Tải bản đầy đủ (.pdf) (68 trang)

Pháp luật kiểm soát độc quyền tại việt nam lý luận và thực tiễn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (727.5 KB, 68 trang )

Pháp luật kiểm soát độc quyền tại Việt Nam- Lý luận và thực tiễn. GVHD: Đặng Quốc Chương

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP HCM
KHOA LUẬT THƯƠNG MẠI

HUỲNH THANH TÂN

PHÁP LUẬT KIỂM SOÁT ĐỘC QUYỀN TẠI
VIỆT NAM- LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT
Chuyên ngành Luật Thương mại

TP HCM- 2011
1


Pháp luật kiểm soát độc quyền tại Việt Nam- Lý luận và thực tiễn. GVHD: Đặng Quốc Chương

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP HCM
KHOA LUẬT THƯƠNG MẠI
--------

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT

PHÁP LUẬT KIỂM SOÁT ĐỘC QUYỀN TẠI
VIỆT NAM- LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN

SINH VIÊN THỰC HIỆN: HUỲNH THANH TÂN
Khóa: 32



MSSV: 3220170

GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN: ĐẶNG QUỐC CHƯƠNG

TP HỒ CHÍ MINH, NĂM 2011

2


Pháp luật kiểm soát độc quyền tại Việt Nam- Lý luận và thực tiễn. GVHD: Đặng Quốc Chương

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của riêng tơi. Các số liệu, thơng tin nêu
trong khố luận là trung thực; các dữ liệu, luận điểm được trích dẫn đầy đủ, nếu không
thuộc ý tưởng hoặc kết quả tổng hợp của chính bản thân tơi.
Tác giả

Huỳnh Thanh Tân

3


Pháp luật kiểm soát độc quyền tại Việt Nam- Lý luận và thực tiễn. GVHD: Đặng Quốc Chương

LỜI CẢM ƠN
Để hồn tất chương trình Cử nhân Luật và khố luận này, tác giả đã nhận được sự
hướng dẫn, giúp đỡ và góp ý nhiệt tình của q thầy cơ trường Đại học Luật Thành phố
Hồ Chí Minh Trước hết, tác giả xin chân thành cảm ơn đến những thầy cô đã tận tình
quan tâm, chỉ dạy suốt thời gian học tập tại trường. Đặc biệt, tác giả xin gửi lời biết ơn

sâu sắc đến Giảng viên Đặng Quốc Chương vì đã dành rất nhiều thời gian theo sát,
động viên và hướng dẫn tác giả trong suốt quá trình nghiên cứu và hồn thành khố
luận tốt nghiệp. Mặc dù tác giả đã có nhiều cố gắng hồn thiện khố luận bằng tất cả sự
nhiệt tình và năng lực của mình, tuy nhiên khơng thể tránh khỏi những thiếu sót, rất
mong nhận được những đóng góp q báu của q thầy cơ và các bạn.
TP. Hồ Chí Minh, tháng 7 năm 2011
Sinh viên
Huỳnh Thanh Tân

4


Pháp luật kiểm soát độc quyền tại Việt Nam- Lý luận và thực tiễn. GVHD: Đặng Quốc Chương

MỤC LỤC

LỜI NÓI ĐẦU ........................................................................................................................................... 1
Chương I: Những vấn đề lý luận chung về độc quyền và kiểm soát độc quyền ........................................ 6
1.1 Độc quyền và phân loại độc quyền ...................................................................................................... 6
1.1.1 Khái niệm độc quyền ........................................................................................................................ 6
1.1.1.1 Cạnh tranh và độc quyền ................................................................................................................ 6
1.1.1.2 Khái niệm độc quyền ..................................................................................................................... 7
1.1.2 Phân loại độc quyền ........................................................................................................................ 12
1.1.2.1 Căn cứ vào nguyên nhân hình thành độc quyền........................................................................... 12
1.1.2.2 Căn cứ vào cấu trúc độc quyền .................................................................................................... 16
1.2 Kiểm soát độc quyền .......................................................................................................................... 18
1.2.1 Sự cần thiết kiểm soát độc quyền bằng pháp luật ........................................................................... 18
1.2.1.1 Kiểm soát độc quyền bằng pháp luật nhằm bảo vệ tính mơi trường kinh doanh và mơi trường
cạnh tranh lành mạnh ............................................................................................................................... 18
1.2.1.2 Kiểm soát độc quyền bằng pháp luật nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của doanh nghiệp

là khách hàng của doanh nghiệp độc quyền ............................................................................................. 19
1.2.1.3 Kiểm soát độc quyền bằng pháp luật nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người tiêu
dùng.......................................................................................................................................................... 20
1.2.2 Pháp luật kiểm soát độc quyền của một số quốc gia ....................................................................... 23
Chương II: Thực trạng và định hướng hồn thiện pháp luật kiểm sốt độc quyền tại Việt Nam ............ 30
2.1 Thực trạng pháp luật kiểm soát độc quyền tại Việt Nam ................................................................... 30
2.1.1 Khái quát về pháp luật kiểm soát độc quyền tại Việt Nam ............................................................. 30
2.1.2 Quy định của pháp luật hiện hành về kiểm soát độc quyền ở Việt Nam ........................................ 33
2.1.2.1 Các quy định của Luật Cạnh tranh 2004 ...................................................................................... 33
5


Pháp luật kiểm soát độc quyền tại Việt Nam- Lý luận và thực tiễn. GVHD: Đặng Quốc Chương

2.1.2.2 Các quy định khác của pháp luật liên quan .................................................................................. 49
2.2 Định hướng hồn thiện pháp luật kiểm sốt độc quyền tại Việt Nam ............................................... 52
2.2.1 Nguyên tắc hoàn thiện pháp luật kiểm soát độc quyền tại Việt Nam ............................................. 52
2.2.2 Những kiến nghị, định hướng cụ thể ............................................................................................... 54
KẾT LUẬN .............................................................................................................................................. 58
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

6


Pháp luật kiểm soát độc quyền tại Việt Nam- Lý luận và thực tiễn. GVHD: Đặng Quốc Chương

LỜI NÓI ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế thị trường và tác động của xu
hướng tồn cầu hố, hội nhập quốc tế ngày một sâu rộng, cạnh tranh trở thành vấn đề

tiên quyết, sống cịn khơng chỉ riêng đối với doanh nghiệp Việt Nam. Nhận thấy những
lợi ích vượt trội cũng như quyền lực thị trường mà vị thế độc quyền đem lại, bất cứ
doanh nghiệp nào cũng ln dự định, tìm mọi cách độc tôn thị trường ngay từ khi bắt
đầu kế hoạch hoạt động của mình. Chúng ta khơng thể phủ nhận hồn tồn độc quyền,
bởi bản thân nó cũng mang lại một số động thái tích cực cho thị trường, tuy nhiên, ở
một khía cạnh khác, chính độc quyền lại làm tiêu huỷ tính cạnh tranh trên thị trường,
phủ nhận mọi động lực của các doanh nghiệp. Vấn đề cần được đặt ra và cũng cần phải
được giải quyết nhanh chóng đó là: Nhà nước cần có những biện pháp kiểm sốt tình
trạng độc quyền một cách tồn diện, trong đó, hiệu quả nhất và lâu dài nhất vẫn là bằng
công cụ pháp lý, thiết chế pháp luật để hạn chế những mặt tiêu cực của hiện tượng này.
Trên cơ sở thừa nhận sự tồn tại khó có thể xố bỏ của độc quyền cả về mặt lý luận lẫn
thực tiễn, việc nghiên cứu một cách hệ thống, tổng quát pháp luật kiểm soát độc quyền
tại Việt Nam là điều kiện cần thiết cho việc áp dụng có hiệu quả các biện pháp kiểm
soát được nêu ra, đặc biệt là trong bối cảnh nước ta đang có những bước tiến ngày càng
sâu rộng, đa diện với các quốc gia trong khu vực và trên thế giới.
Đối với Việt Nam, trước khi pháp luật Cạnh tranh ra đời- pháp luật chủ yếu điều
chỉnh vấn đề độc quyền hiện nay, độc quyền dù đã được thừa nhận nhưng vẫn chưa
thực sự đầy đủ và sâu sắc. Các văn bản điều chỉnh còn rất ít, chưa thống nhất. Sự ra đời
của Luật Cạnh tranh 2004 cùng vai trị, tầm quan trọng của nó đã trở thành đạo luật cơ
bản kiểm soát độc quyền tại Việt Nam với một hệ thống các khái niệm, phương thức,
tiêu chí nhận diện, xác định tình trạng độc quyền và các nguyên tắc điều chỉnh, xử lý
cơ bản, thiết yếu tương đối đầy đủ. Tuy nhiên, trên thực tế, pháp luật cạnh tranh được
áp dụng còn chưa thực sự triệt để để điều chỉnh các vấn đề liên quan, như: các hành vi
cạnh tranh không lành mạnh, các thoả thuận hạn chế cạnh tranh, các hành vi lạm dụng
vị trí thống lĩnh thị trường của doanh nghiệp...Riêng với các vấn đề độc quyền, có lẽ,
một phần do chúng ta còn thiếu kinh nghiệm, tuy nhiên, phần lớn là do pháp luật điều
7


