Tải bản đầy đủ (.pdf) (5 trang)

Giữ gìn và phát huy truyền thống yêu nước Việt Nam trong điều kiện kinh tế thị trường và toàn cầu hoá

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (572.42 KB, 5 trang )

Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật

GIỮ GÌN VÀ PHÁT HUY TRUYỀN THỐNG YÊU NƯỚC
VIỆT NAM TRONG ĐIỀU KIỆN
KINH TẾ THỊ TRƯỜNG VÀ TỒN CẦU HỐ
Lâm Ngọc*



TĨM TẮT

Trong lịch sử dựng nước, giữ nước và xây dựng đất nước hàng ngàn năm của dân tộc ta đã
hình thành nên biết bao truyền thống tốt đẹp cần được giữ gìn và phát huy trong điều kiện mới của
cách mạng; đồng thời, cũng có những yếu tố truyền thống lạc hậu, lỗi thời cần phải được loại bỏ.
Vì vậy, tìm hiểu những giá trị truyền thống của dân tộc là việc làm cần thiết, vừa có ý nghĩa lý luận
và thực tiễn lại vừa mang tính thời sự cấp bách, góp phần vào sự nghiệp giáo dục – đào tạo thế hệ
trẻ trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường và tồn cầu hố ở Việt Nam hiện nay.
Từ khố: Giữ gìn, pháy huy, truyền thống yêu nước, kinh tế thị trường, tồn cầu hố.

CONSERVATION AND IMPROVEMENT PATRIOTIC TRADITION
OF VIET NAM IN THE CONDITION
OF MARKET ECONOMY AND GLOBALIZATION
ABSTRACT
In the history of founding, defending and building up the country through thousands years
of our Vietnamese People came into being many good tradition which needs conserving and
improving in the condition of new revolution; at the same time, there has been some backward
and outdated tradition need to be eliminated. Hence, studying the traditional value of Vietnamese
People is necessary which both has theory reality and urgent news – now contributing to education
achievements, training youth generation in the condition of market economy development and
globalization in Viet Nam.
Key Words: Conservation, improvement, patriotic, market economy, globalization



1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Cho đến nay, nhiều nhà nghiên cứu đã chỉ
ra rằng, những giá trị tinh thần truyền thống
cơ bản của dân tộc bao gồm: truyền thống yêu
nước, đoàn kết, cần cù, sáng tạo, lạc quan…
Tất cả những truyền thống đó khơng phải tự
nhiên mà có, mà nó được hình thành, phát
triển từ lịch sử đấu tranh chống giặc ngoại
*

xâm, chống chọi với thiên tai và từ cuộc đấu
tranh cải tạo xã hội, phát triển kinh tế, văn
hoá và con người Việt Nam. Trong số các giá
trị tinh thần truyền thống Việt Nam thì truyền
thống yêu nước trở thành giá trị tinh thần cốt
lõi và hàng đầu của dân tộc. Song, truyền
thống yêu nước là gì? Trong bối cảnh kinh tế
thị trường và tồn cầu hố ở Việt Nam thì cần

Thạc sĩ. Viện Khoa học xã hội vùng Trung Bộ, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam.

86


Giữ gìn và phát huy . . .

phải làm gì và làm như thế thế nào để giữ gìn
và phát huy truyền thống tốt đẹp đó.
2. NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA

