Tải bản đầy đủ (.pdf) (20 trang)

Bài giảng Giảng dạy Phương pháp luận nghiên cứu khoa học - chúng ta sai từ đâu - Nguyễn Phúc Anh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (666.13 KB, 20 trang )

Giảng dạy Phương pháp luận Nghiên
cứu khoa học - chúng ta sai từ đâu
Nguyễn Phúc Anh
Đại học Thủ đô Tokyo

For Spreadout Academic Club


Nội dung
- Giảng dạy lý thuyết Nghiên cứu khoa học ở các Đại học của Việt Nam
- Thực hành nghiên cứu - Góc nhìn của người trong cuộc

- Những trải nghiệm cá nhân


Giảng dạy lý thuyết Nghiên cứu khoa
học ở các Đại học của Việt Nam


“Phương pháp luận", "phương pháp" hay "thao tác" nghiên
cứu?


Phương pháp luận nghiên cứu khoa học hiện tồn như di sản của tư duy - tham vọng quản lý
khoa học trước đây, áp những tiêu chuẩn nghiên cứu khoa học tự nhiên, chủ nghĩa thực dụng
vào nghiên cứu khoa học xã hội.



Nguyễn Văn Dân cho rằng nói đến Phương pháp luận là nói đến những đại tự sự về thế giới:
chủ nghĩa Marx, học thuyết cùa Freud, những thứ chi phối THẾ GIỚI QUAN tổng thể của chúng


ta, chứ ko chỉ chung cho 1 ngành khoa học cụ thể.



Phương pháp là hệ thống lí thuyết của một chuyên ngành hẹp nào đó. Khi làm nghiên cứu, ta sẽ
đối thoại trên phương diện lí thuyết ngành này.



Cịn thao tác là cách thức để thực hành công việc nghiên cứu, sự hiện thực hố một ý tưởng
bằng những bước, những cơng đoạn. Thậm chí thao tác cịn bao gồm cách thức trình bày một
nghiên cứu theo những tiêu chuẩn đặt sẵn.



Hầu hết những thứ được dạy trong những giáo trình "phương pháp luận nghiên cứu khoa học"
đều được học trong những courses về "academic writing", đây là một môn học đôi khi là
không bắt buộc.


Định tính - Định lượng: Có quan
trọng?



Áp đặt u cầu về tính “chính xác” của khoa học tự nhiên sang lãnh vực nghiên cứu khoa học xã
hội dẫn đến việc nhiều ngành nghiên cứu xã hội học và noi theo cách làm lượng hoá của khoa
học tự nhiên để rồi tìm cách lượng hố nghiên cứu khoa học xã hội của mình.




Ngày cả những nghiên cứu định lượng thì cũng muốn hướng đến những kết luận định tính.



Cặp đối lập này khơng phổ qt, có những ngành nghiên cứu khơng thể định lượng, thậm chí dị
ứng, khơng khuyến khích sử dụng những "phương pháp định lượng" như nhân học văn hoá. Vấn
đề số liệu trong nghiên cứu về nhân học văn hố.



(Phê phán xã hội học của nhân học)



Khả năng lượng hoá được đến đâu? Và nếu lượng hoá mãi thì nó sẽ làm nghèo nàn chủ đề
nghiên cứu hay khơng?



Ví dụ trường hợp của ơng Nguyễn Văn Tuấn và đề xuất lượng hoá nghiên cứu khoa học xã hội
nhân văn



“Chương trình Phương pháp Nghiên cứu Định lượng cho Khoa học Xã hội” và tài liệu “Phân tích
số liệu và biểu đồ bằng R”.


Lý thuyết - thực tế & cơ bản - ứng

dụng


Bản chất của phân định này dựa một quan điểm thực dụng đối với hoạt động nghiên
cứu được hay không? Việc ứng dụng này đến đâu?



Một nghiên cứu như sau: Nghiên cứu áp dụng mơ hình dự báo bão X cho điều kiện
bão Nhiệt đới Việt Nam. Nghiên cứu này là nghiên cứu lý thuyết hay thực tế? Cơ bản
hay ứng dụng?



