Tải bản đầy đủ (.pdf) (16 trang)

Lịch sử văn minh Ấn Độ - Chương IX (B)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (240.7 KB, 16 trang )

Will Durant
Lịch sử văn minh Ấn Độ
Người dịch: Nguyễn Hiến Lê
CHƯƠNG IX (B)
V. PHONG TRÀO QUỐC GIA
Các sinh viên Âu hố – Thần linh hồn tục – Quốc dân hội nghị

Năm 1923 có trên ngàn người Ấn du học ở Anh; có thể đốn phỏng chừng
rằng ở Mĩ số sinh viên Ấn cũng xấp xỉ như vậy, và rải rác khắp các nước
khác cũng có một số tương đương. Họ lấy làm ngạc nhiên rằng công dân mạt
hạng ở Tây Âu và Mĩ cũng có được đủ các quyền lợi; họ học về các cuộc
cách mạng Pháp và Mĩ, vùi đầu đọc các sách viết về các cuộc cải cách và cả
các cuộc nổi loạn nữa; họ say mê nghiên cứu bản Tuyên ngôn nhân quyền,
bản Tuyên ngôn độc lập của Huê kì và Hiến pháp Huê kì; họ trở về nước
truyền bá những ý tưởng dân chủ và tự do mà họ quí như lời trong Thánh
kinh. Những ý tưởng đó được hoan nghênh nhiệt liệt nhờ những tấn bộ của
phương Tây về kĩ nghệ và khoa học, nhờ sự thắng trân của Đồng minh trong
thế chiến [thứ nhất]; chẳng bao lâu mỗi sinh viên ở ngoại quốc về đó đều
cho tiếng “tự do” là lời hơ hào xung phong. Người Ấn hấp thụ tinh thần tự
do trong các trường học Anh và Mĩ.
Những sinh viên phương Đông sống ở phương Tây đó chẳng phải chỉ chấp
nhận một lí tưởng chính trị nào đó mà thơi, họ cịn mất cả tín ngưỡng tơn
giáo nữa. Trong đời sống một cá nhân cũng như trong lịch sử một dân tộc,
hai sự tiến hố đó thường đi đơi với nhau. Bọn thanh niên đó, khi mới đặt


chân lên châu Âu cịn rất kính tín, cịn thờ phụng các thần Krishna, Shiva,
Vichnou, Kali, Rama…, nhưng rồi tiếp xúc với khoa học, các tín ngưỡng cổ
truyền của họ sụp đổ hết ráo. Tín ngưỡng tơn giáo đó là linh hồn của dân
tộc, bọn người Ấn Âu hố khơng cịn tín ngưỡng nữa, nay trở về nước, vừa
buồn rầu vừa mất hết ảo tưởng: đối với họ thì các thần linh đã chết và rớt từ


trên trời xuống[1]. Như vậy thì làm sao một thế giới khơng tưởng chẳng thay
thế giới thần linh, quan niệm dân chủ chẳng thay quan niệm Niết Bàn, thần
Tự Do chẳng tiếm ngôi Thượng Đế? Phong trào tư tưởng mới đã xảy ra ở
châu Âu giữa thế kỉ XVIII, bây giờ đang diễn lại ở phương Đơng.
Tuy nhiên các tư tưởng mới đó truyền bá khơng lấy gì làm mau. Năm 1855
vài người Ấn trong giai cấp lãnh đạo họp nhau ở Bombay, thành lập “Quốc
dân hội nghị Ấn”, nhưng lúc đó có lẽ họ chưa nghĩ tới cái chuyện địi độc
lập. Vì Hn tước Curfon dùng chính sách chia xứ Bengale (nghĩa là phá sự
thống nhất mà làm suy nhược miền tấn bộ nhất của Ấn về phương diện
chính trị), nên các nhà ái quốc nổi dây và phong trào của họ có tính cách gây
loạn. Trong cuộc hội nghị năm 1905, Tilak cương quyết, khơng chịu nhượng
bộ địi được chính thể Swaraj. Ông ta dùng những ngữ căn sancrit tạo ra từ
ngữ mới đó mà người Anh dịch là “seft rule” (tự trị). Cũng trong năm có
nhiều biến cố đó, Nhật thắng Nga và phương Đông từ một thế kỉ rồi, sống sợ
sệt dưới cái ách của phương Tây, bây giờ bắt đầu nghĩ tới sự giải phóng
châu Á. Sau đó, Trung Hoa đứng sau Tơn Dật Tiên cầm khí giới, bắt tay với
Nhật[2]. Ấn Độ khơng có khí giới, qn đội, bầu một nhân vật kì dị nhất
trong lịch sử làm thủ lãnh, và thế giới được mục kích một cảnh chưa từng
xảy ra, cảnh một cuộc cách mạng do một vị thánh lãnh đạo, chẳng cần súng
ống gì cả.