Pháp luật kiểm soát độc quyền tại Việt Nam- Lý luận và thực tiễn. GVHD: Đặng Quốc Chương


chỉnh còn những hạn chế mà trong khoảng thời gian hơn 5 năm qua (từ khi Luật Cạnh
tranh 2004 có hiệu lực), những khiếm khuyết này đã được đề cập rất nhiều. Thêm vào
đó, độc quyền đang dần trở thành một xu hướng tương đối phổ biến và có những biểu
hiện phức tạp. Do vậy, việc nghiên cứu sâu sắc hiện tượng độc quyền cũng như pháp
luật được ban hành để kiểm soát, điều chỉnh nó là điều cần thiết.
Q trình hội nhập là một xu thế tất yếu, không thể cưỡng lại và Việt Nam
khơng thể đứng ngồi xu thế này. Một điều hiển nhiên hơn nữa là độc quyền luôn là
mục tiêu của nhiều doanh nghiệp và đem lại nhiều động thái tiêu cực cho thị trường.
Do đó, nhu cầu và nhiệm vụ cấp bách đặt ra là cần nhanh chóng hồn thiện pháp luật
kiểm sốt độc quyền tại Việt Nam, nhất là ở khía cạnh pháp luật cạnh tranh.
Từ những lý do trên, tác giả mạnh dạn lựa chọn đề tài “Pháp luật kiểm soát độc
quyền tại Việt Nam- Lý luận và thực tiễn” để thực hiện khoá luận tốt nghiệp của
mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Đến nay, bản thân tác giả khi lựa chọn đề tài và sau quá trình nghiên cứu, tìm
hiểu có biết đến một số cơng trình khoa học, sách chuyên khảo và bài viết như: Lê
Danh Vĩnh, Hoàng Xuân Bắc, Nguyễn Ngọc Sơn (2006), Pháp luật Cạnh tranh tại Việt
Nam, Nhà xuất bản Tư Pháp, Hà Nội; Nguyễn Như Phát, Nguyễn Ngọc Sơn (2006),
Phân tích và luận giải các quy định của Luật Cạnh tranh về hành vi lạm dụng vị trí
thống lĩnh, vị trí độc quyền để hạn chế cạnh tranh, Nhà xuất bản Tư Pháp, Hà Nội; Lê
Văn Hưng (2006), “Cần có các quy định cho doanh nghiệp nhà nước trong việc thực
hiện luật cạnh tranh”, Tạp chí Đảng Cộng Sản (số 25/2002); Nguyễn Ngọc Sơn (2006),
“Một số ý kiến về địa vị pháp lý của Hội đồng Cạnh tranh tại Việt Nam trong điều kiện
hiện nay”, Tạp chí Khoa học pháp lý (số 6/2006)…Các tài liệu trên phần lớn đã nêu
được những điểm hạn chế trong pháp luật cạnh tranh ở khía cạnh kiểm soát độc quyền.
Song, chúng chỉ dừng lại ở mức độ khái quát, chủ yếu là trong pháp luật cạnh tranh,
chưa thể hiện rõ sự tương quan với một số đạo luật, văn bản pháp luật khác cũng tham
gia điều chỉnh độc quyền hiện nay ở Việt Nam.
3. Mục đích, đối tượng và phạm vi nghiên cứu:

8


Pháp luật kiểm soát độc quyền tại Việt Nam- Lý luận và thực tiễn. GVHD: Đặng Quốc Chương

Mục đích nghiên cứu:
Độc quyền và kiểm soát độc quyền là một nội dung quan trọng trong pháp luật
cạnh tranh, có ý nghĩa cả về lý luận lẫn thực tiễn và là đối tượng nghiên cứu rất rộng.
Thực tế cho thấy nhận thức và kiểm soát độc quyền tại Việt Nam là một thách thức hết
sức to lớn đối với các cơ quan, ban ngành và cả đối với doanh nghiệp. Do đó, đề tài
được nghiên cứu nhằm:
-

Phân tích những vấn đề lý luận về độc quyền và sự cần thiết phải có hoạt động
điều chỉnh, kiểm soát độc quyền.

-

Làm rõ các nội dung pháp lý của các quy định pháp luật hiện hành trong việc
kiểm sốt độc quyền.
Phân tích ưu điểm, hạn chế của các quy định pháp luật về kiểm soát độc quyền,
nghiên cứu mơ hình kiểm sốt độc quyền của một hay một số quốc gia để đưa ra
kiến nghị phù hợp nhằm hoàn thiện các quy định pháp luật liên quan đến vấn đề
kiểm soát độc quyền.

-

Đối tượng nghiên cứu:
Đề tài tập trung nghiên cứu hai vấn đề chính: độc quyền và hoạt động kiểm sốt
độc quyền nhìn từ góc độ pháp luật, tức là, độc quyền từ chỗ là một phạm trù rất rộng

sẽ được nhìn nhận cụ thể hơn dựa trên những quy định của pháp luật. Dựa trên những
phân tích mang tính lý luận và nhìn nhận từ thực tiễn từ hai vấn đề trên, thêm vào đó là
những tham khảo từ pháp luật kiểm sốt độc quyền ở một số quốc gia, đề tài cố gắng
xây dựng và đề xuất những phương hướng, giải pháp mang tính cụ thể nhất.
Phạm vi nghiên cứu:
Bên cạnh những nội dung mang tính lý luận, đề tài cịn hướng đến làm rõ những
nội dung ở khía cạnh pháp lý về vấn đề độc quyền cũng như pháp luật kiểm soát độc
quyền bằng việc đi sâu nghiên cứu các quy định của pháp luật hiện hành, trong đó chủ
yếu, quan trọng nhất là pháp luật cạnh tranh và Luật Cạnh tranh 2004. Ngoài ra, tác giả
cũng cố gắng đưa ra những tham khảo, dẫn chiếu đến những pháp luật trong nước khác
có liên quan cũng như đưa ra những điểm phù hợp hay còn vướng mắc của chúng
9


Pháp luật kiểm soát độc quyền tại Việt Nam- Lý luận và thực tiễn. GVHD: Đặng Quốc Chương

4. Phương pháp nghiên cứu
Tác giả tập trung nghiên cứu và hoàn thành đề tài dựa trên những phương pháp
hết sức cơ bản nhưng thiết thực như: so sánh, thống kê, đối chiếu, phân tích, chứng
minh, bình luận và tổng hợp. Các lập luận được đưa ra hình thành trên cơ sở phương
pháp luận Mác- Lênin có tính chặt chẽ và thống nhất.
5. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
Về lý luận, đề tài nghiên cứu một cách hệ thống những vấn đề lý luận liên quan
đến độc quyền cũng như hoạt động kiểm sốt độc quyền bằng cơng cụ pháp luật;
nghiên cứu, đánh giá những quy định của Luật Cạnh tranh về kiểm soát độc quyền và
thực tiễn của hoạt động kiểm soát độc quyền tại Việt Nam, từ đó, đề xuất một số giải
pháp cơ bản để hướng đến việc hồn thiện.
Về thực tiễn, đề tài có giá trị tham khảo, thơng tin cho những chủ thể có mục
đích nghiên cứu hay chỉ là quan tâm, có hứng thú.
6. Bố cục khố luận:

Ngồi phần mở đầu và kết luận, khoá luận tập trung nêu, triển khai và giải quyết
vấn đề trong hai chương:
Chương I: Những vấn đề lý luận chung về độc quyền và kiểm soát độc quyền.
Ở chương này, tác giả tập trung làm rõ những nội dung cơ bản nhất liên quan
đến hiện tượng độc quyền, các dấu hiệu cũng như các loại độc quyền được biết đến
hiện nay. Một vấn đề khác cũng được nhấn mạnh trong chương I là về việc kiểm soát
độc quyền tại Việt Nam, trước hết và quan trọng nhất thông qua công cụ pháp luật.
Chương II: Thực trạng và định hướng hồn thiện pháp luật kiểm sốt độc quyền
tại Việt Nam.
Chương II tập trung đưa ra những đánh giá khách quan về tình hình kiểm sốt
độc quyền tại Việt Nam hiện nay, thực hiện việc phân tích các quy định pháp luật có

10


Pháp luật kiểm soát độc quyền tại Việt Nam- Lý luận và thực tiễn. GVHD: Đặng Quốc Chương

liên quan được dùng để trực tiếp điều chỉnh độc quyền, chủ yếu trong pháp luật cạnh
tranh. Từ đó, nhận diện một số hạn chế cơ bản và đưa ra những kiến nghị phù hợp.

11


Pháp luật kiểm soát độc quyền tại Việt Nam- Lý luận và thực tiễn. GVHD: Đặng Quốc Chương

CHƯƠNG I
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ ĐỘC QUYỀN VÀ KIỂM SOÁT ĐỘC
QUYỀN
1.1 Độc quyền và phân loại độc quyền
1.1.1 Khái niệm độc quyền

1.1.1.1 Cạnh tranh và độc quyền
Cạnh tranh là một hiện tượng gắn liền với nền kinh tế thị trường. Ngày nay, hầu
như tất cả các quốc gia trên thế giới đều thừa nhận: trong mọi hoạt động, khơng riêng
gì kinh doanh, đều phải có cạnh tranh và coi cạnh tranh không những là yêu cầu và
động lực của sự phát triển nói chung, thúc đẩy sản xuất kinh doanh phát triển và tăng
năng suất lao động, tăng hiệu quả của các doanh nghiệp mà còn là yếu tố quan trọng
làm lành mạnh hố quan hệ xã hội. Đây ln được xem là chìa khóa thành cơng của
các doanh nghiệp khi họ mong muốn tìm được một chỗ đứng vững chắc trong nền kinh
tế, bên cạnh việc đưa ra được nhiều chủng loại hàng hóa, dịch vụ đa dạng, có chất
lượng. Riêng đối với xã hội, cạnh tranh có ý nghĩa rất to lớn. Cuộc sống của cả nhân
loại đã không thể và cũng sẽ không thể thay đổi một cách thực sự ngoạn mục trong vài
thế kỷ gần đây và cả trong tương lai nếu như khơng có nền kinh tế hàng hố và khơng
có cạnh tranh1. Có nhiều cách hiểu khác nhau về cạnh tranh, song tựu trung lại, có thể
quan niệm : Cạnh tranh là việc các nhà kinh doanh sử dụng những phương thức khác
nhau để giành ưu thế thương trường về mình so với các đối thủ khác.
Thực tế cho thấy, cạnh tranh ngoài những tác động tích cực đối với nền kinh tế
của mỗi quốc gia thì nó cịn mang lại những hệ luỵ không nhỏ. Các doanh nghiệp cùng
cạnh tranh trên những thị trường liên quan ln tìm mọi cách để tối đa hố lợi nhuận,
để nâng cao vị thế của mình, khẳng định sự tồn tại của doanh nghiệp bằng bất cứ biện
pháp nào. Đối với hầu hết các trường hợp này, doanh nghiệp thường không tôn trọng
các quy định của pháp luật. Qua khảo sát thực tiễn ở nhiều quốc gia, chúng ta dễ nhận

1

Bùi Xuân Hải (2003), “Mục tiêu và phạm vi điều chỉnh của luật cạnh tranh”, Tạp chí Khoa học pháp lý (số
04/2003).

12



Pháp luật kiểm soát độc quyền tại Việt Nam- Lý luận và thực tiễn. GVHD: Đặng Quốc Chương

thấy rằng, nếu được kiểm soát tốt, cạnh tranh sẽ mang lại nhiều hơn những lợi ích thiết
thực cho nền kinh tế, cho phần lớn người tiêu dùng, hạn chế đến mức thấp nhất những
hệ quả tiêu cực, bởi bất cứ doanh nghiệp nào cũng ln tìm kiếm và có thể hướng tới
việc cung ứng những sản phẩm với giá rẻ hơn và chất lượng tốt hơn cho thị trường.
Suy cho cùng, cạnh tranh có khả năng tạo ra một áp lực liên tục với giá cả, buộc các
nhà doanh nghiệp phải phán ứng phù hợp với các mong muốn thay đổi của người tiêu
dùng. Tuy nhiên, cạnh tranh diễn ra ở mức độ gay gắt nhất sẽ tạo ra tham vọng chiếm
lĩnh trọn vẹn thị trường của những doanh nghiệp nhiều tiềm lực, và tạo ra hiện tượng
độc quyền trên thị trường. Từ những văn bản pháp luật được ban hành từ rất sớm như
Công ước Pa-ri (1883) - văn bản pháp lý đầu tiên đề cập đến khái niệm cạnh tranh
thông qua việc quy định những hành vi cạnh tranh bất chính và biện pháp xử lý chúng2,
đến các văn bản điều chỉnh cạnh tranh hiện hành, vấn đề độc quyền luôn là một trong
số những nội dung được quan tâm nhiều nhất. Độc quyền xuất hiện mang bản chất là
một hiện tượng tự nhiên, song nó ln được kiểm sốt chặt chẽ để ngăn chặn những
ảnh hưởng tiêu cực mà nó gây ra cho cạnh tranh- mơi trường mà độc quyền được phát
sinh.
1.1.1.2 Khái niệm độc quyền
Độc quyền khơng cịn là khái niệm mới mẻ cả về mặt kinh tế lẫn khoa học pháp
lý ở các quốc gia trên thế giới.
Như chúng ta đã biết, dưới góc độ kinh tế, thị trường là nơi gặp gỡ giữa cung và
cầu về một loại hàng hoá hoặc dịch vụ nhất định. Nếu như các sản phẩm trên thị trường
có thể thay thế hồn tồn cho nhau (giống hệt nhau) thì người tiêu dùng có thể lựa chọn
bất cứ doanh nghiệp nào trong số các doanh nghiệp đang cung cấp sản phẩm trên thị
trường. Lúc này, mỗi nhà cung cấp đều phải chịu sức ép cạnh tranh từ doanh nghiệp
khác. Tuy nhiên, thực tế lại cho thấy, rất hiếm khi tồn tại một thị trường mà các sản
phẩm lại có thể thay thế hồn tồn cho nhau. Các doanh nghiệp ln tìm mọi cách để dị
biệt hố sản phẩm của mình trước thói quen tiêu dùng của khách hàng. Kinh tế học đã


2

Lê Văn Hưng (2002), “Cần có các quy định cho doanh nghiệp nhà nước trong việc thực hiện luật cạnh tranh”,
Tạp chí Đảng Cộng Sản ( số 25/2002).