Gianh giới giữa lí thuyết - thực tế, cơ bản - ứng dụng là khơng có. Đã là nghiên cứu thì
ln song song tồn tại hai mặt thực tế và lý thuyết, là bất khả phân tách ra thành cơ
bản hay ứng dụng. Việc áp dụng thành quả nghiên cứu vào thực tế xã hội, cải tiến kĩ
thuật không thuộc phạm vi của nghiên cứu khoa học, đặc biệt rõ ở khoa học xã hội và
nhân văn. Việc ứng dụng khoa học lại thuộc một phạm trù khác!



Vấn đề là thiết kế những nghiên cứu có ra tiền hay khơng! Nếu nó ra tiền càng nhanh
thì người ta gọi đó là nghiên cứu có tính ứng dụng cao. Bản thân nó là một cách nhìn
cơng lợi về khoa học chứ không phải bản thân khoa học là như vậy. Quan điểm công
lợi về khoa học ở đây không nên được sử dụng như một tiêu chí để phân ngành khoa
học.


Những nghịch lý của chủ nghĩa Marx

Giảng dạy phương pháp luận Nghiên cứu khoa học ở Việt Nam đều
hướng đến việc tìm kiếm một giải pháp để khám phá đối tượng nghiên
cứu trong tính tổng thể và tính lịch sử của nó. Bản chất, quan điểm
này dựa trên quan điểm duy vật - biện chứng của những nhà Marxists.
Quan điểm này bị phê phán nặng nề bởi những nhà nhân học, và
những nhà nhân học đã cố gắng chứng minh mong muốn nhìn mọi
việc từ góc độ duy vật - biện chứng chỉ là một ảo tưởng.
Những thứ mà chúng ta coi là thế giới quan khoa học và tiến bộ, trái
lại đang huỷ diệt sự khả năng phán đoán và đưa ra giả thuyết của
chúng ta. Ngăn chúng ta tưởng tượng và khám phá những giải pháp
tư duy khác.


"Ngồi trời cịn có trời" và những "người bay
khơng biết có chân trời"
Ngồi cách tư duy và bộ khái niệm
cũ kĩ mà những giáo trình "phương
pháp luận nghiên cứu khoa học"
xây dựng cho chúng ta, những thế
giới quan được truyền dạy trong
nhà trường liệu cịn có những
đường hướng tư duy nào khác
nữa hay không? Chúng ta cứ bối
rối với những định nghĩa kiểu như
thế này để làm gì khi chúng ta có
thể đơn thuần vứt nó vào sọt rác
và tìm kiếm một bộ tư duy khái
niệm khác. Khoa học đã khác lắm
rồi, kể từ thời của Marx.



Chủ nghĩa thực dân mới và nghịch lý của việc “áp
dụng" phương pháp trong nghiên cứu xã hội nhân
văn.

Việc giảng dạy phương pháp luận Nghiên cứu khoa học ở Việt Nam dựa trên niềm
tin rằng nếu áp dụng một "phương pháp nghiên cứu" đúng đắn thì sẽ có một kết quả
nghiên cứu khả quan. Và một nghiên cứu tốt sẽ cần phải dựa trên một khung sườn lý
thuyết tốt!


Thực hành nghiên cứu - Góc nhìn của
người trong cuộc


Từ ý tưởng đến chủ đề nghiên cứu
Ý tưởng khoa học và
ý tưởng nghệ thuật
thơ ca
Đọc sách
tưởng.



Ý

Vì sao mãi khơng thể
tìm ra được ý tưởng
Đâu là một ý tưởng
nghiên cứu tốt

Bộ lọc
Chủ đề nghiên cứu


Topic, argument và evidences: cơ bản nhưng
hay bị bỏ quên.