TRUYỀN THỐNG YÊU NƯỚC
Từ xưa, đối với người dân Việt Nam thì
“nước” trước hết có nghĩa là nhà cửa, đất đai
ruộng vườn, là dịng họ, làng xóm, q hương,
xứ sở; và rộng hơn nữa là đất nước, là quốc
gia dân tộc. Vì vậy, yêu nước, trước hết là yêu
làng xóm, yêu quê hương xứ sở và tiếp theo
là yêu tổ quốc, u đất nước mình. Có thể nói
rằng, u nước trước hết được nảy sinh từ yếu
tố tâm lý, tình cảm, được thể hiện trong cuộc
sống lao động, sinh hoạt hàng ngày của người
dân, dần dần phát triển lên ý thức tự giá và trở
thành triết lý nhận thức và hành động của con
người và cả cộng đồng dân tộc. Đó là “sản
phẩm tinh thần cao quý nhất của dân tộc Việt
Nam, là tư tưởng và tình cảm thiêng liêng giữ
vị trí chuẩn mực cao nhất của đạo lý và đứng
đầu bậc thang giá trị dân tộc. Tinh thần đó
đã phát huy sức mạnh vơ biên của nó trong
các cuộc kháng chiến chống ngoại xâm và là
một động lực nội sinh của cộng đồng dân tộc
trong sự nghiệp xây dựng đất nước, sợi chỉ đỏ
xuyên qua toàn bộ lịch sử Việt Nam”22.
Hình ảnh cậu bé Gióng được nhân dân
ni dưỡng, chăm sóc đã lớn lên như thổi, trở
thành dũng sỹ và sau khi quét sạch giặc Ân
đã bay thẳng về trời là biểu tượng cao đẹp
của tinh thần yêu nước vơ biên, khơng màng
danh lợi cá nhân. Sau đó, hơn 1000 năm bọn
giặc phương Bắc xâm chiếm nước ta với sức

mạnh to lớn, chúng muốn tiêu diệt dân tộc ta
khơng chỉ bằng ách đơ hộ, mà cịn bằng chính
sách đồng hoá văn hoá. Tuy nhiên, nhân dân
ta vẫn bám trụ quê cha đất tổ, “một tấc không
đi, một ly không dời”, quyết chống trả quân
giặc để cuối cùng không bị Hán hố, giành lại
22
23

trọn vẹn non sơng và bảo vệ được nền văn hố
dân tộc. Đó là thành tựu kỳ diệu của truyền
thống yêu nước Việt Nam, mà không phải
dân tộc nào trên thế giới cũng đạt được23. Và
từ đó đến nay, trong nhân dân đã hình thành
một phong tục tốt đẹp là mỗi năm đến ngày
mồng mười tháng ba mọi người đều hướng về
Phong Châu để giỗ tổ Vua Hùng.
Từ thế kỷ thứ X đến thế kỷ XVIII, tinh
thần yêu nước đã trở thành động lực thúc đẩy
sự nghiệp phục hưng dân tộc và từ đây đã làm
nảy sinh những kết quả rực rỡ của nền văn hoá
Thăng Long. Ở triều đại nhà Lý, sau khi lãnh
đạo cuộc kháng chiến chống quân Tống giành
thắng lợi, Lý Thường Kiệt đã khẳng định tinh
thần yêu nước với ý chí độc lập tự chủ và
quyền bình đẳng của dân tộc Việt Nam:
“Sông núi nước Nam vua Nam ở
Rành rành định phận ở sách trời,
Cớ sao lũ giặc sang xâm phạm?
Chúng bay sẽ bị đánh tơi bời”.

Sau ba lần kháng chiến chống giặc Mông
– Nguyên thắng lợi, Trần Quốc Tuấn đã đúc
kết và phát triển tinh thần yêu nước lên một
bước mới. Yêu nước có nghĩa là sự gắn bó
giữa nước với dân, “vua tơi đồng lịng, anh em
hồ thuận, nước nhà góp sức”. Và, Nguyễn
Trãi đã khái quát chủ nghĩa yêu nước Việt
Nam trong “Bình Ngơ đại cáo”:
“Như nước Đại Việt ta từ trước,
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu,
Cõi bờ sông núi đã riêng,
Phong tục Bắc Nam cũng khác”.
Ở đây, Nguyễn Trãi đã khẳng định Việt
Nam là nước độc lập, có nền văn hiến lâu đời
và dân tộc Việt Nam là dân tộc tự chủ. Đó
cũng chính là ý thức độc lập tự chủ và tinh
thần tự lập, tự cường và tự hào dân tộc của
chủ nghĩa yêu nước Việt Nam.

Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc gắn liền với Chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Xem: Trần Văn Giàu. Tuyển tập. Nxb Giáo dục, Hà Nội, 2000, tr. 287.

87


Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật

Như vậy, tinh thần u nước Việt Nam
được hình thành rất sớm, nó bắt đầu từ tình
cảm yêu quê hương xứ sở đến yêu Tổ quốc,

dần dần phát triển lên ý thức tự giác và trở
thành triết lý nhận thức về độc lập dân tộc và
chủ quyền quốc gia và hành động bảo vệ đất
nước, bảo vệ giống nịi và bản sắc văn hố
dân tộc.
Giáo sư Trần Văn Giàu đã khái quát nội
dung của truyền thống yêu nước Việt Nam
bao gồm: ý thức bảo tồn và củng cố bản sắc
dân tộc; tư tưởng đại đồn kết dân tộc, chiến
đấu hết sức kiên trì, lấy yếu thắng mạnh, lấy
ít thắng nhiều, lấy nhân nghĩa thắng tham
tàn; kiên quyết chống xâm lược, đồng hoá,
nhưng lại tiếp thu có sàng lọc văn hố từ bên
ngồi để làm cho văn hoá dân tộc phát triển;
tư tưởng hiếu sinh, không hiếu sát, luôn làm
chiến tranh một cách kiên quyết nhằm mục
đích xây dựng hồ bình lâu dài để cho dân
chúng an cư lạc nghiệp; “không tách rời
nước với dân, mà dân là dân nước, nước là
nước dân”24.
Như vậy, trong lịch sử Việt Nam, độc lập
dân tộc, chủ quyền quốc gia và lãnh thổ của
đất nước là niềm tự hào và thiêng liêng, bất
khả xâm phạm. Chính vì vậy, mỗi khi Tổ quốc
bị xâm lăng thì mỗi người và cả dân tộc đều
nhất tề đứng dậy, chấp nhận mọi gian khổ hy
sinh, chiến đấu đến tận cùng để bảo vệ độc lâọ
dân tộc, chủ quyền quốc gia và sự toàn vẹn
lãnh thổ với ý chí “Khơng có gì q hơn độc
lập tự do” và “Thà hy sinh tất cả chứ nhất định

không chịu mất nước, nhất định không chịu
làm nô lệ”. Bởi lẽ, nước là nhà, là quê cha đất
tổ, là quyền độc lập tự chủ và tự do hạnh phúc
của mỗi người và cả cộng đồng dân tộc.
Trên cơ sở truyền thống yêu nước Việt
Nam, dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác –
24

Lênin và với tầm trí tuệ uyên bác, Hồ Chí
Minh đã phát triển tinh thần yêu nước Việt
Nam lên một trình độ mới, phù hợp với thực
tiễn cách mạng Việt Nam trong thời đại mới
– thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ
nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới được
bắt đầu bằng cách mạng tháng Mười Nga.
Suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của mình,
Hồ Chí Minh đã thể hiện một cách sâu sắc và
nhất quán tư tưởng “yêu nước, thương dân”.
Người đã bơn ba khắp năm châu bốn biển và
đã tìm ra con đường “cứu nước, cứu dân” –
con đường cách mạng vơ sản; đồng thời chính
Người đã trực tiếp tổ chức và lãnh đạo sự
nghiệp cách mạng ấy.
Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám
năm 1945 và của hai cuộc kháng chiến chống
thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược là
bằng chứng sinh động về sức mạnh của truyền
thống yêu nước Việt Nam trong thời đại mới
– Đó là sức mạnh của ngọn cờ độc lập dân tộc
gắn liền với chủ nghĩa xã hội.