VI. MAHATMA GANDHI
Chân dung một vị thánh – Nhà tu hành khổ hạnh – Tín đồ Ki Tơ giáo – Cuộc
nổi loạn năm 1921 – “Tôi là con người” – Những năm ở tù – “Tân Ấn Độ”
– Cuộc cách mạng bằng guồng quay sợi – Sự nghiệp của Gandhi.
Xin độc giả thử tưởng tượng con người xấu xí, ốm o, yếu ớt nhất châu Á,
mặt và mình mẩy như đồng đen, tóc hoa râm nhưng đầu cạo trọc, lưỡng
quyền nhô, cặp mắt nhỏ, màu nâu, hiền từ, miệng rộng, móm, gần rụng hết
răng, tai như tai voi, mũi cực to, tay chân lòng khòng; rồi tưởng tượng con

người loắt choắt đó chỉ quấn mỗi chiếc sà-rơng, đứng trước mặt một thẩm
phán Anh, trả lời cuộc chất vấn về tội hô hào đồng bào “bất hợp tác” với
Anh. Rồi bạn lại rán tưởng tượng thêm nữa con người đó ngồi trên một
chiếc thảm nhỏ trong một phịng hồn tồn trống của trường
Satyagrahashram – Trường Chân lí – của ơng ở Almedabad; hai ống chân
khẳng khiu quặp lại theo kiểu ngồi kiết già, tay quay một cái guồng quay
sợi, mặt nhăn nheo, má hóp vì lo lắng về trách nhiệm nặng nề của mình, trí
óc lúc nào cũng nghĩ cách đối đáp cho mau và thích đáng hết thảy những ai
muốn tìm sự tự do. Từ năm 1920[3], người thợ dệt gầy gị, cực khổ đó làm
thủ lãnh tinh thần và cả chính trị nữa của 320 triệu người Ấn. Khi ông ta ra
trước quần chúng thiên hạ chen lấn chung quanh ông để được rờ cái sà-rông
của ông, hôn bàn chân ông.
Mỗi ngày bốn giờ, ông dệt thứ vải thô khaddar, hy vọng thuyết phục được
đồng bào noi gương mình dùng thứ vải nội hố đó, tẩy chay các hàng Anh
đã làm chết ngành dệt Ấn. Tất cả của cải của ông chỉ gồm ba cái khăn vải
thô, hai cái để thay đổi quấn mình, một cái để thay giường và nệm. Trước


kia ơng là một luật sư giàu có, sau phân phát hết gia sản cho người nghèo; bà
vợ lúc đó đã đứng tuổi, hơi do dự - điều đó rất dễ hiểu – rồi sau theo ơng.
Ơng ngủ ngay trên sàn hoặc trên mặt đất. Sống toàn bằng trái cây (hạt dẻ,
cam, chanh, chà là…), cơm và sữa dê; nhiều khi suốt mấy tháng chỉ uống
sữa và ăn trái cây; trong đời ơng chỉ có mỗi một lần ăn thịt; có khi suốt mấy
tuần tuyệt thực. Ơng bảo: “Sự tuyệt thực đối với tôi cũng cần thiết như cặp
mắt. Mắt quan trọng cho đời sống bên ngồi ra sao thì tuyệt thực cần cho đời
sống nội tâm như vậy”. Ông cho rằng máu càng trong sạch thì trí óc càng
minh mẫn, nhận định được đúng ngoại vật; và các chân lí cốt yếu – đơi khi
có thể thấy được cả linh hồn của vũ trụ - hiện ra phía sau cái Maya cũng như
ngọn núi Everest sau đám mây vậy.
Trong khi tuyệt thực để rán chiêm vọng thần linh, ông vẫn không xa lánh cõi

