Tải bản đầy đủ (.pdf) (98 trang)

Bước đầu nghiên cứu định giá trị giải trí của vườn quốc gia cát tiên bằng phương pháp du lịch phí

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (860.92 KB, 98 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LÂM NGHIỆP

NGUYỄN THỊ HƯƠNG THẢO

BƯỚC ĐẦU NGHIÊN CỨU ĐỊNH GIÁ GIÁ TRỊ GIẢI
TRÍ CỦA VƯỜN QUỐC GIA CÁT TIÊN BẰNG
PHƯƠNG PHÁP DU LỊCH PHÍ

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
TS. NGUYỄN NGHĨA BIÊN

Đồng Nai, 2012


3

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LÂM NGHIỆP

NGUYỄN THỊ HƯƠNG THẢO

BƯỚC ĐẦU NGHIÊN CỨU ĐỊNH GIÁ GIÁ


TRỊ GIẢI TRÍ CỦA VƯỜN QUỐC GIA CÁT
TIÊN BẰNG PHƯƠNG PHÁP DU LỊCH PHÍ
CHUN NGÀNH: KINH TẾ NƠNG NGHIỆP
MÃ SỐ: 60.31.10

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
TS. NGUYỄN NGHĨA BIÊN

Đồng Nai, 2012
3


1

ĐẶT VẤN ĐỀ
Rừng là một hệ sinh thái có vai trò quan trọng đối với cuộc sống của
con người cũng như mơi trường: cung cấp nguồn gỗ, củi, điều hịa, tạo ra oxy,
điều hòa nước, là nơi cư trú động thực vật và tàng trữ các nguồn gen quý
hiếm, bảo vệ và ngăn chặn gió bão, chống xói mịn đất, đảm bảo cho sự sống,
bảo vệ sức khỏe của con người…Quan hệ của rừng và cuộc sống đã trở thành
một mối quan hệ hữu cơ. Ở Việt Nam, trong số 16,2 triệu ha đất quy hoạch
cho lâm nghiệp, rừng đặc dụng chiếm 2,2 triệu ha. Tuy nhiên, diện tích rừng
đặc dụng hiện đang bị xâm hại đến mức báo động đỏ. Nạn chặt phá, khai thác
bừa bãi, chuyển đổi mục đích sử dụng tại nhiều khu rừng đặc dụng đã làm
nhiều loại gỗ quý hiếm bị cạn kiệt [3].
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến thực trạng trên. Một trong những
nguyên nhân là giá trị của rừng cũng như các hàng hóa mơi trường chưa được
nhận thức đầy đủ (đúng với giá trị thực: tổng giá trị kinh tế). Phần giá trị phi

sử dụng thường bị hạ thấp hay bị bỏ qua hồn tồn. Chúng thường khơng
được đo lường, lượng giá hoặc chỉ mang tính định tính. Vì thế, tài ngun
rừng đã bị khai thác sử dụng một cách không hiệu quả.
Năm 2003, Chính phủ đã quyết định thành lập Vườn Quốc gia Nam Cát
Tiên với tổng diện tích trên 70.000 ha nằm trên ba tỉnh Đồng Nai, Lâm Đồng
và Bình Phước. Với chức năng, nhiệm vụ: i) Bảo tồn các hệ sinh thái rừng,
các vùng đất ngập nước quan trọng trong vườn; ii) Bảo tồn nguồn gien động
thực vật rừng quý hiếm, bảo tồn quần thể tê giác một sừng, quần thể voi và
các loài động thực vật quý hiếm khác; iii) Bảo vệ cảnh quan thiên nhiên, thực
hiện nghiên cứu khoa học, tuyên truyền giáo dục phục vụ công tác bảo tồn,
Vườn được Unesco công nhận là khu dự trữ sinh quyển thứ 411 của thế giới
[6].


2

Để góp phần làm sáng tỏ và nâng cao nhận thức của các chủ thể trong
xã hội về giá trị của rừng đối với đời sống kinh tế xã hội, đồng thời lượng hóa
được một phần giá trị sử dụng của Vườn Quốc gia Cát Tiên, qua đó đề xuất
một số giải pháp phù hợp trong việc tổ chức quản lý, bảo vệ, sử dụng và phát
triển Vườn Quốc gia Cát Tiên, tôi tiến hành nghiên cứu đề tài “ Bước đầu
nghiên cứu định giá giá trị giải trí của Vườn Quốc gia Cát Tiên bằng
phương pháp du lịch phí”.


3

Chương I
TỔNG QUAN VỀ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Cơ sở lý luận của phương pháp du lịch phí (tcm)

1.1.1. Chất lượng mơi trường
1.1.1.1. Khái niệm chất lượng mơi trường
Có thể hiểu chất lượng môi trường là sự kết hợp của các yếu tố hữu
hình, được tạo ra dưới tác động của tất cả những thành phần môi trường tự
nhiên và những hoạt động của con người, đem lại những hiệu quả nhất định
về mặt thẩm mỹ. Giá trị thẩm mỹ của cảnh quan là đối tượng để thưởng thức,
thư giãn và để khám phá - một nội dung rất quan trọng của hoạt động du lịch,
vốn được hiểu là hoạt động có mục đích cơ bản là "đáp ứng nhu cầu tham
quan, giải trí, nghỉ dưỡng” của con người.
Trong mối quan hệ với các thành phần môi trường khác, chất lượng mơi
trường mang tính chất phái sinh bởi nó được tạo thành từ các thành phần môi
trường liên quan. Tuy nhiên, chất lượng mơi trường có tính độc lập tương đối.
Sự độc lập tương đối này thể hiện ở chỗ chất lượng của cảnh quan môi trường
không được đánh giá theo chất lượng của các thành phần môi trường cơ bản
mà được đánh giá trên cơ sở cảm quan và chỉ căn cứ vào những yếu tố hữu
hình tác động lên giác quan của con người, được đánh giá ở sự hài hòa khả
năng tạo ấn tượng và tạo cảm xúc. Tác động từ những biến đổi của chất lượng
môi trường lên hoạt động du lịch thường mang tính trực tiếp, mạnh mẽ và
nhanh chóng. Do vậy, việc bảo vệ chất lượng môi trường cần được coi là một
trong những nội dung quan trọng của công tác bảo vệ môi trường du lịch.
Để bảo vệ hiệu quả chất lượng môi trường, cần nhận thức được đầy đủ
các yếu tố hình thành và tác động lên chất lượng môi trường. Chất lượng môi
trường trước hết được tạo thành bởi các yếu tố tự nhiên khơng cần có sự xếp


4

đặt của bàn tay con người như: các dạng địa hình, đất nước, cây cỏ, chim
mng, các hiện tượng thời tiết. Những yếu tố tác động luôn bao gồm yếu tố
thiên nhiên và yếu tố con người..