13


Pháp luật kiểm soát độc quyền tại Việt Nam- Lý luận và thực tiễn. GVHD: Đặng Quốc Chương

lý giải về tính dị biệt hố của sản phẩm trên thị trường từ góc độ của cạnh tranh và độc
quyền. Theo đó, nhà kinh tế học người Hoa Kỳ, Edward H. Chamberlin có trình bày:
“…trong kinh doanh, mỗi sản phẩm mang lại tính độc đáo bằng đặc điểm riêng có của
nó trong việc hình thành như thương hiệu, khác biệt về chất lượng, cung cách phục
vụ… điều này thể hiện khía cạnh độc quyền của nó. Mỗi sản phẩm là đối tượng cạnh
tranh của sản phẩm khác. Việc dị biệt hoá đã làm cho cả độc quyền và cạnh tranh
cùng có mặt”3.
Bắc Mỹ là khu vực đầu tiên trên thế giới ban hành Luật chống độc quyền đầy đủ
và hiện đại, trong đó, Hoa Kỳ là quốc gia sớm đưa ra được những quy định liên quan
đến độc quyền có thể nói là tồn diện, hiệu quả và có giá trị sử dụng cho đến ngày nay.
Khái niệm về độc quyền được đề cập sớm nhất tại Hoa Kỳ thông qua đạo luật Sherman
1890. Tuy nhiên, đến thời điểm hiện tại, ở mỗi quốc gia, mỗi lĩnh vực liên quan, mỗi
một hệ thống pháp luật đều có cách quan niệm khác nhau về độc quyền. Ở góc độ kinh
tế học, người ta xem tình trạng độc quyền là một trong những thất bại thị trường, là
biểu hiện tiêu cực của một thị trường thiếu tính cạnh tranh, là trạng thái thị trường chỉ
có duy nhất một người bán và sản xuất ra sản phẩm khơng có sản phẩm thay thế gần
gũi4. Xuất phát từ bản chất kinh tế, nhận định trên đã chỉ có thể dẫn chiếu đến một
trường hợp độc quyền tồn tại trên thực tế, đó là độc quyền bán. Ngồi ra, độc quyền
cịn được nhận diện trong nhiều trường hợp khác nữa, chẳng hạn như độc quyền muatình trạng thị trường chỉ tồn tại một người mua, hiểu theo nghĩa đơn giản nhất.
Một cách hiểu khác về độc quyền có thể chỉ ra như: độc quyền là một tình

huống, trong đó, một cơng ty hoặc một tập đồn, một nhóm các cơng ty chiếm lĩnh gần
như tồn bộ thị trường đối với một loại hàng hoá, dịch vụ nào đó5. Cách hiểu như thế
có phần đầy đủ, tồn diện hơn vì nó mở rộng, khái qt được phạm vi hoạt động và đối
tượng mà các doanh nghiệp độc quyền thực hiện, nắm giữ, song, vấn đề đặt ra là liệu vị
trí của các cơng ty, tập đồn đó có phải là độc quyền khi họ chỉ chiếm lĩnh phần lớn

3

Nguyễn Ngọc Sơn (2005), “Xác định thị trường liên quan theo luật Cạnh tranh 2004”, Tạp chí Nghiên cứu Lập
pháp (số 63-11/2005).
4
5

/> />
14


Pháp luật kiểm soát độc quyền tại Việt Nam- Lý luận và thực tiễn. GVHD: Đặng Quốc Chương

chứ không phải là tuyệt đối thị trường? Tức là, khi đó, họ vẫn cịn có đối thủ cạnh tranh
trên thị trường và khả năng bị cạnh tranh là chuyện tất yếu. Có lẽ, xét theo những gì
được phân tích tiếp sau đây, câu trả lời sẽ là không.
Cách hiểu vấn đề độc quyền theo Luật Cạnh tranh 2004 của Việt Nam có phần
khác so với các nhận định nêu trên. Theo đó, độc quyền được ghi nhận một cách gián
tiếp như sau: “Doanh nghiệp được coi là có vị trí độc quyền nếu khơng có doanh
nghiệp nào cạnh tranh về hàng hóa, dịch vụ mà doanh nghiệp đó kinh doanh trên thị
trường liên quan”6. Pháp luật cạnh tranh cũng như các pháp luật liên quan khác của
Việt Nam chưa có một định nghĩa trực tiếp, thống nhất cho độc quyền. Đối với quy
định trên của Luật Cạnh tranh, độc quyền được hiểu thông qua khái niệm “doanh
nghiệp độc quyền”. Chúng ta chỉ có thể hình dung được thế nào là độc quyền thơng

qua cách giải thích của Luật Cạnh tranh 2004 về việc một doanh nghiệp được xem là
độc quyền thì có những yếu tố nào. Theo đó, độc quyền là một tình trạng hay một trạng
thái của thị trường mà ở đó, chỉ tồn tại duy nhất một doanh nghiệp sản xuất, cung ứng
hay tiêu thụ hàng hoá, dịch vụ. Cách hiểu theo Luật Cạnh tranh Việt Nam nhìn chung
là phép cộng của hai quan điểm được đề cập trước đó, nó có tính khái qt hơn song
cũng tiệm cận với quan điểm của đa số các hệ thống pháp luật trên thế giới. Tuy nhiên,
theo tác giả, có một vướng mắc khi ghi nhận độc quyền theo cách của Luật Cạnh tranh
2004, đó là: độc quyền chỉ gắn liền với hình ảnh một doanh nghiệp độc chiếm thị
trường. Thực tế, độc quyền cịn có thể xảy ra từ hành vi của hai hay nhiều doanh
nghiệp cùng tồn tại, cùng cạnh tranh trên một thị trường, chứ không xuất phát từ duy
nhất một doanh nghiệp nào. Trong trường hợp này, tất cả các doanh nghiệp đó đã tiến
hành thống nhất với nhau trong ý chí lẫn hành động. Điều này khơng khác gì việc nói
họ đã cùng nhau độc quyền thị trường.
Xét về tính chất và mục tiêu, pháp luật cạnh tranh là loại pháp luật nhằm ngăn
cản, chống đối và trừng trị những hành vi cạnh tranh trái pháp luật, đạo đức và văn hóa
kinh doanh. Nội dung quan trọng nhất của pháp luật cạnh tranh là những quy định về
những hành vi cạnh tranh bị cấm, bị kiểm soát. Khi quy định những hành vi cạnh tranh,

6

Điều 12, Luật Cạnh tranh 2004

15


Pháp luật kiểm soát độc quyền tại Việt Nam- Lý luận và thực tiễn. GVHD: Đặng Quốc Chương

căn cứ vào tính chất và mức độ nguy hại của hành vi, và theo đó là phương thức tiếp
cận và xử lý, pháp luật cạnh tranh phân chia các hành vi bị cấm thành hai nhóm: nhóm
các hành vi cạnh tranh khơng lành mạnh; nhóm các hành vi hạn chế cạnh tranh, hay