trần, vẫn khuyên môn đệ những lúc nhịn ăn phải tắm mỗi ngày một lần để
gột hết chất dơ trong cơ thể tiết ra – cơ thể lúc đó sống bằng chất tự dưỡng
của nó. Thấy người Hồi và người Ấn chém giết nhau vì tín ngưỡng cuồng
nhiệt, khơng nghe lời ơng khun phải hồ hảo với nhau, ông tuyệt thực
trong ba tuần để họ động lịng. Sau những lần tuyệt thực như vậy, ơng suy
nhược quá, tới nỗi phải ngồi trên một cái ghế dựa kê hơi cao thì đám đơng
bao vây ơng mới bắt được những lời phào phào của ơng. Về tình dục, ông
cũng theo phép khổ hạnh như vậy, và ước ao như Tolstoi rằng vợ chồng chỉ
khi nào cùng muốn có con thì mới nên ái ân với nhau. Chính ơng, hồi trẻ,
sống quá phóng túng, và được tin thân phụ mất đúng lúc ông đương hoan lạc
với một người đàn bà. Bây giờ nhớ lại ông rất hối hận, giữ đúng lời khuyên
Brahmacharya, bỏ hết nhục dục. Ông thuyết phục được bà sống với ông như
em gái sống với anh và theo ơng thì “từ đó, mọi mối bất hồ tiêu tan hết”.
Khi ông thấy sự giảm mức sinh con đẻ cái là điều tối cần thiết cho Ấn, thì


ông không theo những phương pháp châu Âu hiện nay đang dùng, mà dùng
những thuyết của Malthus và Tolstoi.
Đã biết tình cảnh ra sao rồi thì chúng ta có quyền sanh con nữa không? Đã
yếu đuối lại bơ vơ mà cứ tiếp tục sanh đẻ thì chỉ làm tăng thêm số người khổ
sở và nô lệ thôi… Chừng nào Ấn Độ chưa thành một quốc gia độc lập thì
chúng ta khơng có quyền sanh con nữa… Tơi chắc Ấn Độ thành một quốc
gia gồm đàn ông và đàn bà sung sướng, khoẻ mạnh, mà không tự ý chế dục,
không sanh đẻ nữa.
Người ta bảo rằng ngoài những nét đặc biệt đó, tính tình Gandhi cịn có
nhiều điểm giống vị Sáng lập ra Ki Tơ giáo một cách lạ lùng. Ơng không
nhắc tới tên Chúa Ki Tô nhưng hành động đúng theo lời dạy của Chúa trong
bài Thuyết giáo trên Núi. T thi thỏnh Franỗois dAssise ti nay, trong lch
s nhõn loại chưa có một người nào mà tâm hồn cao thượng, hi sinh, giản dị
như vậy, dĩ đức báo oán như vậy. Lịng nhân từ, khoan dung bất tuyệt của

ơng làm cho chính kẻ thù cũng phải tỏ ra lễ độ, nhã nhặn: chính quyền Anh
mời ơng vơ khám mà tái tam xin lỗi ông. Tuyệt nhiên ông không tỏ một vẻ
nào là ốn hận hay bất bình. Ba lần ông bị bọn lưu manh nào đó đánh cho té
xỉu, rồi bỏ đi, tưởng chết; vậy mà ông không hề báo cho cảnh sát để truy tố,
và khi một kẻ hành hung ơng bị bắt, ơng u cầu chính phủ tha cho hắn.
Trong một cuộc bạo động dữ dội nhất giữa Ấn và Hồi, bộ lạc Moplah của
Hồi giết mấy trăm người Ấn tay không, lột da bọc qui đầu để dâng chúa
Allah; vậy mà ít lâu sau, chính những người Hồi đó bị nạn đói thì Gandhi
qun tiền khắp Ấn Độ để cứu họ và trái với tất cả các thủ tục từ trước,
quyên được bao nhiêu ông đưa cho họ hết, khơng thiếu một xu, phí tổn ơng
chịu cả.