Với tư cách là sự kết hợp của toàn bộ những yếu tố hữu hình, bất kỳ
một hoạt động nào tại khu, tuyến điểm du lịch cũng có thể làm ảnh hưởng đến
chất lượng môi trường, bao gồm cả hoạt động du lịch và các hoạt động kinh
tế, dân sinh khác, đặc biệt là hoạt động xây dựng. Thậm chí trong một số
trường hợp, chính những hoạt động nhằm tạo cảnh quan nhân tạo lại làm mất
đi vẻ đẹp của cảnh quan tự nhiên và làm suy giảm tính hấp dẫn của khu, tuyến
hoặc điểm du lịch [4].
1.1.1.2. Giá trị kinh tế của chất lượng môi trường: Tổng giá trị kinh tế
Trong quá triǹ h phát triể n của con người, các phương thức trao đở i
hàng hóa được coi như những mốc đánh dấu cho từng giai đoa ̣n phát triển.
Nếu như ban đầu con người trao đổ i đơn giản bằ ng phương thức hàng – hàng
(tức là hàng hóa, dich
̣ vụ được trao đổ i với nhau theo phương pháp đổ i chác)
thì dầ n dàn tiề n tê ̣ đã trở thành vâ ̣t ngang giá cho mo ̣i trao đổ i hàng – tiền
hàng. Tuy nhiên phương thức trao đổi hàng hóa thơng qua tiề n tê ̣ vẫn đươ ̣c
xác đinh
̣ chủ yế u thông qua giá tri ̣của hàng hóa dich
̣ vu ̣.
William Petty (1623-1687), Adam Smith (1723-1790) và David
Ricardo (1772-1823) đều thống nhấ t phân biêṭ giá thi ̣ trường và giá tự nhiên.
Giá tự nhiên là giá tri ̣ nô ̣i sinh của hàng hóa. Giá thi ̣ trường dao đơ ̣ng nhưng
có khuynh hướng trở về với giá tự nhiên. Trên quan điể m này, việc quy đinh
̣
giá cả thị trường sẽ dần phải hướng theo giá tri ̣thực của hàng hóa dich
̣ vu ̣. Có
thể chứng minh quan điể m này theo quá trình hình thành khái niê ̣m về tổng
giá trị kinh tế của rừng.
Trước đây, khái niêm
̣ về tổ ng giá tri ̣ kinh tế của rừng (Total Economic
Value – TEV) đươ ̣c xem xét rấ t ha ̣n hep.

̣ Các nhà kinh tế thường có xu hướng


5

xem xét giá tri ̣ của rừng thông qua lươ ̣ng sản phẩ m hữu hình mà rừng đã ta ̣o
ra để phu ̣c vu ̣ cho nhu cầ u sản xuấ t và tiêu thu của con người. Tuy nhiên các
sản phẩ m có thể sử du ̣ng trực tiế p này chỉ thể hiêṇ đươ ̣c mô ̣t phầ n nhỏ trong
tổ ng giá tri ̣của rừng. Trong thực tế rừng đã ta ̣o ra mô ̣t lơ ̣i ích kinh tế vươ ̣t xa
giá tri ̣ của các sản phẩ m hữu hình đang đươ ̣c buôn bán chính thức trên thi ̣
trường [13].
Khái niê ̣m về tổng giá tri ̣ kinh tế (TEV) đươ ̣c đưa ra khoảng hơn mô ̣t
chục năm về trước (Pearce,1990). Từ đó đế n nay, khái niê ̣m này đã trở thành
một trong những khuôn khổ để xác đinh
̣ và phân loại các lơ ̣i ích của rừng.
Muốn xem xét tổ ng giá tri ̣ của rừng phải xem xét toàn bô ̣ giá tri ̣ của các
nguồn tài nguyên, các dòng dich
̣ vụ môi trường và các đă ̣c tính của toàn bô ̣ hê ̣
sinh thái như mô ̣t thể thố ng nhấ t [13].
Tiếp cận tổ ng giá tri ̣ kinh tế của mô ̣t khu rừng nói chung theo quan
điể m của kinh tế ho ̣c môi trường gồm hai giá tri ̣cơ bản: Giá tri ̣sử du ̣ng và giá
tri phi
sử du ̣ng.
̣
TEV đã được khái qt hố bằng cơng thức sau:
TEV = UV + NUV = (DUV + IUV + OV) + (BV + EXV)

(1.1)

TEV


UV

DUV

IUV

OV

BV

NUV
NUV
UV
UV

EXV

Hình 1.1: Sơ đồ TEV
Trong đó: - TEV (Total economic values) là tổng giá trị kinh tế.
- UV (Use values) là giá trị sử dụng.
- DUV (Direct use values) là giá trị sử dụng trực tiếp.
- IUV (Indirect use values) là giá trị sử dụng gián tiếp.


6

- OV (Option values) là giá trị tuỳ chọn.
- NUV (Nonuse values) là giá trị không sử dụng.
- BV (Bequest values) là giá trị tuỳ thuộc hay giá trị để lại.

- EXV (Existence values) là giá trị tồn tại.
Sự phân biệt đầu tiên và quan trọng nhất đó là giữa giá trị sử dụng và
giá trị không sử dụng.
* Giá tri ̣sử du ̣ng là những lợi ích thu đươ ̣c từ viê ̣c sử du ̣ng nguồ n tài
nguyên rừng. Đơi khi cũng có thể hiểu giá trị sử du ̣ng là giá tri ̣ các cá nhân
gắn với việc tiêu dùng mô ̣t cách trực tiếp hay gián tiế p các dich
̣ vụ do nguồ n
tài nguyên cung cấ p. Ví dụ, đố i với mô ̣t vườn quốc gia hay một khu rừng, con
người có thể thu lợi ích từ gỗ làm nhà, củi đốt; dùng cây cỏ làm thuố c, đi da ̣o
trong rừng, ngắ m nhiǹ các loài động thực vâ ̣t hoặc chiêm ngưỡng cảnh đe ̣p.
Giá tri ̣ sử du ̣ng hiǹ h thành từ viê ̣c thực sự sử du ̣ng tài sản môi trường, trên
thực tế nó bao gồ m:
- Giá tri ̣ sử dụng trực tiế p là các sản phẩ m hàng hóa, dich
̣ vu ̣ trực tiế p
cung cấ p mà chúng ta có thể tính đươ ̣c giá cả và khố i lươ ̣ng trên thị trường.
Cũng có quan điểm khác cho rằ ng giá tri ̣ sử dụng trực tiế p là các lơ ̣i ích nhâ ̣n
được từ viê ̣c sử du ̣ng trực tiế p tài sản và có thể đươ ̣c chia thành hai loa ̣i là sử
du ̣ng tiêu hao và không tiêu hao. Chẳng hạn, giá trị sử du ̣ng trực tiế p của rừng
gồm giá trị sử dụng tiêu hao như sản xuất gỗ, thực phẩ m và các lâm sản ngoài
gỗ khác; giá tri ̣ sử du ̣ng không tiêu hao bao gồm các hoa ̣t đô ̣ng giải trí, các
hiǹ h thái du lịch, thậm chí là giá dich
̣ vu ̣ môi trường của rừng.
- Giá dịch vụ môi trường hay giá trị sử dụng gián tiếp là những giá tri ̣
chủ yế u dựa trên chức năng của hê ̣ sinh thái, có ý nghiã về mặt sinh thái và
môi trường. Nói cách khác đây là các chức năng cơ bản của môi trường, gián
tiếp hỗ trợ cho hoạt đô ̣ng kinh tế của con người. Chẳ ng ha ̣n, khả năng chống
gió baõ , khả năng hấp thụ các bon là giá dich
̣ vu ̣ môi trường của rừng.