cịn gọi là kiểm sốt độc quyền. Pháp luật kiểm soát độc quyền thường đề cập đến ba
vấn đề: cấm các thỏa thuận nhằm hạn chế cạnh tranh (Cartel, hay các-ten), kiểm soát
tập trung kinh tế, kiểm soát sự lạm dụng vị trí độc quyền. Ngồi việc kiểm sốt các
hành vi lạm dụng vị trí độc quyền, pháp luật kiểm soát độc quyền thường điều chỉnh cả
các thoả thuận nhằm hạn chế cạnh tranh và các hành vi tập trung kinh tế bởi hai đối
tượng này trên thực tế đều tồn tại những nguy cơ cao dẫn đến tình trạng độc quyền trên
thị trường liên quan. Khi thực hiện các thoả thuận hay tập trung kinh tế, các doanh
nghiệp có thể là tạm thời gác bỏ việc cạnh tranh lẫn nhau để đi đến những quyết định
có lợi nhất cho các bên. Suy cho cùng, việc này cũng vì mục đích lợi nhuận và chắc
chắn sẽ làm giảm tính lành mạnh của thị trường cũng như môi trường cạnh tranh mà
bất cứ quốc gia nào cũng muốn gìn giữ. Và do đó, pháp luật kiểm sốt độc quyền
khơng thể đứng ngồi nhóm hai hành vi này khi có những cơ sở cho thấy rằng các hành
vi đó vi phạm pháp luật cạnh tranh và đều có khả năng tạo ra trạng thái độc quyền.
Cũng chính vì thế, việc hiểu khái niệm độc quyền một cách toàn diện và sâu sắc có ý
nghĩa quan trọng.
Dù độc quyền được nhìn nhận ở những góc độ khác nhau, là một khái niệm kinh
tế rộng lớn hay chỉ là thông qua khái niệm “doanh nghiệp có vị trí độc quyền” theo
Luật Cạnh tranh 2004, ở phạm vi đề tài nghiên cứu này, theo tác giả, độc quyền có thể
được tiếp cận dưới góc độ pháp lý thông qua một số dấu hiệu như sau:
Thứ nhất, chủ thể của độc quyền là các doanh nghiệp hoạt động trên thị trường.
Theo Luật Cạnh tranh, doanh nghiệp được hiểu là các tổ chức, cá nhân kinh
doanh7. Điều này có nghĩa là: độc quyền có thể xuất phát từ các tổ chức kinh tế hay các
cá nhân kinh doanh riêng biệt. Tuy nhiên, so với quy định của Luật Doanh nghiệp
20058 và thực tế, hiện tượng độc quyền luôn gắn liền với các doanh nghiệp là các tổ
chức kinh tế có tư cách pháp nhân và có tiềm lực kinh tế rất lớn. Đó có thể là các công

7
8

Khoản 1, điều 2 Luật Cạnh tranh 2004.

Điều 4 Luật Doanh nghiệp 2005

16


Pháp luật kiểm soát độc quyền tại Việt Nam- Lý luận và thực tiễn. GVHD: Đặng Quốc Chương

ty cổ phần, doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài, các tập đồn kinh tế…Vì thế,
theo tác giả, chủ thể của độc quyền nên được hiểu là các tổ chức kinh tế được thành lập
và tiến hành hoạt động kinh doanh theo quy định của Luật Doanh nghiệp 2005 và các
đạo luật khác có liên quan. Tuy nhiên, cũng theo quy định về đối tượng áp dụng của
Luật Cạnh tranh 20049 và trên thực tế, một số vụ việc có dấu hiệu vi phạm pháp luật
cạnh tranh với nội dung lạm dụng vị trí độc quyền, các chủ thể vi phạm cịn là các hiệp
hội ngành nghề hoạt động ở Việt Nam, như: Hiệp hội Thép, Hiệp hội Bảo hiểm…Song,
các chủ thể này chỉ tồn tại với mục đích hợp tác, liên kết, giúp đỡ các doanh nghiệp
thành viên của chúng, không cạnh tranh nhằm mục đích lợi nhuận. Theo tác giả, đây
không phải là chủ thể của độc quyền mà tác giả đang hướng đến nghiên cứu trong đề
tài.
Thứ hai, độc quyền tồn tại dưới hình thức: một doanh nghiệp giữ vị trí độc tơn
trên thị trường liên quan. Tuy nhiên, như tác giả cũng đã đề cập, độc quyền không chỉ
có thể được nhận dạng dễ dàng theo quy định của Luật Cạnh tranh 2004, tức là thông
qua sự tồn tại của duy nhất một doanh nghiệp trong việc kinh doanh một hay một số
hàng hoá, dịch vụ. Độc quyền còn biểu hiện khá rõ nét ở việc thống nhất ý chí, hành
động trong việc chiếm lĩnh thị trường để tìm cách tác động đến thị trường theo mong
muốn của các doanh nghiệp cùng là đối thủ cạnh tranh trên thị trường. Do đó, độc
quyền khơng chỉ cần nhận biết bằng số lượng các doanh nghiệp trên thị trường liên
quan mà cịn thơng qua sự tác động của các doanh nghiệp đến thị trường. Nếu đó là tác
động có cùng chung mục đích và đã được thống nhất từ trước giữa các doanh nghiệp
thì đó chính là biểu hiện của độc quyền.
Thứ ba, việc lạm dụng vị trí độc quyền của các doanh nghiệp luôn mang lại

những hệ quả tiêu cực cho thị trường, nền kinh tế, cho chính các doanh nghiệp và
người tiêu dùng trong xã hội.
Khi thị trường tồn tại các doanh nghiệp độc quyền thì trước hết, thị trường phải
gánh chịu những tác động khơng nhỏ. Ngồi việc cấu trúc thị trường và tương quan
cạnh tranh trên thị trường bị thay đổi, các vấn đề liên quan như: sự bất ổn của các loại
hàng hoá, dịch vụ; những lo ngại về chất lượng các sản phẩm được cung ứng; về giá
hay các vấn đề khoa học kỹ thuật…có dấu hiệu ngày càng gia tăng. Xuất phát từ những
9

Khoản 2, điều 2 Luật Cạnh tranh 2004

17


Pháp luật kiểm soát độc quyền tại Việt Nam- Lý luận và thực tiễn. GVHD: Đặng Quốc Chương

hệ luỵ do việc lạm dụng vị trí độc quyền mang lại, nền kinh tế lúc này vừa phải ra sức
tìm biện pháp ngăn chặn, loại bỏ những yếu tố tiêu cực đó vừa phải khơng ngừng tìm
kiếm cơ hội để phát triển, cạnh tranh với các nền kinh tế khác. Đó dường như là quá
sức đối với bất kỳ nền kinh tế nào. Song, trên hết, người bị thiệt hại nhiều nhất lại là
người tiêu dùng. Từng vấn đề liên quan đến độc quyền, như: nguồn sản phẩm, chủng
loại sản phẩm, chất lượng sản phẩm, giá cả sản phẩm…đều trực tiếp tác động đến đời
sống hàng ngày của mọi thành phần tiêu dùng trong xã hội. Sẽ là đáng lo ngại hơn nếu
các hành vi lạm dụng vị trí độc quyền của doanh nghiệp xảy ra trong các lĩnh vực
thuộc về nhu yếu phẩm (như: điện, nước…) hay các dịch vụ tối cần thiết phục vụ cho
cuộc sống hàng ngày của người dân (như nhu cầu đi lại). Người tiêu dùng từ chỗ đáng
ra phải là người có quyền lựa chọn các sản phẩm của thị trường thì nay, dù muốn hay
khơng, họ vẫn phải tiêu dùng sản phẩm của doanh nghiệp độc quyền. Đây đã là một sự
thiệt hại đáng kể dù chưa tính đến những thiệt hại khác, đặc biệt là thiệt hại về giá.
Một điểm đáng lưu ý là: độc quyền theo cách ghi nhận thông qua các dấu hiệu

như trên cần được phân biệt với yếu tố độc quyền trong vấn đề cạnh tranh mang tính
độc quyền. Bởi lẽ, cạnh tranh mang tính độc quyền khơng phản ánh đặc thù, bản chất
của vấn đề độc quyền đang được nói đến mà nó đề cập đến một khía cạnh nhỏ trong
cạnh tranh, đó là hình thức cạnh tranh về sản phẩm, trong đó, mỗi doanh nghiệp đều có
mức độ độc quyền nhất định vì họ có sản phẩm của riêng mình. Mặc dù trên thị trường
có nhiều sản phẩm có thể thay thế cho nhau, song, vì thị hiếu, nhu cầu của người tiêu
dùng cũng như khả năng của các doanh nghiệp, họ ln nỗ lực cá biệt hố sản phẩm
của mình. Cạnh tranh mang tính độc quyền thường thấy trong một số lĩnh vực như:
may mặc, ôtô, mỹ phẩm…
1.1.2 Phân loại độc quyền
Một trong những khó khăn, thách thức khi nhận diện độc quyền hiện nay là sự
tồn tại của nhiều loại độc quyền trên thị trường và trong khoa học pháp lý. Với nhiều
tên gọi, khái niệm khác nhau, độc quyền thực sự đã và đang có những tác động không
hề nhỏ đối với đời sống doanh nghiệp và cả xã hội. Việc nhận diện từng loại độc quyền
dựa trên nhiều căn cứ khác nhau có ý nghĩa quan trọng khơng chỉ về lý luận mà cịn ở