Mohandas Karamchand Gandhi sanh năm 1869. Gia đình ơng thuộc tập cấp
Vaisya và theo giáo phái Jaïn, thực hành giới luật ahimsa, khơng làm thương
tổn sinh mệnh một lồi vật nào cả dù là con sâu cái kiến. Thân phụ ông là
một nhà cai trị giỏi[4] nhưng về tài chính thì theo chính sách thực khác đời:
vì q lương thiện mà bỏ lỡ hết các cơ hội, và chỉ giữ lại một chút gia sản
cho vợ con còn bao nhiêu bố thí cho người nghèo hết. Mohandas hồi nhỏ
tởm về sự dâm đãng của một số thần Ấn Độ, nên chủ trương thuyết vơ thần
và ăn thịt để tỏ lịng khinh tôn giáo. Rồi ông lại ghét thịt mà trở về tơn giáo.
Hồi tám tuổi gia đình dạm hỏi cho ông một thiếu nữa, tên là Kasturbai, và
mười hai tuổi ông làm lễ cưới; bà trung thành theo ông trong suốt cuộc đời
sóng gió của ơng, trong cảnh giàu cũng như trong cảnh nghèo, trong khám
cũng như trong khi diệt dục. Mười tám tuổi ông thi đậu vô Đại học rồi qua
Londres học luật. Ngay trong năm đầu ở Londres, ông đã đọc hết tám mươi
cuốn sách về Ki Tô giáo. Bài Thuyết giáo trên Núi làm ông xúc động liền.
Ơng thấy khơng có gì cao cả hơn là dĩ đức báo ốn và u cả kẻ thù của
mình và ông quyết định thà chết để giữ đúng qui tắc đó chứ khơng chịu
thành cơng mà vi phạm nó.

Trở về Ấn năm 1891, ông làm đại tụng ở Bombay trong một thời gian,
nhưng ông không chịu truy tố một người thiếu nợ và ln ln tự cho mình
cái quyền khơng biện hộ cho thân chủ nữa nếu thấy người đó trái. Vì một vụ
kiện, ơng phải qua Nam Phi, rồi thấy đồng bào của ơng ở đó bị người Anh
ngược đãi[5], ông không trở về Ấn, ở lại Nam Phi, hi sinh hồn tồn, khơng
chút vị lợi cho đồng bào, cố giải thốt họ khỏi tình cảnh lệ thuộc khốn khổ,
tủi nhục của họ. Trong hai chục năm ông không ngớt chiến đấu cho họ tới


khi chính quyền Anh phải nhượng bộ mới thơi. Lúc đó ơng mới chịu hồi
hương.
Ơng đi khắp nước Ấn và lần đầu tiên nhận thấy nỗi điêu đứng cùng cực của
đồng bào. Ơng kinh hoảng khi thấy những nơng dân chỉ cịn xương với da
làm việc quần quật ở ngồi đồng, thấy những “tiện dân” thấp hèn nhất làm
những công việc tởm nhất trong các thành phố. Ơng có cảm tưởng rằng vì
người Anh thấy người Ấn ở trong xứ đói khổ, đê tiện q nên khinh ln cả
những người Ấn ở nước ngồi, kì thị họ, coi họ như tôi mọi. Nhưng trong
thế chiến [thứ nhất], ông trung thành với Anh, tính khuyến khích cả những
người Ấn khơng theo giới luật bất bạo động đầu quân giúp Anh nữa. Hồi đó
ơng chưa gia nhập nhóm người Ấn địi độc lập, ơng tưởng rằng chính sách
cai trị xấu xa của Anh ở Ấn chỉ là một ngoại lệ chứ xét chung thì chính
quyền của Anh tốt, ở Ấn nó hố xấu vì bọn thực dân khơng theo những qui
tắc thi hành ở chính quốc; và nếu dân tộc Anh hiểu được trường hợp của Ấn
thì khơng do dự gì cả, tất cho Ấn sáp nhập vào cộng đồng các quốc gia “tự
trị” dưới sự lãnh đạo của Anh liền. Ông hi vọng rằng khi chiến tranh chấm
dứt, Anh nhận định được đúng sự hi sinh của Ấn cho đế quốc, hi sinh về
nhân mạng và tiền bạc, thì có lẽ nào Anh không cho Ấn được tự do.
Nhưng hết chiến tranh, phong trào đòi độc lập bị đàn áp; sắc lệnh Rowland
bãi bỏ hết mọi tự do ngôn luận, tự do báo chí, thành lập một Quốc hội bù
nhìn, đưa ra những cải cách Montagu-Chelmsford, rồi sau cùng tàn sát người