7

- Giá tri ̣ tùy chọn là lượng mà mỗi cá nhân sẵn sàng chi trả để bảo toàn
nguồn lực hoặc một phần nguồ n lực để sử du ̣ng cho tương lai. Đây là giá tri ̣
có được từ nhận thức, lựa cho ̣n của con người đă ̣t ra trong hê ̣ sinh thái. Giá tri ̣
tùy chọn khơng có tính thống nhất chung và cũng phải đươ ̣c tính về mă ̣t tiề n
tệ theo tính chất lựa cho ̣n của nó. Tuy nhiên, trong mô ̣t số trường hơ ̣p ranh
giới giữa giá tri tu
sử du ̣ng là không rõ ràng.
̣ ̀ y cho ̣n và giá tri phi
̣
* Giá tri phi
sử du ̣ng còn go ̣i là giá tri ̣không sử du ̣ng hoă ̣c giá tri ̣chưa
̣
sử du ̣ng và thường trừu tươ ̣ng hơn giá tri sư
̣ ̉ du ̣ng.
- Giá trị lựa chọn: Mỗi cá nhân có thể tự đánh giá cách lựa chọn để sử
dụng môi trường hay tài nguyên môi trường trong tương lai. Giá trị lựa chọn
là giá trị của mơi trường như là lợi ích tiềm tàng trong tương lai khi nó trở
thành giá trị thực sử dụng. Giá trị lựa chọn cịn có thể bao gồm cả giá trị sử
dụng của những người khác (nghĩa là lợi ích gián tiếp mà bạn thu được từ giá
trị sử dụng của những người khác. Bạn cảm thấy hài lòng khi thấy những
người khác cũng thu được những lợi ích nên bạn sẵn sàng chi trả cho việc bảo
vệ môi trường để đem lại lợi ích cho người khác) và giá trị sử dụng bởi các
thế hệ tương lai (giá trị truyền lại là sự sẵn lòng chi trả để bảo vệ mơi trường
để đem lại lợi ích cho con cháu của chúng ta).
- Giá trị tồn tại: Các tài ngun mơi trường đều có giá trị thực nội tại
của chính bản thân chúng. Giá trị này khơng liên quan đến việc sử dụng nên
được gọi là giá trị phi sử dụng. Giá trị sử dụng là những vấn đề đạo đức như
sự xuống cấp của môi trường, sự cảm thơng đối với các lồi sinh vật. Ví dụ

như mỗi cá nhân đều cảm thấy hài lòng với việc bảo vệ các cá thể cịn lại của
một số lồi như loài cú đốm hay loài cá voi xanh lưng gù. Hầu như tất cả mọi
người đều coi trọng sự tồn tại của các loài này hơn là chỉ đơn giản thích thú
ngắm nhìn chúng. Họ đánh giá cao sự tồn tại của chính các lồi vật này.


8

Thực tế cũng cho thấy, giá tri ̣ của rừng là rấ t khác nhau tùy thuô ̣c vào
từng loại rừng và điề u kiêṇ cu ̣ thể . Trong những năm qua, nhiề u nghiên cứu
đã tâ ̣p trung xác định giá tri ̣của rừng trên nhiề u khía ca ̣nh khác nhau.
Các nhà khoa ho ̣c Trung Quố c đã khẳ ng đinh
̣ vai trò của rừng trong
việc giữ đấ t và nước lớn hơn rấ t nhiề u so với giá tri ̣ kinh tế trực tiế p mà nó
mang lại. Trần Huệ Tuyền và Trầ n Văn Đa ̣i (1993) đã nghiên cứu khả năng
giữ nước của rừng đầ u nguồn hồ Tùng Hoa – Côn Minh (Trung Quố c) cho
thấy diện tích rừng đầ u nguồ n 60.000 ha, với đô ̣ tán che 30% hàng năm giữ
đươ ̣c khoảng 8,3 triêụ m3 nước.
Nghiên cứu về đầ u nguồn ở lưu vực sông Vân Nam – Trung Quố c liên
quan đế n khả năng giữ đấ t, nước và phân bón của rừng cho thấy giá tri ̣này là
chiếm khoảng 4.450,5 NDT (khoảng 10.236.150 VND, tỷ giá 1NDT= 2.300
VND) chiếm 87, 9% trong khi đó giá tri ̣trực tiế p (than củi, gỗ) là 528,5 NDT
(khoảng 1.215.550 VND) chiế m khoảng 12,1%
FAO (1995) cũng cho rằng rừng có tác dụng rấ t quan tro ̣ng trong viê ̣c
điều tiết dòng chảy, giảm lưu lươ ̣ng nước mă ̣t, góp phầ n làm giảm lũ lu ̣t. Tuy
nhiên, cần phải nhấ n mạnh rằ ng, lũ lu ̣t là mô ̣t hiê ̣n tươ ̣ng tự nhiên mà trong đó
những dòng sông xả nước thừa sau những trâ ̣n mưa lớn [14].
Đối với những lưu vực nhỏ, người ta thấ y rõ rằ ng độ che phủ của rừng
có thể làm giảm thiểu lươ ̣ng nước lũ chảy xuố ng ha ̣ lưu. Đố i với những trâ ̣n lũ
có sức tàn phá lớn thì dường như chưa có cơ sở để xem xét sự liên quan của

chúng đến mất rừng – trong những điề u kiêṇ khí hâ ̣u đó, đă ̣c biê ̣t là tổ ng
lượng mưa năm và tầ n suất xuấ t hiêṇ của những trâ ̣n baõ lớn là những nhân tố
rấ t quan tro ̣ng.
Giá tri ̣ của rừng trong ha ̣n chế xói mòn là rấ t đáng kể . Xói mòn đấ t ở
nơi phá rừng để canh tác nương dẫy cao hơn gấ p 10 lầ n so với những khu vực
có rừng tự nhiên. Song song với quá triǹ h xói mòn là sự tích tu ̣ chấ t lắ ng đo ̣ng


9

ta ̣i các vùng lòng chảo gây ra thiêṭ ha ̣i cho các công trình thủy lơ ̣i, ước tiń h
khoảng 4USD/ha/năm (Cruz et al, 1988) và các hồ nhân ta ̣o ước tính lên tới 6
tỷ USD/ năm (Mahmood, 1987). Trong khi đó nế u đươ ̣c rừng bảo vê ̣, lơ ̣i ích
về chố ng xói mòn, rửa trôi, kiể m soát dòng chảy có thể lên tới 80
USD/ha/năm.
Ở mô ̣t số khu vực đặc trưng chẳ ng ha ̣n như ở những vùng cát bay, rừng
có tác dụng như một “bức tường chắ n” rấ t hiê ̣u quả cho viêc̣ phòng hô ̣ và cải
thiện điều kiện canh tác. Mô ̣t đai rừng có bề rô ̣ng 100m có khả năng cố đinh
̣
104 – 223 m3 cát. Theo Zheng Haishui (1996), ở khoảng cách 5- 25 lầ n chiề u
cao đai rừng, tố c đô ̣ gió giảm 25 – 40%, vùng có hiệu quả phòng hô ̣ nhất là
khoảng cách bằng 5 lần chiề u cao, tớ c đơ ̣ gió giảm 46 – 69 %. Thêm vào đó
tiể u khí hâ ̣u được cải thiê ̣n như nhiệt đô ̣ tăng 0,3 – 1,50 C vào mùa đông và
giảm 1 – 20 C vào mùa hè, lươ ̣ng bố c hơi giảm từ 10 – 30% [20].
Với sự ra đời của Nghi ̣ đinh
̣ thư Kyoto, vai trò của rừng trong viê ̣c hấ p
thu ̣ khí các bon níc (CO2) đã được khẳng đinh.
̣ Mơ ̣t khu rừng ngun sinh có
thể hấ p thu đươ ̣c 280 tấ n các bon/ha và sẽ giải phóng 200 tấ n các bon nế u bi ̣
chuyể n thành đấ t du canh du cư và sẽ giải phóng nhiề u hơn mô ̣t chút nế u