3. PHÁT HUY GIÁ TRỊ TRUYỀN
THỐNG YÊU NƯỚC TRONG ĐIỀU
KIỆN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG VÀ TỒN
CẦU HỐ.
Những thành tựu của công cuộc đổi mới
đất nước suốt 25 năm qua thêm một lần nữa,
khẳng định giá trị và sức mạnh của truyền
thống yêu nước Việt Nam được thể hiện
trong điều kiện mới – Kinh tế thị trường và
toàn cầu hố. Tuy nhiên, từ một nước nơng
nghiệp nghèo nàn đi vào kinh tế thị trường,
ngoài những kết quả đã đạt được thì cịn nhiều
vấn đề buộc chúng ta phải trăn trở. Ở nước
ta, trong những năm gần đây, đã và đang
xuất hiện những hiện tượng tiêu cực làm ảnh
hưởng đến truyền thống u nước và làm xói
mịn các giá trị truyền thống dân tộc. Ở thành

Xem: Trần văn Giàu. Tuyển tập, Nxb. Giáo dục, Hà Nội, 2000, tr. 1024.

88


Giữ gìn và phát huy . . .

thị đang có một bộ phận dân cư quay lưng lại
với giá trị truyền thống, coi thường bản sắc
văn hoá dân tộc, mọi suy nghĩ và hành động
chỉ vì tiền. “Vì tiền mà khơng ít trường hợp đã
chà đạp lên quan hệ thầy trị, đồng chí, đồng

nghiệp; bn lậu và tham nhũng phát triển;
ma tuý, mại dâm và các tệ nạn xã hội khác
gia tăng; nạn mê tín dị đoan khá phổ biến;
nhiều hủ tục cũ và mới tràn lan…”25. Ở nơng
thơn có xu hướng khơi phục lại tất cả những
gì của q khứ: Lễ hội, các hủ tục lạc hậu,
lỗi thời như đình đám, rượu chè, cờ bạc…26.
Trong khi đó, đất nước ta đang phải đối mặt
với những nguy cơ và thách thức: Tụt hậu xa
hơn về kinh tế, chệch hướng xã hội chủ nghĩa,
nạn tham nhũng và lãng phí, “diễn biến hồ
bình” do các thế lực thù địch gây ra. “Điều
cần nhấn mạnh là: Tình trạng tham nhũng và
sự suy thối về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối
sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng
viên đang cản trở việc thực hiện đường lối,
chủ trương, chính sách của Đảng, gây bất bình
và làm giảm lịng tin trong nhân dân…”27.
Tồn cầu hố, trước hết là, “Tồn cầu hố
kinh tế là một xu thế khách quan, lôi cuốn
ngày càng nhiều nước tham gia; xu thế này
đang bị một số nước phát triển và các tập đoàn
kinh tế tư bản xuyên quốc gia chi phối, chứa
đựng nhiều mâu thuẫn, vừa có mặt tích cực
vừa có mặt tiêu cực, vừa có hợp tác vừa có
đấu tranh”28. Mặt tích cực của tồn cầu hố
được thể hiện:
Thứ nhất, nó thúc đẩy nhanh q trình
chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng cơng
nghiệp hố, hiện đại hoá và kinh tế tri thức.


Hiện nay, ở các nước cơng nghiệp phát triển
đang diễn ra q trình chuyển sang kinh tế tri
thức, hàm lượng tri thức kết tinh trong hàng
hoá ngày càng cao (ở Nhật là 97%, Mỹ là
82%). Ở các nước thuộc khối OECD, kinh tế
tri thức chiếm hơn 50% GDP, số lượng công
nhân “áo trắng” chiếm hơn 60% lực lượng lao
động. Theo dự báo, đến năm 2030 các nước
phát triển đều có nền kinh tế tri thức29.
Thứ hai, tồn cầu hố thúc đẩy sự phát
triển và tăng trưởng kinh tế nhanh ở nhiều
nước. Theo UNDP, GDP bình quân đầu người
năm 2000 của toàn thế giới là 7.446 USD, của
các nước khối OECD là 23.569 USD30.
Thứ ba, toàn cầu hoá thúc đẩy xu hướng
hội nhập và đa dạng hoá các quan hệ quốc tế,
tạo ra những mối liên kết giữa các nền kinh
tế, tạo thuận lợi và cơ hội cho nhiều nước tiếp
cận được nguồn vốn quốc tế, tri thức khoa
học, kinh nghiệm quản lý và các nguồn lực
khác để phát triển.
Mặt tiêu cực của tồn cầu hố cũng thể
hiện rõ nét: nó làm tăng thêm nạn thất học,
thất nghiệp, nạn đói, sự phân hố giàu nghèo
và bất bình đẳng xã hội; đồng thời góp phần
vào việc huỷ hoại môi trường tự nhiên và môi
trường xã hội, làm xói mịn những giá trị dân
tộc truyền thống…31.
4. KẾT LUẬN