Ấn ở Amritsar, Gandhi tức thì hành động. Ơng gởi trả Phó vương Ấn tất cả
những huy chương mà chính phủ Anh đã tặng ơng, rồi ơng hơ hào tồn dân
Ấn bất phục tùng chính quyền Anh ở Ấn. Dân chúng hưởng ứng nhưng
không đúng với ý ông: ông muốn dùng chính sách bất bạo động mà họ lại


bạo động, gây ra nhiều cuộc đổ máu; chẳng hạn ở Bombay người ta giết năm
mươi ba người Parsi không gia nhập phong trào. Gandhi đã nguyện giữ giới
luật ahimsa, lại tạo ra một thông cáo khác bảo ngưng ngay mọi cuộc bạo
động, nổi loạn, hoãn cuộc vận động bất phục tịng lại vì dân chúng chưa hiểu
ý nghĩa của nó. Trong lịch sử hiếm có một người can đảm hành động theo
qui tắc của mình như ơng, khinh miệt sự hoạt đầu và danh vọng. Dân chúng
thấy phong trào phát động mạnh, tưởng gần thành công rồi nên ngạc nhiên
về thái độ đó của ơng; họ khơng nghĩ như ông rằng phương tiện cũng có thể
quan trọng ngang với cứu cánh. Danh tiếng của ơng lúc đó xuống cực thấp.
Đúng lúc đó, chính quyền ra lệnh bắt ơng[6]. Ơng không chống cự, không
chịu lựa luật sư mà cũng chẳng thèm tìm cách tự biện hộ cho mình nữa. Khi
viên Phó Chưởng lí buộc tội rằng những hành động của ông đã gây ra cuộc
nổi loạn 1921, và ông phải chịu hết trách nhiệm, ông đáp bằng những lời lẽ
cho ta thấy rõ tâm hồn cao thượng của ông:
Tôi xin được một mình chịu hết trách nhiệm mà ơng Phó Chưởng lí học thức
un bác muốn trút lên vai tơi, nhân những vụ xảy ra ở Bombay, Madras và
Chauri-Chaura. Trong bao nhiêu đêm trường tôi đã suy nghĩ kĩ về những
biến cố đó và tơi khơng thể nào khơng nhận rằng tôi phải chịu trách nhiệm
về những tội ác ghê gớm đó... Ơng Phó Chưởng lí hồn tồn có lí khi ơng
bảo rằng một người có thể lãnh trách nhiệm, một người có kiến thức như tơi
thì trước khi hành động phải cân nhắc kĩ hậu quả đã. Tôi đã biết rằng tôi
chơi với lửa đấy, sẽ nguy hiểm đấy, nhưng nếu bây giờ tơi được phóng thích
thì tơi cũng sẽ hành động như trước nữa. Sáng nay tơi có cảm tưởng rằng
nếu tôi không tuyên bố những lời tôi đương tun bố đây thì tơi sẽ khơng

làm trịn phận sự của tôi.


Trước kia tôi muốn tránh sự bạo động, bây giờ tôi cũng vẫn muốn tránh sự
bạo động. Điều căn bản trong tín ngưỡng của tơi là ghê tởm sự bạo động.
Nhưng tơi phải lựa chọn: một là phục tịng một chế độ cai trị mà tơi tin là
hồn tồn có hại cho quốc gia tôi, hai là thấy đồng bào tôi cuồng nhiệt nổi
loạn lên khi họ hiểu được sự thực. Tơi biết rằng đồng bào tơi đã có một thái
độ vơ lí trong nhiều trường hợp. Tơi ân hận về điều đó lắm, cho nên hơm
nay tơi tới đây để xin chịu hình phạt, khơng phải nhẹ, mà nặng nhất. Tôi
không xin được khoan hồng. Tôi không viện ra những trường hợp giảm
khinh. Tôi lại đây để can đảm xin lãnh cái án nặng nhất vì một hành động
mà luật pháp coi là một tội ác cố ý, còn tơi thì tơi coi là bổn phận thiêng
liêng của một công dân.
Viên Chánh án tỏ ý rất ân hận rằng phải nhốt khám một người được hằng
triệu đồng bào coi là “một nhà đại ái quốc, đại lãnh đạo quần chúng”. Ông ta
nhận rằng cả những người bất đồng ý với Gandhi cũng phục Gandhi là “hi
sinh cho một lí tưởng rất cao, sống một cuộc đời cao thượng, đức độ như
một vị thánh nữa”. Rồi ông ta tuyên án: sáu năm tù.
Gandhi vô khám mà không phàn nàn một lời. Ơng viết: “Tơi khơng thấy một
tù nhân nào khác mặc dầu tôi không sao tưởng tượng nổi rằng sống chung
với họ, tơi có thể làm hại cho họ được”. Nhưng “tôi sung sướng, tánh tôi
quen với cảnh cô độc rồi. Tơi thích sự n lặng. Và ở đây tơi tha hồ học hỏi
vì sống ở ngồi đời, tơi đã phải bỏ bê việc đó”. Ơng đọc rất kĩ những tác
phẩm của Bacon, Carlyle, Ruskin, Emerson, Thoreau và Tolstoi, lúc nào
muốn nghĩ ngơi thì ơng đọc Ben Jonson và Walter Scott. Ông đọc đi đọc lại
bộ Bhagavad-Gita. Ông học các tiếng sanscrit, tamil, urdu để có thể trao đổi