được chuyển thành đồng cỏ hay đấ t nông nghiệp. Rừng trồ ng có thể hấ p thu ̣
khoảng 15 tấn các bon và con số này sẽ giảm từ 1/3 đế n ¼ khi rừng bi ̣chuyể n
đổi sang canh tác nông nghiêp̣ [18]
Theo Camille Bann và Bruce Aylward (1994) giá tri ̣ hấp thu ̣ CO2 của
các khu rừng tự nhiên nhiệt đới khoảng từ 500 – 2.000 USD/ha và giá tri ̣ này
với rừng ôn đới đươ ̣c ước tính từ 100 – 300 USD/ha (Zhang, 2000). Giá tri ̣
kinh tế về hấ p thu ̣ CO2 ở rừng Amazon được ước tính là 1.625 USD/ha/năm,
trong đó rừng nguyên sinh là 4.000 – 4.400 USD/ha/năm, rừng thứ sinh là
1.000 – 3.000 USD/ha/năm và rừng thưa là từ 600 – 1.000 USD/ha/năm.[11]


10

Ngoài các giá trị nêu trên, giá tri ̣ cảnh quan, giải trí của rừng cũng rất
lớn. Tính tốn giá tri ̣du lich,
̣ giải trí hàng năm ở Trung Quố c cho thấy giá tri ̣
này là khoảng 220,9 – 10.564,4 NDT/ha (tương đương 27,6 – 1.320 USD/ha).
Trong năm 1996, người Bristish Clumbia chi tiêu khoảng 1,9 tỷ USD cho các
hoạt động du lịch sinh thái, đóng góp cho ngành thuế của điạ phương là 116
triệu USD (Canada Environment, 1996). Cơ chế chi trả cho dich
̣ vụ giải trí và
du lịch ở Châu Âu và Bắ c Mỹ đươ ̣c xác đinh
̣ theo mức “Bằ ng lòng chi trả –
WTP (Willingness to pay) với mức giá từ 1 – 3 USD/người/lầ n (David W.
Pearce và Corin G T Pearce,2001). Liên quan đến giá trị này Elsser (1999)
cho rằ ng giá tri ̣du lịch giải trí của rừng ở Đức đươ ̣c xác đinh
̣ là khoảng 2,2 tỷ
USD/năm.[13]
Như vậy có thể thấy giá tri ̣ của rừng là rấ t lớn, đă ̣c biêṭ là giá tri ̣ môi
trường và dịch vụ môi trường của rừng. Giá tri ̣ môi trường và dich

̣ vu ̣ môi
trường của rừng ngày càng được thừa nhâ ̣n mô ̣t cách rõ ràng hơn. Cơ cấ u giá
trị môi trường của rừng là: Hấ p thu ̣ các bon chiế m 27%; Bảo tồ n ĐDSH
chiếm 25%; Bảo vê ̣ đầ u nguồn chiế m 21%; Vẻ đe ̣p cảnh quan chiế m 17% và
giá tri ̣khác chiế m 10% (Natasa Land – Mill, 2002). Các nhà khoa ho ̣c đã ước
lượng giá tri ̣dich
̣ vụ do hê ̣ sinh thái rừng mang la ̣i trên toàn trái đấ t là khoảng
33.000 tỷ USD/năm [25]
Với các giá tri ̣ to lớn của rừng về dich
̣ vu ̣ môi trường, nhiề u quố c gia
đã tiế n hành nghiên cứu và tiế n hành xây dựng cơ chế chi trả cho dich
̣ vu ̣ môi
trường (Payment for Environment Services – PES) nhằ m quản lý bề n vững
các dich
̣ vu ̣ môi trường rừng. Trong những năm gầ n đây, nhâ ̣n thức về vai trò
của rừng trong viêc̣ bảo vê ̣ môi trường đã có thay đổ i đáng kể . Các sự cố môi
trường như lũ lu ̣t, ha ̣n hán, ấ m lên của trái đấ t, …. Có xu hướng gia tăng và
đươ ̣c xem là hâ ̣u quả của viêc̣ chă ̣t phá rừng. Nhằ m đảm bảo dich
̣ vu ̣ môi
trường do rừng đem la ̣i, tổ chức Nông lâm quố c tế (ICRAF) đã hình thành


11

chương trin
̀ h mang tên “Hỗ trơ ̣ nông dân vùng cao trong viê ̣c bảo vê ̣ và duy
trì các dich
̣ vu ̣ môi trường của rừng” (Rewarding Upland Poor for
Environmental Services – RUPES), RUPES đươ ̣c khởi xướng vào tháng
1/2002. Mu ̣c tiêu của RUPES là thử nghiêm

̣ các phương pháp về chi trả cho
dich
̣ vu ̣ môi trường và hiǹ h thành thể chế và cơ chế cho viê ̣c hỗ trơ ̣. Hiê ̣n nay
Philippine và Indonesia đã bắ t đầ u các hoa ̣t đô ̣ng về RUPES ở các “điể m
nghiên cứu hành đô ̣ng”.[17]
1.1.2. Vấn đề định giá môi trường
1.1.2.1. Sự cần thiết phải định giá môi trường
Định giá môi trường là sử dụng các loại cơng cụ kỹ thuật nhằm lượng
hố giá trị bằng tiền của hàng hố chất lượng mơi trường làm cơ sở cho việc
hoạch định các chính sách về khai thác, sử dụng và quản lý các hàng hoá mơi
trường.
Chúng ta nên định giá mơi trường vì:
Thứ nhất, chất lượng môi trường cung cấp điều kiện và không gian
sống cho con người, đồng thời cũng cung cấp tài nguyên cho quá trình sản
xuất vật chất và hấp thụ chất thải trong quá trình sản xuất và tiêu dùng của
con người. Quá trình lao động sản xuất của con người cũng phục hồi mơi
trường, vì thế có thể khẳng định chất lượng mơi trường thỏa mãn 2 thuộc tính
là giá trị và giá trị sử dụng. Chất lượng môi trường cũng là loại hàng hóa cần
phải định giá để tránh những thất bại thị trường xảy ra.
Thứ hai, con người có xu hướng khai thác mơi trường một cách tràn lan
mà không để ý đến những tác động tiêu cực tới môi trường. Thực hiện định
giá môi trường là cách nhắc nhở con người quan tâm và bảo vệ môi trường.
Đồng thời, cảnh báo con người về mức độ khai thác tài nguyên đang ngày
càng tăng cao tỉ lệ thuận với độ cạn kiệt về môi trường.


12

Thứ ba, định giá mơi trường góp phần đưa đến sự cơng bằng trong q
trình ra quyết định. Định giá góp phần thực hiện ngun tắc “người gây ơ

nhiễm trả tiền” tức là qua định giá môi trường chúng ta sẽ xác định được đối
tượng gây ô nhiễm và họ sẽ “phải trả bao nhiêu”.
Thứ tư, khi cả giá trị sử dụng và giá trị không sử dụng được lượng hố,
thì sẽ có tính thuyết phục cao trong việc giáo dục nâng cao nhận thức của
người dân nói chung cũng như có thể chỉ dẫn q trình thực hiện về mặt kinh
tế đúng đắn hơn.
Thứ năm, nếu tiến hành lượng hố một cách cẩn thận thì sẽ tạo ra được
một nền tảng cơ sở chính sách an tồn và hợp lý, qua đó có phương cách sử
dụng mơi trường cẩn thận hơn.
Như vậy, có thể kết luận việc định giá mơi trường là hồn tồn cần thiết
và đúng đắn.
1.1.2.2. Phương pháp định giá môi trường rừng
Những thống kê về giá tri ̣ của rừng ở phần trên cho thấy rừng có khả
năng cung cấ p những sản phẩm rấ t đặc biêt.̣ Vì vâ ̣y viêc̣ đinh
̣ giá rừng không
thể dựa vào các cách đinh
̣ giá tài sản thông thường. Các phương pháp ước
lượng giá tri ̣phi gỗ và phi thi ̣trường của rừng đươ ̣c phát triể n rấ t đa da ̣ng, cả
về lý thuyế t và mức đô ̣ chấ p nhận của các nhà kinh tế , cả về yêu cầ u số liêụ
đầu vào cũng như việc thuận tiê ̣n sử du ̣ng chúng trong thực tiễn (Munasinghe
và Lutz 1993) [7] Sau đây là một số nhóm phương pháp được áp dụng khá
phổ biến:
(1). Phương pháp giá thi ̣ trường (Market price valuation), bao gồ m
phương pháp ước lượng giá tri ̣ sản xuấ t hàng hóa tự cung tự cấ p và hàng tiêu
dùng.