18


Pháp luật kiểm soát độc quyền tại Việt Nam- Lý luận và thực tiễn. GVHD: Đặng Quốc Chương

khía cạnh thực tiễn, nhất là trong công tác đề ra các biện pháp kiểm sốt độc quyền. Có
nhiều cách để phân loại độc quyền, chẳng hạn như:
1.1.2.1 Căn cứ vào nguyên nhân hình thành độc quyền
Dựa vào nguyên nhân dẫn đến tình trạng độc quyền, trên thực tế và trong khoa
học pháp lý ghi nhận có hai loại cơ bản: độc quyền tự nhiên và độc quyền nhà nước.
Độc quyền tự nhiên (natural monopoly) là dạng độc quyền xuất hiện ở một
ngành, lĩnh vực một cách “tự nhiên” khi chỉ có duy nhất một doanh nghiệp có thể cung
ứng hàng hóa, dịch vụ cho tồn bộ thị trường với chi phí thấp hơn trường hợp có hai
hoặc nhiều doanh nghiệp10. Dưới góc độ kinh tế, độc quyền tự nhiên được xem là tình

huống, trong đó, tính kinh tế của quy mơ có ý nghĩa quan trọng và chi phí sản xuất chỉ
có thể tối thiểu hố nếu tồn bộ sản lượng của một ngành do một nhà sản xuất cung
cấp. Điều này làm cho chi phí trong điều kiện độc quyền thấp hơn cấu trúc thị trường
cạnh tranh hoàn hảo và thị trường thiểu quyền. Độc quyền tự nhiên là lý do chủ yếu để
biện minh cho việc quốc hữu hoá các ngành cơng nghiệp như điện năng, khí đốt. Nói
cách khác, độc quyền tự nhiên xuất hiện khi người cung cấp lớn nhất trong một ngành,
hoặc người cung cấp đầu tiên trong một khu vực, có lợi thế vượt trội về chi phí so với
những đối thủ cạnh tranh khác đang có mặt tại thị trường hoặc dự định tham gia thị
trường. Yếu tố "tự nhiên" ở đây cho thấy: cơ cấu độc quyền là do đặc điểm công nghệ
và nhu cầu đối với sản phẩm của ngành tạo ra chứ không phải là yếu tố lịch sử hay ảnh
hưởng của cơ chế chính sách kinh tế. Nói cách khác, trong những điều kiện về công
nghệ và nhu cầu như vậy, sự tồn tại của độc quyền là khách quan và do đó, biện pháp
duy nhất mà Nhà nước có thể làm chỉ là điều tiết nó. Xu hướng này thường xuất hiện ở
những ngành có chi phí cố định lớn, người cung cấp đầu tiên đã chiếm được gần hết thị
phần, vì vậy chi phí cố định bình qn cho một sản phẩm của họ nhỏ. Trong khi đó,
những người cung cấp khác có thị phần nhỏ, vì thế chi phí cố định bình qn cho một
sản phẩm lớn hơn nhiều. Chẳng hạn như ngành điện và nước là hai ngành có tính chất
độc quyền tự nhiên. Độc quyền tự nhiên cũng có thể phụ thuộc vào việc kiểm sốt một

10

Nguyễn Văn Ngọc (2007), Bài giảng Nguyên lý kinh tế vi mô, NXB Đại học kinh tế quốc dân, Hà Nội.

19


Pháp luật kiểm soát độc quyền tại Việt Nam- Lý luận và thực tiễn. GVHD: Đặng Quốc Chương

nguồn tài nguyên thiên nhiên nào đó, chẳng hạn như các mỏ khống sản. Độc quyền tự
nhiên ở Việt Nam thường thấy ở các lĩnh vực khác, bên cạnh điện và nước, như: đường

sắt, đường ống cung cấp gas, bưu chính, viễn thơng,...
Cách nhận diện độc quyền tự nhiên sẽ có thể dễ dàng hơn khi chúng ta phân biệt
được với một loại độc quyền khác, độc quyền nhà nước. Đây chính là dạng độc quyền
chủ yếu tồn tại ở thị trường Việt Nam. Độc quyền dạng này lại xuất hiện ngay cả trong
những lĩnh vực được đề cập đến ở độc quyền tự nhiên, song, xét cho cùng, sự hình
thành nên dạng độc quyền này có nét khác biệt lớn. Độc quyền nhà nước, hay cịn được
gọi là độc quyền hành chính11, có thể được hiểu là việc một chủ thể kinh doanh có được
vị thế độc quyền nhưng khơng phải do sức mạnh kinh tế mà do sự tác động của quyền
lực nhà nước12. Độc quyền nhà nước xuất hiện khi nhà nước và các cơ quan nhà nước
dựa vào quyền lực của mình thực hiện những hành vi nhằm tạo sức ảnh hưởng nhất
định đến môi trường cạnh tranh trong nước, và nó thường là kết quả của q trình
chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường (chẳng
hạn như trường hợp của Việt Nam)13. Bằng những văn bản pháp quy, các quyết định
hành chính và hành vi hành chính, các cơ quan công quyền và công chức nhà nước khi
thi hành công vụ đã can thiệp vào hoạt động sản xuất kinh doanh, tạo ra những lợi thế
đặc biệt cho một số doanh nghiệp nhất định về thị trường, tín dụng, khả năng tiếp cận
các nguồn tài nguyên…nhằm tạo ra vị thế độc quyền cho các doanh nghiệp này, đồng
thời, gây cản trở, khó khăn cho hoạt động kinh doanh bình thường của các doanh
nghiệp khác.
Độc quyền nhà nước khác biệt so với độc quyền tự nhiên không những từ chủ
thể, phương thức và mục đích độc quyền mà cịn khác nhau về điều kiện phát sinh ra
độc quyền. Nếu chủ thể của độc quyền tự nhiên là các doanh nghiệp thuần tuý, tức là
11

Trần Anh Tú (2008), “Nhận diện độc quyền nhà nước trong kinh doanh ở Việt Nam”, Tạp chí Khoa học Đại
học Quốc gia Hà Nội, Luật 24(2008)1-15.
12
Ở một số quốc gia trên thế giới, khái niệm độc quyền lại gắn liền với độc quyền nhà nước và được dùng để chỉ
các chủ thể giữ vị trí thống lĩnh, hay có quyền lực thị trường do có sự hạn chế cạnh tranh được nhà nước quy
định. Ở hầu hết các trường hợp, các chủ thể này thuộc sở hữu của nhà nước và nhà nước không cho phép các chủ

thể khác cạnh tranh trong một số lĩnh vực nhất định. Độc quyền nhà nước bao gồm độc quyền của nhà nước, độc
quyền kiểm soát bởi nhà nước, độc quyền cho phép bởi nhà nước, độc quyền khu vực.
13
Ngoài nguyên nhân này, lý do duy trì độc quyền nhà nước thay đổi theo mức độ phát triển kinh tế của đất nước
và đặc điểm của lĩnh vực có độc quyền nhà nước. Quan điểm của Pháp cho rằng: thị trường tự do cạnh tranh
không đáp ứng được nhiệm vụ phục vụ xã hội; quan điểm về độc quyền nhà nước của các nước như Brazin và
Thổ Nhĩ Kỳ hình thành do chính sách kinh tế bảo hộ sản xuất trong nước, thay thế nhập khẩu.

