không?",
tuyệt đại đa số các nhà truyết học (cả duy vật và duy tâm) đều khẳng định: con người
có khả năng nhận thức thế giới.
- Chủ nghĩa duy tâm: Chủ nghĩa duy tâm chia thành hai trường phái: chủ nghĩa duy
tâm chủ quan và chủ nghĩa duy tâm khách quan.
+ Chủ nghĩa duy tâm chủ quan thừa nhận ý thức có trước, và quyết định vật chất.
Chủ nghĩa duy tâm chủ quan phủ nhận sự tồn tại mang tính khách quan của hiện thực,
và nó chủ quan ở chỗ khẳng định định mọi sự vật, hiện tượng chỉ là phức hợp những
cảm giác của chủ thể, chính sự cảm nhận của chủ thể quyết định sự tồn tại của hiện
thực.
+ Chủ nghĩa duy tâm khách quan cũng thừa nhận ý thức có trước, và quyết định
vật chất. Nhưng ý thức của chủ nghĩa duy tâm khách quan là ý thức khách quan, có
trước và tồn tại độc lập với con người.
--> Về cơ bản, chủ nghĩa duy tâm cho rằng ý thức có trước, sản sinh ra và quyết
định giới tự nhiên.
- Chủ nghĩa duy vật: Cho đến nay, chủ nghĩa duy vật được thể hiện dưới ba hình
thức cơ bản: chủ nghĩa duy vật chất phác, chủ nghĩa duy vật siêu hình và chủ nghĩa duy
vật biện chứng.
+ Chủ nghĩa duy vật chất phác là kết quả nhận thức của các triết học duy vật thời
cổ đại. Tuy còn rất nhiều hạn chế, nhưng chủ nghĩa duy vật chất phác đã dùng giới tự
nhiên để giải thích về giới tự nhiên, không viên đến các thế lực siêu nhiên.
+ Chủ nghĩa duy vật siêu hình là hình thức cơ bản thứ hai của chủ nghĩa duy vật,
thể hiện khá rõ ở các nhà triết học thế kỷ XV đến thế kỷ XVIII. Đây là thời kỳ cơ học
cổ điển thu được những thành tựu rực rỡ, nên trong khi tiếp tục phát triển chủ nghĩa



duy vật chất phác thời cổ đại, chủ nghĩa duy vật giai đoạn này chịu ảnh hưởng mạnh mẽ
của phương pháp siêu hình, máy móc.
+ Chủ nghĩa duy vật biện chứng là hình thức cơ bản thứ ba của chủ nghĩa duy
vật, do Marx và Engels xây dựng vào những năm 40 của thế kỷ XIX, sau đó được Lenin
tiếp tục phát triển, ngày nay cịn có tên gọi là triết học Marx-Lenin. Các ơng này đã kế
thừa những gì mà các ông cho là tinh hoa của các trường phái trước đó, cùng với những
thành tựu khoa học đương thời. Trong đó, phép biện chứng duy vật là hạt nhân lý luận
đối lập với phương pháp siêu hình.
--> Về cơ bản, chủ nghĩa vật cho rằng vật chất có trước sản sinh ra, và quyết định
ý thức. Thế giới vật chất tồn tại khách quan.
Như vậy, chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm là hai trường phái chính của
triết học. Lịch sử triết học gắn liền với lịch sử đấu tranh của hai trường phái này.
- Các nhà triết học nhị nguyên do không khẳng định được giữa vật chất và ý thức
cái nào có trước, cái nào có sau, cái nào quyết định cái nào nên họ phủ nhận khả năng
nhận thức thế giới của con người. Quan điểm của họ đa phần là hoài nghi. Khi giải
quyết mặt thứ hai vấn đề cơ bản của triết học họ đã đi từ hoài nghi luận (scepticisme)
đến thuyết không thể biết (agnosticisme) và dần dần triết học của họ chuyển sang duy
tâm.



×