Từ lớp học
Writing ở NUS

Academic

Chủ đề nghiên cứu (topic)
Luận điểm (argument)

Và các Luận cứ (evidences)
Nguồn: Dr Paul H. Kratoska
(NUS)


Chúng ta đã quên arguments như thế nào?
(1)
Nghi lễ vòng đời của người Muslim

Nguyễn Bình
Viện Nghiên cứu Tơn giáo
Tóm tắt: Dù ít hay nhiều, cuộc đời mỗi người đều phải gắn kết với một cộng đồng nào đó
và phải trải qua những nghi lễ vòng đời. Tuy nhiên, trong một cộng đồng tơn giáo thì nghi
lễ vịng đời trở thành một mắt xích quan trọng, vừa để thể hiện đức tin và sự tôn nghiêm
của tôn giáo ấy đối với các tín đồ vừa là sợi dây cố kết cộng đồng, đồng thời ở một mức

độ nhất định là sự thể hiện khác biệt giữa tôn giáo này với tôn giáo khác trong một xã hội
có nhiều tơn giáo cùng tồn tại. Bài viết này trình bày một số nội dung cơ bản về nghi lễ
vòng đời người của cư dân theo Islam giáo nói chung và qua đó có sự so sánh với các
cộng đồng thực hành đức tin theo Islam giáo ở Việt Nam.
Từ khóa: Nghi lễ vịng đời; Muslim; Người Chăm Bàni; Người Chăm Islam.
Tạp chí Nghiên cứu Gia đình và Giới (Trước là tạp chí KHPN) số 1/2013


Chúng ta đã quên arguments như thế nào?
(2)
Những phẩm chất cần có của phụ nữ Việt Nam trong thời đại mới

Bùi Thị Ngọc Lan
Viện Chủ nghĩa Xã hội Khoa học, Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia
Hồ Chí Minh

Tóm tắt: Bài viết dưới đây tập trung làm rõ những phẩm chất: có tri thức, có
năng lực làm chủ khoa học, cơng nghệ và có kỹ năng nghề nghiệp, giúp phụ
nữ có thể thích ứng một cách linh hoạt với điều kiện mới nhằm nâng cao đời
sống vật chất và tinh thần cho bản thân, gia đình và góp phần vào cơng cuộc
xây dựng đất nước.
Từ khóa: Phụ nữ; Phẩm chất của phụ nữ;
Tạp chí Nghiên cứu Gia đình và Giới (Trước là tạp chí KHPN) số 1/2013


Chúng ta đã quên arguments như thế nào?
(3)
Nữ thanh niên xung phong Việt Nam trong chiến tranh chống Mỹ
Kim Văn Chiến
Khoa Công tác xã hội, Đại học Sư phạm Hà Nội

Tóm tắt: Phần lớn các tác phẩm văn học, phim tài liệu và báo chí ở Việt Nam hiện nay
kể về cuộc đời của những người phụ nữ trẻ Việt Nam trong cuộc chiến tranh chống Mỹ.
Các tác phẩm này đã nêu lên số phận của một số nữ thanh niên tình nguyện xung
phong ra chiến trường và những cơng việc vất vả của họ nơi tiền tuyến. Đó là một thời
để nhớ, đó là một huyền thoại, một ký ức, một kỷ niệm… của những thiếu nữ ở độ tuổi
18-20, sẵn sàng qn tuổi thanh xn của mình góp sức cho cuộc chiến đấu bên cạnh
những người nam giới. Bài viết miêu tả hình ảnh phụ nữ trẻ Việt Nam trong chiến tranh
chống Mỹ mà tác giả cho là lực lượng đặc biệt của cuộc chiến tranh này, đồng thời nêu
lên vai trị, những đóng góp và những khó khăn của họ nơi tiền tuyến.
Từ khoá: Thanh niên xung phong; Chiến tranh chống Mỹ; Phụ nữ Việt Nam.
Tạp chí Nghiên cứu Gia đình và Giới (Trước là tạp chí KHPN) số 1/2013