13

Phương pháp giá thị trường sử dụng số liệu và thông tin điều tra từ

người sản xuất và tiêu dùng sau khi đã điều chỉnh theo mùa, giá trị gia tăng và
các ảnh hưởng của chính sách cơng.
Đây là phương pháp định giá đơn giản nhấ t. Rấ t nhiề u hàng hóa dich
̣ vu ̣
xuất phát từ rừng nhiệt đới được kinh doanh bao gồ m sản phẩ m từ gỗ (gỗ, bô ̣t
giấ y và nhiên liê ̣u), sản phẩm phi gỗ (thức ăn, cây thuố c, đồ dùng), sản phẩ m
trồng trọt, chăn nuôi và thú hoang dã (thit,̣ cá) và nghỉ mát. Đối với những sản
phẩm được kinh doanh trên thi ̣trường thì giá của chúng trên thi ̣trường có thể
sử du ̣ng để tính toán lợi ích tài chính giữa chi phí và thu nhâ ̣p của các phương
án sử du ̣ng đất rừng. Trong mô ̣t số trường hợp, có thể cầ n thiế t phải điề u
chỉnh giá cả thị trường để khắc phu ̣c những khó khăn thi ̣ trường và thiế u sót
trong chính sách. Khi sử du ̣ng giá cả thi ̣ trường cho mu ̣c đích đinh
̣ giá tài
chính thì mơ ̣t điề u rấ t quan trọng là phải xác đinh
̣ giá cả thi ̣trường hơ ̣p lý cho
các loaij hàng hóa và dich
̣ vu ̣ khác nhau trên cơ sở lựa chọn sử du ̣ng đấ t rừng.
(2). Phương pháp thi ̣ trường thay thế (Surrogate market approaches),
Phương pháp thị trường thay thế sử dụng thông tin về hàng hóa được
tiêu dùng để suy ra giá trị của hàng hóa phi thị trường liên quan. Nhóm
phương pháp này bao gồm Phương pháp du lịch phí (TCM), phương pháp giá
hưởng thụ Hedomic và phương pháp dùng hàng hóa thay thế;
Phương pháp du lịch phí (TCM) thường sử dụng để ước lượng nhu
cầu giải trí của rừng tại một điểm cụ thể dựa trên quan hệ với số liệu điều tra
về chi phí trực tiếp như tầu xe và nhà nghỉ và cả chi phí cơ hội của thời gian
bỏ ra để đi du lịch được tính dựa trên một phần đơn giá tiền lương trung bình..
Phương pháp xác đinh
̣ dựa trên những cuộc điề u tra như thế này đươ ̣c sử du ̣ng
khá rô ̣ng raĩ ta ̣i các nước đang phát triể n, cu ̣ thể là ở những nơi có thu nhâ ̣p
cao hơn và phát triể n thi ̣ trường ma ̣nh me,̃ gắ n liề n với nhu cầ u hưởng thu ̣ du

lich,
̣ nghỉ ngơi và ngắ m cảnh.


14

Phương pháp định giá hưởng thụ (Hedonic pricing) là những nỗ lực
tách rời những tác đô ̣ng đặc biêṭ có lợi và những rủi ro môi trường không ảnh
hưởng đến giá cả thi ̣trường hoă ̣c dich
̣ vụ. Những ứng du ̣ng phổ biế n nhất của
phương pháp này là tiế p câ ̣n đinh
̣ giá tài sản và phân cấ p mức thu nhâ ̣p, nó
được dùng để đinh
̣ giá chấ t lươ ̣ng môi trường. Đinh
̣ giá Hedonic dựa trên giả
thuyết là giá thi ̣trường của đấ t đai hoă ̣c lao động có liên quan đế n laĩ ròng có
thể nhận đươ ̣c từ chính chúng. Lãi rịng phu ̣ th ̣c vào nhiề u ́ u tớ , trong đó
có chất lượng mơi trường. Vì vâ ̣y giá tri ̣của môi trường có thể ảnh hưởng đế n
thị trường đấ t đai hoặc thi ̣ trường lao đô ̣ng. Ứng du ̣ng phương pháp đinh
̣ giá
Hedonic để xác định giá trị tài sản là dựa trên quan sát mô ̣t cách hê ̣ thố ng về
giá trị tài sản ở các vi ̣ trí khác nhau và tính chất tách dời của chúng đố i với
những ảnh hưởng của chấ t lượng môi trường. Phương pháp định giá Hedonic
yêu cầ u rấ t nhiề u loa ̣i số liê ̣u để tính toán nhằ m loa ̣i bỏ tấ t cả các yế u tố có
ảnh hưởng đến giá cả thi ̣ trường. Phương pháp này giả thuyế t rằ ng thi ̣ trường
đấ t đai bi ̣ ca ̣nh tranh, đồng thời cả người mua và người bán đề u có thông tin
đầ y đủ về môi trường, cả mă ̣t tố t và mă ̣t xấ u.
Phương pháp hàng hóa thay thế : Sử dụng giá thị truongf của hàng
hóa thay thế để do lường lợi ích /chi phí phi thị trường.
Phương pháp hàng hóa thay thế áp du ̣ng đố i với loa ̣i tài nguyên rừng

không được kinh doanh trên thị trường hoă ̣c do người khai thác sử du ̣ng trực
tiếp (ví du ̣ như củi), giá trị của nó có thể đươ ̣c xác đinh
̣ theo giá thi trươ
̣
̀ ng của
những hàng hóa tương tự (ví du ̣ như củi đươ ̣c bán ở vùng khác) hoă ̣c giá cả
của những mặt hàng thay thế tốt nhấ t (ví dụ như than hầ m). Mức đô ̣ của
những mặt hàng được kinh doanh trên thi ̣ trường phản ánh giá tri ̣ của những
mă ̣t hàng không đươ ̣c kinh doanh trên thi trường
phu ̣ thuô ̣c vào mức đô ̣ tương
̣
đồ ng của loại mă ̣t hàng thay thế .


15

Như vậy, nếu có hai loại mặt hàng có thể thay thế rấ t tốt cho nhau thì có
nghĩa là giá trị kinh tế của chúng là tương đương. Nế u mức đơ ̣ và khả năng
thay thế giảm thì liệu giá tri ̣của mă ̣t hàng đươ ̣c kinh doanh có thể lấ y làm chỉ
tiêu định giá của mă ̣t hàng không đươ ̣c kinh doanh trên thi ̣trường hay không?
Phương pháp tiế p câ ̣n thay thế đươ ̣c sử du ̣ng để đinh
̣ giá lơ ̣i ích của rừng ta ̣i
các nước đang phát triể n và trọng tâm là đinh
̣ giá lâm sản ngoài gỗ. Adger và
cộng sự (1995); Gnatilake và cộng sự (1993) sử du ̣ng kỹ thuâ ̣t bổ sung số liê ̣u
giá cả thị trường để đánh giá lâm sản ngoài gỗ ta ̣i Mexico và Sri Lanka.
Chopra (1993) sử du ̣ng phương pháp này để phân tích chi phí lao đô ̣ng và
định giá gỗ củi trong nghiên cứu điể m ta ̣i Ấn Độ. Ngoài ra không tìm thấ y ví
dụ về việc sử dụng phương pháp hàng hóa thay thế để ước tính giá tri ̣ rừng
nào khác.