thư từ với các người có học và nói trước đám đơng nữa. Ơng lập một chương

trình học cho mấy năm ở trong khám, theo đúng chương trình cho tới khi có
một việc bất thường bắt ơng phải ngưng lại. Ơng bảo: “Tơi thường cầm cuốn
sách lên mà trong lịng sung sướng như một thanh niên hai mươi bốn tuổi,
quên rằng mình đã năm mươi bốn tuổi và sức khoẻ q suy nhược”.
Ơng bị một cơn đau bụng nặng vì chứng ruột dư và chính quyền phải thả
ơng ra; ơng thường mạt sát Tây y, lần này nhờ Tây y mà ơng thốt chết. Một
đám đơng vĩ đại bu lại ở cửa khám để hoan hô ông khi ông bước ra, nhiều
người hôn chiếc sà-rông bằng vải thô của ông. Nhưng ơng xa lánh mọi hoạt
động chính trị, khơng tiếp xúc với đại chúng, viện lẽ rằng sức khoẻ suy
nhược, nên về trường Ahmedabad của ông, sống mấy năm trong cảnh an
tĩnh, cô liêu với các môn đệ. Nhưng mỗi tuần ông cũng viết một bài trong tờ
Ấn Độ trẻ trung trình bày triết lí của ơng về cách mạng và đời sống. Ơng năn
nỉ những người theo ơng phải tránh sự bạo động, chẳng những vì bạo động
là tự tử - Ấn Độ không đủ phương tiện vật chất để ứng chiến – mà cịn vì
bạo động chỉ là thay một sự độc tài bằng một sự độc tài khác. Ông bảo: “Đọc
lịch sử chúng ta thấy rằng những người – có lẽ do một thiện ý giải thốt cho
dân khỏi bị áp bức – dùng bạo động để lật đổ những kẻ quyền hành, rốt cuộc
cũng hoá ra độc tài, và dân chúng quá phẫn uất lại lật đổ họ… Nếu Ấn Độ
dùng phương tiện bạo động thì tơi khơng muốn giải thốt Ấn Độ nữa vì
những phương tiện đó khơng đưa tới tự do mà chỉ đưa tới nơ lệ”.
Điểm thứ nhì trong thuyết của ơng là khinh miệt tân kĩ nghệ. Ông chịu ảnh
hưởng của Rousseau, hô hào trở về đời sống nông nghiệp, tiểu công nghệ,
đời sống giản dị ở thôn quê. Theo ông, nhốt đàn ông và đàn bà vào trong các
xưởng rồi bắt họ dùng những máy móc để chế tạo một bộ phận của những


đồ vật mà họ không bao giờ được làm trọn để thấy nó hồn thành, đó là một
cách giảo quyệt để chơn nhân loại dưới một đống hàng hố tồi, cao nghều
nghệu như hồi xưa người ta chôn các vua Ai Cập trong Kim tự tháp. Ông
bảo hầu hết các sản phẩm chế tạo bằng máy móc khơng phải là vật cần thiết;