20


Pháp luật kiểm soát độc quyền tại Việt Nam- Lý luận và thực tiễn. GVHD: Đặng Quốc Chương

các tổ chức kinh tế tự bỏ vốn kinh doanh, thì chủ thể của độc quyền nhà nước lại là các
doanh nghiệp hình thành nên từ nguồn lực tài chính của nhà nước. Nếu phương thức
thực hiện của độc quyền tự nhiên là sử dụng sức mạnh kinh tế (nguồn lực về tài chính,
các mối quan hệ…), quyền lực thị trường để tự do mua, bán, thoả thuận phân chia thị
trường, ngăn cản các đối thủ cạnh tranh khác tham gia vào thị trường thì phương thức
hình thành của độc quyền nhà nước lại có điểm khác biệt. Một doanh nghiệp độc quyền
nhà nước có thể có được các ưu thế về cạnh tranh so với các doanh nghiệp khác mà
không nhất thiết phải dựa vào sức mạnh kinh tế hay các hành vi liên kết, sáp nhập nếu
doanh nghiệp đó có được sự hậu thuẫn của các cơ quan quản lý nhà nước. Bằng quyền
ban hành văn bản quy phạm pháp luật và đặc biệt là quyền lập quy, ban hành các quyết
định hành chính, các cơ quan quản lý nhà nước ở trung ương và địa phương có thể tạo
ra những đặc lợi cho một số doanh nghiệp- doanh nghiệp độc quyền nhà nước đồng
thời gây bất lợi cho các doanh nghiệp còn lại. Mục tiêu của độc quyền tự nhiên là tìm
kiếm lợi nhuận riêng cho từng tổ chức kinh doanh, còn mục tiêu của độc quyền nhà
nước là mang lại lợi ích khơng chỉ cho các doanh nghiệp mà còn cho cả một cơ quan
hay một vùng miền cụ thể. Bởi vì độc quyền nhà nước có được quyền lực áp đặt nhà
nước một cách hợp pháp nên nó mang lại nhiều tổn hại hơn là lợi ích so với độc quyền

kinh tế và nó khó khăn hơn trong việc điều chỉnh, giám sát, và loại bỏ một cách hữu
hiệu. Chúng ta có thể thấy độc quyền nhà nước ở Việt Nam tồn tại trong rất nhiều lĩnh
vực, đơn cử là về điện. Thị trường điện lực Việt Nam hiện nay vẫn được xem là thị
trường độc quyền do sự tồn tại của Tập đoàn Điện lực Việt Nam (viết tắt là EVN). Với
việc chiếm lĩnh 2/3 khâu trong quá trình cung ứng điện năng (khâu truyền tải và phân
phối)14 thì sự xuất hiện của các nhà sản xuất điện năng khác trong nước (như: Tổng
Công ty Điện lực Dầu khí- PV Power; Tập đồn Than và Khống sản Việt NamTKV…) cũng không dẫn đến nhiều thay đổi. Sức ảnh hưởng của doanh nghiệp độc
quyền này đối với thị trường điện hiện nay vẫn rất lớn và gần như là tuyệt đối bởi EVN
ngoài thực hiện chức năng quản lý nhà nước về lĩnh vực điện còn thực hiện chức năng
kinh doanh và cả chức năng phân phối điện. Bên cạnh đó, theo Bộ luật Hàng hải 2005,

14

/>
21


Pháp luật kiểm soát độc quyền tại Việt Nam- Lý luận và thực tiễn. GVHD: Đặng Quốc Chương

hoa tiêu hàng hải15 được xem là dịch vụ cơng ích, các doanh nghiệp hoa tiêu hàng hải
đều là các doanh nghiệp 100% vốn nhà nước16.
1.1.2.2 Căn cứ vào cấu trúc độc quyền
Độc quyền có thể tồn tại dưới dạng độc quyền thuần tuý của một doanh nghiệp
riêng biệt hay độc quyền được hình thành từ một nhóm các doanh nghiệp.
Đối với độc quyền thuần tuý của một doanh nghiệp, vị trí và sức mạnh độc
quyền có được là do chính bản thân doanh nghiệp bằng những chiến lược kinh doanh
và nguồn lực đáng kể. Ngược lại, đối với độc quyền được hình thành từ một nhóm các
doanh nghiệp, độc quyền lại là hệ quả của những thoả thuận kinh tế, những sự chấp
thuận cùng chia sẻ thịa trường, cùng chia sẻ lợi nhuận. Thông thường, dạng độc quyền
thứ hai xuất hiện khi sự cạnh tranh diễn ra trong một số ngành chỉ có một số ít các nhà

sản xuất và mỗi nhà sản xuất đều nhận thức được rằng giá cả của mình khơng chỉ phụ
thuộc vào năng suất của chính mình mà còn phụ thuộc vào hoạt động của doanh nghiệp
đối thủ quan trọng trong ngành đó. Pháp luật cạnh tranh có quy định ghi nhận sự thoả
thuận, thơng đồng giữa các doanh nghiệp trong ngành như vậy. Trong một số trường
hợp, mặc dù trong một ngành, có một số doanh nghiệp hoạt động, song họ có những
thoả thuận để định ra giá và sản lượng gần với giá và sản lượng độc quyền. Tuy cartel
bị nghiêm cấm theo pháp luật cạnh tranh và bị trừng phạt nặng nếu có bằng chứng ở
nhiều nước, song, trên thực tế, vẫn tồn tại những thoả thuận ngầm (không thể hiện bằng
văn bản) giữa các doanh nghiệp nhằm tối đa hoá lợi nhuận của ngành, gây ra thiệt hại
cho xã hội. Tuy nhiên, về lý thuyết mà nói, các doanh nghiệp tham gia cartel nói chung
là khơng bền vững, trừ trường hợp mỗi doanh nghiệp đều có một kế hoạch làm ăn lâu
dài trên thị trường đó, coi trọng lợi nhuận thu được trong tương lai và cartel phải có
một cơ chế trừng phạt thích hợp với việc thành viên bí mật vi phạm thoả thuận ngầm.
Vì lý do đó, để chống lại những cartel như vậy, Chính phủ phải có những chế tài thật

15

Hoa tiêu hàng hải là người cố vấn cho thuyền trưởng điều khiển tàu phù hợp với điều kiện hàng hải ở khu vực
dẫn tàu của hoa tiêu hàng hải. Việc sử dụng hoa tiêu hàng hải không miễn trách nhiệm chỉ huy tàu của thuyền
trưởng.
16
Điều này xuất phát từ nguyên nhân: Việc sử dụng hoa tiêu hàng hải tại Việt Nam nhằm bảo đảm an toàn hàng
hải, an ninh hàng hải và phịng ngừa ơ nhiễm mơi trường; góp phần bảo vệ chủ quyền, thực hiện quyền chủ quyền
và quyền tài phán của quốc gia.

22


Pháp luật kiểm soát độc quyền tại Việt Nam- Lý luận và thực tiễn. GVHD: Đặng Quốc Chương