Rõ ràng là, trong điều kiện kinh tế thị
trường và toàn cầu hố, cần phải có những
giải pháp thích hợp để giữ gìn và phát huy chủ
nghĩa yêu nước Việt Nam, chuyển nó thành
động lực thúc đẩy cơng nghiệp hố, hiện đại
hố. Nếu như trước kia, trong chiến tranh,

25
Tơ Huy Rứa, Hồng Chí Bảo, Trần Khắc Việt, Lê Ngọc Tịng (Đồng chủ biên), Quá trình đổi mới tư duy lý luận của Đảng từ 1986 đến
nay, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, tr. 426.
26
Xem: Văn hoá và phát triển ở Thành phố Hồ Chí Minh, 1998, tr. 31.
27
ĐCSVN. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 2001, tr. 15.
28
ĐCSVN. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 2001, tr. 13.
29
217 quốc gia và lãnh thổ trên thế giới, Nxb Thống kê, HN, 2003, tr. 33.
30
UNDP, Báo cáo phát triển con người năm 2002.
31
Xem: Tạp chí KHXH, số 4 (62) – 2003, tr.27 – 29.

89


Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật

truyền thống u nước được thể hiện ở tinh
thần đoàn kết, quyết chiến quyết thắng kẻ thù;

thì ngày nay, trong điều kiện hồ bình xây
dựng, nó thể hiện ở tinh thần đồn kết, chiến
thắng nghèo nàn lạc hậu, để rửa nỗi nhục
nghèo đói. Để làm được điều này, trước hết,
cần chú trọng giáo dục tinh thần yêu nước,
không chỉ dừng lại ở những bài học trên lớp
trong nhà trường, mà điều quan trọng là đưa
được người học tham gia trực tiếp vào thực
tiễn đổi mới. Chỉ trong thực tiễn và thông
qua thực tiễn lớp trẻ mới thấu hiểu giá trị của
truyền thống yêu nước Việt Nam, từ đó hình
thành và rèn luyện nhân cách, trách nhiệm

công dân đối với sự nghiệp xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc. Đồng thời, tơn tạo và giữ gìn các
di tích lịch sử - văn hố của dân tộc. Những
di tích lịch sử - văn hóa đã chứa đựng trong
mình những giá trị truyền thống bất hủ của
nhiều thế hệ cha anh trong công cuộc chống
ngoại xâm, lao động sản xuất, sáng tạo khoa
học, nghệ thuật… Chính nhờ những giá trị
này mà mỗi thế hệ mới ra đời có thể kế thừa
được quá khứ, tiếp thu và sáng tạo ra những
giá trị hiện đại và định hướng được cho tương
lai. Điều này giúp chúng ta vững bước tiến
vào quá trình hội nhập quốc tế và giao lưu văn
hố có hiệu quả.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. Trần Văn Giàu (2000). Tuyển tập. Nxb Giáo dục, Hà Nội.

[2]. Tơ Huy Rứa, Hồng Chí Bảo, Trần Khắc Việt, Lê Ngọc Tịng (Đồng chủ biên 2006). Quá trình đổi
mới tư duy lý luận của Đảng từ 1986 đến nay, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
[3]. ĐCSVN. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX (2001), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội..
[4]. UNDP, Báo cáo phát triển con người năm 2002.
[5]. 217 quốc gia và lãnh thổ trên thế giới, Nxb Thống kê, HN, 20

90



×