(3). Phương pháp hàm sản xuấ t (Production approaches); tập trung
vào mối quan hệ lý – sinh giữa mức độ (hay chất lượng) của lợi ích phi thị
trường và mức độ (hay chất lượng) đầu ra của một hàng hóa hay dịch vụ nào
đó.
Loa ̣i phương pháp đinh
̣ giá này đươ ̣c go ̣i theo các cách khác nhau là kỹ
thuâ ̣t thay đổ i trong sản xuấ t hoă ̣c là đầ u vào – đầ u ra, hoă ̣c liề u dùng – phản
ứng hoă ̣c là chức năng sản xuấ t (tên go ̣i cuố i cùng đươ ̣c sử du ̣ng trong phầ n
này). Bấ t kể tên go ̣i gì thì phương pháp đó cũng nhằ m xác đinh
̣ mố i liên quan
giữa sự thinh
̣ vươ ̣ng của cuô ̣c số ng con người (hoă ̣c ha ̣n hep̣ hơn đó là sự
nâng cao thành quả các hoa ̣t đô ̣ng thi ̣ trường hàng hóa và dich
̣ vu ̣) với những
thay đổ i có thể đo đế m đươ ̣c cả về số lươ ̣ng và chấ t lươ ̣ng của tài nguyên
thiên nhiên (Maler, 1992). Phương pháp tiế p câ ̣n chức năng sản xuấ t có thể
dùng để ước lươ ̣ng những giá dich
̣ vu ̣ môi trường chức năng sinh thái của
rừng, thông qua sự đóng góp của chúng vào các hoa ̣t đô ̣ng thi ̣trường. Sự tiế p
câ ̣n này chin
́ h là phương pháp tiế p câ ̣n chức năng sản xuấ t vì có rấ t nhiề u


16

nhừng nghiên cứu ước tính tác đô ̣ng của chúng vào sản xuấ t. Tuy nhiên sự
tiế p câ ̣n như vâ ̣y có thể dùng để ước lươ ̣ng trực tiế p sự giảm mức tiêu thu ̣, ví
du ̣ như sự lắ ng bùn ở baĩ tắ m.
(4). Phương pháp bày tỏ sở thích (Stated preferences approaches), chủ
yế u là phương pháp định giá ngẫu nhiên (CVM).

CVM sử dụng những thông tin điều tra từ người tiêu dùng để làm rõ
mức tự nguyện (bàng lòng) chi trả cá nhân mang tính giả định cho met lợi ích
nào đó hoặc mức tự nguyện (bằng lòng ) chấp nhận đền bù phần lợi ích bị
mất.
Các phương pháp giá thị trường và hàm sản xuất đề u dựa vào viê ̣c sử
dụng giá cả thị trường (sở thích thinh
̣ hành) để đinh
̣ giá giá tri ̣lâm sản và dich
̣
vụ. Một sự lựa chọn khác là tham vấ n người tiêu dùng cho ý kiế n trực tiế p về
sử thích của họ trong khiá cạnh thị trường hoă ̣c chi trả giả định. Trong sự tiế p
cận này, thông tin về giá trị lơ ̣i ích mơi trường đươ ̣c thu thâ ̣p thông qua viê ̣c
đưa ra những câu hỏi trực tiếp cho người tiêu dùng về thiê ̣n chí chi trả hoă ̣c
thiêṇ chí chấp nhận đền bù bằ ng tiề n mă ̣t do sự suy giảm giá tri ̣ lơ ̣i ích. Một
trong những kỹ thuật xác đinh
̣ sở thích đươ ̣c phát triể n và sử du ̣ng rô ̣ng raĩ là
phưng pháp đinh
̣ giá ngẫu nhiên (CV hoă ̣c CVM). Mô ̣t phương pháp nữa
cũng đươ ̣c sử du ̣ng nhưng ít phổ biến hơn, đó là cho ̣n thực nghiê ̣m và phương
pháp cùng tham gia hoă ̣c sự tiếp câ ̣n theo “nhóm tro ̣ng tâm” để suy ra những
sử thích chung.
Đinh
̣ giá ngẫu nhiên (CV) luâ ̣n ra sự biể u thi ̣ giá tri ̣ tăng lên hoă ̣c giảm
đi mang tính cá nhân từ những người hưởng ứng về số lươ ̣ng và chấ t lươ ̣ng
của hàng hóa phi thi ̣ trường. Phầ n lớn các CV sử du ̣ng số liê ̣u thu thâ ̣p đươ ̣c
thông qua phỏng vấ n hoă ̣c khảo sát thông qua bưu điêṇ (Mitchell và Carson,
1989). Đinh
̣ giá bằ ng phương pháp CVM là ngẫu nhiên vì giá tri ̣ ước tính



17

đươ ̣c rút ra từ những hoàn cảnh mang tính giả thuyế t và do nhà nghiên cứu
thực hiê ̣n.
Người đề xuấ t CVM (Carson, 1991) biêṇ luâ ̣n rằ ng cơ sở lý luâ ̣n của nó
chặt chẽ hơn so với các phương pháp khác, vì nó tính toán trực tiế p sự thinh
̣
vượng dựa trên mức sẵn lòng chi trả (WTP) hoă ̣c sẵn lòng chấ p nhâ ̣n (WTA)
đích thực. Hơn nữa, CV là phương pháp chỉ đươ ̣c chấ p nhâ ̣n để ước tính
những giá trị không sử du ̣ng mà nó không được kinh doanh trên thi ̣trường và
cũng khơng có hàng hóa nào để thay thế hoă ̣c bổ sung đươ ̣c cho chúng.
(5). Phương pháp dùng chi phí (Cost – based approaches) bao gồ m chi
phí thay thế và những chi phí bảo quản.
Phương pháp dùng chi phí: dử dụng chi phí cung cấp hay thay thế met
hàng hóa/ dịch vụ như là thước đo gần đúng lợi ích của nó.
Để bở sung vào phương pháp ước tính WTP và WTA cho lơ ̣i ích phi thi ̣
trường của rừng được miêu tả bên trên, một số phương pháp tiế p câ ̣n khác
dựa vào chi phí có thể cũng được sử du ̣ng và tỏ ra hiêụ quả trên khía ca ̣nh duy
trì những lợi ích phi thi ̣trường của rừng, hoă ̣c lâ ̣p mố i cân bằ ng với giá tri ̣thi ̣
trường. Ba phương pháp lựa cho ̣n tâ ̣p trung vào viê ̣c cung cấ p, bảo dưỡng
hoặc khôi phục các giá tri ̣ dich
̣ vu ̣ môi trường. Nô ̣i dung chi tiế t về phương
pháp đinh
̣ giá dựa vào chi phí có thể xem thêm trong Dixon và cộng sự
(1994). Phương pháp chung nhấ t là:
* Phương pháp chi phí thay thế, có thể tính giá tri ̣môi trường thông qua
việc xác định những chi phí để khôi phu ̣c lại mức lơ ̣i ích ban đầ u.
* Phương pháp chi phí phòng ngừa, có thể ước tiń h chi phí phòng ngừa
hoă ̣c bảo vê ̣ sự xuố ng cấ p của môi trường;
* Sự tiếp cận chi phí cơ hơ ̣i, có sử dụng chi phí sản xuấ t ước tính như là

sự thay thế gầ n đúng giá tri ̣lơ ̣i ić h phi thi ̣trường.
(6). Tiế p cận theo thu nhập hoặc chi phí