máy móc tuy tiết kiệm được sức lao động nhưng lại tốn cơng chế tạo, sửa
chữa, thì rốt cuộc đâu cũng vào đấy; và nếu kết quả thật nhờ máy mà đỡ khó
nhọc được chút nào thì khơng có lợi cho giới lao động mà chỉ có lợi cho giới
tư bản; càng sản xuất mạnh thì càng sinh ra nạn thất nghiệp. Vì vậy ơng
phục hồi, canh tân phong trào Swadeshi (tẩy chay hàng Anh) do Tilak khởi
xướng năm 1905[7]; cuộc vận động sản xuất theo lối tiểu cơng nghệ trong
gia đình kết hợp với cuộc vận động tự trị Swaraj. Gandhi dùng cái chakar,
guồng quay sợi, để biểu hiện sự gia nhập, trung thành với phong trào quốc
gia; ông hô hào mọi người Ấn, cả những người giàu, mặc quần áo bằng vải
dệt lấy trong nhà, tẩy chay các hàng ngoại quốc dệt bằng máy ở Anh để cho
tới mùa đơng u ám, gia đình nào cũng được nghe tiếng vo vo của guồng
quay sợi.
Ơng khơng được mọi người hưởng ứng: khó mà ngưng dịng lịch sử lại
được. Nhưng dân Ấn đã gắng sức nghe ông. Sinh viên Ấn khắp nơi đều mặc
thứ vải thô khadda, các bà quí phái bỏ thứ lụa Nhật Bản, dệt lấy vải mà bận;
ngay như gái điếm trong các nhà chứa và tội nhân trong khám cũng quay
sợi. Sau cùng, tại nhiều thành phố, người ta tổ chức những cuộc thiêu huỷ,
các đại thương gia Ấn chở các hàng nhập cảng lại liệng hết vào đống lửa. Ở
Bombay, nội một ngày, người ta thiêu huỷ 150.000 tấm vải.
Phong trào đả đảo kĩ nghệ đó thất bại, nhưng đã tập hợp được dân Ấn trong
mười năm và gây một ý niệm mới về sự thống nhất quốc gia, đồn kết chính


trị cho biết bao nhiêu triệu người. Dân tộc Ấn còn do dự về phương tiện phải
dùng nhưng chấp nhận ngay mục tiêu, và mở lịng ra tiếp đón thánh Gandhi
mặc dầu nghi ngờ tài năng của chính khách Gandhi; trong một thời gian họ
đồn kết với nhau, một lịng ngưỡng mộ ơng, như Tagore nói về ơng:
Ơng ngừng lại ở ngưỡng cửa các căn nhà tồi tàn của hằng ngàn người cùng
khốn, y phục của ông y hệt y phục của họ. Ơng nói với họ bằng ngơn ngữ
của họ. Đó mới thực là một chân lí sinh động chứ không phải chỉ là những

lời suông trong sách vở. Vì vậy mà tiếng tơn xưng Mahatma (Thánh) mà dân
Ấn tặng ông đã thành tên thực của ông. Ai là người cảm thấy như ông rằng
tất cả mọi người Ấn chính là da thịt của mình, máu mủ của mình? Khi tình
thương tới gõ cửa Ấn Độ thì cửa đã mở toang chờ sẵn rồi… Nghe tiếng gọi
của Gandhi, Ấn Độ xơng ngay tới một cảnh vinh quang cao q mới, như hồi
xưa, rất xa xăm, khi Phật Tổ tuyên bố đạo từ bi, thương yêu cả mọi sinh
vật.[8]
VII. TỪ BIỆT ẤN ĐỘ

Không thể kết luận về lịch sử Ấn Độ như kết luận về lịch sử Ai Cập,
Babylone hoặc Assyrie được vì lịch sử Ấn Độ cịn đương tiếp tục, nền văn
minh đó cịn đương sáng tạo nữa. Về phương diện văn hóa, Ấn nhờ tiếp xúc
về tinh thần với phương Tây, đã nhận được một sinh lực mới và văn học của
Ấn ngày nay cũng phong phú, có một trình độ cao như bất kỳ nước nào
khác. Về phương diện tâm linh, xứ đó cịn đương chống với thói mê tín, và
với một thần học mà địa vị cịn mạnh q, nhưng biết đâu chừng các chất axít của khoa học hiện đại chẳng làm tiêu tan khá mau các thần linh thừa thãi