nghiêm khắc nếu phát hiện ra sự tồn tại của chúng, đồng thời phải tạo ra một cơ cấu
ngành mềm dẻo với khả năng nhập cuộc của các doanh nghiệp mới và khả năng bỏ
cuộc của các doanh nghiệp đã có mặt trên thị trường được dễ dàng. Điều này có nghĩa
là, cơ cấu của ngành địi hỏi phải năng động, ln có sự cạnh tranh giữa các doanh
nghiệp trong cartel và ngoài cartel, đồng thời các cartel khơng có được một cơ cấu bền
vững do khả năng bỏ cuộc của các doanh nghiệp trong cartel được nâng cao.
Nếu độc quyền thuần tuý hình thành bởi một doanh nghiệp có thể tồn tại trong
nhiều lĩnh vực khác nhau thì độc quyền tạo bởi nhóm các doanh nghiệp thường chỉ
xuất hiện trong một số lĩnh vực mà chỉ một số ít doanh nghiệp có tiềm lực tài chính,
khả năng đáp ứng u cầu cơng nghệ và sự phụ thuộc lẫn nhau về giá, như trong công
nghiệp sản xuất ô tô, cao su, thép, xi măng… Ở Việt Nam, vấn đề độc quyền nhóm
được thừa nhận ở một số lĩnh vực như: bảo hiểm, ngân hàng thương mại, mía đường,
xuất nhập khẩu cà phê…đặc biệt là về xăng dầu. Trong số 5 doanh nghiệp chiếm thị
phần lớn nhất hiện nay trên thị trường xăng dầu Việt Nam, Petrolimex là doanh nghiệp
có sức mạnh thị trường vượt trội so với nhóm 4 doanh nghiệp cịn lại, gồm: Petec, PV
Oil, Saigon Petro và Mipeco17. Mặc dù giá vốn của các doanh nghiệp đầu mối nhập
khẩu khác nhau, điều kiện cơ sở vật chất kỹ thuật, điều kiện kinh doanh lãi, lỗ của các
doanh nghiệp này cũng khác nhau nhưng trên thực tế, hệ thống phân phối bán lẻ xăng
dầu của nước ta vẫn là hệ thống cửa hàng một giá, các doanh nghiệp khơng có sự cạnh
tranh về giá trên thị trường xăng dầu. Thực tế thời gian qua cho thấy, khi giá xăng dầu
thế giới tăng, để đảm bảo lợi ích của mình, các doanh nghiệp đầu mối sẽ làm thủ tục để
xin tăng giá bán lẻ xăng dầu trong nước. Ngược lại khi giá thế giới giảm, do một số lý
do khác nhau, các doanh nghiệp xăng dầu thường chần chừ giảm giá bán.
Trên đây là hai trong số rất nhiều căn cứ để phân loại độc quyền được biết đến
hiện nay, trong đó, căn cứ đầu tiên được xem là chính yếu và phổ biến nhất bởi nó có ý
nghĩa thiết thực trong việc nhận diện và đề ra phương hướng, giải pháp điều chỉnh,
kiểm sốt. Trên thực tế, chúng ta cịn có thể tiếp xúc nhiều khái niệm liên quan khác
đến độc quyền, như: độc quyền mua, độc quyền bán, độc quyền nguồn cung, độc quyền

17


/>
23


Pháp luật kiểm soát độc quyền tại Việt Nam- Lý luận và thực tiễn. GVHD: Đặng Quốc Chương

cầu, độc quyền giá, độc quyền phát hành…Đó là những cách tiếp cận chi tiết hơn, cụ
thể hơn với độc quyền và chỉ nhằm làm rõ, khẳng định bản chất của độc quyền, đó là
sự chiếm lĩnh thị trường tuyệt đối về một số mặt của các doanh nghiệp.
1.2 Kiểm soát độc quyền
Chúng ta thường hay đề cập nhiều đến vấn đề phải kiểm soát độc quyền, hạn
chế những mặt tiêu cực của độc quyền, chống lại độc quyền hay thậm chí là xoá bỏ độc
quyền ra khỏi thị trường, song, để một lần nữa khẳng định: vì sao cần phải kiểm sốt
độc quyền và kiểm soát độc quyền bằng pháp luật, tác giả xin trình bày tiếp một số nội
dung:
1.2.1 Sự cần thiết kiểm soát độc quyền bằng pháp luật
Cạnh tranh và độc quyền là xu hướng tất yếu của quá trình phát triển kinh tế thị
trường. Cạnh tranh đóng vai trị là một động lực quan trọng để phát triển nền kinh tế ở
mỗi quốc gia. Cạnh tranh gay gắt tất yếu dẫn đến tình trạng độc quyền, mặt khác, do
mục đích tối đa hố lợi nhuận trong kinh tế thị trường cũng hình thành nên các tổ chức
có sức mạnh độc quyền. Độc quyền hồn tồn khơng mang lại tác động xấu cho thị
trường, song việc các doanh nghiệp lạm dụng nó lại gây nhiều hậu quả khơng nhỏ cho
xã hội. Tuy vậy, trong một số ngành đặc biệt (ví dụ như: hàng hố và dịch vụ cơng
cộng, các ngành ảnh hưởng tới an ninh quốc gia…), nhiều nước đã phải duy trì tình
trạng độc quyền ở mức độ nhất định để đảm bảo lợi ích của người tiêu dùng và duy trì
sản xuất xã hội ở mức hợp lý. Song, dù mong muốn duy trì hay tìm mọi cách để xoá bỏ
hiện tượng khách quan này trên thị trường, các quốc gia đều ban hành những văn bản
pháp luật nhằm điều chỉnh một cách chặt chẽ vấn đề độc quyền. Điều này xuất phát từ
những nguyên nhân sau:

1.2.1.1 Kiểm sốt độc quyền bằng pháp luật nhằm bảo vệ mơi trường kinh doanh và
mơi trường cạnh tranh lành mạnh
Ở góc độ kinh tế, việc lạm dụng vị trí độc quyền thường mang lại những tác
động tiêu cực: là nhân tố thủ tiêu động lực phát triển của nền kinh tế; là yếu tố ảnh
hưởng tiêu cực đến các mối quan hệ trong kinh doanh thương mại; là mặt đối lập, là
24


Pháp luật kiểm soát độc quyền tại Việt Nam- Lý luận và thực tiễn. GVHD: Đặng Quốc Chương

nhân tố thủ tiêu cạnh tranh lành mạnh, làm mất đi động lực phát triển nền kinh tế quốc
dân…Khi đã ở vị trí độc quyền, nhà sản xuất không cần quan tâm đến cải tiến kỹ thuật,
công nghệ sản xuất và phương thức quản lý mà vẫn thu được lợi nhuận đặc biệt cao do
thị trường đã mất đi những đối thủ cạnh tranh. Tuy khơng thể xố bỏ, loại trừ hẳn độc
quyền ra khỏi thị trường nhưng chỉ có kiểm sốt hiện tượng khách quan này và kiểm
sốt chặt chẽ nó bằng pháp luật thì các doanh nghiệp mới có điều kiện được hoạt động
và cạnh tranh lẫn nhau một cách bình đẳng, thị trường mới dần trở lại sự sôi động nên
có của nó và nền kinh tế mới có được những cơ hội phát triển mới. Tính lành mạnh của
thị trường chiếm vai trò rất quan trọng đối với nền kinh tế của quốc gia bởi nó là nhân
tố thu hút đầu tư và là tiêu chí đánh giá sự bền vững của thị trường, cũng như sự hoàn
thiện, minh bạch trong pháp luật của quốc gia.
Ở một khía cạnh khác, kiểm sốt độc quyền cịn để góp phần giải quyết nạn lạm
phát tại Việt Nam, qua đó bảo vệ và nâng cao sức mạnh của môi trường kinh doanh
trong nước. Quan điểm này được nhiều nhà nghiên cứu đưa ra tại các hội thảo và theo
bà Đinh Thị Mỹ Loan, Tổng thư ký Hiệp hội Các nhà bán lẻ Việt Nam, thì “Lạm phát
có nhiều ngun nhân cả chủ quan và khách quan. Chính phủ và các cơ quan quản lý
nhà nước, cùng cộng đồng doanh nghiệp đang tìm mọi cách để kiềm chế lạm phát,
trong đó, một trong những điểm cần chú ý là kiểm soát độc quyền, chống lạm dụng vị
trí thống lĩnh và vị trí độc quyền….Vì vậy, việc kiểm sốt các hành vi này để góp phần
làm mơi trường cạnh tranh khơng bị méo mó và hạn chế tối đa tác động gây tăng giá

hàng hóa”.18
1.2.1.2 Kiểm sốt độc quyền bằng pháp luật nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của doanh nghiệp là khách hàng của doanh nghiệp độc quyền
Các hành vi lạm dụng vị trí độc quyền khơng những gây ra tác động tiêu cực
đến quá trình cạnh tranh, làm hạn chế tính lành mạnh của thị trường mà nghiêm trọng
hơn là nó tạo ra sức ì đối với bản thân doanh nghiệp độc quyền, làm tê liệt cạnh tranh
dẫn tới sản xuất và thị trường trì trệ, đặt ra nhiều vấn đề liên quan đến nguồn lao động,
tiền lương, thu nhập… hồn tồn khơng dễ giải quyết. Vị trí độc quyền không chỉ đơn
18

/>
25


×