18

Một trong các phương pháp sử dụng khá phổ biế n hiêṇ nay là phương
pháp thu nhập (income method) trong đinh
̣ giá tài sản (ví du ̣ giá đấ t, tài sản
khác) của doanh nghiê ̣p.
Mô ̣t phương pháp đươ ̣c sử dụng khá nhiều trong đinh
̣ giá là phương
pháp chi phí (Cost method). Phương pháp này dựa tên chi phí đầ u tư và quy
đổ i giá tri đầ
̣ u tư theo tỷ lê ̣ laĩ xuấ t xác đinh.
̣
Ngoài ra, phương pháp so sánh (Strauss, A 1987) cũng đươ ̣c sử du ̣ng để
đinh
̣ giá tài sản và các giá tri ̣hàng hóa.
1.2. Tổng quan về du lịch và các ứng dụng phương pháp tcm
1.2.1. Tổng quan về du lịch
Ngày nay, du lịch đã thực sự trở thành một hiện tượng kinh tế xã hội
phổ biến không chỉ ở các nước phát triển mà còn ở các nước đang phát triển
trong đó có Việt Nam. Tuy nhiên, cho đến nay không chỉ ở nước ta nhận thức
về nội dung du lịch vẫn chưa thống nhất. Do hoàn cảnh (thời gian, khu vực)
khác nhau, dưới mỗi góc độ nghiên cứu khác nhau mỗi người có một cách
hiểu về du lịch khác nhau. Đúng như một chuyên gia du lịch nhận định: “Đối
với du lịch có bao nhiêu tác giả nghiên cứu thì có bấy nhiêu định nghĩa”
Ở nước Anh, du lịch xuất phát từ tiếng “To Tour” có nghĩa là cuộc dạo
chơi. Tiếng Pháp, từ du lịch bắt nguồn từ Le Tour có nghĩa là cuộc dạo chơi,

dã ngoại, … Theo nhà sử học Trần Quốc Vượng, Du lịch được hiểu như sau:
Du có nghĩa là đi chơi, Lịch là lịch lãm, từng trải, hiểu biết, như vây du lịch
được hiểu là việc đi chơi nhằm tăng thêm kiến thức.
Như vậy, có nhiều khái niệm Du lịch nhưng tổng hợp lại ta thấy du lịch
hàm chứa các yếu tố cơ bản sau:
- Du lịch là một hiện tượng kinh tế xã hội.
- Du lịch là sự di chuyển và tạm thời lưu trú ngoài nơi ở thường xuyên
của các cá nhân hoặc tập thể nhằm thoả mãn các nhu cầu đa dạng của họ.


19

- Du lịch là tập hợp các hoạt động kinh doanh phong phú và đa dạng
nhằm phục vụ cho các cuộc hành trình, lưu trú tạm thời và các nhu cầu khác
của cá nhân hoặc tập thể khi họ ở ngoài nơi cư trú thường xuyên của họ.
- Các cuộc hành trình, lưu trú tạm thời của cá nhân hoặc tập thể đó đều
đồng thời có một số mục đích nhất định, trong đó có mục đích hồ bình.
Năm 1963, với mục đích quốc tế hố, tại Hội nghị Liên hợp quốc về du
lịch họp ở Roma, các chuyên gia đã đưa ra định nghĩa về du lịch như sau: Du
lịch là tổng hợp các mối quan hệ, hiện tượng và các hoạt động kinh tế bắt
nguồn từ các cuộc hành trình và lưu trú của cá nhân hay tập thể ở bên ngoài
nơi ở thường xuyên của họ hay ngồi nước họ với mục đích hồ bình. Nơi họ
đến lưu trú không phải là nơi làm việc của họ.
Khác với quan điểm trên, các học giả biên soạn Từ điển Bách Khoa
toàn thư Việt Nam (1966) đã tách hai nội dung cơ bản của du lịch thành hai
phần riêng biệt.
Nghĩa thứ nhất (đứng trên góc độ mục đích của chuyến đi): Du lịch là
một dạng nghỉ dưỡng sức tham quan tích cực của con người ngồi nơi cư trú
với mục đích: nghỉ ngơi, giải trí, xem danh lam thắng cảnh, di tích lịch sử,
cơng trình văn hố, nghệ thuật, …

Nghĩa thứ hai (đứng trên góc độ kinh tế): Du lịch là một ngành kinh
doanh tổng hợp có hiệu quả cao về nhiều mặt: nâng cao hiểu biết về thiên
nhiên, truyền thống lịch sử và văn hoá dân tộc, từ đó góp phần tăng thêm tình
u đất nước; đối với người nước ngồi là tình hữu nghị với dân tộc mình; về
mặt kinh tế, du lịch là lĩnh vực kinh doanh mang lại hiệu quả rất lớn: có thể
coi là hình thức xuất khẩu hàng hố và dịch vụ tại chỗ.
Việc phân định rõ ràng hai nội dung cơ bản của khái niệm có ý nghĩa
góp phần thúc đẩy sự phát triển du lịch. Cho đến nay, khơng ít người, thậm
chí ngay cả các cán bộ, nhân viên đang làm việc trong ngành du lịch, chỉ cho


20

rằng du lịch là một ngành kinh tế. Do đó, mục tiêu được quan tâm hàng đầu là
mang lại hiệu quả kinh tế. Điều đó cũng có thể đồng nghĩa với việc tận dụng
triệt để mọi nguồn tài nguyên, mọi cơ hội để kinh doanh. Trong khi đó, du
lịch cịn là một hiện tượng xã hội, nó góp phần nâng cao dân trí, phục hồi sức
khoẻ cộng đồng, giáo dục lịng u nước, tính đồn kết, … Chính vì vậy, tồn
xã hội phải có trách nhiệm đóng góp, hỗ trợ, đầu tư cho du lịch phát triển như
đối với giáo dục, thể thao hoặc một lĩnh vực văn hoá khác.
Theo Pháp lệnh du lịch (do chủ tịch nước CHXNCN Việt Nam công bố
ngày 20/02/1999): Du lịch là hoạt động của con người ngồi nơi cư trú
thường xun của mình nhằm thoả mãn nhu cầu tham quan, giải trí, nghỉ
dưỡng trong một khoảng thời gian nhất định.
Có nhiều loại hình du lịch, trong đó Du lịch sinh thái là một trong
những loại hình đang ngày càng được quan tâm nhiều hơn.
Năm 1991, đã xuất hiện khái niệm về Du lịch sinh thái. "Du lịch sinh
thái là loại hình du lịch diễn ra trong các vùng có hệ sinh thái tự nhiên còn
bảo tồn khá tốt nhằm mục tiêu nghiên cứu, chiêm ngưỡng, thưởng thức phong
cảnh, động thực vật cũng như các giá trị văn hoá hiện hữu".