Chúng ta đã quên arguments như thế nào?
(4)
Tổng quan về sự kỳ thị và phân biệt đối xử đối với nam có quan hệ tình dục đồng giới tại Việt
Nam
Mai Xn Thu, Lê Cự Linh
Đại học Y tế Cơng cộng
Tóm tắt: Tình dục đồng giới nam là một vấn đề nhạy cảm đã tồn tại trong xã hội từ lâu, nhưng
những hiểu biết về nó cịn sơ sài và chưa rõ ràng. ở Việt Nam, tình dục đồng giới nam được coi
là điều trái với tự nhiên, đi ngược lại với thuần phong mĩ tục. Những chuẩn mực xã hội đó đã
khiến nam có quan hệ tình dục đồng giới tự kỳ thị bản thân và chịu sự miệt thị và phân biệt đối
xử từ phía gia đình và cộng đồng xã hội, điều đó hạn chế khả năng tiếp cận với quyền lợi và dịch
vụ xã hội của họ. Bài viết trình bày các đặc điểm xã hội và tình dục của nam có quan hệ tình dục
đồng giới ở Việt Nam, thực trạng kỳ thị và phân biệt đối xử mà họ đang phải chịu đựng, cũng
như nhấn mạnh tới sự tham gia của chính quyền cũng như vai trị của truyền thơng trong việc
thay đổi cách nhìn của cộng đồng đối với vấn đề nhạy cảm này.
Từ khóa: Tình dục; Đồng giới nam; Tình dục đồng giới.
Tạp chí Nghiên cứu Gia đình và Giới (Trước là tạp chí KHPN) số 1/2013



Chúng ta đã quên arguments như thế nào? (4)
Phân công lao động và quyền quyết định trong gia đình nơng thôn đồng bằng Bắc Bộ
Vũ Mạnh Lợi, Trịnh Thị Quang, Nguyễn Hồng Thái, Nguyễn Khánh Bích Trâm, Đặng Vũ Hoa Thạch
Viện Xã hội học
Tóm tắt: Nghiên cứu trường hợp xã Hiên Vân về phân cơng lao động trong gia đình đã khắc phục thiếu sót của
các nghiên cứu trước đây bằng việc mở rộng thêm diện những việc nhà, bao gồm cả các loại việc được cho là nữ
giỏi hơn nam và các loại việc được cho là nam giỏi hơn nữ. Mặc dù khuôn mẫu phân công lao động cho thấy đóng
góp của cả nam và nữ vào các cơng việc trong hộ gia đình phù hợp với quan niệm truyền thống về năng lực so
sánh của nam và nữ, phụ nữ nhìn chung vẫn là người dành nhiều thời gian hơn cho các cơng việc trong gia đình.
Trong gia đình, phụ nữ vẫn là lực lượng chính, đảm đương phần lớn gánh nặng việc nhà. Về quyền ra các quyết
định trong gia đình, nói chung hai vợ chồng cùng bàn bạc ra quyết định là hình thức phổ biến nhất đối với hầu hết
các khía cạnh của đời sống gia đình. Tuy nhiên, vợ là người quyết định nhiều hơn chồng đối với công việc sản
xuất của gia đình. Đây là điều rất khác với các nghiên cứu trước đây. Tỷ lệ phụ nữ là người ra quyết định chính
hay là người đồng ra quyết định chính cũng ngang bằng với nam giới ở những việc liên quan đến chăm sóc sức
khỏe cho các thành viên và những hoạt động xã hội chung của cả hai vợ chồng. Điều này gợi ra rằng phụ nữ
đang có xu hướng gia tăng ảnh hưởng của mình trong những hoạt động xã hội ngồi gia đình.
Từ khóa: Phân cơng lao động trong gia đình; Gia đình; Giới; Vai trị giới.
Tạp chí Nghiên cứu Gia đình và Giới (Trước là tạp chí KHPN) số 1/2013


Nên bắt đầu từ đâu
và cơ hội bắt đầu nghề nghiệp ở Việt Nam


Về phong trào Nghiên cứu khoa học Sinh viên




Về chuyện đăng bài trên các tạp chí Nghiên cứu



Đọc và viết



Những thất bại và con đường nghề nghiệp



Con đường học vấn “lý tưởng”: thạc sĩ (trong ngoài nước) - tiến sĩ
(nước ngoài, bao gồm fellowship 1, 2, 3 và các short term courses)
- post doc 1 - post doc 2 - (post doc 3) - research fellow - senior
fellow - tenure track


Với những ai không làm Nghiên cứu
khoa học chuyên sâu thì việc thực
hành nghiên cứu sẽ giúp gì được cho
họ?


THANK YOU VERY MUCH
If you have any questions, please send me an email.
my email:




×