của họ? Về phương diện chính trị, một trăm năm vừa qua đã tặng cho Ấn
một sự thống nhất ít thấy trong lịch sử của họ: thống nhất một phần nhờ một
chính quyền ngoại quốc, một phần nhờ một ngoại ngữ[9], nhưng thứ nhất là
nhờ toàn dân đều hoài bão chung một ước vọng: được tự do. Về phương
diện kinh tế, Ấn đương ra khỏi tình trạng trung cổ để bước vào đường kĩ
nghệ hiện đại: sức sản xuất và thương mại đương mỗi ngày mỗi tiến bộ và
trước cuối thế kỉ này chắc chắc là Ấn sẽ đứng vào hàng các cường quốc trên
thế giới.
Nền văn minh Ấn không trực tiếp phát minh ra nền văn minh phương Tây
chúng ta, như các nền văn minh Ai Cập và Tiểu Á [tức Babylonie, Assyrie];
những nền văn minh này mới thực là đẻ ra văn minh phương Tây; còn lịch
sử Ấn Độ, Trung Hoa, Nhật Bản đã theo một trào lưu khác và bây giờ mới

bắt đầu hoà vào trào lưu sinh hoạt của phương Tây mà ảnh hưởng tới chúng
ta. Tuy nhiên, chúng ta phải nhận rằng mặc dầu có dãy núi Himalaya ngăn
cách, chúng ta cũng đã nhận được nhiều tặng phẩm q báu của Ấn, như
mơn ngữ pháp, mơn luận lí, triết học và ngụ ngơn, thuật thơi miên và chơi
cờ, quí báu nhất là hệ thống thập tiến và mười síp mà hiện nay chúng ta đều
dùng. Nhưng khơng nên coi đó là phần tinh t nhất của tâm hồn Ấn, những
cái đó chưa đáng kể gì, Ấn cịn có thể tặng cho chúng ta được nhiều hơn
nữa. Các đại lục càng hợp nhất với nhau nhờ các phát minh khoa học, nhờ kĩ
nghệ và thương mại; sự xung đột giữa Á và Âu càng tăng lên thì chúng ta
càng phải nghiên cứu văn minh Ấn kĩ lưỡng hơn và dù muốn hay khơng, thì
cũng nên hiểu thấu đáo vài quan niệm cùng phương pháp của họ. Có lẽ, bị
phương Tây xâm lăng, cướp bóc một cách vô liêm sĩ, Ấn Độ để đáp lại, sẽ
dạy cho chúng ta bài học khoan hồng cao thượng, dấu hiệu của một tâm hồn
già dặn; dạy cho chúng ta có một tâm hồn thanh thản, thoả mãn, dễ tiếp thu


những ý mới, có một trí óc bình tĩnh hiểu được hết thảy, tha thứ cho hết
thảy, sau cùng có một tấm lòng nhân từ thương yêu mọi sinh vật, chỉ tấm
lịng đó mới đồn kết mọi người với nhau được thôi.


[1] Dĩ nhiên, không thể vở đũa cả nắm được. Có vài người, như
Coomaraswamy nói một cách có ý nghĩa rằng “đã từ châu Âu quay trở về
Ấn”.
[2] Không rõ bản tiếng Pháp dịch có đúng khơng. Làm gì có chuyện này.
(ND). [Bản tiếng Anh chép là: China followed Sun Yat Sen, took up the
sword, and fell into the arms of Japan. (Goldfish)]
[3] Bản tiếng Anh chép: From 1920 to 1935 (Từ năm 1920 đến năm 1935).
(Goldfish).
[4] Làm thủ tướng tiểu quốc Porbandar. (ND).

[5] Muốn biết thái độ kì thị chủng tộc của người Anh ở Nam Phi, xin đọc
cuốn Khóc lên đi, ơi q hương u dấu của Alan Paton, Nguyễn Hiến Lê
dịch, Văn học tái bản, 1995. (BT).
[6] Theo bản tiếng Anh thì ơng bị bắt vào tháng 3 năm 1922: It was just at
this point (in March, 1922) that the Government determined upon his arrest.
(Goldfish).
[7] Coi cuối tiết trên. (ND).
[8] Sau đoạn trích dẫn lời của Tagore, trong bản tiếng Anh, tác giả còn viết
thêm: It was Gandhi s task to unify India; and he accomplished it. Other


tasks await other men. Tạm dịch: Đó là nghĩa vụ thống nhất Ấn Độ của
Gandhi, và Ngài đã hoàn thành được nghĩa vụ đó. Cịn những nghĩa vụ khác
thì dành cho những người khác. (Goldfish).
[9] Tức tiếng Anh tới nay vẫn cịn là ngơn ngữ chính thức của Ấn. (ND).



×