21

Tổ chức Du lịch thế giới của Liên hiệp quốc đã xác định rằng trong hơn
1 thập kỷ qua, nhu cầu du lịch sinh thái và các trải nghiệm du lịch thiên nhiên
là một xu hướng đang phát triển mạnh mẽ trong ngành du lịch thế giới. Năm
2002 là năm Du lịch sinh thái quốc tế, đỉnh cao là Hội nghị thượng đỉnh quốc
tế ở Canada và Tuyên bố chung Quebec về Du lịch sinh thái. Một phần tuyên
bố gồm các nguyên tắc chính sau đây:
“Du lịch sinh thái bao gồm các nguyên tắc của du lịch bền vững, liên
quan đến các tác động kinh tế, xã hội và môi trường của du lịch. Nó cũng bao
gồm các nguyên tắc cụ thể sau đây giúp phân biệt du lịch sinh thái với khái
niệm rộng lớn hơn là du lịch bền vững:
Đóng góp tích cực vào việc bảo tồn các di sản thiên nhiên và văn hóa.
Các cộng đồng địa phương và bản xứ tham gia vào lập kế hoạch, phát
triển, vận hành và góp phần bảo vệ sức khỏe cho mình.
Diễn giải ý nghĩa của di sản thiên nhiên và văn hóa của điểm đến cho
du khách.
Thích hợp hơn với những người đi du lịch độc lập cũng như các nhóm
nhỏ đi theo tour có tổ chức. [28]
Tổ chức Du lịch Thế Giới của Liên hiệp quốc cũng nhấn mạnh vai trị
quan trọng của ngành du lịch trong cơng tác bảo tồn đa dạng sinh học hiện
nay: “Là nguồn tạo thu nhập và việc làm chính, du lịch đóng góp vào sự tăng
trưởng kinh tế, đặc biệt ở các nước phát triển nơi tập trung tỷ lệ đa dạng sinh
học lớn nhất toàn cầu. Kết quả là, ngành du lịch đưa ra các cơ chế khuyến
khích cơng tác bảo vệ đa dạng sinh học, tạo thu nhập lớn để phục vụ cho công
tác bảo tồn và phát triển cộng đồng, và giúp nâng cao nhận thức về các vấn đề
đa dạng sinh học”.[29]
Theo quy chế quản lý các hoạt động DLST tại các VQG, khu BTTN:

Du lịch sinh thái là hình thức du lịch dựa vào thiên nhiên, gắn với bản sắc văn


22

hoá địa phương với sự tham gia của cộng đồng dân cư ở địa phương nhằm
phát triển bền vững, đáp ứng nhu cầu hiện tại mà không làm ảnh hưởng đến
khả năng đáp ứng nhu cầu du lịch trong tương lai.[2]
Theo bách khoa toàn thư Wikipedia: Du lịch sinh thái là loại hình du
lịch dựa vào thiên nhiên và văn hố bản địa gắn với giáo dục mơi trường, có
đóng góp cho nỗ lực bảo tồn và phát triển bền vững với sự tham gia tích cực
của cộng đồng địa phương.
Gần đây, người ta cho rằng nội dung căn bản của Du lịch sinh thái là
tập trung vào mức độ trách nhiệm của con người đối với môi trường. Quan
điểm thụ động cho rằng Du lịch sinh thái là du lịch hạn chế tối đa các suy
thối mơi trường do du lịch tạo ra, là sự ngăn ngừa các tác động tiêu cực lên
sinh thái, văn hoá và thẩm mỹ. Quan điểm chủ động cho rằng Du lịch sinh
thái còn phải đóng góp vào quản lý bền vững mơi trường lãnh thổ du lịch và
phải quan tâm đến quyền lợi của nhân dân địa phương. Do đó, người ta đã
đưa ra một khái niệm mới tương đối đầy đủ hơn:
"Du lịch sinh thái là du lịch có trách nhiệm với các khu thiên nhiên là
nơi bảo tồn môi trường và cải thiện phúc lợi cho nhân dân địa phương".
Ở Việt Nam với lợi thế có chiều dài bờ biển, rừng núi hoang sơ với
nhiều khu bảo tồn thiên nhiên, vườn quốc gia và nhiều rừng cấm, đó là những
di sản thiên nhiên của quốc gia, chứa đầy tiềm năng cho phát triển du lịch
sinh thái như Vịnh Hạ Long, Hồ Ba Bể, Động Phong Nha, Vườn Quốc gia
Cát Tiên, Vườn Quốc gia Cúc Phương, Khu bảo tồn thiên nhiên Vân Long
.v.v. đặc biệt là đã có tới 8 khu dự trữ sinh quyển Việt Nam được UNESCO
công nhận là khu dự trữ sinh quyển thế giới nằm ở khắp ba miền.
Trong hơn 10 năm qua, tỷ lệ tăng trưởng trung bình hàng năm về lượt

khách là xấp xỉ 18%. Tuy nhiên, có những đều cho thấy rằng mức độ tăng
trưởng này đã giảm trong những năm gần đây. Tỷ lệ tăng trường hàng năm


23

năm (2007 đến 2008) là xấp xỉ 2%. Cuộc khủng hoảng tài chính cũng đã tác
động lớn đến các lượt khách quốc tế gần đây đến Việt Nam. Trong 5 tháng
đầu năm 2009, Việt Nam thu hút xấp xỉ 1,6 triệu lượt khách quốc tế, thấp hơn
gần 19% so với con số cùng kỳ năm 2008.[19]
Việt Nam có thị trường du lịch nội địa phát triển nhanh nhất. Việt Nam
có 12 ngày nghỉ phép chính thức trong một năm làm việc và thêm 9 ngày nghỉ
lễ hàng năm. Lấy phép năm để đi du lịch đang ngày càng phổ biến. Ước tính
số người dân Việt Nam đi nghỉ mát tăng từ 11% trong tổng số dân năm 1999
lên 24% vào năm 2004. Các nhân tố chính của sự tăng trưởng du lịch nội địa
là thu nhập tăng lên, sự phát triển của tầng lớp trung lưu và các mơ hình hành
vi xã hội đang thay đổi. Đa số các chuyến du lịch trong nước thường là ngắn
ngày, từ 1 đến 3 ngày, và mùa cao điểm là Tết nguyên đán, các ngày nghỉ lễ
và hè. Du lịch biển và du lịch các kỳ festival rất phổ biến với người Việt
Nam. Các chuyến du lịch do công ty đài thọ cũng như du lịch kết hợp với hội
nghị cũng đang phát triển. Ngành du lịch cũng tạo ra một lượng lớn doanh thu
cho Việt Nam. Dự kiến ngành du lịch sẽ đóng góp trực tiếp xấp xỉ 4 tỷ đơ la
Mỹ hoặc 3,8 % Tổng thu nhập quốc nội năm 2009. Đóng góp vào tổng thu
nhập quốc nội dự kiến sẽ tăng gần 8 tỷ đô la Mỹ vào năm 2019. [19]
Nhìn chung, ngành du lịch ở Việt Nam dự kiến sẽ tăng trường 6,5%
mỗi năm từ năm 2010 đến năm 2019. Xuất khẩu chiếm một thị phần rất quan
trọng trong ngành du lịch ở Việt Nam. Trong tổng số kim ngạch xuất khẩu
của Việt Nam, ngành du lịch tạo ra gần 12% doanh thu, tương đương với 9 tỷ
đô la Mỹ. Kim ngạch xuất khẩu dự kiến sẽ tăng hơn 22 tỷ đô la Mỹ vào năm
2019. Đầu tư vốn trong ngành du lịch ước tính gần 3,5 tỷ đơ la Mỹ, tương

đương với 8,3% trong tổng đầu tư năm 2009. Dự kiến đầu tư vốn sẽ tăng gần
6 tỷ đô la Mỹ vào năm 2019. Các chi tiêu của chính phủ cho ngành du lịch


×